THẬP BÁT LA-HÁN
Trước tác: Lâm Thế Mẫn.
Việt dịch: Thích Ðạo Luận.
--- o0o ---
MƯỜI TÁM VỊ LA-HÁN
Phần 3: (11-15)
11. LA-HỖ-LA
Tôn giả
La-hỗ-la chính là La-hầu-la, con của thái tử Tất-đạt-đa. Ngài là vị La-hán
thứ mười một trong mười sáu vị La-hán. Hiện tại, ngài đang cùng một ngàn
một trăm đệ tử trú tại Tất-lợi-dương-cù châu. Trong “Thập đại đệ tử Phật”,
ngài được xưng tán là vị Mật hạnh đệ nhất.
Về cuộc đời
Ngài, chúng tôi đã giới thiệu rất nhiều trong quyển “Thập đại đệ tử Phật”
của Từ ân Phật giáo nhi đồng tùng thư, ở đây chỉ nói thêm vài mẫu
chuyện thú vị khác.
Ba chữ
“La-hầu-la” hán dịch là Phú Chướng. Vì sao đức Phật đặt cho ngài tên này?
Câu chuyện được tương truyền:
Khi chưa ra
đời, ngài ở trong bụng vương phi Da-du-đà-la suốt sáu năm. Thông thường,
trẻ con ở trong bụng mẹ lâu nhất cũng chỉ có mười tháng, thế mà ngài lại ở
đến sáu năm, thật kỳ lạ! Nguyên nhân là vì sao? Chuyện kể rằng vì tiền
kiếp của ngài lúc còn là một đứa trẻ ngây thơ chưa biết gì, có lần nghịch
ngợm lấy đá và bùn lấp một cái hang chuột khiến lũ chuột trong hang khốn
đốn sáu ngày không ăn uống gì cả. Do đó, đời này ngài mắc quả báo ở trong
bụng mẹ sáu năm.
Khi ngài
lên chín tuổi, đức Phật sai Tôn giả Mục-kiền-liên, vị đại đệ tử thần thông
đệ nhất, về vương cung dẫn ngài đến sống bên mình; rồi bảo Tôn giả
Xá-lợi-phất thế độ cho ngài xuất gia. Vì vậy, trong sử Phật giáo, ngài là
vị tiểu Sa-di đầu tiên.
Thời làm
Sa-di, vì nghĩ mình là thái tử một nước nên ban đầu ngài chưa thoát khỏi
tập quán xấu của thời quí tộc, đã bướng bỉnh lại còn hay gây sự phá rối,
không chịu dụng tâm tinh tấn tu hành đàng hoàng.
Một hôm,
đức Phật không chịu được bèn gọi ngài đến và kể cho ngài nghe câu chuyện:
- Thuở quá
khứ, có một vị vua nuôi một con voi dũng mãnh thiện chiến. Mỗi lần giao
chiến với kẻ địch không lần nào nó không đánh thắng.
Vua rất
thương mến voi nên mặc cho toàn thân nó giáp sắt rất dày, tai, chân cũng
bịt sắt, nhưng riêng vòi thì không. Vòi của nó là phần mềm nhất toàn thân,
nếu không cẩn thận để bị trúng tên hay bị chém thì sẽ tử vong. Vì thế, để
bảo vệ mạng sống mỗi lần tác chiến voi đều đặc biệt chú ý đến vòi.
- Này
La-hầu-la, con cũng nên bắt chước như con voi bảo vệ cái vòi vậy, phải hết
sức thận trọng trong lời nói, việc làm. Con thấy đó, đời trước con nhỏ dại
nghịch ngợm lấp hang chuột mà bị mắc quả báo ở trong bụng mẹ sáu năm không
thấy ánh sáng. Nếu như bây giờ con cũng như vậy, suốt ngày chỉ biết ăn
chơi lêu lỏng quậy phá làm nhiều việc xấu, không chịu nỗ lực tinh tấn tu
tập, con không sợ hậu quả sẽ là một chuỗi ngày dài bất hạnh sao?!
La-hầu-la
nghe lời Phật dạy tỉnh ngộ. Từ đó, ngài hạ thủ công phu dụng công tu tập
không dám biếng nhác nữa. Phát tâm dụng công tu tập, La-hầu-la thể hiện
trọn vẹn những mỹ đức khiêm cung nhẫn nhục, không thích tranh cãi hơn thua
nên phòng của ngài thường bị người khác chiếm ở; lắm lúc ngài phải vào nhà
xí ngủ qua đêm. Một hôm, vì truyền đạo ngài bị tín đồ ngoại đạo đánh vỡ
đầu. Thế nhưng, ngài vẫn không một lời than oán, lặng lẽ đến bờ suối rửa
sạch máu dơ rồi dùng khăn băng vết thương lại.
Có lần, có
một tín chủ cúng cho ngài một tịnh thất làm nơi tu tập tọa thiền, giảng
kinh thuyết pháp. Nhưng chẳng bao lâu tín chủ đó đòi lại rồi đem cúng cho
người khác, ngài vẫn bình thản dọn ra khỏi phòng không chút giận hờn. Như
thế đủ chứng minh hạnh nhẫn nhục của ngài thật sự là nhẫn nhục Ba-la-mật.
Năm hai
mươi tuổi, ngài chứng quả A-la-hán. Tuy đã chứng quả nhưng sống trong
chúng, ngài không thích phô trương mà chỉ lặng lẽ tu tập, lặng lẽ hoằng
pháp nên được đức Phật Ðặc biệt chọn vào hàng mười sáu vị La-hán lưu lại
nhân gian.
Mấy trăm
năm sau, vua Thiết-thưởng-ca nước Câu-thi-na-la không tin Phật pháp đến độ
đập phá chùa chiền, thiêu kinh hủy tượng, số người xuất gia ngày càng giảm
thiểu.
Hôm nọ, có
một vị Hòa thượng già chống gậy ôm bát vào thành đến từng nhà khất thực.
Nhưng cả thành chẳng ai để ý tới, khó khăn lắm ngài mới gặp được một gia
đình tin Phật. Họ cung kính cúng cho ngài một bát cháo nóng. Sau khi hớp
xong miếng cháo, ngài thở dài. Vị thí chủ thấy vậy liền hỏi:
- Thưa
ngài! cháo không ngon sao?
- Ồ không,
thời Phật pháp suy vi mà có một bát cháo để ăn là tốt lắm rồi.
- Không
phải thế, vậy sao ngài thở dài?
- À, tôi
chợt nhớ lại thuở xưa, lúc đức Thế Tôn còn tại thế, tôi thường ôm bát theo
Ngài đến đây. Thời ấy, nhà nào cũng tin Phật, mọi người tranh nhau cúng
dường, nhưng bây giờ thì khác hẳn, người tin Phật ngày càng ít, thật là
chúng sanh phước mỏng nghiệp dày! – Vị Hòa thượng già không ngăn được nước
mắt.
Người thí
chủ thấy lạ hỏi:
- Thưa hòa
thượng! Ngài nói chính mắt ngài thấy đức Phật và từng ôm bát theo Ngài
sao?
- Ðúng vậy!
- Xin hỏi
ngài là ai?
- Này thí
chủ, người có từng nghe nói La-hầu-la con của thái tử Tất-đạt-đa không?
- Dạ có
nghe.
- Tôi chính
là La-hầu-la. Suốt mấy trăm năm nay, tôi luôn dốc sức hoằng dương Phật
pháp. – Nói xong, Hòa thượng biến mất.
Chuyện này
được ngài Huyền Trang ghi lại trong tác phẩm nổi tiếng “Ðại Ðường Tây Vực
ký”. Ðiều đó chứng tỏ việc ngài La-hầu-la lưu lại nhân gian là không chút
ngụy biện.
12. NA-GIÀ-TÊ-NA
Tôn giả
Na-già-tê-na là vị La-hán thứ mười hai trong mười sáu vị La-hán. Hiện tại,
ngài đang cùng một ngàn hai trăm vị đệ tử trú tại núi Bán-độ-ba. Trong
kinh, tên ngài được gọi tắt là Na-tiên.
Thật ra
hai tên này chỉ là một nhưng do phiên âm khác nhau.
Tôn giả sinh ra và lớn lên ở phía bắc Ấn
Ðộ, nhằm thời vua Di-lan cai trị. Vua Di-lan là người Hy Lạp rất thâm tín
Phật pháp. Do đó, vua thường lui tới Na-tiên thỉnh vấn Phật pháp.
Là một
người bác học đa văn, bản thân lại khắc khổ tu tập nên Tôn giả chứng quả
A-la-hán rất sớm.
Có lần,
vua Di-lan hỏi:
- Thưa
tôn giả! Ngài là bậc thánh xuất gia chứng quả, vậy còn hàng Phật tử chúng
tôi không xuất gia rốt cuộc có thể đắc quả A-la-hán không?
Na-tiên
không do dự đáp:
- Ðương
nhiên là có thể. Bất kỳ người nào chỉ cần chịu hạ thủ công phu nghiên cứu
nghĩa lý Phật pháp, tinh tấn tu hành trang nghiêm, lâu ngày đạo hạnh ắt tự
cao thâm, lúc đó lo gì mà không chứng quả!
- Thật
không?- Vua bán tín bán nghi hỏi.
- Ðương
nhiên là thật!
- Nhưng
theo trẫm biết thì sao các bậc A-la-hán hầu như toàn bộ đều là người xuất
gia?
- À, vì
người xuất gia tu hành ít bị các tạp niệm thế gian chi phối nên dễ thành
tựu hơn.
Vua
Di-lan nghe nói, đối với người lúc sắp lâm chung chỉ cần chí thành niệm
Phật sẽ được vãng sanh cực lạc, không bị đọa địa ngục thì cảm thấy nghi
ngờ nên nói:
- Trẫm
không tin pháp môn niệm Phật.
- Này
đại vương! Giả sử có người lấy một viên đá ném xuống nước, viên đá sẽ nổi
hay chìm?
- Ðương
nhiên sẽ chìm!
- Còn
nếu đem viên đá thả trong thuyền thì đá nổi hay chìm?
- Vậy
thì sẽ không chìm.
- Vì sao
không chìm?
- Vì đã
có thuyền chở!
- Thế
thì đúng rồi, đức Phật A Di Ðà từng phát đại nguyện làm thuyền từ cứu độ
chúng sanh. Do đó, nếu chúng ta nhứt tâm niệm danh hiệu Ngài thì Ngài sẽ
phóng quang tiếp dẫn về thế giới Tây phương cực lạc không còn bị trầm luân
trong biển khổ.
- Ồ, thì
ra là vậy, trẫm thật cảm phục ví dụ của ngài, nó đã giúp trẫm hiểu được
pháp môn niệm Phật thật thù thắng vi diệu, là chỗ dựa vững chắc không chút
hư dối.
Cách mấy
ngày sau, vua lại đến thăm Na-tiên và hỏi một vấn đề khác:
- Thưa
tôn giả! Ngài chưa chứng Niết-bàn sao biết Niết-bàn là cảnh giới an lạc
giải thoát.
- Tâu
đại vương! Tuy tôi chưa chứng Niết-bàn nhưng chư Phật quá khứ đều nói
Niết-bàn là cảnh giới an lạc giải thoát nên tôi biết.
- Ðiều
đó liệu có đáng tin không?
- Ðáng
lắm chứ đại vương!
Tôi xin
hỏi đại vương: chặt tay chân có đau không?
- Ðương
nhiên là đau!
- Ðại
vương! Từ trước tới giờ ngài chưa bị chặt tay chân sao biết chặt tay chân
là đau?
- Vì
trẫm thấy người bị chặt tay, chặt chân họ ngã nhào xuống đất kêu la rên
xiết thống thiết nên trẫm biết.
- Cũng
vậy đó, đại vương! Ðức Phật là bậc đã thành Phật. Ngài nói Niết-bàn rất an
lạc, tất nhiên là đáng tin lắm chứ.
Vua
Di-lan cười liễu ngộ:
-Ồ, rất
có lý!
Vua
Di-lan rất cảm phục sự đa tài bác học của Na-tiên. Vì thế, họ nghiễm nhiên
trở thành đôi bạn chí thân. Cuối cùng vua xin qui y làm đệ tử Na-tiên.
Vào một
buổi chiều xuân ấm áp, hoa nở ngát hương, vua lại đến thỉnh giáo Na-tiên.
Họ ngồi dưới gốc tùng đàm đạo với nhau rất vui vẻ tâm đầu ý hợp.
Vua hỏi:
- Thưa
tôn giả, trẫm luôn thắc mắc không hiểu vì sao cũng là người mà có kẻ sống
lâu, người chết yểu; kẻ đẹp, người xấu; kẻ giàu, người nghèo; kẻ thông
minh, người ngu dốt?
- Tâu
đại vương! Có gì lạ đâu. Ngài xem cũng là nho nhưng lại có trái ngọt, trái
chua, trái to, trái nhỏ, trái tròn, trái méo, trái đen, trái hồng, nguyên
nhân là do hạt giống khác nhau. Cũng vậy, con người vì chỗ tạo nghiệp lành
dữ sai khác nên quả báo chiêu cảm không giống nhau.
- Tôn
giả nói chí lý, khúc mắc của trẫm tợ mây đen được gió cuốn trôi không còn
lưu dấu. - Vua Di-lan vội rời tọa sụp lạy để tỏ niềm tôn kính.
Nội dung
đàm luận Phật pháp giữa Na-tiên và vua Di-lan được người đời sau kết tập,
viết thành quyển kinh gọi là “kinh Na-tiên tỳ-kheo”. Ðây là vị La-hán duy
nhất trong mười tám vị La-hán có kinh sách lưu truyền đến đời sau.
Nhờ sự chỉ
dạy của Na-tiên mà cuối cùng vua Di-lan trở thành một quân vương anh minh,
dốc lòng ủng hộ Phật pháp, khiến Phật giáo ngày càng huy hoàng rực rỡ.
Một hôm,
Na-tiên nói với vua:
- Ðại
vương! Nay tôi muốn đi.
- Dạ đi
đâu?
- Tôi muốn
đến núi Bán-độ-ba.
- Sao ngài
muốn đến đó?
- Khi đức
Thế Tôn còn tại thế, Ngài dạy tôi phải đến đó.
- Khi nào
ngài đi?
- Bây giờ.
- Bây giờ
ư ?
- Ðúng
vậy!
Nói xong, Na-tiên nhảy lên một ngọn núi cao rồi bay về hướng núi
Bán-độ-ba.
13. NHÂN-YẾT-ÐÀ
Tôn giả
Nhân-yết-đà là vị La-hán thứ mười ba trong mười sáu vị La-hán. Hiện tại,
ngài cùng một ngàn ba trăm vị đệ tử trú trong núi Quảng Hiếp.
Tiền
kiếp ngài là một con dơi sống trong hang núi. Một hôm, có đoàn lái buôn đi
ngang qua núi, vì bên ngoài gió rét gào thét, tuyết bay đầy trời nên họ
vào hang nhen lửa sưởi ấm.
Trong
đoàn buôn này có một người thâm tín Phật pháp, dù ở trong hang núi nhưng
vẫn gõ mõ tụng kinh, niệm Phật; âm thanh du dương trang nghiêm khiến dơi
vô cùng thích thú.
Ðêm
càng khuya, khí trời càng lạnh, người lái buôn bỏ thêm nhiều củi vào để đủ
ấm. Do đó, thoáng chốc củi khô hết sạch, ông ta đành ra ngoài chặt ít củi
tươi mang vào để châm thêm lửa. Vì củi tươi khó cháy nên kết quả bốc lên
một đám khói đen ngịt.
Dơi
trong hang bị khói xông lên hít thở khó khăn, nhưng vì thích nghe tiếng
tụng kinh nên không muốn bay đi. Cuối cùng, do hít quá nhiều khói nên dơi
trúng độc chết ngay trong hang.
Sau khi
chết, Nhân-yết-đàø chuyển kiếp đầu thai làm người, được xuất gia tu hành
theo Phật và chứng quả A-la-hán.
Có lần,
có một người ở nước Ô-trượng-na muốn tạc tượng Bồ-tát Di Lặc, nhưng vì
chưa từng thấy diện mạo của Bồ-tát nên chần chừ không dám làm.
Một hôm,
ông ta lập một hương án trong vườn hoa chí thành cầu nguyện:
- Kính
bạch chư hiền thánh! Con nghe nói khi đức Thế Tôn sắp niết-bàn, ngài đã
phó chúc cho mười sáu vị La-hán vĩnh viễn lưu lại thế gian hoằng dương
Phật pháp, sao giờ đây con muốn tạc tượng Bồ-tát Di Lặc mà không có vị nào
đến giúp con?
Ông ta
vừa nói xong, thì có một vị La-hán xuất hiện nói:
- Ta
đến giúp ông đây!
- Thưa,
ngài là ai?
- Ta là
Nhân-yết-đàø có ý đến đưa ông lên cõi trời Ðâu suất để gặp Bồ-tát Di Lặc.
Nhân-yết-đàø đưa người này lên cung trời Ðâu Suất để ông ta chiêm ngưỡng
pháp tướng trang nghiêm của Bồ-tát, trước sau cả thảy ba lần rồi biến mất.
Tượng
Bồ-tát Di Lặc này được bảo tồn tại Ðạt-lệ-la môn nước Ô-trượng-na. Nơi
đây, trước kia là thủ đô của cả nước.
Sức ăn
của Nhân-yết-đàø rất mạnh. Nghe nói mỗi bữa, ngài ăn gấp ba lần voi mà vẫn
không no. Khi ngài du hóa đến nước Thấp-di-la, vì không biết ngài là
La-hán nên mọi người chế giễu:
- Mỗi
ngày chỉ biết ăn, sống vậy có ích gì chứ?
Nghe
vậy, ngài nói:
- Này
các vị, bởi kiếp trước tôi là một con dơi, kiếp trước nữa là một con voi,
ưa ăn, biếng làm, do đó đời này ăn rất nhiều mà cũng không thấy no.
Mọi
người cho rằng ngài nói khoác lác nên cười ồ lên:
- Ha
ha, chúng tôi không nghe ông bào chữa bậy đâu.
- Nếu
các vị không tin thì cứ tự nghiệm đi, Phật pháp không bao giờ dối gạt ai
cả. Hy vọng các vị luôn luôn làm một Phật tử chơn chánh.
Nói
xong, ngài bay lên không trung dùng chơn hỏa tam muội thiêu thân; Xá-lợi
ngũ sắc rơi xuống dồn dập. Lúc này, mọi người mới tin ngài là một vị đại
A-la-hán.
A-la-hán
là bậc bất sanh bất diệt, đến đi tự tại. Vì vậy, sau đó không lâu mọi
người lại thấy ngài ở nước Kiếp-tỷ-tha theo đức Phật lên cung trời Ðao-lợi
thuyết pháp cho hoàng hậu Ma-da, ba tháng sau mới trở về.
14.
PHẠT-NA-BÀ-TƯ
Phạt-na-bà-tư là vị La-hán thứ mười bốn trong mười sáu vị La-hán. Hiện
tại, ngài đang cùng một ngàn bốn trăm vị đệ tử trú tại núi Khả Trụ.
Có lần,
đức Phật hàng phục con yêu long trong một cái đầm sâu ở nước
Na-yết-la-hạt. Cảm phục ơn đức Phật, yêu long quỳ sát đất cung kính thưa:
- Bạch đức
Thế Tôn! Bấy lâu nay con làm sóng, gió gây hại nhân dân, nay nhờ Thế Tôn
dạy bảo, con đã tỉnh ngộ. Con xin Thế Tôn lưu lại đây cho con được cúng
dường, gần gũi dạy bảo con để con khỏi làm sóng gió gây hại nhân dân nữa.
Ðức
Phật dạy:
- Này
yêu long! Công việc hoằng pháp lợi sanh của ta còn chưa xong, không thể ở
lại lâu được. Thế này vậy, ta sẽ cử năm vị đại A-la-hán thay nhau đến đây
nhận đồ cúng dường của ông. Ông thấy thế nào?
Yêu long
vui mừng khôn xiết hỏi:
- Dạ,
là năm vị nào, thưa Thế Tôn?
- À, là
Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, Nhân Kiệt Ðà, Tô-tần-đà và Phạt-na-bà-tư.
- Dạ,
thế thì tốt quá! Cảm ơn đức Thế Tôn.
Thế là
năm vị đại A-la-hán này thay nhau đến đó tiếp nhận đồ cúng dường của yêu
long và vị thứ năm, Phạt-na-bà-tư, chính là vị mà chúng ta đang nói.
Khi đến
tiếp nhận cúng dường của yêu long, Phạt-na-bà-tư thường thích tọa thiền
trên phiến đá lớn bên đầm, khi thì ngồi suốt tuần, lúc thì ngồi cả nửa
tháng. Mãi đến nay, những di tích đó vẫn còn được lưu giữ.
Lúc đức
Thế Tôn sắp niết-bàn, Ngài phó chúc cho Phạt-na-bà-tư:
- Này
Phạt-na-bà-tư! Sau khi ta diệt độ bốn trăm năm, tại nước Na-kiện-đà-la sẽ
xuất hiện một vị vua tên Ca-nị-sắc-ca. Ban đầu, ông ta không tin Phật
pháp, do đó ông phải dốc sức hóa độ để ông ta trở thành vị quân vương anh
minh hộ trì Phật pháp.
Quả
nhiên, đến công nguyên năm 128, vua Ca-nị-sắc-ca ra đời. Ông ta không chút
tin Phật, làm nhiều việc sai trái phá hoại Phật giáo.
Một hôm,
vua ra ngoài săn bắn, vì mãi lo đuổi bắt một con thỏ nên bị lạc đường.
Trong rừng cây hoang vắng, lúc đang tìm lối ra, vua thấy một mục đồng đang
dùng bùn nắn tháp Phật.
Vua hỏi:
- Ngươi
đang làm gì vậy?
Mục đồng
đáp:
- Tôi
đang thay vua làm tháp Phật.
Vua giật
mình kinh sợ:
- Sao,
thay ta làm tháp Phật ư ?
- Ðúng
vậy! Trước kia đức Thế Tôn từng nói bốn trăm năm sau vua sẽ xây tháp Phật
ở đây. Hôm nay là lúc ngài tới nên tôi đến đây đợi ngài.
- Thật
sao? Vậy ngươi là ai?
- Tôi
chính là Phạt-na-bà-tư, đại đệ tử của Phật. Tôi đã đợi ngài đã bốn trăm
năm nay, con thỏ trắng vừa rồi là do tôi biến ra đó.
Nói
xong, mục đồng biến mất.
Từ đó,
vua Ca-nị-sắc-ca chí thành tin Phật. Trong thời gian tại vị, vua tôn tạo
rất nhiều tự viện, tháp Phật, tượng Phật, là một đại quân vương hoằng
dương Phật pháp. Có được như thế không thể không kể đến thâm ơn giáo hóa
của Phạt-na-bà-tư.
15. A-THỊ-ÐA
Tôn giả A-thị-đa là vị La-hán thứ mười lăm
trong mười sáu vị La-hán. Hiện tại, ngài
đang trú trong núi Thứu Phong ở Ấn Ðộ. Núi Thứu Phong còn gọi là
núi Linh Thứu, nơi đức Phật thường giảng kinh.
A-thị-đa
là vị thị giả thường theo hầu bên cạnh đức
Phật. Mọi người thường hiểu nhầm
cho rằng ngài chính là Bồ-tát
A-dật-đa. Thật ra không phải,
A-dật-đa là Bồ-tát Di Lặc hay còn gọi là Bố Ðại hòa thượng, hai vị này
khác nhau chỉ một chữ.
Ấn Ðộ
thời đó, có một nước tên Ðạt-ma-tất-thiết-đế nằm giáp sông Phược-sô
thủ đô là Hôn-đà-la. Nhân dân nước này không tin Phật pháp, họ chỉ thờ một
số quỷ thần sông núi.
Có lần,
thái tử mà vua yêu quí nhất ngã bệnh rất nặng. Vua cho mời danh y khắp
nước về chữa trị mà cũng không thấy thuyên giảm. Do đó, vua đi thỉnh giáo
những vị tu hành ngoại đạo và được họ trả lời: “Ðại vương! Xin ngài chớ
lo, bệnh của thái tử không cần uống thuốc, sớm muộn gì cũng sẽ khỏi thôi”.
Khi ấy,
A-thị-đa vừa du hóa đến nước này. Ngài đã chứng quả từ mấy năm trước.
Một hôm,
giữa đường đi, ngài gặp vua với vẻ mặt lo âu đang hối hả ra ngoài tìm
thuốc cho thái tử. Thấy vậy, ngài hỏi:
- Thưa
đại vương! Tôi là đệ tử của đức Như lai tên là A-thị-đa. Ngài có gì muốn
hỏi tôi không?
- Ðệ tử
Như lai? Tôi chưa từng nghe cũng không cần sự giúp đỡ của ông. – Vì trong
lòng không vui, bình thường lại không tin Phật nên quốc vương lạnh nhạt
đáp.
A-thị-đa
khuyên:
- Thật
không có chuyện gì sao? Xin ngài nói đi, chớ khách khí làm gì!
Quốc
vương vốn đã thấy khó chịu, song nghĩ lại thôi cứ hỏi thử xem bệnh của con
mình có thể qua khỏi không:
- Ông
xem bệnh con ta có qua khỏi không?
A-thị-đa
ưu tư nói:
- À,
bệnh của thái tử hết hy vọng rồi, hãy mau niệm Phật cầu vãng sanh đi!
- Hứ,
tên Hòa thượng điên này chưa súc miệng hay sao mà nói những lời không tốt
như vậy hả! – Quốc vương tức giận bỏ đi thẳng một mạch.
Một tuần
sau, thái tử chết thật. Vua tạm thời không tổ chức tang lễ, cả tin thái tử
mất cũng không tiết lộ ra ngoài.
Ngày thứ
hai, vua đi tìm A-thị-đa. Thấy vua, A-thị-đa nói với giọng cảm thông:
- Ðại
vương, xin chớ quá bi thương.
Quốc
vương giả vờ không biết.
-Ta bi
thương chuyện gì?
- Ðại
vương chớ giấu, hôm qua thái tử đã mất, người mất thì không thể sống lại
chỉ nên thường xuyên niệm Phật để cầu được vãng sanh!
- Ôi,
Ngài thật là thần cơ diệu toán! – Quốc
vương cảm phục A-thị-đa đã biết trước mọi việc.
Sau đó,
vua tức tốc đi tìm bọn ngoại đạo. Thấy vua đến, bọn chúng chúc mừng:
- Chúc
mừng, chúc mừng đại vương!
- Chúc
mừng ta chuyện gì?
- Ðại
vương không cần nói chúng tôi cũng đã biết rồi.
- Biết
gì?
- Biết
bệnh của thái tử đã khỏi!
- Hứ,
bọn ngoại đạo đáng ghét, bản thân bất tài vô học, lại chuyên môn đi buôn
thần bán thánh, gạt dân hại người.
Càng nói
vua càng tức giận liền hạ lệnh:
- Bắt
hết bọn chúng, rồi phá sạch tất cả thần miếu của chúng cho ta.
Xong chuyện, vua vội quay về chỗ ngài
A-thị-đa xin sám hối.
- Thưa tôn giả, bậc Sa-môn đáng kính! Ngài
mới là vị đạo sư mà trẫm cần quy ngưỡng, tôn kính, thỉnh giáo, lễ bái.
Nhờ những khởi xướng hoằng dương Phật pháp
của A-thị-đa mà Phật giáo được thịnh hành ở nước Ðạt-ma-tất-thiết-đế.
Ðã hơn hai ngàn năm rồi nhưng tại Ấn Ðộ
vẫn còn có người nhìn thấy Tôn giả trị bệnh cho mọi người, có người thấy
ngài tọa thiền trên núi Thánh Mẫu.
--- o0o ---
Mục Lục
|
Phần 1
|
Phần 2
|
Phần 3
|
Phần 4
--- o0o ---
Mục Lục Pháp Tạng- 20
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật: 01-04-2004