Đạo
hiếu Phật giáo qua
Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân
Thích Tâm Trí
---o0o---
Tổng luận
Đây là bộ kinh thuộc hệ Đại Thừa, đặc trưng của
Đại Thừa là không quá chú trọng vào việc chấp chặc kinh điển
nguyên thỉ để một mực khư khư giữ lấy nguyên thỉ, mà không hề
có sự tự lập, hay sáng tạo nào mới. Như vậy dễ khiến cho giáo
lý Phật, đúng hơn là tinh thần Phật giáo càng lúc càng thiếu sinh
động và dễ trở nên khô cứng.
Do đó, từ khi có sự phân chia Bộ chúng, khoảng
500-600 năm sau Phật niết bàn, Đại chúng Bộ về sau gọi là Đại
Thừa một mặt kế thừa và hoằng dương giáo lý căn bản của
Đức Phật, mặt khác năng động trong tinh thần đoạn mê khai ngộ _
nhị không chân như _ nhằm giúp mọi người tiến thẳng đến giác
ngộ bằng cách lập căn trên giáo lý nguyên thỉ của Đức Phật mà
thêm vào sự kiến giải của mình qua sự tu chứng của bản thân,
làm cho giáo lý Phật thêm phần sinh động và khế hợp với căn cơ
con người; đồng thời mở ra một biển đại giác mênh mông giải
quyết tận gốc mọi nhu cầu hiếu tri về chân như và giác ngộ.
Điểm đặc trưng và nổi bật của Đại Thừa giáo là
lý tưởng Bồ tát: Độ cho hết chúng sanh, Bồ tát mới hoàn thành
sứ mệnh. Còn một chúng sanh bị đọa vào địa ngục, Bồ tát thề
quyết không thành Phật. (chúng sanh độ tận phương chứng bồ đề,
địa ngục vị không thệ bất thành Phật). Lý tưởng Bồ tát trên
thực tế về mặt xã hội dường như khó trở thành hiện thực;
nhưng trên bình diện cá nhân, lý tưởng Bồ tát gây phấn khích
tâm lý và thôi thúc con người hướng đến sự hoàn thiện nhân
cách một cách toàn bích ở mỗi một cá nhân cụ thể. Xã hội
ngày nay tuy văn minh tiến bộ, nhưng sự sống của con người vẫn cứ
bất ổn. Sự bất ổn một phần đến từ thiên tai như: động đất,
bão, lụt, hỏa hoạn..vv
một phần lại đến từ con người như:
chiến tranh, dùng vũ lực khai thác thuộc địa, dùng tài lực, trí
lực bóc lột đồng loại, chế tạo đủ thứ vũ khí giết hại hàng
loạt vv
Chung qui là xuất phát từ tham, sân và si. Có thể nói
do tham, sân, si nên con người không thực sự thương nhau; nếu có
thì đó là thứ tình thương mang nặng tính thiên vị và cục bộ. Tình
thương như vậy rất dễ bị gãy đổ một khi mối quan hệ giữa người
này với người kia không còn tốt đẹp. Từ nghìn xưa những bậc
hiền triết ở Đông phương mỗi người đưa ra luận thuyết của mình
về nhân ái. Thời Xuân Thu ở Trung Hoa có Mặc Địch, Dương Chu,
Khổng Tử
vv mỗi người chủ trương mỗi thuyết. Mặc Tử thì
chủ trương kiêm ái với câu nói bất hủ: "Thân nhi thân
thân". Theo Mặc Tử sự thương yêu không nên phân biệt thân,
sơ; nếu được thì hãy thương yêu người ngoài gia tộc trước, sau
mới đến người trong gia đình. Theo ông, người không cùng tộc họ
mà ta thương yêu được mới quan trọng, mới thực sự là yêu
thương, người trong gia tộc thương nhau là điều tự nhiên không cần
khuyến khích, giáo dục. Dương Chu thì khác, ông cho rằng trước khi
thương yêu người khác là phải biết thương yêu chính bản thân
mình, ngay cả một sợi lông! Theo ông, dù là sợi lông đi nữa thì
nó cũng là một đơn vị của thân thể, nên không thể không bảo
vệ. Có được như vậy mới nói đến chuyện thương yêu tha nhân.
Đương thời người ta cho ông chủ trương thuyết "vị kỷ".
Không Tử thì bình thản hơn, ông cho rằng cứ theo lẽ tự nhiên mà
tuần tự thương yêu. Lẽ tự nhiên ấy là: con người ta ai cũng
thương yêu ông bà, cha mẹ và anh chị em ruột thịt, và hãy đem tình
thương ấy mà thương yêu mọi người, ý tưởng này được tóm
gọn trong câu nói bất hủ của ông: "Thân thân nhi thân". Về
sau Mạnh Tử triển khai học thuyết của Không Tử và lên án thuyết
vị kỷ của Dương Chu là "vô quân", thuyết kiêm ái của Mặc
Địch là: "vô phụ". Theo Mạnh Tử, Dương Chu là người
"nhổ một sợi lông để làm lợi cho thiên hạ, không nhổ".
(Dương Chu bạt nhất mao vi lợi thiên hạ, bất tác). Như vậy là cực
kỳ vị kỷ và không biết gì đến đạo quân thần. Cũng theo Mạnh
Tử, Mặc Địch là người không lý gì đến tình huyết nhục cha con,
nên chủ trương yêu thương gồm cả mọi người, không phân biệt
thân, sơ. Như thế là "vô phụ". Phật giáo thì khác. Phật
giáo không đề cập đến thương ai trước, ai sau với tinh thần vô
ngã, Phật giáo thấy kẻ oán, người thân đều như nhau: "oán,
thân bình đẳng". Theo Đức Phật, kẻ oán hay người thân, họ
đều là những chúng sanh chưa giác ngộ, giải thoát. Do đó họ cần
được giúp đỡ, cần được chỉ bày phương tiện tu tập để đạt
đến giải thoát; chứ không hạn cuộc vào nhóm người này hay nhóm
người kia. Đây cũng là nguyên ủy để Đức Phật thuyết giảng kinh
Đại Phương Tiện Phật Báo A? (ĐPTPBA)
Chữ Hiếu
Hiếu là một khái niệm về bổn phận của kẻ làm con
nên đối xử thế nào với cha mẹ cho hợp lẽ nhân luân. Khái
niệm về hiếu xuất hiện rất sớm trong thi ca cổ đại ở Trung Hoa.
Khoảng 3000 năm trước, kinh Thi của Trung Quốc đã viết:
"Sinh ngã giã phụ mẫu.
Thành ngã giã phụ mẫu.
Phụ hề sanh ngã
Mẫu hề cúc ngã
Ai ai Phụ mẫu.
Sinh ngã cù lao
Dục báo thâm ân
Hiệu thiên võng lực"
Dịch: sinh ra ta là cha mẹ, nuôi ta thành người cũng
là cha mẹ. Thương thay cha mẹ, sinh ta khó nhọc, muốn báo ơn sâu,
(như) trời cao khó sánh kịp.
Khái niệm hiếu đã có thế đứng vô cùng sâu rộng
và vững chắc ở các nước Châu Á như : Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật
Bản, Triều Tiên, Việt Nam
vv. Hiếu đã trở thành cái Đạo,
trước tiên là đạo làm con, sau đó là đạo làm người. Con
người mới có đạo, muôn thú không thể có đạo. Đạo là
đường đi của lương năng, lương tri, và Hiếu đạo là con đường
mà những kẻ làm con không thể không đi! Kẻ làm con phải luôn tâm
niệm cha mẹ là người sinh ra ta, nuôi nấng ẵm bồng ta, cho ta bú
mớm và lo lắng cho ta đủ điều, có vậy ta mới lớn khôn thành
người; đã là Đạo thì không một phút giây có thể rời bỏ
được, rời bỏ thì không còn là đạo làm người nữa. (Đạo
giả, bất khả tu du ly dã, khả ly phi đạo dã_ Sách Trung Dung).
Sách Luận ngữ, một quyển sách ghi lại một cách
ngắn gọn, súc tích những lời dạy và những cuộc đàm đạo giữa
Đức Khổng Tử và các cao đệ của Ngài.
Trích dẫn: "Ông Hữu Tử, cao đệ của đức Khổng
Tử có nói rằng: trong những người có nết hiếu (thảo với cha
mẹ), nết để (kính anh chị và người lớn tuổi), ít ai ưa trái
nghịch với bề trên. Đã không ưa trái nghịch với bề trên, lại
thích gây những cuộc phản loạn, người như vậy ta chưa từng thấy.
Cho nên bậc quân tử chuyên chú vào việc gốc. Cái gốc được
vững tốt, tự nhiên đạo lý bắt từ đó mà sanh ra. Vậy làm
người mà biết giữ gìn nết hiếu, nết để, tức là biết nắm
lấy cái gốc". (Hữu tử viết: Kỳ vi nhân giả, hiếu để, nhi
háo phạm thượng giả, tiễn hỹ. Bất háo phạm thượng, nhi háo tác
loạn giã, vị chi hữu giã, quân tử vụ bổn, bổn lập nhi đạo sanh.
Hiếu để dả giã, kỳ vi nhân chi bổn dư. Thiên Học Nhi).
Như vậy hơn 2500 năm trước, ông Hữu Tư đã khẳng
định: "
làm người mà biết giữ gìn nết hiếu, nết để,
tức là biết nắm lấy cái gốc"
Đức Khổng thì tinh tế hơn, ngài tùy vào cá tính
của mỗi đệ tử mà dạy về hiếu, khi ông Mạnh Ý tử hỏi về
hiếu, ngài dạy: "vô vi" (làm con chớ nên trái ngược).
Ông Tử Du hỏi đức Thánh về đạo hiếu, Đức
Khổng đáp rằng: "Đời nay, hễ thấy ai nuôi được cha mẹ thì
người ta khen là người có hiếu. Nhưng, những thú như chó, ngựa,
thì người ta cũng nuôi được vậy. Cho nên nuôi cha mẹ chẳng kính
trọng thì có khác gì nuôi thú vật đâu?" (Tử Du vấn hiếu,
Tử viết: "Kim chi hiếu giả, thị vị năng dưỡng, chí cơ khuyển
mã, giai năng hữu dưỡng. Bất kính, hà dĩ biệt hồ? Vi chính đệ
nhị_ bản dịch Đoàn Trung Côn)
Hiếu Kinh dạy rằng: "Bách hạnh hiếu vi tiên"
(Trong trăm hạnh hiếu là hàng đầu).
Thế đủ thấy ý niệm về chữ Hiếu đã được ăn
sâu vào đời sống tinh thần của các dân tộc Châu Á vô cùng
sâu đậm, nó chi phối con người về mặt đạo đức, luân lý;
đồng thời nó cũng bó buộc con người trong ý thức hành xử
với xã hội. Khi làm một điều lành, điều thiện người ta liền
nghĩ đến cha mẹ sẽ vui. Khi phạm một điều gì xấu ác, người ta
lại sợ cha mẹ biết được sẽ buồn. Chính điều này là một ưu
điểm góp phần làm cho xã hội con người trở nên hòa mục hơn,
trật tự hơn, ổn định và an bình hơn.
Về phương diện dân gian, chữ hiếu, hay đạo hiếu từ
lâu cũng được hóa thành những huyền thoại hết sức lý thú,
đầy ý nghĩa. Ơ?rung Hoa xưa có Nhị Thập Tứ Hiếu, nêu gương của
hai mươi bốn người con chí hiếu một cách thi vị và đầy tính thần
thoại. Như chuyện kể thầy Mạnh Tông, cha mang bệnh nặng, thuốc thang
chi cũng không khỏi, nhưng ước ao ăn được bát canh măng, thì sẽ
khỏi bệnh. Quá thương cha và sợ cha thèm canh măng mà chết nên
Thầy đi khắp các nơi có tre để tìm măng. Nhưng đương lúc trời
mùa đông giá lạnh măng không mọc. Cuối cùng quá thất vọng và
đứng dưới gốc tre mà khóc, vô tình để nước mắt rơi xuống
đất, và chính giọt nước đó mọc lên cho Thầy một mụt măng. Lý
do là lòng hiếu của Thầy đã cảm động đến trời đất. "hiếu
tâm đã động đến trời"
Dân gian Việt nam cũng có những chuyện kể về gương
hiếu hạnh như Lâm Sanh Xuân Nương. Thoại Khanh- Châu Tuấn
vv.
Chuyện kể vô cùng lâm ly bi thiết, nhưng cũng không kém phần nhân
bản và thi vị. Thoại Khanh tuy là con dâu nhưng thờ kính hiếu thuận
với mẹ chồng hơn cả con gái. Chuyện kể Châu Tuấn, chồng nàng lên
dường đến Trường An ứng thí. Thoại Khanh ở nhà bắt ốc hái rau
nuôi mẹ và chịu đựng nạn cường hào ác bá đủ điều cay đắng.
Ngày kia, nàng dắt mẹ chồng đến Trường An tìm chồng. Trên đường
mẹ con nàng gặp đủ thứ tai ương oan nghiệt, một đêm nọ hai mẹ con
vào nghỉ nhờ một ngôi miếu, nào ngờ gặp miếu dâm thần. Dâm
thần nài ép nàng đủ cách nhưng không thành, bèn giở thủ đoạn
bắt lấy người mẹ mù lòa và ra điều kiện, hoặc là nàng thuận
tình ân ái với dâm thần thì thần sẽ thả mẹ hoặc là nàng hãy
móc đôi mắt đen huyền tuyệt đẹp của nàng dâng cho thần, thần sẽ
thả mẹ nàng ra. Thoại Khanh chấp nhận cầm dao khoét mắt dâng cho
thần để cứu lấy mẹ, chứ nhất quyết không chịu thất tiết. Việc
làm chí hiếu chí tình của nàng cảm động đến đất trời, nên dù
trải qua lắm nỗi oan khiên cay nghiệt, nhưng ngày tái ngộ với chồng,
Ngọc Hoàng sai Thần Nhãn xuống dương thế trả lại đôi mắt cho
Thoại Khanh. Chỉ vì nàng giữ trọn cả hiếu lẫn tình. Hay trong truyện
Kiều của Nguyễn Du cũng thế, nàng Kiều trong cơn gia biến, vì hiếu
đạo nên chấp nhận bán mình chuộc cha: "làm con trước phải
đền ơn sinh thành".
Qua những câu chuyện trên cho thấy đạo hiếu từ lâu
đã ăn sâu và luôn bàng bạc trong tâm tưởng mọi người trong
đời sống xã hội, cả ở Trung Hoa cũng như Việt nam, và ở các
nước châu Á khác, nhất là những dân tộc chịu nhiều ảnh hưởng
của Khổng giáo và Phật giáo. Đạo hiếu nó khuyến khích, cổ vũ
và xưng tụng những kẻ làm con biết hiếu thảo với cha mẹ; kẻ chí
hiếu sẽ được cả đất trời ủng hộ và đồng tình! Từ nghìn xưa
người ta cổ xúy đạo hiếu là nhằm duy trì nền đạo lý, nhân
luân với chủ đích không để con người đi lệch thiên chức của
chính mình. Từ những trình bày trên, chúng ta đi sâu tìm hiểu đạo hiếu trong Phật giáo, qua bộ Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo
A?.
Toàn bộ kinh có bảy quyển, được chia thành chín
phẩm, được phân bổ như sau:
Phẩm tự, tức phẩm I. Là phần dẫn nhập.
Nhân việc ngài A Nan nghe nhóm Lục sư Phạm Chí chê bai
chỉ trích đức Phật: "Thầy Cồ Đàm của ngươi thực là bội
bạc, chẳng biết ân nghĩa, mới đành lòng dứt bỏ ra đi như thế!
Cho đến phụ vương, vì tạo lập cung điện, cưới nàng Cù Di làm
vợ cho Cồ Đàm, nhưng ông cũng chẳng làm theo bổn phận của vợ
chồng, khiến cho nàng phải sầu khổ, cho nên biết Cồ Đàm là
người bất hiếu" (kinh ĐPTPBA)
Do đó, ngài A nan trình bày lại sự việc và thỉnh
cầu đức Phật giải quyết vấn đề do nhóm Lục sư Phạm Chí đưa ra.
Đây là phần duyên khởi của kinh.
Từ phẩm II_ Hiếu dưỡng cho đến phẩm VII . Từ Bi;
là phần trọng tâm của kinh (thân bài). Phần này gồm sáu phẩm, đi
sâu vào phân tích sự hiếu thuận, sự đền ơn, báo ơn của những
vị Phật cho đến các vị Bồ tát, không chỉ ở hiện tại mà cả trong
vô lượng kiếp trước ở quá khứ.
Phẩm thứ tám Ưu Bà Ly, phẩm thứ chín_ Thân cận là
phần kết, hay còn gọi là phần Lưu thông. Hai phẩm này qui kết vào
hai đặc điểm:
-
Kẻ bị xã hội cho là hạ tiện, đáng khinh bỉ vẫn tu chứng thánh
quả trong giáo lý của Đức Phật
-
Nữ giới vẫn được dự vào hàng thánh đệ tử của Phật với
điều kiện họ tự nguyện tuân thủ Bát kỉnh Pháp và tinh tấn tu
tập theo luật nghi do Đức Phật chế định.
Phẩm hiếu dưỡng _thứ hai
Phẩm này nêu lên nguyên ủy do đâu Đức Phật và
các hàng đệ tử của ngài đều phải báo ơn những đấng sanh
thành. Đồng thời chỉ ra phương cách báo hiếu cho các hàng đệ tử
Phật. Ở đây có hai vấn đề cần hiểu rõ trước tri đề cập
đến việc báo hiếu.
-
Thuyết luân hồi _Samsàra
-
Phát Bồ đề tâm, hành Bồ tát hạnh.
_ Thuyết luân hồi.
Thuyết này kỳ thực không hoàn toàn xuất phát từ
Phật giáo, mà trong truyền thống tín ngưỡng Vệ-đà của Ấn Độ
cổ xưa đã có nói nhiều đến thuyết luân hồi. Đức Phật, và
nhất là Đại thừa giáo đã hệ thống thuyết luân hồi được
hoàn chỉnh hơn trước thời Vệ-đà. Thuyết luân hồi cho rằng đời
sống của mọi loại sinh vật nói chung và loài người nói riêng,
từ vô thỉ đến nay luôn luân chuyển trong sáu nẻo là: Thiên, nhơn,
A tu la, địa ngục, ngạ quỉ và súc sanh. Cứ như vậy mà lăn như bánh
xe cho đến vô cùng. Kinh Tâm địa quán, nói: "các loài hữu
tình, sinh trong sáu đường, như chiếc bánh xe lăn không có sau
trước".
Kinh ĐPTPBA, Phẩm Hiếu dưỡng: "Như Lai khi còn ở
trong đường sinh tử, ở trong tất cả các loài chúng sanh, cũng đã
phải chịu đủ mọi thân hình nhiều như những hạt bụi, không thể
lấy lòng nghĩ miệng bàn sao cho xiết được. Vì phải chịu thân như
thế, cho nên tất chúng sanh, cũng đã từng làm cha mẹ của Như lai,
Như Lai cũng đã từng làm cha mẹ của tất cả chúng sanh
"
Như vậy, hiếu không dừng lại ở việc phụng dưỡng
cha mẹ như cơm ăn áo mặc hay thuốc thang khi đau yếu, mà hiếu còn
có sự tương quan giữa quá khứ với hiện tại. Hiếu cũng không
dừng lại ở cha mẹ đời hiện tại, mà hiếu còn có mối quan hệ
với cha mẹ ở nhiều đời trong quá khứ. Do đó, báo hiếu không
đơn giản chỉ thuần ở cha mẹ trong hiện kiếp. Vì "
tất cả
chúng sanh từng là cha mẹ của nhau".
Báo hiếu theo Phật giáo, là làm cho cha mẹ cả ở
quá khứ lẫn ở hiện tại đều được biết tu tập và giải thoát.
Muốn vậy phải phát tâm Bồ đề. Tâm Bồ đề là tâm thượng cầu,
hạ hóa. Nghĩa là trên thì cầu thành Phật, dưới thì hóa độ
chúng sanh. Muốn cầu thành Phật; về tự thân luôn tinh tấn tu tập
và thiền định, nhiếp hộ các căn, không cho phóng dật. Đồng thời
hiểu rõ chúng sanh vì mê muội điên đảo, lầm chấp thấy có ba
thừa, bị ái dục che đậy, chìm đắm trong bể khổ, bị bốn đảo làm
cho điên đảo: đối với pháp hữu lậu, vọng tưởng, phân biệt;
đối với các pháp là vô ngã, vọng tưởng thấy có ngã; đối
các pháp là vô thường, vọng tưởng chấp cho là thường; đối
các pháp không phải là vui, vọng tưởng chấp cho là vui; đối với
các pháp là bất tịnh, vọng tưởng cho là tịnh; sinh, lão, bệnh,
tử, biến đổi hoại diệt, niệm niệm vô thường, năm cái, mười
triền, che đậy; luân hồi ba cõi, phải chịu sanh tử không có trước
sau, giống như bánh xe".(ĐPTPBA phẩm hiếu dưỡng)
Nhận rõ nguyên nhân do đâu khiến chúng sanh phải
trôi lăn trong nẻo luân hồi, Bồ tát quyết chí tu hành không phút
giây xao lãng. Nói với Ngài Tĩnh Am thiền sư trong Văn Khuyến Phát
Bồ đề tâm: "Thường văn nhập đạo yếu môn, phát tâm vi thủ;
tu hành cấp vụ lập nguyện vi tiên. Tâm phát tắc chúng sanh khả
độ, nguyện lập tắc Phật đạo kham thành" (nghe rằng cửa tối
yếu vào đạo, hàng đầu là việc phát tâm, việc khẩn cấp tu hành
là lập nguyện. Phát được tâm Bồ đề ắt sẽ độ được chúng
sanh. Thệ nguyện đã được lập chắc chắn Phật đạo sẽ thành.
Vậy theo Phật giáo dù có moi gan xẻ thịt để cung
phụng cho cha mẹ trong cơn đói khát cùng cực như trường hợp của
thái tử Tu Xà Đề được kể trong kinh, thì đó cũng không gọi là
cách báo hiếu rốt ráo. Bởi: 1. Cha mẹ dù có tạm qua cơn đói,
nhưng kết cục thân tứ đại của cha mẹ cũng sẽ hoàn lại cho tứ
đại. 2. Trong khi đó, vọng nghiệp do cha mẹ và chúng sanh gây tạo
vẫn còn nguyên vẹn, và tiếp tục sinh tử, tử sinh trong ba cõi, sáu
đường. Do đó, cúng dường cha mẹ là điều cần phải làm, nhưng
điều cần hơn là phát quãng đại nguyện tâm như trường hợp của
Thái tử Tu Xà Đề _ tiền thân của Đức Phật_ đã phát nguyện:
"Tôi ngày nay cũng chẳng nguyện sinh làm Thiên ma vương, Phạm
vương, Thiên vương, Nhân vương, hay chuyển luân Thánh vương, mà tôi
chỉ muốn cầu đạo Vô thượng Bồ đề, để độ thoát cho tất cả
chúng sanh mà thôi".
Hoặc như Thiện Tài Đồng Tử (trong kinh Hoa Nghiêm) đã
phát nguyện: "Ngã kim phát tâm, bất vị tự cầu nhơn, thiên
phước báu. Thinh văn, Duyên giác, nải chí quyền thừa chư vị bố
tát, duy y tối thượng thừa, phát Bồ đề tâm nguyện dữ pháp
giới chúng sanh nhất thời đồng đắc A Nậu đa la tam miệu tam bồ
đề" (tôi nay phát tâm, không vì mình mà cầu hưởng phước
báo, cõi người, cõi trời, hoặc cầu hưởng phước báo của quả
vị Thanh văn, Duyên giác, cho đến phước báo quyền thừa của chư vị
Bồ tát. Chỉ duy nhất là quả vị tối thượng đó là; phát quãng
đại nguyện tâm thề độ tất cả chúng sanh trong pháp giới đều
chứng đắc Vô thượng chánh đẳng, chánh giác). Bồ tát phát
quãng đại nguyện tâm như thế, vì Bồ tát quán sát thấy rằng:
"Chúng sanh thật đáng thương, thường ở trong tối tăm, chịu lấy
thân phận nguy khốn, nào sanh, nào già, nào bệnh, nào chết đến
dồn dập, đủ các thứ khổ não. Họ chết đây sanh kia, chết kia sanh
đây, cứ duyên theo khổ ấm thân, nên lưu chuyển vô cùng. Ta lúc
nào mới hiểu rõ khổ ấm và diệt hết sanh, già, bệnh, chết?"
(Kinh Trường A hàm Phẩm Sơ Đại Bổn Duyên). Muốn hiểu rõ khổ
ấm và diệt hết sanh, già, bệnh, chết, Bồ tát phải quán Thập nhị
nhân duyên: "Sanh tử từ đâu, duyên đâu mà có?". Và
thấy rằng: "Do sanh mà có lão tử; sanh là duyên của lão tử;
sanh lại do hữu mà có, hữu là duyên của sanh; hữu từ thủ mà
có, thủ là duyên của hữu; thủ từ ái mà có, ái là duyên của
thủ; ái thừ thọ mà có, thọ là duyên của ái; thọ từ xúc mà
có, xúc là duyên của thọ; xúc từ lục nhập mà có, lục nhập
là duyên của xúc; lục nhập từ danh sắc mà có, danh sắc là duyên
của lục nhập; danh sắc từ thức mà có, thức là duyên của danh
sắc; thức từ hành mà có, hành là duyên của thức, hành do vô
minh mà có, vô minh là duyên của hành.
Như vậy tức là do vô minh mà có hành, duyên hành
có thức, duyên thức có danh sắc, duyên danh sắc có lục nhập,
duyên lục nhập có xúc, duyên xúc có thọ, duyên thọ có ái,
duyên ái có thủ, duyên thủ có hữu, duyên hữu có sanh, duyên sanh
có già, chết, ưu bi, khổ não. Đây là cái ấm thân đầy dẫy khổ
não do duyên sanh mà có; đó là khổ tập. Lúc Bồ tát suy nghĩ đến
khổ ấm tập thì chánh trí sanh, tuệ nhãn sanh, chơn giác sanh, minh liễu
sanh, thần thông sanh, trí tuệ sanh và chứng ngộ sanh" (Trường A
Hàm, kinh Sơ Đại Bổn Duyên)
Trên đây là quá trình thiền quán tư duy và chứng
nghiệm tự thân của mỗi người tu hành. Ta có thể nói như thế
này: nguyên ủy của việc tu hành trong Phật giáo là xuất phát từ
việc thấy rằng cái vô lý, cái bất lực muôn thuở của con
người là cái chết. Chết được coi như chấm dứt tất cả những
gì con người tạo dựng và đồng thời cũng mịt mù không biết
được cái gì, hay điều gì sẽ xảy ra. "Tiền lộ mang mang, vi tri
hà vãng" Đường phía trước mù mù chẳng biết về đâu! Vậy
muốn chiến thắng, muốn vượt qua cái chết, cái vòng luân hồi,
cách duy nhất là nhận ra nguyên nhân; khi nhận ra nguyên nhân thì
quyết chí tinh tấn tu tập theo những gì Đức Phật chỉ dạy: "Thế
nên A Nan! Ngươi hãy tự thắp đuốc lên mà đi, thắp lên với
chánh pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác, hãy tự nương
tựa với chính mình, nương tựa với chánh pháp, đừng nương tựa
với một pháp nào khác".
Thế nào là tự mình thắp đuốc lên mà đi, thắp
lên với chánh pháp, đừng thắp lên với một pháp nào khác? Hãy
tự mình nương tựa chính mình, nương tựa chánh pháp, đừng nương
tựa pháp nào khác? Này A-Nan! A? là các tỳ kheo trước phải lo
quán sát trong thân, sau đó quán sát ngoài thân, cuối cùng quán
sát cả trong lẫn ngoài thân, quán sát một cách chuyên cần, không
biếng nhác, nhớ mãi để diệt trừ sự tham luyến, lo buồn của thế
gian, và tiếp theo sự quán sát trên, là quán sát về thọ, về tâm
lý, về các pháp cũng như thế" (Trường A hàm, kinh Du Hành)
Vậy, có thể nói rằng: chỉ có tu chứng thánh đạo,
và giải thoát khỏi vòng lẩn quẩn của sinh tử, ta mới thực sự
báo ơn, đền ơn cha mẹ cả trong quá khứ lẫn ở hiện tại một
cách đầy đủ và rốt ráo nhất. Nói cách khác, tu hành theo giáo
pháp của Đức Phật là tự mình thắp sáng nhân cách của chính
mình, đồng thời dùng nhân cách sáng ngời ấy soi đường cho tất
cả chúng sanh thấy, và tránh những cạm bẫy nguy hiểm và độc hại
mà từ vô lượng kiếp đến nay họ cứ luôn bị vấp ngã! Hiếu
dưỡng là vậy.
Phẩm thứ ba: Đối trị.
Đây là phẩm kinh vạch rõ và chỉ cho thấy, muốn cứu
độ chúng sanh, Bồ tát không một khoảnh khắc có thể lìa bỏ Đại
bi tâm. Muốn giữ gìn Đại bi tâm, Bồ tát phải luôn xa lìa ái dục,
và tinh tấn tu hạnh thanh tịnh nhằm phòng hộ tam nghiệp, khiến cho tham
nhiễm tâm không có điều kiện sinh khởi, muốn cho tham nhiễm tâm
không có điều kiện sinh khởi, cách tốt nhất là không bao giờ
xâm phạm đến tánh mạng, tài sản, danh dự và nhân phẩm của
người khác:
"
phàm loài nào có tính mạng đều không
muốn chết như tôi. Cho nên Bồ tát, cho đến phải táng thân thất
mạng, trọn không cướp đoạt thân mạng của kẻ khác". Vì Đức
Phật dạy: "cướp đi mạng sống của kẻ khác thì dễ, nhưng trả
lại mạng sống cho họ là điều không thể làm được" (taking life
which is so easy to take, but so hard to give back again) (Quoted in Bhikkhu Silacara,
life of the Buddha, pp.149-150)
Về tài sản cũng thế: "
tôi không muốn
người khác xâm chiếm của cải của tôi, tất cả chúng sanh cũng
lại như thế. Cho nên Bồ tát cho đến phải táng thân thất mạng,
đối với y phục, của cải, thức ăn uống của chúng sanh, trọn
không sanh tâm cướp đoạt" Hoặc: " Như tôi không muốn
người khác dùng cường lực uy thế bức hiếp đè nén, không cho
tôi được tự do trình bày sự thanh bạch của tôi, tất cả chúng
sanh cũng lại như thế, cho nên Bồ tát, cho đến táng thân thất
mạng, trọn không đem những sự phi lý để gia hại chúng sanh"
(kinh ĐPTPBA)
Đức Thánh Khổng cũng dạy: "kỷ sở bất dục,
vật thi ư nhân". (cái gì mình không muốn đừng đem sự không
muốn ấy áp đặt lên kẻ khác)
Bồ tát chẳng những không xâm phạm đến tính mạng,
tài sản
vv của chúng sinh mà bồ tát còn thấy rõ tất cả
chúng sanh như đang trong cơn khát, đó là khát ái, khát dục, khát
A-lại-da vô cùng trầm trọng. Chúng sanh vì không tự mình nhận ra cơn
khát, nên cường độ cơn khát càng trở nên dữ dội, và nó
đốt cháy chúng sanh trong hỏa ngục của ảo ảnh! Vì khát ái, nên
chúng sanh cứ luôn vồ chụp tất cả những gì mình thích. Vì khát
dục, nên chúng sanh không bao giờ chịu vừa ý với những gì mình
có, và vì khát A- lại- da, nên chúng sanh luôn thấy cái ta của mình
là trên tất cả! Kỳ thực, từ tính mạng cho đến tài sản, và
luôn cả những ý niệm về cái ta, tựu trung chỉ là cái giếng khô
mà ta là những kẻ đang trong cơn khát đổ xô đi tìm bởi cứ ngỡ
đó là giếng nước mát, để rồi tất cả đều bị té xuống giếng,
như sự miêu tả trong kinh.
Ngoài ra, Bồ tát không vì thấy chúng sanh nghèo đói
mà đem tài vật ra cung cấp, nhằm xoa dịu và an ủi sự nghèo túng
của họ. Như vị đại thí chủ được đề cập trong kinh, ông ta có
thể cung cấp và làm thỏa mãn mọi nhu cầu của những kẻ nghèo
đói, nhưng rồi cũng vô ích. Vì kết quả của sự thỏa mãn ấy là
cái chết do trúng độc. Làm sao có thể an hưởng sự yên bình trong
khi "ba con rắn độc" là tham, sân và si hãy còn nguyên vẹn
hình hài trong tự thân tâm của mỗi chúng sanh? Do đó Bồ tát bố
thí quốc, thành, thê, tử, và luôn cả đầu, mình, tứ chi vv
không chỉ nhằm mục đích là đưa chúng sanh qua bên kia bờ giác mà
còn nhằm trừ khử những cơn khát ái, khát dục, và khát
A-lại-da. Có thế Bồ tát mới thành tựu được đạo Bồ đề.
Đạo Bồ đề có thể được bắt nguồn từ nửa bài kệ, nửa câu
kinh. Đó là phương pháp đối trị hữu quả nhất mà Bồ tát cần
thực hiện trong quá trình tu tập. Cùng với sự trừ khử trên, Bồ
tát luôn thương tưởng đến chúng sanh. Đây là nội dung phẩm thứ
bốn_ phát Bồ đề tâm.
Phát tâm Bồ Đề, phẩm thứ bốn.
Phát tâm Bồ đề ở phần trên đã trình bày; ở
đây chỉ nói thêm tâm Bồ đề là tâm biết rung động, biết xốn
xang, biết đau xót và biết thương yêu, cứu giúp trước những
cảnh huống đau khổ, bất hạnh của chúng sanh và đồng loại. Nguyên
nhân sâu xa của tình thương hay của lòng từ bi của tâm bồ đề
được phát nguyên từ sự nhận thức rõ nguyên do của cái khổ,
hay cảnh khổ mà chúng sanh phải gánh chịu.
Khổ có nhiều, nhưng chung qui là do sự tác động từ
bên trong và bên ngoài.
_ Bên trong là cái khổ do nhận thức sai về vạn hữu
bên ngoài. Đa phần chúng ta luôn bị hấp dẫn, bị lôi kéo, hay bị
cuốn hút bởi những hiện tượng muôn hồng ngìn tía của những ảo
ảnh; những ảo ảnh này_ nói theo Duy thức học_ là do nội thức
của chúng sanh biến hiện ra rồi lại nương vào sự biến hiện đó
mà cho là thực có. Cái được cho là thực có, theo Duy thức học
không là gì khác, mà đó là do Biến kế sở chấp của nhiễm ô
thức, từ sự nhận thức "thố mậu" hay sai lầm về vạn
hữu mới sinh khởi tham, sân, si nơi tâm. Chính tâm tham, tâm sân và
tâm si nhấn chìm chúng sanh trong bể khổ. Đó là cái khổ bên trong.
_ Bên ngoài là cái khổ do thiên tai; bão, lụt, động
đất, hỏa hoạn, núi lửa vv
nhất là chiến tranh!
Chúng ta ngày nay đang sống trong một thế giới mà
không biết đó là thế giới văn minh hay bán khai. Có những vấn
đề rất rõ ràng nhưng lại rất khó hiểu. Có những nhà bác học
ngày đêm miệt mài nghiên cứu, tìm tòi, sáng chế nhiều phương
thuốc để cứu chữa những chứng bệnh hiểm nghèo, nhằm giúp con
người có được đời sống an lành và hạnh phúc. Nhưng cũng có
những nhà bác học gò lưng nghiên cứu tìm tòi và chế tạo ra
những thứ vũ khí giết người hàng loạt như bom đạn hạt nhân
chẳng hạn. Có những nhà khoa học luôn ưu tâm trước những đói
khổ của nhân loại, đồng thời cũng có không ít những nhà
"trí thức" không ngừng tìm cách thu tóm lợi nhuận tối đa
về cho bản thân mình, tập đoàn mình, quốc gia mình, và bất kể đến
những khổ đau, thiếu thốn, chết chóc của đồng loại. Lại có
những người nhân danh thần thánh để đẩy con người vào hận thù
và sát hại lẫn nhau. Đồng thời không thiếu những người nhân
danh sự văn minh, tiến bộ để đi khai thác và bóc lột đồng loại
một cách vô cùng tinh tế, nhưng không kém phần dã tâm! Loài
người thật khó hiểu; người ta sẵn sàng bỏ ra hàng tỉ tỉ đô la
để mua sắm vũ khí, và đủ loại trang thiết bị quốc phòng hiện
đại. Nhưng người ta lại rất nhỏ giọt khi bỏ tiền ra cứu trợ
những nạn đói, nạn dịch bệnh, thiên tai vv
luôn xảy ra ở
nhiều nơi trên thế giới. Con người, ai cũng mưu cầu hạnh phúc,
nhưng lại luôn tạo ra những bất ổn cựu kỳ nguy hiểm. Tôn giáo,
triết học vv
cũng đã giảng giải, chỉ dạy những điều hiền
thiện từ bao đời nay, nhưng dường như chưa có mấy hiệu quả. Có
lẽ những điều hiền thiện dường như xa vời với những ham muốn
trần tục của con người. Do vậy cái mà những kẻ giàu mạnh cho là
hạnh phúc hay đó là thành quả của quá trình bóp chẹt lẫn nhau?
Kẻ thắng, kẻ giành phần hơn được gọi là hạnh phúc. Kẻ thua, kẻ
bị thiệt hại đương nhiên là đau khổ, có lẽ là như vậy!
Có thể nói một cách tương đối, ngày nay con người
đang sống trong một môi trường nhân văn còn bị vướng rất nhiều
mâu thuẫn; những mâu thuẫn này nếu không sớm được giải quyết,
rất có thể trong một tương lai nào đó, những mâu thuẫn này sẽ
dẫn con người đi đến hoại diệt. Do đó, con người cần sáng suốt
kiềm chế tư tâm, tư dục của bản thân, của đoàn thể, của đảng
phái và của quốc gia, may ra mới giải quyết được những mâu
thuẫn đầy nguy hiểm của chính con người tạo ra. Phương pháp để
giải quyết những mâu thuẫn theo Phật giáo tốt nhất là phát tâm
Bồ đề. Tâm Bồ đề là lòng yêu thương vô điều kiện và hoàn
toàn chân thực; bởi tâm Bồ đề chỉ được phát khởi từ
những con người đã đứng trên, đứng ngoài tất cả mọi tranh
chấp và xung đột, những con người không còn đứng giữa đấu
trường: được thì vui, mất thì buồn, thắng thì kiêu căng, thua thì
sầu não. Người phát tâm Bồ đề là người không còn bị tư tâm,
tư dục trói buộc và sai khiến. Nói như kinh Kim Cang, người phát tâm
Bồ đề là người không còn: "ngả tướng, nhân tướng, thọ
giả tướng"- tức không chấp vào cái ta của chính mình, cái ta
của người và cái thân mệnh giã hợp của kiếp con người. Với
mọi người chúng ta, tình thương yêu được xuất phát từ tâm Bồ
đề đủ để: vừa làm nơi nương tựa cho mọi người đang sống trong
biển tranh chấp và nghi kị vừa tạo được niềm tin nhằm xoa dịu và
dập tắt tất cả mọi ngọn lửa hận thù, đố kị
đang ngấm ngầm nung
nấu giữa lòng cuộc sống và không biết được đến khi nào sẽ
bộc phát.
Chúng ta hãy cùng niệm: Nam Mô Phát
Bồ Đề Tâm Bồ Tát Ma Ha Tát! Niệm nhiều lần, niệm mãi và
niệm mãi để mọi người trong chúng ta ai cũng có cơ hội để tâm
Bồ đề được nẩy mầm và lớn mạnh. Xin chân thành cầu nguyện
như thế.
Nha Trang, mùa Vu Lan năm 2000
Tỳ kheo Thích Tâm Trí
---
o0o
---
|
Mục lục Tác giả
|
--- o0o ---
Trình
bày:
Nhị
Tường
Cập
nhật
ngày: 01-08-2002