Người
tài xế vừa rà thắng cho chiếc xe rề chầm chậm, chờ đến lượt qua cầu Bến
Lức, thì đám chị em buôn gánh bán bưng đã ùa bám sát theo như đàn ong vỡ
tổ, tranh nhau mời mọc:
- Mía ghim đây!
- Chuối chiên nóng dòn đây!
- Ăn khóm ngọt nghen thầy!
Là một viên chức cao cấp tại Bộ
Kinh Tế, sống sung túc phong lưu Việt chỉ tiếp xúc với hạng giàu sang, nên
dường như chàng đã quên hẳn với khốn cùng lao đao vật lộn tìm sống đấp đổi
qua ngày. Hình ảnh những gương mặt cháy nắng, lem luốt, mồ hôi nhỏ giọt,
quần áo rách rướt chầm vá, chân trần dẫm trên lộ nóng bỏng... khiến Việt
chạnh lòng. Chàng ngậm ngùi hổ thẹn nhớ lại ngày xưa, sống trong hoàn cảnh
nghèo khổ, chàng đã ước nguyện tận lực mình để tranh đấu cho việc nâng cao
đời sống người dân, thế mà, ngoài việc tạo cho mình một địa vị cao sang,
vinh thân phì da, chàng đã làm được việc gì cho người dân đâu? Việt bức
rức chọn mua mỗi người một ít, trả tiền rộng rãi cho họ vui. Chàng hiểu
hành động mình vô nghĩa, nhưng nó cũng ru ngủ được lương tâm chàng, trước
cảnh khổ cực của đồng bào. Người tài xế chuẩn bị cho xe lăn bánh thì bỗng
có thằng bé độ chừng mười tuổi, bưng rổ phủ đầy trấu, hấp tấp chạy đến.
Thương cậu bé, Việt bỏ vào rổ em hai mươi đồng rồi nói: "Tặng em đó".
Trước sự ngạc nhiên của chàng, đứa bé cầm tiền trả lại:
- Thưa thầy! con bán hột vịt
lộn, chớ con không xin tiền!
Việt không ngờ mình vô tình
chạm tự ái cậu bé, khiến mắt em rơm rớm thật dễ thương. Việt vội dỗ dành:
- Ổ! Cho anh xin lỗi! Thôi thì
anh mua hột vịt lộn vậy! Em bán cho anh một chục nhé!
Trả tiền rồi cho xe lên đường
một khoảng xa, mà hình dáng dễ thương của thằng bé vẫn lởn vởn trong tâm
chàng. Việt lẩm bẩm: "Thằng bé nầy coi bộ bảnh hơn mình ngày xưa nhiều!
Thuở ấy, ai cho tiền mình cũng sung sướng đón nhận kia mà". Việt bùi ngùi
hồi tưởng lại quãng đời niên thiếu hai mươi năm về trước, khi chàng còn là
một học sinh lớp bốn trường Nam Tiểu Học Tân An. Ngày đó, như thường lệ,
tan trường bé Việt chạy vù về nhà, lua ba hột cơm nguội, rồi phóng nhanh
ra xạp thím Xiếu, tại dốc cầu Tân An để lãnh hai chục hột vịt lộn, loanh
quanh theo những chiếc xe đậu chờ đến lượt qua cầu, lãi nhãi mời mọc hành
khách. Gặp ngày may mắn hy hữu, ông khách mở hàng một trứng vịt, đưa tờ
giấy một đồng. Việt thối lại khách 50 xu nhưng ông lại khoác tay rồi bảo:
"Cho con đó". Việt buôn bán cực nhọc cả nửa ngày mới xong hai chục hột vịt
lộn, mà chỉ mang về được một đồng cho mẹ mua gạo, nên món quà 50 xu của
ông khách tốt bụng, quá lớn lao khiến Việt sung sướng tột cùng, ấp úng cám
ơn chẳng nên lời. Việt tung tăng bán hàng mà lòng rộn ràng suy tính bao
nhiêu thứ hấp dẫn để chi dụng món "lộc" bất ngờ. Đắn đo mãi, Việt quyết
định mua một trứng hột vịt lộn làm quà cho mẹ. Từ lâu, Việt phải khổ sở
chứng kiến cảnh thực khách vồ vập thưởng thức món ăn khoái khẩu do em bán,
trong khi chính em lại không có hân hạnh nếm món ăn xa xỉ nầy. Cảm giác ấm
ấm của trứng vịt thật dễ chịu. Trên đường về nhà, Việt sung sướng xây dựng
mộng đẹp, một giấc mơ tầm thường nhỏ nhoi: thưởng thức chất nước thơm tho
béo bổ rồi nhai cái tròng trắng dai dai dòn dòn, còn phần tròng đỏ và vịt
con tượng hình em sẽ nhường cho mẹ. Trái ngược với hoàn cảnh nghèo đói của
Việt, em trú ngụ trong một ngôi nhà ngói rộng rãi, sang trọng nhất xóm.
Căn nhà vốn vắng lặng nên tiếng cô Hai tụng kinh lanh lảnh phối hợp với
tiếng chuông mõ lao xao nghe rõ mồn một. Không dám làm khinh động cô Hai,
Việt rón rén đi lần từ gian nhà trước, ra sau bếp, rồi đến cái chái lá sau
vườn, cũng không thấy mẹ. Em vội vã trở lên căn nhà trước, đứng dựa cửa
trông ngóng mẹ. Mẹ về trễ là việc bình thường, nhưng lần nầy, Việt sốt
ruột lạ lùng. Năm phút, mười phút, rồi mười lăm phút nặng nề chậm chạp
trôi qua, mà mẹ vẫn biệt tăm. Việt cảm thấy đói bụng cồn cào, mà quái ác
thay! Trứng vịt lộn, gói muối tiêu, nhúm rau răm lại cứ chờn vờn khêu gợi.
Em thập thò lấy cọng rau răm chấm chút muối tiêu nhâm nhi cho đỡ thèm
thuồng. Hương vị rau răm cay cay thơm phức như được trộn lẫn với chất vịt
lộn thơm tho, khiến Việt không kềm lòng được nữa. Em đắn đo cầm trứng vịt
đập khẽ vào cửa, khươi một lỗ nhỏ, và tự dặn lòng chỉ nếm tí nước ngọt mà
thôi. Việt gỡ lớp màn trắng, húp nhẹ một chút. Chất ngọt beo béo đậm đà
tràn ngập khuyến khích em, cứ húp soàn soạt mãi. Việt mê mẩn đến nỗi cô
Hai ngưng tụng kinh, quăng dùi mõ cái ịch, rồi thình thịch bước ra ngoài
mà cũng không hay.
- Quân mất dạy! Tao đã cấm biệt
không được mang thứ ô uế tanh tưởi vào nhà, mà mầy lại lớn gan ăn dộng món
nầy tại đây?
Tiếng gầm vừa rít lên, thì bà
cũng đã tới sát bên thằng bé. Cô Hai dằn lấy trứng lộn quăng ra sân trước
nát bét, xán thằng bé hai tát tay xiểng niểng, rồi gằn giọng:
- Quì xuống đó!
Rồi cô ngoe ngẩy trở vào phòng
tiếp tục thời tụng kinh như cũ. Thằng bé sợ cô, riu ríu quỳ ngay ngạch
cửa, im thin thít. Đã quen bị người cô đối xử tàn tệ, Việt chấp nhận chịu
đựng niềm bất hạnh riêng mình, em chỉ bồn chồn lo sợ cho mẹ bị người nhiếc
mắng vì lỗi của con. Mẹ vừa về đến ngõ thì đã thấy ngay tình trạng thảm
hại của Việt. Bà cuống quít nhưng bước chân cũng rất khẽ khi gần đến cửa.
Cô Hai ngồi trong buồng, đang lần chuỗi niệm Phật, mà lỗ tai thật thính.
Cô liền tạm ngưng niệm Phật, cao giọng lên tiếng:
- Nè! Vào mà coi cái quân bất
hiếu mục mang hột vịt lộn, vịt thúi ăn uống giữa nhà thờ đây nầy! Tôi đã
năn nỉ van xin mấy người, giữ dùm chỗ nầy thanh tịnh để thờ Trời Phật, Ông
Bà mà mấy người đâu thèm nghe!
- Em xin lỗi chị Hai. Thằng
Việt hư quá, xin để em dạy nó!
Nói xong bà phát vào mông con
hai cái thật mạnh, đoạn lôi con đến phòng, năn nỉ mãi để xin cô thứ lỗi.
Sau đó, bà đưa con ra sau vườn, vào trong chòi lá. Bà ôm con vào lòng, thì
thầm: "Tội cho con tôi!". Rồi nước mắt bà chảy ròng ròng, thấm ướt tóc tai
con. Việt đau đớn nhất khi thấy mẹ buồn, nên em đâm ra oán cô Hai, thề
trong lòng sẽ có ngày rửa hận.
Ông nội Việt, cụ Võ Ngọc Quới,
nguyên là một tham tá hành chánh, vừa mới hồi hưu đã vội mãn phần. Hai Ông
bà chỉ có ba người con. Cô Hai, trưởng nữ kết duyên với một cậu công tử
Bạc Liêu, nhưng mới vài năm hương lửa, vẫn còn hiếm muộn thì chồng bạo
bệnh qua đời. Cư tang chồng đủ lễ, cô quay về chung sống với mẹ, sớm hôm
làm bạn với chuông mõ mà thôi. Ba Việt, đứa con trai duy nhất cưới vợ miệt
xã Trung Hòa, Mỹ Tho, rồi lập nghiệp luôn tại quê vợ. Riêng cô Tư, có
chồng 4 con sinh sống tại Saigon, thỉnh thoảng mới về thăm mẹ. Do đó, ngôi
nhà hương hỏa thênh thang chỉ có hai mẹ con hủ hỉ với nhau bao ngày tháng.
Vào mùa thu năm 1945, theo
tiếng gọi của non sông, cha Việt bỏ nhà dấn thân cho công cuộc chiến đấu
dành độc lập. Tuy nhiên, ông vốn thuộc thành phần trí thức tiểu tư sản,
bộc trực, thường lộ vẻ chống đối bọn bè phái mưu mô xảo quyệt đội mũ kháng
chiến. Vì lý do thầm kín nầy ông đã bị chính những người bạn đồng chiến
tuyến ra tay sát hại. Tin dữ về đến Trung Hòa làm tan nát cõi lòng bà vợ,
bà khóc than vật vã không nguôi. Bà mẹ ở Tân An cũng khổ đau không kém. Bà
tức tốc vào ngay Trung Hòa, nhất quyết đem dâu và cháu nội về tỉnh, hầu
giọt máu duy nhất còn lại của giòng họ Võ tránh khỏi vùng xôi đậu hiểm
nghèo. Bà nội vẫn được trợ cấp hưu bổng của chồng, lại có thêm hoa lợi của
hai mẫu vườn trồng cây ăn trái trải dài phía sau ngôi nhà, nên thừa sức
cung cấp cho con cháu nếp sống phong lưu. Mẹ Việt suốt ngày bận bịu bếp
núc, hầu hạ mẹ chồng, săn sóc con cưng. Việt chỉ biết chăm học rồi quấn
quít bên nội để được nựng nịu, cưng chiều nghe kể chuyện xưa tích cũ. Đáp
lại Việt cũng biết ngoáy trầu, dâng nước, nhổ tóc sâu..., rồi cũng kính
cẩn cạnh nhà, đốt nhang trên bàn thờ ông hàng ngày. Vì thế, nội vô cùng
hãnh diện, bà luôn luôn nhắc nhở, khoe khoang đứa cháu đích tôn trước mặt
mọi người. Cô Hai nghe mãi đâm ra khó chịu. Có lần cô trề môi nói nhỏ:
- Hứ! "đít không" thì có, chớ
đích tôn gì?
Mẹ nghe, mẹ buồn hiu. Mãi sau
nầy Việt mới biết cô muốn ám chỉ thân phận ăn bám vào nội của hai mẹ con.
Cô Hai thích yên tỉnh mà Việt chơi giỡn ồn ào, cô ghét riêng Việt là phải
rồi. Nhưng Việt không hiểu nỗi lý do cô không ưa mẹ. Mẹ hiền khô à! mẹ lúc
nào cũng mềm mỏng chiều chuộng cô, mà cô nặng nhẹ chi cho thỉnh thoảng mẹ
phải khóc thầm. Có lẽ tại vì cô Hai có tâm đạo, cô ăn chay trường, đi
chùa, tụng kinh niệm Phật chuyên cần..., nên cô không thể có cảm tình với
những kẻ thiếu tu. Cô oán nhất là đám đàn ông thường tụ tập ăn nhậu ở đầu
ngõ, mà có lần khi "sứa" họ đã mỉa mai là "cây độc không trái, gái độc
không con". Cô mắng họ là bọn sát sanh hại vật, tội lỗi ngập đầu, cô mở
banh mắt mà nhìn bọn họ bị đọa lạc khắp chín từng địa ngục thì cô mới hả.
Cô cũng xốn xang bọn con gái thời nay, tự do trò chuyện, cười giỡn với bạn
trai. Ai cô cũng chê là đĩ thỏa hư hèn, thời buổi nầy, đốt đuốc cũng không
sao tìm được một người "tiết hạnh khả phong" như cô.
Sống trong vòng tay bao bọc của
nội hơn ba năm, thì bỗng nhiên, nội đột ngột từ trần sau một cơn bệnh nhẹ.
Nỗi khổ đau vì mất nội như một vết thương lở loét, ngày càng trầm trọng.
Cô Hai là con gái, dĩ nhiên được nội tín cẩn, nên cô đã thủ kỹ chìa khóa
tủ sắt, và tất cả giấy tờ đất đai nhà cửa. Tang ma nội xong, cô Hai tự
nhận là thừa kế, và mặc dù hoa lợi của sở vườn tương đối khả quan, nhưng
cô cột "hồ bao" thật chặt. Mẹ Việt là mẫu người chỉ lẩn quẩn với vai trò
nội trợ. Xưa nay, bà đã hoàn toàn lệ thuộc vào cha mẹ, rồi chồng, rồi cuối
cùng là mẹ chồng để sinh sống. Thình lình nguồn tiếp tế bị cắt đứt, nên bà
phải lao đao chạy ngược xuôi, "mua đầu chợ, bán cuối chợ", kiếm sống đấp
đổi qua ngày. Và Việt cũng đã chia xẻ gánh nặng của mẹ bằng nghề bán hột
vịt lộn tại đầu cầu Tân An. Vất vả như thế nào mẹ vẫn hài lòng, miễn là có
thể bám víu ở tỉnh lho con tiếp tục việc học hành. Tuy nhiên, dù mẹ nhẫn
nhục chiều chuộng cô Hai thế nào, thì tình trạng ở nhờ ngày càng trở nên
bi đát, nhất là khi cô Hai nghe bà con chòm xóm xầm xì là của cải hương
hỏa theo luật lệ do cháu đích tôn thừa kế. Cô Hai chay lạt, không chấp
nhận được mùi ô trược thịt cá, nên hai mẹ con phải sửa sang lại chuồng gà
để làm chỗ nấu nướng và ăn uống đồ mặn. Chái lá tồi tàn nầy biến thành tổ
ấm để hai mẹ con tự do hủ hỉ bên nhau, đợi đến tối mới ké né mò lên bếp
nhà lớn ngủ nghỉ. Thật ra, trước kia mẹ con Việt cũng có phòng riêng,
nhưng cô Hai tu hành ngày càng tinh tấn, nên muốn có một phòng đặc biệt để
công phu. Phòng bà nội bỏ trống, thì cô Tư đã "xí phần" từ lâu và cẩn thận
khóa kỹ rồi. Thế là mẹ con Việt đành dọn xuống nhà bếp, ngủ tại chõng tre
dành cho gia nhân ngày trước.
Ông ngoại từ xã Trung Hòa ra
viếng thăm, chứng kiến hoàn cảnh cơ cực của con cháu rất đau lòng. Nhưng
ngoại chỉ có thể tiếp tế gạo và cá mắm chút đỉnh, vì ngoại cũng đang gặp
khó khăn, bởi lẽ chiến tranh khiến hoa lợi thất bát nặng nề. May mắn, chưa
đầy một năm thì tình hình an ninh tại thôn quê có phần vãn hồi. Nông thôn
rộn rịp thi đua canh tác, nên giá cả đất đai tăng khá cao. Nhân cơ hội
nầy, ngoại liền xoay sở bán mấy mẫu ruộng, mua một căn nhà lá ọp ẹp tại
hẻm chùa Phật Ân, đường Ngô Quyền, thị xã Mỹ Tho để hai mẹ con cư trú. Rồi
ngoại cũng sắm cho mẹ một cái máy may hiệu Singer, để bà lãnh may vá làm
phương kế sinh nhai. Từ dạo đó, tuy nếp sống vẫn đạm bạc, nhưng hai mẹ con
hưởng được những giây phút êm đềm, đỡ phải khép nép âu lo nghe tiếng chưởi
chó mắng mèo nữa.
Hiểu phận nghèo và thương mẹ
nên Việt chăm chỉ học hành. Em ước mơ sớm thành đạt để báo tròn chữ hiếu.
Em trúng tuyển vào Trung Học Nguyễn Đình Chiểu, với học bổng cao và tiếp
tục gặt hái những thành quả thật xuất sắc. Mấy năm sau, Việt thi đỗ Tú Tài
toàn phần ưu hạng, rồi nhờ sự hướng dẫn của quí vị giáo sư hảo tâm, Việt
xin được học bổng du học tại Hoa Kỳ.
Chàng sinh viên du học ngày đêm
miệt mài trau dồi kiến thức, với ước vọng sớm thành đạt để trở về phục vụ
quê hương, và phụng dưỡng người mẹ già sau bao năm trời xa cách. Thương
nhớ mẹ, nhớ đất nước, Việt thường lục lại chồng thơ cũ của mẹ, để ấp ủ
từng lời dạy dỗ thương yêu của bà. Khi Việt du học được ba năm, thình lình
mẹ báo tin bà quyết định xuất gia tại Quan Âm tu viện, gần Chợ Vòng Nhỏ,
Mỹ Tho; và từ đó, thơ từ ngày càng thưa dần. Tin mẹ xuất gia đột ngột
khiến Việt bàng hoàng. Mẹ đã trải qua bao nỗi vất vả nhọc nhằn, nên chàng
tâm nguyện sẽ cung phụng cho bà một đời sống sang trọng dư thừa. Thế mà
nay bà lại xuất gia khổ hạnh, thì ước nguyện báo đền ân mẹ làm sao thực
hiện được đây? Việt lại còn canh cánh mối âu lo vu vơ khác nữa. Bị ám ảnh
bởi thời ăn nhờ ở đậu tại căn nhà hương hỏa. Việt có mặc cảm không mấy tốt
đẹp với giới tu hành. Mỗi khi nghe tiếng niệm Phật, tụng kinh, chuông mõ,
Việt thường liên tưởng đến thái độ hậm hực, càu nhàu, cùng với lời rầy la,
nhiếc mắng nặng nhẹ, xỏ xiên. Vì vậy nên tuy cư trú tại hẻm chùa Phật Ân,
Mỹ Tho và dù được nghe lối xóm ca tụng thầy trụ trì hiền lành, nhân
hậu..., Việt cũng không bao giờ léo hánh tới chùa. Thế mà nay nghe tin mẹ
đi tu, mà lại tu pháp môn Tịnh độ, một pháp môn chuyên về niệm Phật, nên
Việt mới lo lắng ngay ngáy trong lòng. Chàng thật khó chấp nhận sự kiện
người mẹ hiền đức của mình, mà lại có thể chọn một lối tu mà chàng nghĩ
rằng ồn ào, rỗng tuếch như cô Hai. Việt ái ngại biên thư cho mẹ, nội dung
tuy không dám ngăn cản bà tu hành, nhưng ước mong bà chọn pháp môn nào
khác như thiền, Thiên Thai... hơn là Tịnh độ. Mẹ tuyệt nhiên không nhắc
nhở gì vấn đề nầy, khiến Việt cứ thấp thỏm mong chờ đến ngày về nước gặp
mẹ tạn mặt thì mới thật yên tâm.
Thời gian tu học sáu năm dài
đăng đẳng rồi cũng trôi qua. Không phụ lòng tin yêu của mẹ, Việt đã tốt
nghiệp tiến sĩ kinh tế học, hạng tối danh dự. Chàng trở về nước mang theo
bao dự án phát triển kinh tế mà chàng đã tận lực nghiền ngẫm suy tư để
vạch ra. Đón Việt tại phi trường có đông đủ bè bạn cùng bà con nội ngoại,
và dĩ nhiên có cô Hai. Cô rất hãnh diện tự hào về đứa cháu tài ba, mà có
thời đã "sống gần gũi với cô, từng được cô góp phần chăm sóc dạy dỗ". Tuy
nhiên, điều trớ trêu là mẹ, người mà Việt mong mỏi nhung nhớ xót xa lại
vắng mặt. Ba đang nhập hạ(2) nên không thể tự động rời chùa được. Thiếu mẹ
là thiếu tất cả. Việt tức tốc đi về Mỹ Tho ngay, bỏ mặc bữa tiệc tùng mà
thân nhân bè bạn đã tổ chức tươm tất sẵn tại Saigon. Khi về đến Mỹ Tho,
trời đã xế bóng, nên thân nhân Việt ngăn cản không cho chàng vội vàng thăm
mẹ vì lẽ Quan Âm tu viện tọa lạc ở ngoại ô, cách chợ Vòng Nhỏ chừng ba cây
số, một vùng quê hẻo lánh tương đối kém an ninh. Dù vậy, Việt vẫn âm thầm
thuê bao một chiếc xe lôi gắn máy đưa chàng đi đến đó. Đã lưu trú nhiều
năm xứ người, ngồi xe láng bóng lướt trên vùng xa lộ thênh thanh để chiêm
ngưỡng những cơ sở tôn giáo đồ sộ, nghinh ngang, giờ đây, Việt lại ngồi
chinh chong trên chiếc xe lôi tồi tàn, lắc lư lê lết trên con đường hẹp
té, lồi lõm ổ gà, để viếng thăm một cảnh chùa quê cũ kỹ, khiêm khiêm...,
Việt ngậm ngùi xúc cảm: "Ôi! Đất nước mình nghèo quá! dân mình nghèo quá!
chùa mình nghèo quá! Ôi! Thương thiệt là thương!".
Ngôi chùa cổ kính lẩn khuất
trong khu vườn xanh um. Mái cong cong quớt lên nhẹ nhẹ, lớp ngói âm dương
rêu phong lốm đốm, và trên con lươn, hai chú rồng rạn nứt cũng vẫn đang
uốn mình châu đầu giành ngọc. Thời gian với phụ họa của chiến tranh đã
hoành hành khốc liệt: trụ cổng già nua lắc lư nghiêng ngả, tường vách
loang lỗ xác xơ, cửa nẻo lung lay sờn tróc. Sân chùa, và dài dài theo hông
chùa ngổn ngang lu hủ khiến cảnh chùa tiều tụy thêm vẻ hoang vắng tiêu
điều. Bị méo mó bởi ngành học kinh tế, đặt trọng tâm vào những yếu tố lợi
hại, thấy vị trí ngôi chùa Việt lo lắng thở than: "Ôi! Trong thời buổi mà,
ở xứ người các cơ sở tôn giáo lăn xăn chường ra chỗ đông người, tổ chức
quảng cáo, rao bán rùm beng, diễn kịch đóng tuồng làm kinh tài để dành
giựt tín đồ và làm giàu; mà ngôi chùa lặng lẽ đìu hiu nầy vẫn còn cổ lỗ
nằm chui rúc ở xóm vắng vẻ lèo tèo thì làm sao mà thành công cho được!".
Chùa yên tỉnh vắng người, Việt bỡ ngỡ đi lần vào bên trong nhưng vẫn chưa
thấy bóng ai. Đang tần ngần lo nghĩ thì may quá có cô bé mặc bộ đồ lam,
tuổi chừng 14 từ phía sau vườn đi đến:
- Cô ni ơi! cho tôi hỏi thăm
một chút. Bà Lê Thị Hậu có ở đây không cô?
- Ơ! mấy bà công quả ở đây đâu
có ai tên Hậu cà? Chắc không có ai tên đó đâu chú.
- Má tôi tu ở đây, bà cho biết
đang nhập hạ mà! A! A!... tôi có hình của bả đây, cô xem thử coi!
- Dạ đây là hình sư cô Diệu
Hạnh. Chú phải gọi pháp danh, chớ gọi tên thế tục thì đâu ai biết được. Ni
chúng đang kiết hạ ăn cư, nếu không có lý do chánh đáng không dễ gì gặp
được đâu? Chú theo tôi đi gặp sư bà thử coi!
Thấy cô bé nói năng lanh lợi,
vừa đi Việt vừa lựa lời han hỏi:
- Cô ni à! chùa đông người
không cô?
- Dạ ni chúng gần bốn mươi vị!
- Chùa vắng vẻ quá, không thấy
Phật tử thì làm sao đủ sống vậy cô!
- Thưa chùa chủ trương tự túc,
chớ không dựa vào Phật tử. Tu sĩ trong chùa phải tự làm ruộng rẫy, và cũng
làm tương chao bán, để có thể mua những nhu yếu phẩm khác.
- Có thiếu thốn lắm không cô?
- Chùa quen sống thanh đạm nên
thường thì dư thừa. Dư thì quí sư, học theo hạnh Quan Âm (1), đem chia xẻ
cho các bà con nghèo trong xóm làng. Chỉ có một lần thiếu hụt bất thường
thôi. Năm đó, vì lý do an ninh đồng bào vùng trong phải di tản ra tạm trú
trong chùa hàng trăm người. Chùa nuôi ăn họ gần ba tháng, khi họ ra đi thì
chùa cũng kiệt quệ, nên ni chúng phải ăn cơm độn khoai với muối hột một
thời gian.
- Cô nói gì đến "hạnh Quan Âm"
là sao vậy cô?
- Quan Âm nói cho đầy đủ là
"Quán Thế Âm Bồ Tát", nghĩa là vị Bồ tát có hạnh nguyện quán sát tìm nghe
âm thanh hay tiếng than khóc kêu thương của thế gian để mà cứu độ. Vị Bồ
tát nầy còn có đặc điểm là tùy theo chúng sanh mong muốn Ngài hiện thân
như thế nào: vua quan, sang hèn, giàu nghèo, già trẻ... hay nam nữ gì, thì
Ngài cũng chiều theo hiện thân như thế mà cứu độ. Bồ tát thì đâu có tướng
nam nữ, nhưng Ngài tượng trưng cho lòng từ bi thương chúng sanh như mẹ
thương con, nên người ta tạc tượng Ngài trong dáng nữ nhơn dịu hiền. Sư bà
dạy chùa đã hân hạnh được mang danh hiệu của Ngài nên ni chúng phải luôn
luôn tâm niệm bổn nguyện từ bi cứu khổ cứu nạn.
Việt không ngờ một cô sa di nhỏ
tuổi tại tu viện khiêm tốn nầy có được kiến thức đáng ngợi. Cảm giác tôn
kính lại dâng tràn khi chàng diện kiến vị sư bà hiền đức.
- Bạch sư bà! Con xin phép được
gặp mẹ con là sư cô Diệu Hạnh.
- Con du học mới về?
- Dạ!
- Diệu Hạnh có thuật cho thầy
chuyện nhà trước khi xuất gia. Mẹ con hiền đức, tu hành tinh tấn, ta rất
hãnh diện về bà.
Xây qua cô sa di, sư bà dạy:
"con gọi Diệu Hạnh ngay đi", đoạn có lẽ muốn dành cho hai mẹ con tự do họp
mặt, sư bà dặn dò Việt tự nhiên chờ mẹ, rồi bà rời bước.
Mẹ xuất hiện từ xa. Bà hơi gầy
và đen, có lẽ vì lý do làm lủ canh tác nhọc nhằn, nhưng có vẻ khỏe mạnh.
Dáng điệu bà khoan thai, dịu hiền và còn tỏa ra niềm an lạc nhẹ nhàng, mẹ
không cười mà tựa như mĩm cười, mẹ chưa mở lời mà Việt đã nghe yêu thương
tràn ngập rồi.
Mẹ nay đã là tu sĩ, Việt bối
rối không biết xưng hô sao cho đúng, nên ấp úng: "Má! Má!... thầy!
thầy!...".
Sư cô mĩm cười hiền hòa:
- Con tự nhiên gọi má như xưa
cũng được. Lúc nào thì con cũng là con của má.
Rồi bà vò đầu Việt, nói tiếp:
"Con má cao lớn và đẹp trai lắm".
- Sao má bỏ con đi tu vậy má?
Má không cho con phụng dưỡng má lúc già yếu sao?
- Má đi tu nhưng má thương con
như xưa đâu có gì khác. Vả chăng, má nghĩ con còn có cuộc đời của con, có
nếp sống riêng của con, má đâu thể bịn rịn giữ con mãi hay lột da sống đời
với con hoài được. Má chỉ mong con biết ăn ở đạo đức thì má mãn nguyện
rồi!
Việt lại mếu máo:
- Hồi đó, nghe tin má tu theo
Tịnh Độ, con liên tưởng đến lối tu của cô Hai nên cứ lo sợ phập phòng...
- Sao con nghĩ sai lầm như vậy?
Tám mươi bốn ngàn pháp môn của Phật giáo, chẳng qua đều nhằm đưa ra một
phương cách để tu tâm mà thôi. Người niệm Phật tu tâm, nương câu niệm Phật
giữ chánh niệm nên tâm thanh tịnh an lành. Khi đối diện với thuận hay
nghịch cảnh, cũng nhớ mình đang niệm Phật tu tâm, nên ngăn chận không để
tâm buông lung theo tham, sân, si, mạn..., mà trái lại, khơi mở cho tứ vô
lượng tâm tức từ bi hỷ xả hưng khởi nữa. Cho nên, cổ đức dạy rằng trong
câu niệm Phật chẳng những đã dung chứa thiền mà còn hội đủ cả ba mươi bảy
phẩm trợ đạo (3) nữa...
Tuy mẹ không giải thích cặn kẽ,
nhưng Việt cũng tự hiểu là có những người cũng nhân danh tụng kinh niệm
Phật, nhưng không hề tu tâm. Phương thức tu dưỡng tâm biến thành một bình
phong phô trương đạo đức như một lớp sơn hào nháng bên ngoài, trong khi đó
họ vẫn buông lung để tâm rong ruổi theo tham, sân, si, mạn, nghi, ác,
kiến. Do đó, càng tu dục vọng càng sôi sục tăng trưởng, và dù có cố gắng
đè nén rồi cũng có lúc nổ tung. Tội nghiệp cô Hai, cô tu hành mấy mươi năm
mà không bao giờ được thoải mái, an lạc. Càng ngày cô càng càu nhàu, gắt
gỏng. Cô cô đơn cùng cực, cô đơn xa lạ ngay với câu niệm Phật mà cô lập
lại như một cái máy vô tri giác.
Việt du học trở về vào lúc mà
đất nước hoàn toàn lệ thuộc vào ngoại viện về quân sự lẫn kinh tế. Việt là
nhân tài đào tạo tại Hoa Kỳ nên được trọng dụng đặc biệt. Do đó, tuy đề án
cải thiện kinh tế dân sinh do chàng bồng bột khởi xướng không được hưởng
ứng rồi chìm lần trong quên lảng, nhưng công danh chàng như diều gặp gió.
Chỉ trong vòng mấy năm Việt đã trèo lên địa vị Tổng Giám Đốc đầy uy quyền
tại Bộ Kinh Tế béo bở. Dù công vụ đa đoan, thỉnh thoảng Việt vẫn về thăm
mẹ và cô Hai. Việt chu cấp săn sóc cô Hai như một đứa con hiếu thảo. Lần
nầy, Việt phải bỏ dở buổi họp quan trọng về Tân An cũng vì cô Hai: cô bệnh
nặng tháng nay và giờ thì đang hấp hối.
Chiếc xe trên đường về ngôi nhà
hương hỏa, con đường Phan Đình Phùng vẫn không có gì thay đổi, nhưng Việt
cảm thấy bồi hồi xúc động vì những kỷ niệm xưa dồn dập hiện về. Xe vừa
ngừng trước cổng, thì đám em con cô Tư ùa tới báo cáo đầy đủ mọi chi tiết:
- Sao kỳ quá anh Việt ơi! dì
Hai ăn chay trường tu hành mấy mươi năm, mà khi lâm bệnh nặng lại trở
chứng đòi ăn mặn dữ quá! Không được chiều ý, dì nổi cơn chửi rủa tục tỉu
khiến cô bác không ai dám đến gần. Ba hôm trước dì ấy thiếp đi, bác sĩ cho
biết người bệnh sắp lìa đời, ai cũng mừng cho dì. Không ngờ hôm nay dì Hai
tỉnh dậy, nằm liệt không nhúc nhích mà đòi ăn và chửi mắng nữa.
- Tội quá! sao không chiều ý
cho cô Hai ăn món cô ưa thích!
- Đâu được anh Việt! Làm như
vậy thì uổng mấy mươi năm tu hành của dì. Người ta nói hễ tu hành quá, khi
chết thì bị "nghiệp khảo" như vậy đó! Anh Việt à!
Việt không tin thuyết người tu
bị "khảo". Theo Việt, nếu không thực sự tu tâm mà chỉ sử dụng việc tụng
niệm để lừa dối mình và dối đời, thì sẽ có lúc không thể che dấu đè nén
nỗi, khiến bản chất hèn kém hiện nguyên hình. Lệ bảo vệ sử trường chay cho
họ, do đó, hoàn toàn vô nghĩa, vì nó chỉ khiến cho tâm người hấp hối thèm
thuồng và sân hận đến cực điểm mà thôi. Việt bước nhanh vào phòng người
bệnh. Tiếng lanh lảnh của cô Hai mắng chửi cô Tư nghe rờn rợn và bi thảm
quá. Việt vội lên tiếng:
- Cô Hai! Cô Hai! Cháu về thăm
cô đây!
- Việt con! Con Tư nó tàn ác
với cô. Nó bỏ đói cho cô chết con à!, bà mếu máo thật áo não.
- Cô Hai thích thú gì cho con
biết, con sẽ lo cho cô Hai.
- Cô thèm ăn hột vịt lộn, gà rô
ti với lại cá trê nướng dầm nước mắm gừng...
- Hột vịt lộn thì đã có sẵn, cô
Hai ăn trước đỡ. Còn các thứ kia chú tài sẽ ra quán Nhựt Tân đặt mua ngay.
Mặc dầu cô Tư cùng các cô bác
ra dấu ngăn cản, nhưng Việt vẫn cương quyết làm theo ý chàng. Cô Hai theo
dõi từng cử chỉ của Việt, gương mặt khô héo tím ngắt mà vẫn bộc lộ vẻ hả
hê sung sướng như đứa bé được kẹo. Việt khẽ đập bể vỏ trứng, rắc tí muối
tiêu, rồi xúc một muỗng nhỏ, đưa mớm cô. Đang rạng rỡ đón nhận thức ăn,
bỗng nhiên cô Hai co rúm người lại, run bây bẩy ra vẻ sợ hãi khủng khiếp.
Việt không hiểu lẽ gì, chỉ biết lo lắng hỏi han. Một lúc sau, cô Hai mới
hổn hển từng tiếng:
- Hồi đó! cô Hai quăng trứng
vịt lộn của con. Con có oán cô không?
- Không cô à! Con thương cô Hai
lắm mà, xin cô đừng nghĩ như vậy. Má con thường dạy rằng con nhờ nghe cô
Hai tụng kinh, mới có chút phước đức để mà đỗ đạt!
Vẻ mặt cô Hai trở nên hòa hoãn
rồi phảng phất chút an vui. Sau đó, bỗng nhiên cô Hai yên lặng lìa đời. Dù
tụng niệm hời hợt, có lẽ công năng vô biên của lục tự Di Đà, vẫn đủ sức
giúp cô được an lành trước giờ phút lâm chung.
Tháng 3.1990
GHI CHÚ:
1. Bồ Tát Quan Thế Âm: Ngài còn danh hiệu là Quán Tự
Tại, và thường được gọi tắt là Quan Âm hay Phật bà Quan Âm, có nghĩa là vị
bồ tát quán sát âm thanh của chúng sanh trong thế gian hầu hiện thần thông
cứu độ. Ngoại trừ Tây Tạng phượng thờ Ngài dưới hình dáng nam nhân, các
nước theo Bắc phương Phật giáo khác đều tạc tượng Ngài như một nữ nhân.
2. Hạ: (còn gọi là kiết hạ an cư) Thời gian tu sĩ ở yên
một nơi để tinh tấn tu tập, bắt đầu từ ngày 16 tháng 4 đến rằm
tháng bảy âm lịch. Theo nguyên tắc, thời gian nầy không ai được ra khỏi
chùa trừ những vị trong ban trị sự.
3. 37 phẩm trợ đạo: (Tam thập thất trợ đạo phẩm) gồm
có: Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, ngũ căn, ngũ lực, thất giác
chi và bát chánh đạo.
Ba mươi phẩm trợ đạo là kim chỉ nam dẫn đường cho người
tu học Phật pháp. Theo kinh A Di Đà, trong cõi nước Cực Lạc, có những loại
chim kỳ diệu do Phật hóa hiện để cất tiếng hòa nhã diễn xướng các phẩm trợ
đạo.