KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
- Hán dịch: Căn
cứ bản dịch của Tam Tạng Pháp sư
Đàm Vô Sấm,
Sa môn Tuệ Nghiêm, Tuệ Quán, và Tạ
Linh Vân sửa lại
- Đời Tống
- Việt dịch:
Tuệ Khai cư sĩ -
Phan Rang
Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
---o0o---
Quyển thứ 30
PHẨM THỨ HAI MƯƠI BA : BỒ TÁT SƯ TỬ HỐNG
Phần thứ VI.
-
Bồ
tát Sư Tử Hống bạch rằng :
- Thưa
đức Thế Tôn ! Nếu tất cả nghiệp chẳng định được quả, tất cả chúng sinh đều
có Phật tính mà cần phải tu tập tám Thánh đạo thì vì nhân duyên gì tất cả
chúng sinh đều chẳng thể được Ðại Bát Niết Bàn này ? Thưa đức Thế Tôn !
Nếu tất cả chúng sinh có Phật tính thì tức là sẽ quyết định được Vô Thượng
Chánh Ðẳng Chánh Giác, cần gì tu tập tám Thánh đạo vậy ? Thưa đức Thế Tôn
! Như trong Kinh này nói, người có bệnh nếu được thuốc men và người xem
bệnh theo bệnh cho uống thuốc, hoặc giả sử chẳng được như thế cũng đều trừ
khỏi. Tất cả chúng sinh cũng lại như vậy, hoặc gặp Thanh Văn, Bích Chi
Phật, các đức Phật, Bồ tát và các thiện tri thức mà nghe nói pháp tu tập
Thánh đạo, hoặc chẳng gặp, chẳng nghe, chẳng tu tập Thánh đạo đều sẽ được
thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Vì sao vậy ? Vì do Phật tính vậy.
Thưa đức Thế Tôn ! Ví như vậy mặt trời, mặt trăng không gì có thể ngăn
khiến cho chẳng được đến ven sườn núi Át Ða, nước bốn dòng sông lớn chẳng
đến biển cả, nhất xiển đề.v.v.. chẳng đến địa ngục. Tất cả chúng sinh cũng
lại như vậy, không gì có thể ngăn khiến cho chẳng được đến Vô Thượng Chánh
Ðẳng Chánh Giác. Vì sao vậy ? Vì do Phật tính vậy. Thưa đức Thế Tôn ! Do
nghĩa này nên tất cả chúng sinh chẳng cần tu Thánh đạo. Dọ lực Phật tính
nên ứng được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác chứ chẳng do sức tu tập Thánh
đạo vậy. Thưa đức Thế Tôn ! Nếu nhất xiển đề phạm bốn trọng cấm, tội ngũ
nghịch.v.v... chẳng được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác thì cần phải tu
tập. Do nhân Phật tính quyết định sẽ được, chẳng phải nhân tu tập, nhiên
hậu mới được vậy. Thưa đức Thế Tôn ! Ví như Từ thạch (đá có từ tính) khử
sắt. Tuy ở xa nhưng do lực của đá ấy nên sắt bị cuốn hút theo. Phật tính
của chúng sinh cũng lại như vậy. Vậy nên chẳng cần siêng tu tập Thánh đạo.
Ðức Phật
dạy rằng :
- Hay
thay ! Hay thay ! Này thiện nam tử ! Như bên bờ sông Hằng có bảy thứ
người, hoặc vì tắm gội, sợ sệt khấu tặc, hoặc vì hái hoa nên vào trong
dòng sông ấy. Người thứ nhất vào nước thì chìm mất. Vì sao vậy ? Vì yếu
đuối không thế lực, chẳng tập bơi nổi. Người thứ hai tuy chìm nhưng ra trở
lại, ra rồi lại chìm mất. Vì sao vậy ? Vì thân lực lớn nên có thể trở lại
nhưng chẳng tập bơi nổi nên ra rồi chìm trở lại. Người thứ ba chìm rồi
liền ra, ra lại chẳng chìm mất. Vì sao vậy ? Vì thân nặng nên chìm mà lực
lớn nên ra và trước có tập bơi nổi nên rồi liền trụ. Người thứ tư thì vào
rồi liền chìm, chìm rồi trở lại ra, ra rồi liền trụ và quan sát khắp bốn
phương. Vì sao vậy ? Vì nặng nên chìm, lực lớn nên ra trở lại, tập bơi nổi
nên trụ, chẳng biết chỗ ra nên quan sát bốn phương. Người thứ năm thì vào
rồi liền chìm, chìm rồi liền ra trở lại, ra rồi liền trụ, trụ rồi quan sát
bốn phương, quan sát rồi liền đi. Vì sao vậy ? Vì kinh sợ vậy. Người thứ
sáu thì vào rồi liền đi đến chỗ cạn mà trụ. Vì sao vậy ? Vì xem thấy giặc
gần hay xa. Người thứ bảy thì đã đi đến bờ kia, leo lên ngọn núi lớn,
không kinh sợ nữa, lìa khỏi các giặc dữ, hưởng thọ khoái lạc lớn. Này
thiện nam tử ! Dòng sông lớn sinh tử cũng lại như vậy, có bảy thứ người sợ
giặc phiền não nên phát khởi ý muốn qua khỏi dòng sông lớn sinh tử, xuất
gia, cạo tóc, thân mặc pháp phục. Ðã xuất gia rồi mà họ còn gần gũi bạn
ác, thuận theo lời dạy của chúng, thính thọ tà pháp như cho là thân chúng
sinh tức là năm ấm, năm ấm thì gọi là năm đại. Chúng sinh nếu chết là đoạn
dứt vĩnh viễn năm đại. Ðã đoạn dứt năm đại rồi thì vì sao cần tu tập các
nghiệp thiện, ác ? Vậy nên phải biết không có thiện ác và quả báo thiện
ác. Như vậy thì gọi là nhất xiển đề. Nhất xiển đề thì gọi là đoạn thiện
căn mà đoạn thiện căn nên chìm vào dòng sông sinh tử, chẳng thể được ra.
Vì sao vậy ? Vì nghiệp ác nặng, không có tín lực giống như người thứ nhất
bên bờ sông Hằng vậy. Này thiện nam tử ! Bọn nhất xiển đề có sáu nhân
duyên chìm vào ba đường ác, chẳng thể được ra. Những gì là sáu ? Một là
lòng ác hừng hực, hai là chẳng thấy đời sau, ba là ưa quen phiền não, bốn
là xa lìa thiện căn, năm là nghiệp ác ngăn cách, sáu là gần gũi ác tri
thức.
Lại có
năm việc chìm vào ba đường ác. Những gì là năm ? Một là ở bên Tỳkheo làm
việc phi pháp. Hai là ở bên Tỳkheo ni làm việc phi pháp. Ba là tự tại sử
dụng vật của Tăng. Bốn là ở bên mẹ làm việc phi pháp. Năm là đối với năm
bộ Tăng đắp đổi phát sinh thị phi (phải trái).
Lại có
năm việc chìm vào ba đường ác. Những gì là năm ? Một là thường nói không
quả báo thiện ác. Hai là giết hại chúng sinh phát tâm Bồ Ðề. Ba là ưa nói
lỗi lầm của pháp sư. Bốn là pháp nói là phi pháp, phi pháp nói là pháp.
Năm là vì tìm cầu lỗi của pháp mà thính thọ.
Lại có
ba việc chìm vào ba đường ác. Những gì là ba ? Một là gọi Như Lai vô
thường, diệt vĩnh viễn. Hai là chánh pháp vô thường biến đổi. Ba là Tăng
bảo có thể hoại diệt. Vậy nên họ thường chìm trong ba đường ác. Người thứ
hai phát ý muốn qua khỏi dòng sông lớn sinh tử mà đoạn thiện căn nên chìm
mất chẳng thể ra. Sở dĩ nói rằng ra là nói gần gũi bạn lành thì được tín
tâm. Người tín tâm là người tin bố thí và quả báo của bố thí, tin thiện và
quả báo của thiện, tin ác và quả báo của ác, tin sinh tử, khổ, vô thường,
bại hoại. Ðó gọi là tin. Ðã được tín tâm, tu tập tịnh giới, thọ trì, đọc
tụng, ghi chép, giải nói, thường làm bố thí, khéo tu trí tuệ nhưng do độn
căn nên lại gặp bạn ác, chẳng thể tu tập thân, giới, tâm, tuệ, thính thọ
tà pháp, hoặc gặp lúc ác, ở đất nước ác, đoạn dứt các căn lành mà đoạn căn
lành nên thường chìm vào sinh tử như người thứ hai bên bờ sông Hằng. Người
thứ ba phát ý muốn vượt qua dòng sông lớn sinh tử mà đoạn căn lành nên
chìm đắm ở trong đó. Gần gũi bạn lành thì được gọi là ra. Tin Như Lai
chính là Nhất Thiết Trí thường hằng không biến đổi, vì chúng sinh nên nói
đạo Vô thượng, tất cả chúng sinh đều có Phật tính, Như Lai chẳng phải
diệt, Pháp, Tăng cũng vậy, không có diệt hoại, nhất xiển đề chẳng đoạn
pháp ấy nhất định chẳng thể được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, cần phải
xa lìa thì nhiên hậu mới được. Do tín tâm nên tu tập tịnh giới, tu tịnh
giới rồi thì thọ trì, đọc tụng, ghi chép, giải nói mười hai bộ kinh, vì
các chúng sinh tuyên dương lưu bố rộng rãi, ưa thích bố thí, tu tập trí
tuệ. Do lợi căn nên trụ vững ở tín tuệ, lòng không thối chuyển như người
thứ ba bên bờ sông Hằng. Người thứ tư là người phát ý muốn vượt qua dòng
sông lớn sinh tử mà đoạn thiện căn nên chìm đắm ở trong đó, nhờ gần gũi
bạn lành nên được tín tâm thì đó gọi là xuất (ra). Ðược tín tâm nên thọ
trì, đọc tụng, ghi chép, giải nói mười hai bộ kinh, vì chúng sinh nên
tuyên dương lưu bố rộng rãi, ưa làm bố thí, tu tập trí tuệ. Do lợi căn nên
trụ vững ở tín tuệ, lòng không thoái chuyển người này quan sát khắp bốn
phương, bốn phương là bốn quả Sa môn, như người thứ tư bên bờ sông Hằng.
Người thứ năm là người phát ý muốn vượt qua dòng sông lớn sinh tử mà đoạn
dứt thiện căn nên chìm đắm ở trong đó, nhờ gần gũi bạn lành nên được tín
tâm, đó gọi là ra. Do tín tâm nên thọ trì, đọc tụng, ghi chép, giải nói
mười hai bộ Kinh, vì chúng sinh nên tuyên dương lưu bố rộng rãi. Người này
ưa làm bố thí, tu tập trí tuệ, do lợi căn nên trụ vững ở tín tuệ, lòng
không thoái chuyển. Không thoái chuyển rồi thì người này liền tiến tới
trước. Người tiến tới trước gọi là Bích Chi Phật. Bích Chi Phật tuy có thể
tự độ nhưng chẳng độ cả chúng sinh. Vậy nên gọi là đi (khứ) như người thứ
năm bên bờ sông Hằng. Người thứ sáu là người phát ý muốn vượt qua dòng
sông lớn sinh tử mà đoạn dứt thiện căn nên chìm đắm ở trong đó, nhờ gần
gũi bạn lành nên được tín tâm. Ðược tín tâm nên gọi là ra. Do tín tâm nên
người đó thọ trì, đọc tụng, ghi chép, giải nói mười hai bộ Kinh, vì chúng
sinh nên tuyên dương lưu bố rộng rãi. Người đó ưa làm bố thí, tu tập trí
tuệ và do lợi căn nên trụ vững ở tín tuệ, lòng không thoái chuyển. Không
thoái chuyển rồi thì liền lại tiến tới trước đến chỗ cạn, đến chỗ cạn rồi
liền trụ lại chẳng đi. Người trụ lại chẳng đi gọi là Bồ tát. Bồ tát vì
muốn độ thoát các chúng sinh nên trụ lại quan sát phiền não như người thứ
sáu bên bờ sông Hằng. Người thứ bảy là người phát ý muốn vượt qua dòng
sông lớn sinh tử mà đoạn dứt thiện căn nên chìm đắm trong đó, nhờ gần gũi
bạn lành nên được tín tâm. Ðược tín tâm rồi thì đó gọi là ra. Do có tín
tâm nên người đó thọ trì, đọc tụng, ghi chép, giải nói mười hai bộ Kinh và
vì chúng sinh nên tuyên dương lưu bố rộng rãi. Người đó ưa bố thí, tu tập
trí tuệ và do lợi căn nên trụ vững ở tín tuệ, lòng không thoái chuyển,
không thoái chuyển rồi liền tiến tới trước, đã tiến tới trước rồi thì được
đến bờ kia, leo lên núi cao, lìa khỏi các sợ hãi, thọ nhiều an vui. Này
thiện nam tử ! Núi bờ kia là dụ cho Như Lai, thọ an lạc là dụ cho Phật
thường trụ, núi cao lớn là dụ cho Ðại Niết Bàn. Này thiện nam tử ! Những
người như vậy ở bên bờ sông Hằng này đều đủ tay chân mà chẳng thể vượt
qua, tất cả chúng sinh cũng lại như vậy, thật có Phật bảo, Pháp bảo, Tăng
bảo, Như Lai thường nói yếu nghĩa các pháp, có tám Thánh đạo, Ðại Bát Niết
Bàn mà chúng sinh đều chẳng thể được. Ðây chẳng phải lỗi của ta, cũng
chẳng phải lỗi của Thánh đạo và chúng sinh mà phải biết đều chính là tội
ác của phiền não. Do nghĩa này nên tất cả chúng sinh chẳng được Niết Bàn.
Này thiện nam tử ! Ví như vị lương y biết bệnh cho thuốc, còn người bệnh
chẳng uống thì chẳng phải lỗi của thầy thuốc. Này thiện nam tử! Như có vị
thí chủ đem sở hữu của mình thí cho tất cả mọi người mà có người chẳng
nhận thì chẳng phải lỗi của thí chủ. Này thiện nam tử ! Ví như mặt trời
mọc mọi u tối đều sáng mà người mù lòa chẳng thấy đường đi thì chẳng phải
lỗi của mặt trời. Này thiện nam tử ! Như nước sông Hằng có thể trừ được
khát thiếu mà người khát chẳng uống thì chẳng phải lỗi của nước. Này thiện
nam tử ! Ví như đại địa khắp sinh ra quả trái bình đẳng không hai nhưng
nông dân chẳng gieo trồng thì chẳng phải lỗi của đất. Này thiện nam tử !
Như Lai khắp vì tất cả chúng sinh mở rộng, phân biệt mười hai bộ Kinh mà
chúng sinh chẳng thọ nhận thì chẳng phải lỗi của Như Lai.
Này
thiện nam tử ! Nếu tu đạo thì liền được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.
Này thiện nam tử ! Ông nói rằng, chúng sinh đều có Phật tính nên được Vô
Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác như đá có từ tính thì hay thay ! Hay thay !
Do có lực nhân duyên Phật tính nên được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.
Nếu nói rằng chẳng cần tu Thánh đạo thì nghĩa này chẳng đúng ! Này thiện
nam tử ! Ví như có người khát nước gặp được giếng. Giếng ấy rất sâu, tuy
chẳng thấy nước, nhưng nhất định là có. Người này phương tiện tìm kiếm,
dùng dây buộc vào lọ mà múc lấy nước thì thấy có nước. Phật tính cũng vậy,
tất cả chúng sinh tuy lại đều có nhưng cần phải tu tập đạo Thánh vô lậu
rồi nhiên hậu mới được thấy. Này thiện nam tử ! Như có hạt mè thì được
thấy có dầu, nhưng nếu lìa khỏi các phương tiện thì chẳng được thấy. Cây
mía cũng vậy. Này thiện nam tử ! Như cõi Uất Ðơn Việt ở phương Bắc của
trời Ba mươi ba. Tuy đó là hữu pháp nhưng nếu không có đạo lực thần thông
thiện nghiệp thì chẳng thể thấy. Như rễ cỏ trong đất và nước dưới đất vì
đất phủ lên nên chúng sinh chẳng thể thấy. Phật tính cũng vậy, vì chẳng tu
Thánh đạo nên chẳng được thấy. Này thiện nam tử ! Như ông đã nói, ở đời có
người bệnh nếu gặp lương y xem bệnh, thuốc tốt, tùy bệnh cho ăn uống và
cả nếu chẳng gặp được vậy thì cũng đều được khỏi bệnh. Này thiện nam tử !
Ta vì Bồ tát lục trụ mà nói nghĩa như vậy. Này thiện nam tử ! Ví như hư
không đối với các chúng sinh thì chẳng phải trong, chẳng phải ngoài, chẳng
phải trong ngoài nên cũng không ngăn ngại. Chúng sinh Phật tính cũng lại
như vậy. Này thiện nam tử ! Ví như có người mà của cải ở tại địa phương
khác, tuy chẳng hiện tiền nhưng được tùy ý thọ dụng. Có người hỏi xin thì
người đó nói rằng : Ta hứa! Vì sao vậy ? Vì nhất định có. Chúng sinh Phật
tính cũng lại như vậy, chẳng phải đây, chẳng phải đó mà do nhất định được
nên nói rằng, tất cả đều có. Này thiện nam tử ! Ví như chúng sinh tạo tác
các nghiệp hoặc thiện, hoặc ác, chẳng phải trong, chẳng phải ngoài. Như
vậy tính của nghiệp chẳng phải có, chẳng phải không, cũng lại chẳng phải
là vốn không mà nay có, chẳng phải không nhân sinh ra, chẳng phải đây làm
đây chịu, đây làm đó chịu, đó làm đó chịu, không làm, không chịu, thời
tiết hòa hợp mà được quả báo. Chúng sinh Phật tính cũng lại như vậy, cũng
lại chẳng phải chính là vốn không mà nay có, chẳng phải trong, chẳng phải
ngoài, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải đây, chẳng phải đó,
chẳng phải chỗ khác lại, chẳng phải không nhân duyên, cũng chẳng phải tất
cả chúng sinh chẳng thấy. Có các Bồ tát mà thời tiết, nhân duyên hòa hợp
thì được thấy. Thời tiết là nói các Ðại Bồ tát Thập Trụ tu tám Thánh đạo,
đối với các chúng sinh được tâm bình đẳng mà bấy giờ được thấy thì chẳng
gọi là tác (thọ tác). Này thiện nam tử ! Ông nói rằng, như từ thạch thì
nghĩa đó chẳng đúng ! Vì sao vậy ? Vì đá chẳng hút sắt. Sở dĩ vì sao ? Vì
không có tâm nghiệp vậy. Này thiện nam tử ! Pháp khác có nên pháp khác
sinh ra, pháp khác không nên pháp khác diệt hoại, không có người làm,
không có kẻ hoại. Này thiện nam tử ! Giống như lửa mạnh chẳng thể đốt cỏ
(?). Lửa xuất hiện, cỏ hoại tan thì gọi là đốt cỏ. Này thiện nam tử ! Ví
như cây quì tiêu (một giống chuối hướng theo mặt trời) theo mặt trời mà
chuyển. Nhưng cây quì tiêu này cũng không có lòng cung kính, không thức,
không nghiệp, do tính pháp khác mà tự hồi chuyển. Này thiện nam tử ! Như
cây ba tiêu (cây chuối) nhân tiếng sấm mà tăng trưởng. Cây này không có
tai, không tâm, ý, thức nhưng do pháp khác có nên pháp khác tăng trưởng,
pháp khác không nên pháp khác hoại diệt. Này thiện nam tử ! Như cây A thúc
ca mà con gái sờ mó vào là hoa xuất hiện. Cây này không có tâm cũng không
hay biết chạm xúc nhưng do pháp khác có nên pháp khác sinh ra, pháp khác
không nên pháp khác hoại diệt. Này thiện nam tử ! Như cây quất (quít) được
xác chết thì trái nhiều thêm mà cây quất đó không tâm, không chạm xúc,
nhưng do pháp khác có nên pháp khác nhiều thêm, pháp khác không nên pháp
khác hoại diệt. Này thiện nam tử ! Như cây An thạch lựu nhờ phân xương nên
quả trái sum suê mà cây an thạch lựu cũng không tâm, không chạm xúc nhưng
do pháp khác có nên pháp khác sinh ra, pháp khác không nên pháp khác diệt
hoại. Này thiện nam tử ! Từ thạch (đá có từ tính) hút sắt cũng lại như
vậy, do pháp khác có nên pháp khác sinh ra, pháp khác không nên pháp khác
diệt hoại. Chúng sinh Phật tính cũng lại như vậy, chẳng thể hút được Vô
Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Này thiện nam tử ! Vô minh chẳng thể hút
lấy các hành, hành cũng chẳng thể hút lấy thức; cũng được gọi là vô minh
duyên hành, hành duyên thức. Pháp giới có Phật, không Phật thường trụ.
Này
thiện nam tử ! Nếu nói Phật tính trụ ở trong chúng sinh thì, này thiện nam
tử ! Thường pháp không trụ. Nếu có chỗ trụ tức là pháp vô thường. Này
thiện nam tử ! Như mười hai nhân duyên không định trụ xứ. Nếu có trụ xứ
thì mười hai nhân duyên chẳng được gọi là Thường. Pháp thân của Như Lai
cũng không trụ xứ. Pháp giới, pháp nhập, pháp ấm, hư không đều không trụ
xứ. Phật tính cũng vậy, đều không trụ xứ. Này thiện nam tử ! Ví như lực
của bốn đại tuy quân bình có cứng, có nóng, có ẩm ướt, có chuyển động, có
nặng, có nhẹ, có đỏ, có trắng, có vàng, có đen mà bốn đại này cũng không
có nghiệp nhưng do pháp giới khác nên đều chẳng tương tợ. Phật tính cũng
vậy, pháp giới khác nên thời đến thì hiện ra. Này thiện nam tử ! Tất cả
chúng sinh chẳng thoái Phật tính nên gọi đó là có. A tỳ bạt chí (bất thoái
chuyển). Do phải có nên quyết được, quyết định sẽ thấy. Vậy nên gọi là tất
cả chúng sinh đều có Phật tính.
Này
thiện nam tử ! Ví như có vị vua bảo một đại thần rằng : “Ông hãy dắt một
con voi để cho người mù xem !”. Bấy giờ vị đại thần nhận sắc lệnh của vua
rồi tập trung nhiều người mù, đem voi cho họ xem. Lúc đó mọi người mù đều
dùng tay sờ. Vị đại thần liền trở lại mà bạch với vua rằng : “Thần đã bày
xong !”. Bấy giờ vị đại vương liền kêu những người mù mà hỏi từng người
một rằng : “Ngươi có thấy voi không vậy ?”. Những người mù đều đáp rằng :
“Tôi đã được thấy !” Nhà vua nói : “Voi là loại gì ?”. Người sờ ngà voi
liền nói rằng : “Hình voi như rễ cây Lai phục (?)”. Người sờ tai voi thì
nói rằng : “Voi như cái sàng”. Người sờ đầu thì nói rằng : “Voi như hòn
đá”. Người sờ mũi voi thì nói rằng : “Voi như cái chày !” Người sờ chân
voi thì nói rằng : “Voi như cái cối bằng gỗ !”. Người sờ sống lưng voi thì
nói rằng : “Voi như cái giường !”. Người sờ bụng voi thì nói rằng : “Voi
như cái vò !” Người sờ đuôi voi thì nói rằng : “Voi như sợi dây!”. Này
thiện nam tử ! Như những người mù kia chẳng nói hình thể con voi cũng
chẳng phải chẳng nói. Nếu mọi tướng này đều chẳng phải con voi thì bỏ
ngoài những tướng đó lại không có con voi khác. Này thiện nam tử ! Vua dụ
cho Như Lai Ứng Chánh Biến Tri. Thần dụ cho Kinh Phương Ðẳng Ðại Niết Bàn.
Voi dụ cho Phật tính. Người mù dụ cho tất cả chúng sinh vô minh. Những
chúng sinh này nghe Phật nói rồi, hoặc nói rằng : “Sắc chính là Phật tính
! Vì sao vậy ? Vì sắc này tuy diệt nhưng thứ lớp nối tiếp nhau. Vậy nên
thu hoạch được ba mươi tướng của Như Lai Vô Thượng, sắc của Như Lai
thường. Sắc của Như Lai thường thì chẳng đoạn. Vậy nên nói sắc là Phật
tính. Ví như chất vàng ròng tuy biến đổi nhưng sắc thường chẳng khác. Hoặc
khi làm xuyến, làm thoa cài tóc, làm chậu tắm... nhưng màu vàng ấy vẫn như
ban đầu không biến đổi. Chúng sinh Phật tính cũng lại như vậy, chất tuy vô
thường nhưng mà sắc là thường. Do vậy nên nói sắc là Phật tính”. Hoặc có
người nói rằng : “Thọ là Phật tính. Vì sao vậy ? Vì thọ nhân duyên nên thu
hoạch được niềm vui chân thật của Như Lai. Như Lai thọ nghĩa là rốt ráo
thọ, Ðệ nhất nghĩa thọ. Thọ của chúng sinh, tính tuy lại vô thường nhưng
thọ ấy theo thứ lớp nối tiếp nhau chẳng dứt. Vậy nên thu hoạch được thọ
thường hằng của Như Lai. Ví như có người họ Kiều Thi Ca. Người tuy vô
thường mà dòng họ là thường, dù trải qua ngàn vạn đời cũng không có thay
đổi. Chúng sinh Phật tính cũng lại như vậy. Do vậy nên nói Thọ là Phật
tính”. Lại có người nói rằng : “Tưởng chính là Phật tính. Vì sao vậy ? Vì
Tưởng nhân duyên nên thu hoạch được tưởng chân thật của Như Lai. Như Lai
tưởng là gọi tưởng vô tưởng. Tưởng vô tưởng thì chẳng phải chúng sinh
tưởng, chẳng phải nam nữ tưởng, cũng chẳng phải sắc thọ tưởng hành thức
tưởng, chẳng phải tưởng đoạn tưởng. Tưởng của chúng sinh tuy lại vô thường
nhưng do tưởng theo thứ lớp nối tiếp nhau chẳng dứt nên được tưởng thường
hằng của Như Lai. Này thiện nam tử ! Ví như mười hai nhân duyên của chúng
sinh. Chúng sinh tuy diệt mà nhân duyên thì thường. Chúng sinh Phật tính
cũng lại như vậy. Do vậy nên nói Tưởng là Phật tính”. Lại có người nói
rằng : “Hành là Phật tính. Vì sao vậy ? Vì hành gọi là thọ mạng mà do thọ
mạng nhân duyên nên thu hoạch được thọ mạng thường trụ của Như Lai. Thọ
mạng của chúng sinh tuy vô thường nhưng mà thọ mạng theo thứ lớp nối tiếp
nhau chẳng dứt nên được thọ mạng thường hằng chân thật của Như Lai”. Này
thiện nam tử ! Ví như mười hai bộ kinh mà người nghe nói kinh thì tuy lại
vô thường nhưng kinh điển đó lại thường tồn bất biến. Chúng sinh Phật tính
cũng lại như vậy. Do vậy nên nói Hành là Phật tính. Lại có người nói rằng
: “Thức là Phật tính. Do Thức nhân duyên nên thu hoạch được tâm bình đẳng
của Như Lai. Ý thức của chúng sinh tuy lại vô thường nhưng mà thức theo
thứ lớp nối tiếp nhau nên được tâm thường hằng chân thật của Như Lai. Như
tính nóng của lửa, lửa tuy vô thường nhưng nóng chẳng phải vô thường.
Chúng sinh Phật tính cũng lại như vậy. Do vậy nên nói thức là Phật tính”.
Lại có người nói rằng : “Lìa khỏi ấm thì có ngã. Ngã chính là Phật tính.
Vì sao vậy ? Vì ngã nhân duyên nên thu hoạch được tám tự tại ngã của Như
Lai”. Có các ngoại đạo nói rằng : “Ði lại, nghe thấy, buồn vui, nói
năng... là ngã. Như vậy tướng của ngã tuy lại vô thường nhưng mà chân thật
ngã của Như Lai là thường. Này thiện nam tử ! Như ấm, nhập, giới tuy lại
là vô thường mà gọi là thường. Chúng sinh Phật tính cũng lại như vậy. Này
thiện nam tử ! Như những người mù kia, mỗi mỗi đều nói về voi, tuy chẳng
được chân thật nhưng chẳng phải chẳng nói về voi. Người nói về Phật tính
cũng lại như vậy, chẳng phải tức là sáu pháp, chẳng lìa khỏi sáu pháp. Này
thiện nam tử ! Vậy nên ta nói Phật tính của chúng sinh chẳng phải sắc,
chẳng lìa khỏi sắc... cho đến chẳng phải ngã, chẳng lìa khỏi ngã. Này
thiện nam tử ! Có các ngoại đạo tuy nói có ngã mà thật không có ngã. Ngã
của chúng sinh tức chính là năm ấm mà bỏ ngoài năm ấm lại không có ngã
khác. Này thiện nam tử ! Ví như thân cành, cánh hoa, tua hoa, đài hoa hợp
làm hoa sen mà bỏ ngoài những yếu tố này lại không có hoa sen khác. Ngã
của chúng sinh cũng lại như vậy. Này thiện nam tử ! Ví như tường vách cỏ
cây hòa hợp thì gọi đó là nhà mà bỏ ngoài những yếu tố đó lại không có nhà
khác. Như cây Khư đà la, cây Ba la xa, cây Ni câu đà, cây Uất đàm bát...
hòa hợp làm thành rừng mà bỏ ngoài những cây đó lại không có rừng khác. Ví
như binh xa, binh tượng, binh mã, binh bộ hòa hợp làm quân đội mà bỏ ngoài
những binh đó lại không có quân đội khác. Ví như năm màu dệt xen vào nhau
hòa hợp gọi là lụa hoa mà bỏ ngoài năm màu đó lại không có lụa hoa khác.
Như bốn dòng họ hòa hợp lại gọi là đại chúng mà bỏ ngoài bốn dòng đó lại
không có đại chúng khác. Ngã của chúng sinh cũng lại như vậy, bỏ ngoài năm
ấm ra lại không có ngã khác. Này thiện nam tử ! Như Lai thường trụ thì gọi
là Ngã. Pháp thân của Như Lai vô biên, vô ngại, chẳng sinh, chẳng diệt,
được tám tự tại thì đó gọi là Ngã. Chúng sinh chân thật không có ngã và cả
ngã sở như vậy. Chỉ vì chúng sinh nhất định sẽ được rốt ráo Ðệ nhất nghĩa
không nên gọi là Phật tính.
Này
thiện nam tử ! Ðại từ đại bi gọi là Phật tính. Vì sao vậy ? Vì đại từ đại
bi thường theo Bồ tát như bóng theo hình. Tất cả chúng sinh nhất định sẽ
được đại từ đại bi nên nói rằng; tất cả chúng sinh đều có Phật tính. Ðại
từ đại bi gọi là Phật tính mà Phật tính thì gọi là Như Lai. Ðại hỷ đại xả
gọi là Phật tính. Vì sao vậy ? Vì Ðại Bồ tát nếu chẳng thể xả bỏ hai
mươilăm cõi hữu thì chẳng thể được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác mà vì
các chúng sinh nhất định sẽ được nên nói rằng, tất cả chúng sinh đều có
Phật tính. Ðại hỷ đại xả tức là Phật tính mà Phật tính tức là Như Lai.
Phật tính là gọi đại tín tâm. Vì sao vậy ? Vì tín tâm nên Ðại Bồ tát có
thể đầy đủ Ðàn Ba la mật... Bát nhã Ba la mật mà tất cả chúng sinh nhất
định sẽ được đại tín tâm. Vậy nên nói rằng, tất cả chúng sinh đều có Phật
tính. Ðại tín tâm tức là Phật tính mà Phật tính tức chính là Như Lai. Phật
tính là gọi Nhất tử địa (địa vị con một). Vì sao vậy ? Vì do Nhất tử địa
nhân duyên nên Bồ tát đối với tất cả chúng sinh được tâm bình đẳng. Tất cả
chúng sinh nhất định sẽ được Nhất tử địa. Vậy nên nói rằng, tất cả chúng
sinh đều có Phật tính mà Phật tính thì tức là Như Lai. Phật tính là gọi Ðệ
tứ lực. Vì sao vậy ? Vì do Ðệ tứ lực nhân duyên nên Bồ tát có thể giáo hóa
chúng sinh. Tất cả chúng sinh nhất định sẽ được Ðệ tứ lực. Vậy nên nói
rằng, tất cả chúng sinh đều có Phật tính. Ðệ tứ lực tức là Phật tính mà
Phật tính tức là Như Lai. Phật tính là gọi mười hai nhân duyên. Vì sao vậy
? Vì do nhân duyên nên Như Lai thường trụ. Tất cả chúng sinh nhất định có
mười hai nhân duyên như vậy. Vậy nên nói rằng, tất cả chúng sinh đều có
Phật tính. Mười hai nhân duyên tức là Phật tính mà Phật tính tức là Như
Lai. Phật tính là gọi bốn vô ngại trí. Do bốn vô ngại trí nhân duyên nên
nói chữ, nghĩa không ngăn ngại. Chữ nghĩa không ngăn ngại, nên có thể giáo
hóa chúng sinh. Bốn vô ngại trí tức là Phật tính mà Phật tính tức là Như
Lai. Phật tính là gọi Ðỉnh tam muội. Do tu Ðỉnh tam muội như vậy nên có
thể thống nhiếp tất cả Phật pháp. Vậy nên nói rằng, Ðỉnh tam muội gọi là
Phật tính. Bồ tát Thập Trụ tu tam muội này chưa được đầy đủ nên tuy thấy
Phật nhưng mà chẳng sáng rõ. Tất cả chúng sinh nhất định được tam muội đó.
Vậy nên nói rằng, tất cả chúng sinh đều có Phật tính. Này thiện nam tử !
Như nói ở trên, đủ thứ các pháp mà tất cả chúng sinh nhất định sẽ được.
Vậy nên nói rằng, tất cả chúng sinh đều có Phật tính. Này thiện nam tử !
Ta nếu nói sắc chính là Phật tính thì chúng sinh nghe rồi liền sinh ra tà
kiến điên đảo. Do tà đảo nên mạng chung, họ phải sinh vào địa ngục A tỳ mà
Như Lai nói pháp là vì họ đoạn địa ngục. Vậy nên Như Lai chẳng nói sắc
chính là Phật tính... cho đến nói thức cũng lại như vậy.
Này
thiện nam tử ! Nếu các chúng sinh liễu ngộ Phật tính thì chẳng cần tu Ðạo.
Bồ tát Thập Trụ tu tám Thánh Ðạo mà còn thấy ít Phật tính, huống là người
chẳng mà được thấy ư ? Này thiện nam tử ! Như các Bồ tát Văn Thù Sư
Lợi.v.v.. đã vô lượng đời tu tập Thánh đạo mới rõ biết Phật tính thì làm
sao Thanh Văn, Bích Chi Phật.v.v... lại có thể biết Phật tính. Nếu các
chúng sinh muốn được biết rõ ràng Phật tính thì nên phải một lòng thọ trì,
đọc tụng, ghi chép, giải nói, cúng dường, cung kính, tôn trọng, khen ngợi
Kinh Niết Bàn này. Nếu thấy có người thọ trì... cho khen ngợi Kinh này như
vậy thì nên phải dùng phòng nhà đẹp, y phục, ẩm thực, ngọa cụ, thuốc men
chữa bệnh... mà cúng dường họ lại thêm khen ngợi, lễ bái, hỏi thăm họ. Này
thiện nam tử ! Nếu có người đã ở trong vô lượng vô biên đời quá khứ, gần
gũi cúng dường vô lượng các đức Phật, gieo trồng sâu căn lành thì nhiên
hậu mới được nghe tên của Kinh này. Này thiện nam tử ! Phật tính chẳng thể
nghĩ bàn ! Phật Pháp Tăng bảo cũng chẳng thể nghĩ bàn ! Tất cả chúng sinh
đều có Phật tính mà chẳng thể biết. Ðó cũng chẳng thể nghĩ bàn ! Pháp của
Như Lai Thường Lạc Ngã Tịnh cũng chẳng thể nghĩ bàn ! Tất cả chúng sinh
có thể tin Kinh Ðại Niết Bàn như vậy cũng chẳng thể nghĩ bàn !
Bồ tát
Sư Tử Hống bạch rằng :
- Thưa
đức Thế Tôn ! Như lời đức Phật nói, tất cả chúng sinh có thể tin Kinh Ðại
Niết Bàn như vậy chẳng thể nghĩ bàn ! Thưa đức Thế Tôn ! Trong đại chúng
này có tám vạn năm ngàn ức người mà đối với Kinh này chẳng sinh lòng tin.
Vậy nên có người có thể tin Kinh này thì gọi là chẳng thể nghĩ bàn !
- Này
thiện nam tử ! Ðúng vậy ! Những người ở đời vị lai cũng sẽ nhất định được
tin Kinh điển này, thấy được Phật tính, được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh
Giác.
Bồ tát
Sư Tử Hống bạch rằng :
- Thưa
đức Thế Tôn ! Làm sao Bồ tát bất thoái tự biết quyết định có tâm bất thoái
?
Ðức Phật
dạy rằng :
- Này
thiện nam tử ! Ðại Bồ tát sẽ dùng khổ hạnh để tự thử thách lòng mình. Mỗi
ngày ăn một hạt mè, trải qua một lần bảy ngày. Với hạt gạo nếp, hạt đậu
xanh, hạt vừng, hạt gạo tẻ và cả đậu trắng cũng lại như vậy. Mỗi một lần
bảy ngày khi ăn một hạt mè thì tác khỏi suy nghĩ này : “Khổ hạnh như vầy
đều không lợi ích. Việc không lợi ích mà còn có thể làm huống là việc có
lợi ích mà sẽ chẳng làm ?” Ðối với việc không lợi ích mà tâm có thể kham
nhẫn chẳng thoái chẳng chuyển. Vậy nên nhất định được Vô Thượng Chánh Ðẳng
Chánh Giác. Những ngày như vậy khi tu khổ hạnh thì tất cả da thịt tiêu
giảm héo hắt, nhăn nheo như chặt cây sống đặt vào giữa trưa nắng. Mắt
người ấy hõm sâu như sao đáy giếng. Thịt hết, xương sườn bày ra như mái
nhà cỏ mục nát; xương sống nối liền hiện ra đường chỉ khâu trùng lắp, chỗ
ngồi như vết móng ngựa, muốn ngồi thì nằm phục xuống, muốn đứng dậy thì
nằm lăn ra. Tuy thọ khổ không ích lợi như vậy nhưng hành giả chẳng thoái
tâm Bồ Ðề. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát vì phá mọi khổ, ban an
vui nên thậm chí có thể xả bỏ tài vật trong ngoài và thân mạng của mình
như rơm cỏ. Nếu có thể chẳng tiếc thân mạng này thì như vậy Bồ tát tự biết
nhất định có tâm bất thoái, Bồ tát nhất định sẽ được Vô Thượng Chánh Ðẳng
Chánh Giác. Lại nữa, Bồ tát vì nhân duyên pháp mà khoét thân làm đèn rồi
thu thập da thịt, dầu mỡ rót vào đó đốt cháy lên làm bấc đèn. Bồ tát lúc
bấy giờ, chịu khổ lớn này mà tự quở trách lòng mình nói lên rằng : “Khổ
như vầy so với khổ ở địa ngục trăm ngàn vạn phần còn chưa bằng một !
Ngươiở trong vô lượng trăm ngàn kiếp, thọ khổ não lớn đều không lợi ích !
Ngươi nếu chẳng thể thọ cái khổ nhẹ nhàng này thì làm sao mà có thể ở
trong địa ngục cứu khổ cho chúng sinh”. Ðại Bồ tát khi tác khởi sự quan
sát này thì thân chẳng hay biết khổ, lòng ấy chẳng thoái, chẳng động,
chẳng chuyển. Bồ tát bấy giờ ứng tự biết sâu sắc rằng, ta nhất định sẽ
được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Này thiện nam tử ! Bồ tát, bấy giờ
phiền não đầy đủ chưa có đoạn dứt thì vì pháp nhân duyên có thể đem đầu,
mắt, tủy não, tay, chân, máu, thịt bố thí cho người, dùng đinh đóng vào
thân, nhảy xuống từ núi cao ngất, gieo mình vào lửa đỏ. Bấy giờ, Bồ tát
tuy thọ vô lượng những khổ như vậy mà lòng chẳng thoái, chẳng động chẳng
chuyển. Bồ tát phải biết rằng, ta nay nhất định có tâm chẳng thoái chẳng
chuyển, sẽ được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Này thiện nam tử ! Ðại Bồ
tát vì phá phiền não của tất cả chúng sinh nên nguyện làm thân loài súc
sinh to lớn, đem máu thịt bố thí cho chúng sinh mà khi chúng sinh nhận lấy
lại sinh lòng thương xót. Bấy gờ, Bồ tát nín hơi chẳng thở thị hiện làm
tướng chết khiến cho những người lấy máu thịt đó chẳng sinh tư tưởng nghi
ngờ giết hại. Bồ tát tuy thọ thân súc sinh nhưng nhất định chẳng tạo tác
nghiệp súc sinh. Vì sao vậy ? Này thiện nam tử ! Vì Bồ tát đã được tâm bất
thoái rồi thì nhất định chẳng tạo tác nghiệp ba đường ác. Ðại Bồ tát, nếu
đời vị lai có quả báo nghiệp ác nhỏ như vi trần thì chẳng quyết định thọ.
Nhưng do lực đại nguyện, vì chúng sinh mà đều thọ hết. Ví như người bệnh
bị quỉ ẩn náu ở trong thân. Do lực thần chú nên nó tức thời hiện tướng.
Hoặc nói năng, hoặc mừng, hoặc giận, hoặc mắng chữi, hoặc kêu gào, hoặc
khóc lóc... Nghiệp ba đường ác đời vị lai của Ðại Bồ tát cũng lại như vậy.
Khi Ðại Bồ tát thọ thân loài gấu thường vì chúng sinh diễn nói chánh pháp.
Hoặc thọ thân chim Ca tân xà la vì các chúng sinh nói chánh pháp. Hoặc thọ
thân Cù đà, thân nai, thân thỏ, thân voi, thân dê, thân vượn, thân bồ câu
trắng, thân chim cánh vàng, thân rồng, thân rắn.v.v... Khi Bồ tát thọ
những thân súc sinh như vậy thì nhất định chẳng tạo tác nghiệp ác súc sinh
mà còn thường vì chúng sinh của những loài súc sinh còn lại kia diễn nói
chính pháp khiến cho những chúng sinh đó mau được chuyển khỏi thân súc
sinh. Bấy giờ, Bồ tát tuy thọ thân súc sinh nhưng chẳng tạo tác ác nghiệp
thì phải biết là Bồ tát nhất định có tâm bất thoái. Ðại Bồ tát ở vào đời
đói kém, thấy chúng sinh đói, thì hiện làm thân rùa, cá to lớn vô lượng do
tuần. Bồ tát lại phát nguyện rằng : “Nguyện cho các chúng sinh khi lấy
thịt của ta thì lấy tùy ý theo sự sống của mình và nhân ăn thịt của ta
được lìa khỏi nỗi khổ đói khát, tất cả đều phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng
Chánh Giác”. Bồ tát lại phát nguyện : “Nếu có người nhân ăn thịt của ta
được lìa khỏi đói khát thì đời vị lai mau chóng được lìa khỏi khổ hoạn đói
khát của hai mươi lăm cõi hữu”. Ðại Bồ tát thọ khổ như vậy mà lòng chẳng
thoái thì phải biết Bồ tát nhất định được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.
Lại nữa, Bồ tát ở vào đời dịch bệnh, thấy bệnh khổ thì suy nghĩ như vầy :
“Như vua cây thuốc, nếu có người bệnh lấy rễ, lấy thân, lấy cành, lấy lá,
lấy hoa, lấy quả, lấy da, (vỏ cây), lấy phần ngoài của da... mà uống đều
được khỏi bệnh. Nguyện thân này của ta cũng lại như vậy. Nếu có người bệnh
nghe tiếng, chạm vào thân, ăn uống máu thịt... cho đến xương tủy của ta
thì bệnh đều trừ khỏi. Nguyện cho các chúng sinh khi ăn thịt của ta thì
chẳng sinh lòng ác như ăn thịt con”. Ta trị bệnh cho họ rồi thường vì họ
nói pháp, nguyện cho họ tín thọ, tư duy, chuyển hóa. Lại nữa, này thiện
nam tử ! Bồ tát đầy đủ phiền não, tuy thọ thân khổ nhưng tâm của Bồ tát
chẳng thoái, chẳng động, chẳng chuyển thì phải biết Bồ tát nhất định được
tâm bất thoái, thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Lại nữa, này thiện
nam tử ! Nếu có chúng sinh bị bệnh quỉ ám. Bồ tát thấy rồi liền nói rằng :
“Nguyện làm thân quỉ, thân lớn, thân khỏe mạnh, thân nhiều quyến thuộc...
khiến cho người bệnh kia nghe thấy thì bệnh được trừ khỏi”. Ðại Bồ tát vì
chúng sinh nên siêng tu khổ hạnh, tuy có phiền não nhưng ô nhiễm lòng Bồ
tát. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát tuy lại tu hành sáu Ba la mật
nhưng cũng lại chẳng cầu quả báo lục độ. Khi Bồ tát tu hành sáu Ba la mật
vô thượng thì phát nguyện rằng : “Ta nay dùng sáu Ba la mật này thi hành
với tất cả chúng sinh. Mỗi một chúng sinh thọ nhận sự thi hành của ta rồi
đều khiến cho được thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Ta cũng tự vì
sáu Ba la mật, siêng tu khổ hạnh, thọ các khổ não. Khi phải thọ khổ thì
nguyện cho ta chẳng thoái tâm Bồ Ðề. Này thiện nam tử ! Khi Ðại Bồ tát
phát nguyện này thì đó gọi là tướng Bồ Ðề Bất Thoái.
Lại nữa,
này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát chẳng thể nghĩ bàn ! Vì sao vậy ? Vì Ðại Bồ
tát biết sâu nhiều những tội lỗi của sinh tử, quan sát Ðại Niết Bàn có
công đức lớn mà vì chúng sinh nên ở tại sinh tử, chịu đủ thứ khổ, lòng
không thoái chuyển. Ðó gọi là Bồ tát chẳng thể nghĩ bàn. Lại nữa, này
thiện nam tử ! Ðại Bồ tát không có nhân duyên mà sinh lân mẫn, thật chẳng
thọ ân mà thường thi ân, tuy thường thi ân mà chẳng cầu đền đáp (báo). Vậy
nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Lại nữa, này thiện nam tử ! Hoặc có
chúng sinh vì sự lợi ích của mình mà tu các hạnh khổ, còn Ðại Bồ tát vì
lợi người khác nên tu hành khổ hạnh. Ðó gọi là tự lợi (của Bồ tát). Vậy
nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Lại nữa, Bồ tát đầy đủ phiền não, nhưng
vì phá hoại sự thọ nhận những khổ não của kẻ oán, người thân nên tu tâm
bình đẳng. Vậy nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Lại nữa, Bồ tát nếu thấy
các chúng sinh ác, bất thiện thì hoặc quở trách, hoặc nói lời dịu dàng,
hoặc xua đuổi, hoặc buông bỏ... Người có tính ác thì hiện làm người nói
lời dịu dàng. Người có tính kiêu mạn thì hiện làm người kiêu mạn mà kỳ
thật bên trong lòng không kiêu mạn. Ðó gọi là Bồ tát phương tiện chẳng thể
nghĩ bàn. Lại nữa, Bồ tát đầy đủ phiền não khi ít của cải mà người đến cầu
xin nhiều nhưng lòng chẳng mong ít. Ðó gọi là Bồ tát chẳng thể nghĩ bàn.
Lại nữa, Bồ tát ở vào lúc Phật ra đời, biết công đức của Phật. Nhưng vì
chúng sinh nên ở chỗ không có Phật, thọ thân nơi biên địa như mù, như
điếc, như thọt, như què... Ðó gọi là Bồ tát chẳng thể nghĩ bàn. Lại nữa,
Bồ tát biết sâu tội lỗi sở hữu của chúng sinh nhưng vì độ thoát họ nên
thường cùng hành động chung. Bồ tát tuy hành động theo ý họ nhưng tội cấu
chẳng ô nhiễm. Vậy nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn.
Lại nữa,
Bồ tát thấy biết rõ ràng, không có tướng chúng sinh không ô nhiễm phiền
não, không đạo tu tập, lìa khỏi phiền não, tuy là Bồ Ðề nhưng không hạnh
Bồ Ðề cũng không thành tựu hạnh Bồ Ðề, không có người thọ khổ, người phá
khổ mà có thể vì chúng sinh phá hoại. Khổ, hành hạnh Bồ Ðề. Vậy nên lại
gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Lại nữa, Bồ tát thọ thân hậu biên ở trên trời
Ðâu Suất thì đó cũng gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao vậy ? Vì trời Ðâu
Suất Ðà là cõi tối thắng trong Dục giới. Người ở trời dưới thì lòng họ
buông lung. Người ở trời trên thì các căn ám độn. Vậy nên gọi là thắng.
Tu thí, tu giới thì được thọ thân trời trên, trời dưới. Tu Thí Giới Ðịnh
thì được thân trời Ðâu Suất. Tất cả Bồ tát hủy báng các hữu, phá hoại các
hữu, nhất định chẳng tạo tác nghiệp của trời Ðâu Suất để thọ thân của cõi
trời đó. Vì sao vậy ? Vì Bồ tát, nếu ở các cõi hữu còn lại ấy thì cũng có
thể giáo hóa thành tựu chúng sinh. Bồ tát chân thật không có dục tâm mà
sinh ra ở Dục giới. Vậy nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Ðại Bồ tát sinh
lên trời Ðâu Suất có ba việc thù thắng : Một là mạng, hai là sắc, ba là
danh. Ðại Bồ tát chân thật chẳng cầu lấy mạng, sắc và danh xưng. Tuy lòng
Bồ tát không cầu mà sở đắc thắng hơn. Ðại Bồ tát ưa thích Niết Bàn sâu sắc
nhưng có nhân duyên cũng thắng hơn. Vậy nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn.
Ðại Bồ tát có ba việc như vậy tuy thắng hơn các trời mà các trời ở chỗ Bồ
tát nhất định chẳng sinh ra lòng sân giận, lòng ganh ghét, lòng kiêu mạn
mà thường sinh ra lòng vui mừng. Bồ tát đối với các trời cũng chẳng kiêu
mạn. Vậy nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Ðại Bồ tát chẳng tạo tác mạng
nghiệp mà đối với các trời kia thọ mạng rốt ráo. Ðó gọi là mạng thắng (thọ
mạng ngắn hơn). Bồ tát cũng không sắc nghiệp mà thân diệu sắc sáng ngời
đầy khắp. Ðó gọi là sắc thắng. Ðại Bồ tát ở cung trời kia chẳng ưa ngũ dục
mà chỉ vì việc pháp. Vậy nên danh xưng tràn đầy mười phương. Ðó gọi là
danh thắng. Vậy nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Ðại Bồ tát xuống trời
Ðâu Suất thì khi đó đại địa chấn động sáu thứ. Vậy nên lại gọi là chẳng
thể nghĩ bàn. Vì sao vậy ? Vì Bồ tát khi xuống cõi Dục cõi Sắc thì chư
thiên đều đến hầu đưa tiễn, phát ra âm thanh lớn khen ngợi Bồ tát. Do hơi
gió trong miệng nên khiến cho đất rung động. Lại có Bồ tát là chúa voi
trong loài người. Chúa voi trong loài người gọi là Long vương. Long vương
khi bắt đầu vào thai thì có các Long vương ở bên dưới đất này, hoặc sợ,
hoặc thức dậy nên đại địa chấn động sáu thứ. Vậy nên gọi là chẳng thể nghĩ
bàn. Ðại Bồ tát biết khi vào thai, khi trụ thai, khi sinh ra, biết cha,
biết mẹ chẳng sạch, chẳng ô nhiễm như châu báu màu xanh trên tóc Ðế Thích.
Vậy nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn.
Này
thiện nam tử ! Kinh Ðại Niết Bàn cũng lại như vậy, chẳng thể nghĩ bàn. Này
thiện nam tử ! Ví như biển lớn có tám điều chẳng nghĩ bàn. Những gì là
tám ? Một là dần dần trở nên sâu. Hai là sâu khó lần được đáy. Ba là đồng
một vị mặn. Bốn là nước triều chẳng quá giới hạn. Năm là đủ thứ bảo tàng.
Sáu là chúng sinh thân lớn cư trú ở trong đó. Bảy là chẳng chứa chấp thây
chết. Tám là tất cả muôn dòng nước, mưa lớn... trút vào trong đó mà chẳng
tăng, chẳng giảm. Này thiện nam tử ! Dần dần trở thành sâu có ba việc.
Những gì là ba ? Một là phước lực của chúng sinh, hai là thuận gió mà đi,
ba là nước sông vào... cho đến việc chẳng tăng chẳng giảm cũng đều có ba
việc. Kinh điển Ðại Niết Bàn vi diệu này cũng lại như vậy, có tám điều
chẳng thể nghĩ bàn. Một là dần dần sâu như là năm giới, mười giới, hai
trăm năm mươi giới, Bồ tát giới... như là quả Tu đà hoàn, quả Tư đà hàm,
quả A na hàm, quả A la hán, quả Bích Chi Phật, quả Bồ tát, quả Vô Thượng
Chánh Ðẳng Chánh Giác... kinh Niết Bàn này nói những pháp đó. Ðó gọi là
sâu dần dần. Vậy nên Kinh này gọi là sâu dần dần. Hai là sâu khó lần được
đáy : Như Lai Thế Tôn chẳng sinh, chẳng diệt, chẳng được Vô Thượng Chánh
Ðẳng Chánh Giác, chẳng chuyển pháp luân, chẳng ăn, chẳng thọ, chẳng làm
huệ thí (bố thí). Vậy nên gọi là Thường Lạc Ngã Tịnh. Tất cả chúng sinh
đều có Phật tính. Phật tính chẳng phải là sắc, chẳng lìa khỏi sắc, chẳng
phải thọ, tưởng, hành, thức... cho đến chẳng lìa khỏi... thức là thường có
thể thấy rõ nhân, chẳng phải tác nhân. Tu đà hoàn... cho đến Bích Chi Phật
sẽ được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, cũng không phiền não, cũng không
trụ xứ, tuy không có phiền não nhưng chẳng gọi là Thường. Vậy nên gọi là
sâu. Lại có chỗ rất sâu ở trong Kinh này. Hoặc khi nói Ngã hoặc nói Vô
Ngã, hoặc khi nói Thường hoặc nói Vô thường, hoặc khi nó Tịnh hoặc nói bất
tịnh, hoặc khi nói vui hoặc nói khổ, hoặc khi nói không hoặc nói chẳng
không, hoặc nói tất cả có, hoặc nói tất cả không, hoặc nói ba thừa, hoặc
nói một thừa, hoặc nói năm ấm tức là Phật tính, Kim Cương tam muội và cả
trung đạo, Thủ Lăng Nghiêm tam muội, mười hai nhân duyên, Ðệ nhất nghĩa
không, từ bi bình đẳng với các chúng sinh, đỉnh trí, tín tâm, biết các
căn, lực, trong tất cả pháp trí không ngăn ngại, tuy có Phật tính nhưng
chẳng nói quyết định. Vậy nên gọi là sâu. Ba là một vị : tất cả chúng sinh
đồng có Phật tính, đều đồng một thừa, đồng một giải thoát, một nhân một
quả, đồng một cam lộ. Tất cả sẽ được Thường Lạc Ngã Tịnh. Ðó gọi là một
vị. Bốn là nước triều chẳng quá giới hạn : Như trong Kinh này hạn chế các
Tỳkheo chẳng được nhận nuôi chứa tám vật bất tịnh. Nếu đệ tử của ta có thể
thọ trì, đọc tụng, ghi chép, giải nói, phân biệt Kinh điển Ðại Niết Bàn vi
diệu này thì thà mất thân mạng chớ nhất định chẳng hủy phạm Kinh đó. Ðó
gọi là nước triều chẳng quá giới hạn. Năm là có đủ thứ bảo tàng. Kinh này
tức là vô lượng bảo tàng. Nói là báu là gọi bốn niệm xứ, bốn chánh cần,
bốn Như ý túc, năm căn, năm lực, bảy giác phận, tám Thánh đạo phận, hạnh
anh nhi (trẻ con), hạnh Thánh, hạnh Phạm, hạnh Trời, các thiện phương
tiện, Phật tính của chúng sinh, công đức của Bồ tát, công đức của Như Lai
công đức của Thanh Văn, công đức của Duyên Giác, sáu Ba la mật, vô lượng
tam muội, vô lượng trí tuệ. Ðó gọi là bảo tàng. Sáu là chỗ cư trú của
chúng sinh thân lớn. Chúng sinh thân lớn là gọi Phật, Bồ tát. Vì Phật, Bồ
tát có trí tuệ lớn nên gọi là chúng sinh lớn. (Chúng sinh lớn thì) có thân
lớn, tâm lớn, trang nghiêm lớn, điều phục lớn, phương tiện lớn, nói pháp
lớn, thế lực lớn, đồ chúng lớn, thần thông lớn, từ bi lớn, thường hằng
chẳng biến đổi, tất cả chúng sinh không ngăn ngại, dung thọ tất cả các
chúng sinh. Ðó gọi là chỗ cư trú của chúng sinh thân lớn. Bảy là chẳng
chứa chấp thây chết. Thây chết là gọi Nhất xiển đề, phạm bốn trọng cấm,
năm tội vô gián, bài báng kinh Phương Ðẳng, chẳng phải pháp nói là pháp,
pháp nói chẳng phải pháp, thọ nhận nuôi chứa tám thứ vật bất tịnh, vật của
Phật vật của Tăng mà sử dụng tùy ý, hoặc ở chỗ Tỳkheo, Tỳkheo ni làm việc
phi pháp... Ðó gọi là thây chết. Kinh Niết Bàn này lìa khỏi những điều như
vậy. Vậy nên gọi là chẳng chứa chấp thây chết. Tám là chẳng tăng, chẳng
giảm : không bờ cõi nên không thỉ chung, chẳng phải sắc nên chẳng phải tác
(làm), thường trụ nên chẳng sinh diệt, tất cả chúng sinh đều bình đẳng,
tất cả pháp tính đồng một tính. Ðó gọi là không tăng giảm. Vậy nên Kinh
này như biển cả kia, có tám điều chẳng nghĩ bàn.
Bồ tát
Sư Tử Hống bạch rằng :
- Thưa
đức Thế Tôn ! Nếu nói Như Lai chẳng sinh chẳng diệt là sâu thì tất cả
chúng sinh có bốn loại sinh là noãn sinh, thai sinh, thấp sinh, hóa sinh.
Bốn loại sinh này trong loài người có đủ : Như Tỳkheo Thi Bà La, Tỳkheo Ưu
Bà Thi Bà La, mẹ trưởng giả Di Ca La, mẹ trưởng giả Ni Câu Ðà, mẹ trưởng
giả Bán Xà La đều có năm trăm con đồng ở noãn sinh (sinh ra từ trứng) thì
phải biết là trong loài người có sinh ra từ trứng. Thấp sinh thì như lời
đức Phật nói, ta vào thuở xưa, khi làm Bồ tát từng làm vua sinh ra từ đỉnh
đầu và làm vua sinh ra từ tay. Như hôm nay ngài nói, người con gái Am La
Thọ, con gái Bất Ða Thọ thì phải biết trong loài người có thấp sinh (sinh
ra từ ẩm ướt). Khi kiếp bắt đầu thì tất cả chúng sinh đều hóa sinh hết.
Ðức Như Lai Thế Tôn được tám tự tại, vì nhân duyên gì mà chẳng hóa sinh
vậy ?
Ðức Phật
dạy rằng :
- Này
thiện nam tử ! Việc sinh ra làm bốn lối sinh của tất cả chúng sinh, người
được Thánh pháp rồi chẳng được như vốn đã noãn sinh, thấp sinh. Này thiện
nam tử ! Ban đầu kiếp chúng sinh đều hóa sinh. Ðang lúc ấy, Phật chẳng ra
đời. Này thiện nam tử ! Nếu có chúng sinh khi gặp bệnh khổ cần thầy thuốc,
cần thuốc mà lúc đầu kiếp chúng sinh đều hóa sinh, tuy có phiền não mà
bệnh ấy chưa phát. Vậy nên Như Lai chẳng xuất hiện ở đời ấy. Ðầu kiếp thân
chúng sinh chẳng phải pháp khí. Vậy nên Như Lai chẳng xuất hiện ở đời ấy.
Này thiện nam tử ! Nghiệp sở hữu của Như Lai Thế Tôn thắng hơn các chúng
sinh như là về chủng tính, quyến thuộc, cha mẹ. Do thù thắng nên phàm lời
nói pháp của Như Lai mọi người đều tín thọ. Vậy nên Như Lai chẳng thọ hóa
sinh. Này thiện nam tử ! Tất cả chúng sinh thì cha tạo tác nghiệp con, con
tạo tác nghiệp cha. Như Lai Thế Tôn nếu thọ hóa thân thì không cha mẹ. Nếu
không cha mẹ thì làm sao có thể khiến cho tất cả chúng sinh tạo tác các
nghiệp lành. Vậy nên Như Lai chẳng thọ hóa thân. Này thiện nam tử ! Trong
chính pháp của Phật có hai thứ hộ, một là nội, hai là ngoại. Nội hộ là gọi
cấm giới. Ngoại hộ là gọi thân tộc quyến thuộc. Nếu Phật Như Lai thọ hóa
thân thì không ngoại hộ. Vậy nên Như Lai chẳng thọ hóa thân. Này thiện
nam tử ! Có người ỷ vào dòng họ mà sinh kiêu mạn, Như Lai vì phá sự kiêu
mạn như vậy nên sinh ở dòng họ tôn quí, chẳng thọ hóa thân. Này thiện nam
tử ! Như Lai Thế Tôn có cha mẹ chân thật. Cha tên là Tịnh Phạn, mẹ tên là
Ma Da mà các chúng sinh còn nói là huyễn thì làm sao mà thọ thân hóa sinh
? Nếu thọ hóa thân thì làm sao được có xá lợi của thân vụn. Như Lai vì
thêm phước đức cho chúng sinh nên làm vụn nát thân ấy để cho họ cúng
dường. Vậy nên Như Lai chẳng thọ hóa thân. Tất cả các đức Phật đều không
hóa sinh thì làm sao khiến một mình thọ hóa thân.
Lúc bấy
giờ, Bồ tát Sư Tử Hống chắp tay, quì dài, gối phải đặt xuống đất, dùng kệ
khen đức Phật rằng :
Như Lai công đức tụ
không lường
Con nay chẳng thể
rộng tuyên nói
Nay vì chúng sinh
diễn một phần
Nguyện xin thương
xót cho con nói !
Chúng sinh đi trong
tối vô minh
Thọ đủ vô biên trăm
thứ khổ.
Thế Tôn hay khiến
lìa khỏi nhanh
Nên đời xưng đấng Từ
Bi lớn !
Chúng sinh qua lại
sinh tử thằng (sợ dây sinh tử)
Phóng dật mê man
không an lạc
Như Lai hay cho mọi
lạc an
Vậy nên cắt đứt dây
sinh tử.
Phật hay ban bố mọi
lạc an
Tự vui với mình,
chẳng tham lạc,
Tu khổ hạnh vì các
chúng sinh
Nên thế gian cúng
dường cung kính.
Thấy người thọ khổ
rúng động thân
Ở tại địa ngục, đau
chẳng biết
Chịu khổ lớn vì các
chúng sinh
Nên không có lường,
không ai thắng.
Phật tu khổ hạnh vì
chúng sinh
Thành tựu đầy đủ,
mãn lục độ
Tâm ở gió tà chẳng
chao nghiêng
Nên có thể thắng bậc
Ðại sĩ
Chúng sinh thường
muốn được lạc an
Mà chẳng biết tu
nhân an lạc
Như Lai hay dạy,
khiến tu hành
Giống như cha lành
yêu con một.
Phật thấy chúng sinh
bệnh não phiền
Lòng khổ như mẹ lo
con bệnh
Phương tiện khỏi
bệnh nghĩ tới luôn
Vậy nên thân này
thuộc người khác.
Các khổ, tất cả
chúng sinh làm
Mà lòng điên đảo cho
là lạc (vui)
Như Lai diễn nói
khổ, lạc chân
Nên xưng hiệu là Từ
Bi Lớn.
Thế gian đều ở trứng
vô minh
Không có mỏ trí có
thể phá
Mỏ trí Như Lai mổ
phá tan
Vậy nên gọi là tối
đại tử.
Chẳng bị ba đời
nhiếp giữ gìn
Không có danh tự và
hiệu quả
Hiểu biết nghĩa thậm
thâm Niết Bàn
Vậy nên xưng Phật
là Ðại Giác.
Có sông cuồn cuộn
chìm chúng sinh
Vô minh mù tối, ra
chẳng biết
Như Lai tự độ, độ
chúng sinh
Vậy nên xưng Phật,
Thuyền Sư Lớn (người lái thuyền giỏi).
Có thể biết tất cả
quả, nhân
Cũng lại thông đạt
tận diệt đạo
Thường ban thuốc
bệnh khổ chúng sinh
Vậy nên đời xưng : Y
vương lớn.
Khổ hạnh ngoại đạo
thường tuyên dương
Nhân đó hay được Vô
Thượng Lạc
Như Lai diễn nói lạc
hạnh chân
Hay khiến chúng sinh
thọ khoái lạc.
Phá tà đạo, Như Lai
Thế Tôn
Khai thị chúng sinh
đường chân chính
Người đi đường đó
được lạc an
Nên xưng Phật là
thầy dẫn dắt.
Sở tác chẳng phải
người và mình
Chẳng phải cộng tác,
không nhân tác
Việc thọ khổ theo
lời Thế Tôn
Thắng hơn tất cả các
ngoại đạo.
Thành tựu Giới,
Ðịnh, Tuệ hoàn toàn
Cũng đem pháp này
dạy sinh chúng
Khi đem pháp thí
không ghét lận
Vậy nên xưng Phật :
Bi không duyên.
Không sự tạo tác
không nhân duyên
Thu được không nhân,
không quả báo
Vậy nên tất cả người
trí thông
Xưng nói Như Lai
chẳng cầu báo
Thường chung hạnh
phóng dật thế gian
Mà thân chẳng bị
nhiễm phóng dật
Vậy nên gọi là chẳng
nghĩ bàn
Tám pháp thế gian
chẳng thể nhiễm.
Như Lai Thế Tôn
không oán thân
Vậy nên tâm ấy
thường bình đẳng
Ðại Bi, con rống sư
tử khen
Hay rống vô lượng Sư
tử hống.
KINH ÐẠI BÁT NIẾT BÀN
- Quyển thứ ba mươi
hết -
--- o0o ---
Mục Lục
01 |
02 |
03 | 04 |
05 |
06 | 07 |
08 |
09 | 10 |
11 |
12
13 |
14 | 15 |
16 |
17 | 18 |
19 |
20 | 21 |
22 |
23 | 24
25 |
26 | 27 |
28 |
29 | 30 |
31 | 32 |
33 |
34 | 35 |
36
--- o0o ---
|
Thư
Mục Tác Giả |
--- o0o ---
Vi tính: Thọ Huệ
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày:
01-2-2003