SỐ 26 – KINH TRUNG
A-HÀM (I)
Hán dịch:
Phật Đà
Da Xá và Trúc Phật Niệm
Việt dịch và hiệu chú:
Thích Tuệ
Sỹ
---o0o---
PHẨM
THỨ
3
PHẨM
XÁ-LÊ
TỬ
TƯƠNG
ƯNG
30. KINH TƯỢNG TÍCH DỤ[1]
Tôi
nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du
hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng lâm, vườn Cấp cô độc.
Bấy giờ Tôn giả
Xá-lê Tử nói với các Tỳ-kheo rằng:
“Này chư Hiền, nếu
có vô lượng thiện pháp, thì tất cả các thiện pháp ấy đều thu nhiếp vào bốn
Thánh đế, đi vào trong bốn Thánh đế.
Nghĩa là, trong tất cả pháp, bốn Thánh đế là tối thượng bậc nhất. Vì sao
thế? Vì nhiếp thọ tất cả các thiện pháp.
“Này chư Hiền, cũng như trong các dấu chân của loài thú vật, dấu chân voi
là bậc nhất. Vì sao thế? Vì dấu chân voi rất là to lớn vậy.
“Cũng vậy, này chư Hiền, có vô lượng thiện pháp, thì tất cả các thiện pháp
ấy đều thu nhiếp vào bốn Thánh đế, đi vào trong bốn Thánh đế. Nghĩa là
trong tất cả pháp, bốn Thánh đế là tối thượng bậc nhất.
“Những gì là bốn? Đó
là Khổ Thánh đế, Khổ tập, Khổ diệt và Khổ diệt đạo Thánh đế.
“Này chư Hiền, thế
nào là Khổ Thánh đế?
Đó là, sanh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, oán ghét mà tự hội là khổ,
thương yêu mà biệt ly là khổ, mong cầu mà không được là khổ, nói tóm lược
năm thủ uẩn là khổ.
“Này chư Hiền, những
gì là năm thủ uẩn? Đó là sắc thủ uẩn, thọ, tưởng hành và thức thủ uẩn.
“Này chư Hiền, cái
gì là sắc thủ uẩn? Những gì có sắc, tất cả đều là bốn đại và bốn đại tạo.
“Này chư Hiền, những gì là bốn đại? Đó là địa giới, thủy giới, hỏa giới
và phong giới.
“Này chư Hiền, cái
gì là địa giới? Chư Hiền, địa giới có hai, có nội địa giới và có ngoại địa
giới.
“Này chư Hiền, những gì là nội địa giới?
Đó là, những gì ở trong thân, được thâu nhiếp trong thân như vật cứng, có
tính chất cứng, được chấp thọ bên trong.
Đó là những gì? Đó là tóc, lông, móng, răng, da thô và mịn, thịt, gân,
xương, tim, thận, gan, phổi, lá lách, ruột, bao tử, phẩn và những thứ khác
tương tự như vậy ở trong thân, được thâu nhiếp bên trong, có tính chất
cứng, bị chấp thủ bên trong. Đó là nội địa giới.
“Này chư Hiền, ngoại địa giới, đó là lớn, là tịnh, là không đáng tởm.
“Này chư Hiền, có lúc bị thủy tai, khi ấy ngoại địa giới tiêu diệt.
“Này chư Hiền, ngoại
địa giới này cực kỳ lớn, cực kỳ tịnh, cực kỳ không đáng tởm. Đó là pháp vô
thường, pháp cùng tận, pháp suy vong, pháp biến dịch, huống là xác thân
tạm thời đình trú, được duy trì chấp thủ bởi tham ái này. Nghĩa là kẻ phàm
phu ngu si, không đa văn, suy nghĩ như vầy: ‘Đây là ta, đây là của ta, ta
là của cái kia’. Đa văn Thánh đệ tử không nghĩ như vậy: ‘Đây là ta, đây là
của ta, ta là của cái kia’. Vị ấy vì sao nghĩ như vậy? Nếu có người khác
mắng chửi, đánh đập, giận giữ, quở trách, thì vị ấy nghĩ như vầy: ‘Ta sanh
ra khổ này là từ nhân duyên, chứ không phải không có nhân duyên. Cái gì là
duyên? Duyên vào khổ xúc’. Vị ấy quán xúc là vô thường; rồi quán thọ,
tưởng, hành, thức cũng là vô thường. Tâm vị ấy duyên nơi giới mà trụ, mà
chỉ, mà hiệp, mà nhất tâm, mà định, mà không lay động. Sau đó có người đến
nói với vị ấy bằng lời lẽ dịu dàng, vị ấy suy nghĩ như vầy: ‘Ta sanh ra sự
lạc này là từ nhân duyên chớ không phải không nhân duyên. Cái gì là duyên?
Duyên vào lạc xúc’. Vị ấy quán xúc là vô thường, rồi quán thọ, tưởng,
hành, thức cũng là vô thường. Tâm vị ấy duyên nơi giới mà trụ, mà chỉ, mà
hiệp, mà nhất tâm, mà định, mà không
lay động. Sau đó hoặc có người thơ ấu, niên thiếu, trung niên hay trưởng
lão đến làm việc không xứng ý với vị ấy; hoặc nắm tay thoi, hoặc lấy đá
ném, hoặc dao, hoặc gậy đập. Vị ấy suy nghĩ thế này: ‘Ta thọ thân này vốn
là sắc pháp, thô chất, thuộc bốn đại chủng, do cha mẹ sanh, được nuôi lớn
bằng ăn uống, được che kín bởi y phục, được chăm sóc bằng tắm rửa, nằm
ngồi bồng bế; nó là pháp phá hoại, pháp diệt tận, pháp ly tán. Ta vì thân
này mà đến nỗi bị tay thoi, đá ném, dao gậy đập’. Do lẽ đó vị kia rất
siêng năng, không biếng nhác, chánh thân, chánh niệm, không nhuế, không
si, nhất tâm an định. Vị ấy nghĩ như vầy: ‘Ta rất siêng năng, không biếng
nhác, chánh thân, chánh niệm, không nhuế, không si, nhất tâm an định. Ta
thọ thân này đáng để cho tay thoi, đá ném, dao gậy đập, chỉ nên
siêng năng học giáo pháp của Đức Thế Tôn’.
“Này chư Hiền, Đức Thế Tôn cũng nói như vầy: ‘Giả sử có giặc cướp đến cầm
cưa hay dao bén, xẻ manh mún thân thể ra. Nếu ngươi khi bị giặc cướp cầm
cưa hay dao bén, xẻ manh mún thân thể ra, mà tâm ngươi hoặc biến dịch,
hoặc nói năng hung dữ, tức các ngươi đã suy thối. Các ngươi nên nghĩ như
vầy: giả sử có kẻ giặc cầm cưa hay dao bén, xẻ manh mún thân thể ta ra,
mong sao nhân đó mà tâm ta không biến dịch, không nói năng hung dữ, sẽ
khởi tâm thương xót đối với người đến xẻ manh mún thân thể ta ra; vì người
đó mà tâm ta câu hữu với từ, biến mãn một phương, thành tựu và an trụ.
Cũng thế với hai, ba, bốn phương, tứ duy, thượng hạ, biến mãn tất cả, tâm
câu hữu với từ, không kết, không oán, không nhuế, không tránh, quảng đại,
vô biên, vô lượng, kéo tu tập, biến mãn tất cả thế gian, thành tựu và an
trụ’.
“Này chư Hiền,
Tỳ-kheo kia, nếu do Phật, Pháp và Chúng, mà vẫn không an trú nơi xả tương
ứng với thiện, thì này chư Hiền, Tỳ-kheo ấy nên hổ thẹn, nên xấu hổ rằng:
‘Ta ở trong sự lợi mà không có lợi, ở trong đức mà không có đức; nghĩa là
ta nhân nơi Phật, Pháp và Chúng mà vẫn không an trụ nơi xả tương ứng với
thiện’.
“Này chư Hiền, như
người dâu lúc mới rước về, gặp mặt cha mẹ chồng, hay gặp người chồng của
mình thì xấu hổ, thẹn thùng. Này chư Hiền, nên biết, Tỳ-kheo kia cũng lại
như vậy, nên xấu hổ thẹn thùng rằng: ‘Ta ở trong sự lợi mà không có lợi, ở
trong đức mà không có đức; nghĩa là ta nhân nơi Phật, Pháp và Chúng mà vẫn
không an trụ nơi xả tương ứng với thiện’. Người ấy do hổ thẹn xấu hổ, nên
liền an trú nơi xả tương ứng với thiện. Đó là diệu, là tịnh, là tịch diệt,
nghĩa là xả tất cả hữu,
lìa ái, vô dục, diệt tận hoàn toàn. Này chư Hiền, đó là Tỳ-kheo học tất cả
đại.
“Này chư Hiền, cái gì là thủy giới?
Chư Hiền, thủy giới có hai; có nội thủy giới và có ngoại thủy giới. Chư
Hiền, cái gì là nội thủy giới? Đó là ở trong thân, được thâu nhiếp bên
trong thân, những gì là nước, thuộc về nước, ẩm ướt, bị chấp thủ bên
trong. Đó là những gì? Đó là mỡ, óc,
nước mắt, mồ hôi, nước mũi, nước miếng, mủ, máu, tủy, nước dãi, nước tiểu,
tất cả những chất khác tương tự như vậy ở trong thân, được thâu nhiếp bên
trong thân, những gì là nước, thuộc về nước, ẩm ướt, bị chấp thủ bên
trong. Này chư Hiền, đó là nội thủy giới.
“Này chư Hiền, ngoại thủy giới, đó là lớn, là tịnh, là không đáng tởm.
“Này chư Hiền, có lúc bị hỏa tai, khi ấy ngoại thủy giới tiêu diệt.
“Này chư Hiền, ngoại
địa giới này cực kỳ lớn, cực kỳ tịnh, cực kỳ không đáng tởm. Đó là pháp vô
thường, pháp cùng tận, pháp suy vong, pháp biến dịch,
huống là xác thân tạm thời đình trú, được duy trì chấp thủ bởi tham ái này.
Nghĩa là kẻ phàm phu ngu si, không đa văn, suy nghĩ như vầy: ‘Đây là ta,
đây là của ta, ta là của cái kia’.
Đa văn Thánh đệ tử không nghĩ như vậy: ‘Đây là ta, đây là của ta, ta là
của cái kia’. Vị ấy vì sao nghĩ như vậy? Nếu có người khác mắng chửi, đánh
đập, giận giữ, quở trách, thì vị ấy nghĩ như vầy: ‘Ta sanh ra khổ này là
từ nhân duyên, chứ không phải không có nhân duyên’. Cái gì là duyên? Duyên
vào khổ xúc. Vị ấy quán xúc là vô thường; rồi quán thọ, tưởng, hành, thức
cũng là vô thường. Tâm vị ấy duyên nơi giới mà trụ, mà chỉ, mà hiệp, mà
nhất tâm, mà định, mà không lay động. Sau đó có người đến nói với vị ấy
bằng lời lẽ dịu dàng, vị ấy suy nghĩ như vầy: ‘Ta sanh ra sự lạc này là từ
nhân duyên chớ không phải không nhân duyên’. Cái gì là duyên? Duyên vào
lạc xúc. Vị ấy quán xúc là vô thường, rồi quán thọ, tưởng, hành, thức cũng
là vô thường. Tâm vị ấy duyên nơi giới mà trụ, mà chỉ, mà hiệp, mà nhất
tâm, mà định, mà không lay động. Sau đó hoặc có người thơ ấu,
niên thếu, trung niên hay trưởng lão đến làm việc không xứng ý với vị ấy;
hoặc nắm tay thoi, hoặc lấy đá ném, hoặc dao, hoặc gậy đập. Vị ấy suy nghĩ
thế này: ‘Ta thọ thân này vốn là sắc pháp, thô chất, thuộc bốn đại chủng,
do cha mẹ sanh, được nuôi lớn bằng ăn uống, được che kín bởi y phục, được
chăm sóc bằng tắm rửa, nằm ngồi bồng bế; nó là pháp phá hoại, pháp diệt
tậân, pháp ly tán. Ta vì thân này mà đến nỗi bị tay thoi, đá ném, dao gậy
đập’. Do lẽ đó vị kia rất siêng năng, không biếng nhác, chánh thân, chánh
niệm, không nhuế, không si, nhất tâm an định. Vị ấy nghĩ như vầy: ‘Ta rất
siêng năng, không biếng nhác, chánh thân, chánh niệm, không nhuế, không
si, nhất tâm an định. Ta thọ thân này đáng để cho tay thoi, đá ném,
dao gậy đập, chỉ nên siêng năng học giáo pháp của Đức Thế Tôn’.
“Này chư Hiền, Đức
Thế Tôn cũng nói như vầy: ‘Giả sử có giặc cướp đến cầm cưa hay dao bén, xẻ
manh mún thân thể ra. Nếu ngươi khi bị giặc cướp cầm cưa hay dao bén, xẻ
manh mún thân thể ra, mà tâm ngươi hoặc biến dịch, hoặc nói năng hung dữ,
tức các ngươi đã suy thối. Các ngươi
nên nghĩ như vầy: giả sử có kẻ giặc cầm cưa hay dao bén, xẻ manh mún thân
thể ta ra, mong sao nhân đó mà tâm ta không biến dịch, không nói năng hung
dữ, sẽ khởi tâm thương xót đối với người đến xẻ manh mún thân thể ta ra;
vì người đó mà tâm ta câu hữu với từ, biến mãn một phương, thành tựu và an
trụ. Cũng thế với hai, ba, bốn phương, tứ duy, thượng hạ, biến mãn tất cả,
tâm câu hữu với từ, không kết, không oán, không nhuế, không tránh, quảng
đại, vô biên, vô lượng, khéo tu tập, biến mãn tất cả thế gian, thành tựu
và an trụ’.
“Này chư Hiền,
Tỳ-kheo kia, nếu do Phật, Pháp và Chúng, mà vẫn không an trú nơi xả tương
ứng với thiện, thì này chư Hiền, Tỳ-kheo ấy nên hổ thẹn, nên xấu hổ rằng:
‘Ta ở trong sự lợi mà không có lợi, ở trong đức mà không có đức; nghĩa là
ta nhân nơi Phật, Pháp và Chúng mà vẫn không an trụ nơi xả tương ứng với
thiện’.
“Này chư Hiền, như
người dâu lúc mới rước về, gặp mặt cha mẹ chồng, hay gặp người chồng của
mình thì xấu hổ, thẹn thùng. Này chư Hiền, nên biết, Tỳ-kheo kia cũng lại
như vậy, nên xấu hổ thẹn thùng rằng: ‘Ta ở trong sự lợi mà không có lợi, ở
trong đức mà không có đức; nghĩa là ta nhân nơi Phật, Pháp và Chúng mà vẫn
không an trụ nơi xả tương ứng với thiện’. Người ấy do hổ thẹn, xấu hổ, nên
liền an trú nơi xả tương ứng với thiện. Đó là diệu, là tịnh, là tịch diệt,
nghĩa là xả tất cả hữu, lìa ái, vô dục, diệt tận hoàn toàn. Này chư Hiền,
đó là Tỳ-kheo học tất cả Đại.
“Này chư Hiền, thế
nào là hỏa giới? Này chư Hiền, hỏa giới có hai; có nội hỏa giới và có
ngoại hỏa giới. Này chư Hiền, thế nào là nội hỏa giới? Đó là ở trong thân,
được thâu nhiếp ở trong thân, những gì là lửa, có tính chất nóng, được
chấp thủ trong thân. Đó là những gì? Đó là, thân nóng hấp, thân nóng bức,
bức rức, ấm áp, và sự tiêu hóa ẩm thực, tất cả những chất khác tương tự
như vậy ở trong thân, được thâu nhiếp bên trong thân, thuộc tính nóng,
được chấp thủ bên trong. Này chư Hiền, đó là nội hỏa giới.
“Này chư Hiền, ngoại hỏa giới, đó là lớn, là tịnh, là không đáng tởm.
“Này chư Hiền, có
lúc khi ngoại hỏa giới phát khởi, nó đốt cháy thôn ấp, thành quách, núi
rừng, đồng ruộng; cháy như vậy rồi lan đến đường cái, đến sông nước, cho
đến khi không còn gì cháy mới tắt. Chư Hiền, sau khi ngoại hỏa giới diệt,
nhân dân muốn lấy lửa hoặc dùng gỗ hay tre cọ vào nhau, hoặc dùng đá lửa
bằng châu ngọc.
“Này chư Hiền, ngoại
hỏa giới này cực kỳ lớn, cực kỳ tịnh, cực kỳ không đáng tởm. Đó là pháp vô
thường, pháp cùng tận, pháp suy vong, pháp biến dịch, huống là xác thân
tạm thời đình trú, được duy trì chấp thủ bởi tham ái này. Nghĩa là kẻ phàm
phu ngu si, không đa văn, suy nghĩ như vầy: ‘Đây là ta, đây là của ta, ta
là của cái kia’. Đa văn Thánh đệ tử không nghĩ như vậy: ‘Đây là ta, đây là
của ta, ta là của cái kia’. Vị ấy vì sao nghĩ như vậy? Nếu có người khác
mắng chửi, đánh đập, giận dữ, quở trách, thì vị ấy nghĩ như vầy: ‘Ta sanh
ra khổ này là từ nhân duyên, chứ không phải không có nhân duyên’. Cái gì
là duyên? Duyên vào khổ xúc. Vị ấy quán xúc là vô thường; rồi quán thọ,
tưởng, hành, thức cũng là vô thường. Tâm vị ấy duyên nơi giới mà trụ, mà
chỉ, mà hiệp, mà nhất tâm, mà định, mà không lay động. Sau đó có người đến
nói với vị ấy bằng lời lẽ dịu dàng, vị ấy suy nghĩ như vầy: ‘Ta sanh ra sự
lạc này là từ nhân duyên chớ không phải không nhân duyên’. Cái gì là
duyên? Duyên vào lạc xúc. Vị ấy quán xúc là vô thường, rồi quán thọ,
tưởng, hành, thức cũng là vô thường. Tâm vị ấy duyên nơi giới mà trụ, mà
chỉ, mà hiệp, mà nhất tâm, mà định, mà
không lay động. Sau đó hoặc có người thơ ấu, niên thiếu, trung niên hay
trưởng lão đến làm việc không xứng ý với vị ấy; hoặc nắm tay thoi, hoặc
lấy đá ném, hoặc dao, hoặc gậy đập. Vị ấy suy nghĩ thế này: ‘Ta thọ thân
này vốn là sắc pháp, thô chất, thuộc bốn đại chủng, do cha mẹ sanh, được
nuôi lớn bằng ăn uống, được che kín bởi y phục, được chăm sóc bằng tắm
rửa, nằm ngồi bồng bế; nó là pháp phá hoại, pháp diệt tậân, pháp ly tán.
Ta vì thân này mà đến nỗi bị tay thoi, đá ném, dao gậy đập’. Do lẽ đó vị
kia rất siêng năng, không biếng nhác, chánh thân, chánh niệm, không nhuế,
không si, nhất tâm an định. Vị ấy nghĩ như vầy: ‘Ta rất siêng năng, không
biếng nhác, chánh thân, chánh niệm, không nhuế, không si, nhất tâm an
định. Ta thọ thân này đáng để cho tay thoi, đá ném, dao gậy đập, chỉ
nên siêng năng học giáo pháp của Đức Thế Tôn’.
“Này chư Hiền, Đức
Thế Tôn cũng nói như vầy: ‘Giả sử có giặc cướp đến cầm cưa hay dao bén, xẻ
manh mún thân thể ra. Nếu ngươi khi bị giặc cướp cầm cưa hay dao bén, xẻ
manh mún thân thể ra, mà tâm ngươi hoặc biến dịch, hoặc nói năng hung dữ,
tức các ngươi đã suy thối. Các ngươi
nên nghĩ như vầy: Giả sử có kẻ giặc cầm cưa hay dao bén, xẻ manh mún thân
thể ta ra, mong sao nhân đó mà tâm ta không biến dịch, không nói năng hung
dữ, sẽ khởi tâm thương xót đối với người đến xẻ manh mún thân thể ta ra;
vì người đó mà tâm ta câu hữu với từ, biến mãn một phương, thành tựu và an
trụ. Cũng thế với hai, ba, bốn phương, tứ duy, thượng hạ, biến mãn tất cả,
tâm câu hữu với từ, không kết, không oán, không nhuế, không tránh, quảng
đại, vô biên, vô lượng, khéo tu tập, biến mãn tất cả thế gian, thành tựu
và an trụ’.
“Này chư Hiền,
Tỳ-kheo kia, nếu do Phật, Pháp và Chúng, mà vẫn không an trú nơi xả tương
ứng với thiện, thì này chư Hiền, Tỳ-kheo ấy nên hổ thẹn, nên xấu hổ rằng:
‘Ta ở trong sự lợi mà không có lợi, ở trong đức mà không có đức; nghĩa là
ta nhân nơi Phật, Pháp và Chúng mà vẫn không an trụ nơi xả tương ứng với
thiện’.
“Này chư Hiền, như
người dâu lúc mới rước về, gặp mặt cha mẹ chồng, hay gặp người chồng của
mình thì xấu hổ, thẹn thùng. Này chư Hiền, nên biết, Tỳ-kheo kia cũng lại
như vậy, nên xấu hổ thẹn thùng rằng: ‘Ta ở trong sự lợi mà không có lợi, ở
trong đức mà không có đức; nghĩa là ta nhân nơi Phật, Pháp và Chúng mà vẫn
không an trụ nơi xả tương ứng với thiện’. Người ấy do hổ thẹn xấu hổ, nên
liền an trú nơi xả tương ứng với thiện. Đó là diệu, là tịnh, là tịch diệt,
nghĩa là xả tất cả hữu, lìa ái, vô dục, diệt tận hoàn toàn. Này chư Hiền,
đó là Tỳ-kheo học tất cả Đại.
“Này chư Hiền, thế
nào là phong giới? Này chư Hiền, ở đây phong giới có hai; có nội phong
giới và ngoại phong giới. Này chư Hiền, thế nào là nội phong giới? Đó là ở
trong thân, được thâu nhiếp ở trong thân những gì là gió, thuộc tính
chuyển động của gió, bị chấp thủ bên trong. Đó là những gì? Đó là gió đi
lên, gió đi xuống, gió trong bụng, gió ngang,
gió co thắt lại, gió như dao cắt,
gió nhảy lên, gió phi đạo, gió thổi qua tay chân, gió của hơi thở ra, gió
của hơi thở vào, tất cả những chất khác tương tự như vậy ở trong thân,
được thâu nhiếp bên trong thân, những gì là gió, thuộc tính chuyển động
của gió, được chấp thủ bên trong. Này chư Hiền, đó là nội phong giới.
“Này chư Hiền, ngoại
phong giới, đó là lớn, là tịnh, là không đáng tởm.
“Này chư Hiền, có
lúc ngoại phong giới phát khởi lên. Khi ngoại phong giới phát khởi thì nhà
sập, cây bị tróc, núi lở; khi núi non đã lở rồi, gió liền dừng lại, mảy
lông cũng chẳng lay động. Này chư Hiền, sau khi ngoại phong giới dừng lại,
nhân dân tìm kiếm gió, hoặc dùng quạt, hặc dùng lá đa, hoặc dùng áo tìm
gió.
“Này chư Hiền, ngoại
phong giới này cực kỳ lớn, cực kỳ tịnh, cực kỳ không đáng tởm. Đó là pháp
vô thường, pháp cùng tận, pháp suy vong, pháp biến dịch, huống là xác thân
tạm thời đình trú, được duy trì chấp thủ bởi tham ái này. Nghĩa là kẻ phàm
phu ngu si, không đa văn, suy nghĩ như vầy: ‘Đây là ta, đây là của ta, ta
là của cái kia’. Đa văn Thánh đệ tử không nghĩ như vậy: ‘Đây là ta, đây là
của ta, ta là của cái kia’. Vị ấy vì sao nghĩ như vậy? Nếu có người khác
mắng chửi, đánh đập, giận giữ, quở trách, thì vị ấy nghĩ như vầy: ‘Ta sanh
ra khổ này là từ nhân duyên, chứ không phải không có nhân duyên’. Cái gì
là duyên? Duyên vào khổ xúc. Vị ấy quán xúc là vô thường; rồi quán thọ,
tưởng, hành, thức cũng là vô thường. Tâm vị ấy duyên nơi giới mà trụ, mà
chỉ, mà hiệp, mà nhất tâm, mà định, mà không lay động. Sau đó có người đến
nói với vị ấy bằng lời lẽ dịu dàng, vị ấy suy nghĩ như vầy: ‘Ta sanh ra sự
lạc này là từ nhân duyên chớ không phải không nhân duyên’. Cái gì là
duyên? Duyên vào lạc xúc. Vị ấy quán xúc là vô thường, rồi quán thọ,
tưởng, hành, thức cũng là vô thường. Tâm vị ấy duyên nơi giới mà trụ, mà
chỉ, mà hiệp, mà nhất tâm, mà định, mà không lay động. Sau đó hoặc có
người thơ ấu, niên thiếu, trung niên hay trưởng lão đến làm việc không
xứng ý với vị ấy; hoặc nắm tay thoi, hoặc lấy đá ném, hoặc dao, hoặc gậy
đập. Vị ấy suy nghĩ thế này: ‘Ta thọ thân này vốn là sắc pháp, thô chất,
thuộc bốn đại chủng, do cha mẹ sanh, được nuôi lớn bằng ăn uống, được che
kín bởi y phục, được chăm sóc bằng tắm rửa, nằm ngồi bồng bế; nó là pháp
phá hoại, pháp diệt tậân, pháp ly tán. Ta vì thân này mà đến nỗi bị tay
thoi, đá ném, dao gậy đập’. Do lẽ đó vị kia rất siêng năng, không biếng
nhác, chánh thân, chánh niệm, không nhuế, không si, nhất tâm an định. Vị
ấy nghĩ như vầy: ‘Ta rất siêng năng, không biếng nhác, chánh thân, chánh
niệm, không nhuế, không si, nhất tâm an định. Ta thọ thân này đáng để cho
tay thoi, đá ném, dao gậy đập, chỉ nên siêng năng học giáo pháp của Đức
Thế Tôn’.
“Này chư Hiền, Đức
Thế Tôn cũng nói như vầy: ‘Giả sử có giặc cướp đến cầm cưa hay dao bén, xẻ
manh mún thân thể ra. Nếu ngươi khi bị giặc cướp cầm cưa hay dao bén, xẻ
manh mún thân thể ra, mà tâm ngươi hoặc biến dịch, hoặc nói năng hung dữ,
tức các ngươi đã suy thối. Các ngươi
nên nghĩ như vầy: giả sử có kẻ giặc cầm cưa hay dao bén, xẻ manh mún thân
thể ta ra, mong sao nhân đó mà tâm ta không biến dịch, không nói năng hung
dữ, sẽ khởi tâm thương xót đối với người đến xẻ manh mún thân thể ta ra;
vì người đó mà tâm ta câu hữu với từ, biến mãn một phương, thành tựu và an
trụ. Cũng thế với hai, ba, bốn phương, tứ duy, thượng hạ, biến mãn tất cả,
tâm câu hữu với từ, không kết, không oán, không nhuế, không tránh, quảng
đại, vô biên, vô lượng, khéo tu tập, biến mãn tất cả thế gian, thành tựu
và an trụ’.
“Này chư Hiền,
Tỳ-kheo kia, nếu do Phật, Pháp và Chúng, mà vẫn không an trú nơi xả tương
ứng với thiện, thì này chư Hiền, Tỳ-kheo ấy nên hổ thẹn, nên xấu hổ rằng:
‘Ta ở trong sự lợi mà không có lợi, ở trong đức mà không có đức; nghĩa là
ta nhân nơi Phật, Pháp và Chúng mà vẫn không an trụ nơi xả tương ứng với
thiện’.
“Này chư Hiền, như
người dâu lúc mới rước về, gặp mặt cha mẹ chồng, hay gặp người chồng của
mình thì xấu hổ, thẹn thùng. Này chư Hiền, nên biết, Tỳ-kheo kia cũng lại
như vậy, nên xấu hổ thẹn thùng rằng: ‘Ta ở trong sự lợi mà không có lợi, ở
trong đức mà không có đức; nghĩa là ta nhân nơi Phật, Pháp và Chúng mà vẫn
không an trụ nơi xả tương ứng với thiện’. Người ấy do hổ thẹn xấu hổ, nên
liền an trú nơi xả tương ứng với thiện. Đó là diệu, là tịnh, là tịch diệt,
nghĩa là xả tất cả hữu, lìa ái, vô dục, diệt tận hoàn toàn. Này chư Hiền,
đó là Tỳ-kheo học tất cả Đại.
“Này chư Hiền, cũng như nhờ cây gỗ, nhờ bùn đất, nhờ cỏ và nước, che kín
trong một khoảng không nên sanh ra cái tên gọi là ‘nhà’. Chư Hiền, nên
biết, thân này cũng lại như vậy, nhờ gân cốt, nhờ da dẻ, nhờ thịt, máu bao
bọc một khoảng không nên sanh ra cái tên gọi là ‘thân’.
“Này chư Hiền, như có người bị hư nhãn xứ bên trong, nên ngoại sắc không
được ánh sáng rọi đến, thành ra không có niệm và nhãn thức không phát
sanh. Này chư Hiền, nếu nội nhãn xứ không bị hư hoại thì ngoại sắc sẽ được
ánh sáng rọi đến và liền có niệm, nên sanh ra nhãn thức.
“Này chư Hiền, nhãn
xứ bên trong và sắc, cùng với nhãn thức biết ngoại sắc, đó thuộc về sắc
uẩn. Nếu có thọ, đó là thọ uẩn. Nếu có tưởng thì đó là tưởng uẩn. Nếu có
tư thì đó là tư uẩn. Nếu có thức thì đó là thức uẩn. Như vậy quán sát sự
hội hợp của các uẩn.
“Này chư Hiền, Đức
Thế Tôn cũng nói như vầy: ‘Nếu ai thấy duyên khởi tức thấy pháp; nếu thấy
pháp tức thấy duyên khởi’.
Vì sao thế? Này chư Hiền, Đức Thế Tôn nói năm thủ uẩn từ nhân duyên mà
sanh. Sắc thủ uẩn; thọ, tưởng, hành, thức thủ uẩn cũng vậy.
“Này chư Hiền, nếu
nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý xứ bên trong bị hư hoại thì các pháp bên ngoài
sẽ không được ánh sáng rọi đến nên không có niệm, do đó ý thức không sanh
khởi được. Này chư Hiền, nếu nội ý xứ không bị hư hoại thì pháp bên ngoài
sẽ được ánh sáng rọi đến và liền có niệm nên sanh ra ý thức.
“Này chư Hiền, ý
thức bên trong và pháp cùng với ý thức biết sắc pháp bên ngoài, đó thuộc
về sắc uẩn. Nếu có thọ, đó là thọ uẩn. Nếu có tưởng thì đó là tưởng uẩn.
Nếu có tư thì đó là tư uẩn. Nếu có thức thì đó là thức uẩn. Như vậy quán
sát sự hội hợp của các uẩn.
“Này chư Hiền, Đức
Thế Tôn cũng nói như vầy: ‘Nếu ai thấy duyên khởi tức thấy pháp; nếu thấy
pháp tức thấy duyên khởi’. Vì sao thế? Này chư Hiền, Đức Thế Tôn nói năm
thủ uẩn từ nhân duyên mà sanh. Sắc thủ uẩn; thọ, tưởng, hành, thức thủ uẩn
cũng vậy. Vị ấy nhàm tởm năm thủ uẩn này, thuộc trong ba đời quá khứ, hiện
tại và vị lai này, do nhàm tởm nên vô dục, vô dục liền giải thoát, giải
thoát rồi liền biết giải thoát, biết một cách như thật rằng: ‘Sự sanh đã
dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa’.
“Này chư Hiền, đó là
Tỳ-kheo đã học tất cả về Đại”.
Tôn giả Xá-lê Tử
thuyết như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe Tôn giả Xá-lê Tử thuyết xong,
hoan hỷ phụng hành.
--- o0o ---
Mục Lục Phẩm Thứ Ba
21 |
22 |
23 |
24 |
25 |
26 |
27 |
28 |
29
|
30 |
31
--- o0o ---
Mục Lục Tổng Quát Kinh Trung A Hàm
Phẩm 1|
Phẩm 2 |
Phẩm 3 |
Phẩm 4 |
Phẩm 5 |
Phẩm 6
Phẩm
7 |
Phẩm 8 |
Phẩm 9 |
Phẩm 10 |
Phẩm 11 |
Phẩm 12
Phẩm 13 |
Phẩm 14 |
Phẩm 15 |
Phẩm 16 |Phẩm
17 |
Phẩm 18
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật: 01-05-2003