-ooOoo-
HẠNH PHÚC AN LÀNH
^
H
ạnh
phúc an lành là điều mong ước không những của nhân loại mà còn của các
hàng chư thiên nữa. Mỗi chúng sinh có quan niệm về hạnh phúc an lành không
hoàn toàn giống nhau, nên thường tranh luận nhau, suốt thời gian lâu dài
mà không nhất trí với nhau được.
May sao, gặp thời kỳ Ðức
Phật xuất hiện trên thế gian, các hàng chư thiên đồng nhau đến hầu Ðức
Phật, đảnh lễ Ðức Phật xong, bạch bằng bài kệ rằng:
"Bahù devà manussà ca,
Mangalàni acintayum.
Àkankhamànà sotthànam,
Brùhi mangalàmuttamam".
Kính bạch Ðức Thế Tôn
cao thượng!
Phần đông chư thiên cùng nhân loại,
Mong ước điều hạnh phúc an lành,
Cho kiếp hiện tại, kiếp vị lai,
Ðã nhiều năm suy xét, xét suy,
Không nhất trí quan niệm hạnh phúc.
Kính xin Ngài từ bi tế độ,
Thuyết giảng pháp an lành cao thượng.
Nhân dịp ấy Ðức Phật
thuyết bài kinh Mangalasutta (kinh An lành), gồm có 38 pháp hạnh phúc an
lành, bắt đầu bằng 3 pháp là:
"Asevanà ca bàlànam,
Panditànanca sevanà,
Pùjà ca pùjaneyyànam,
Etam mangalamuttamam".
Này tất cả chư thiên,
nhân loại!
Có 3 pháp an lành cao thượng:
Một, không nên thân cận kẻ ác,
Hai, nên thân cận bậc Thiện trí,
Ba, lễ bái bậc đáng tôn kính.
Ðiều nào cũng an lành cao thượng.
Trong 38 pháp hạnh phúc an
lành, đây là 3 pháp quan trọng đầu tiên để mở đường cho mọi nguồn hạnh
phúc an lành khác được phát triển từ hạnh phúc an lành trong tam giới ,
cho đến an lành siêu tam giới . Cho nên, điều trước tiên cần phải biết rõ
"ai là kẻ ác", "ai là bậc Thiện trí".
Biết được kẻ ác để mà
không dám gần, biết được bậc Thiện trí để mà thường thân cận.
Thế nào gọi là kẻ ác?
Kẻ ác (bàla) không
hẳn là người thất học, nghèo hèn, xấu xí, tàn tật v.v....
Ðức Phật dạy có nhiều cách
nhận xét về kẻ ác như sau:
* Nhận xét về trạng thái:
Trong đời này, kẻ ác
thường nghĩ điều ác; thường nói lời ác; thường làm việc ác. Nếu kẻ ác
không nghĩ điều ác, không nói lời ác; không làm việc ác, thì làm sao chư
bậc Thiện trí biết rõ được rằng: người ấy là kẻ ác?
Do kẻ ác thường nghĩ điều
ác; thường nói lời ác; thường làm việc ác; cho nên, chư bậc Thiện trí mới
biết được rằng: người ấy là kẻ ác.
- Nghĩ điều ác nghĩa là:
nghĩ đến sự tham lam của cải người khác một cách phi pháp; nghĩ đến thù
hận người khác; nghĩ đến sự tà kiến thấy sai chấp lầm.
- Nói lời ác nghĩa là:
nói dối; nói lời đâm thọc chia rẽ; nói lời thô tục, chửi rủa mắng nhiếc;
nói lời vô ích.
- Làm việc ác nghĩa là:
giết hại chúng sinh; trộm cắp của cải người khác; tà dâm.
* Nhận xét về nghiệp:
Kẻ ác thường tạo thân ác
nghiệp, khẩu ác nghiệp, ý ác nghiệp.
- Thân ác nghiệp có 3
loại: sát sanh, trộm cắp, tà dâm.
- Khẩu ác nghiệp có 4
loại: nói dối, nói lời đâm thọc chia rẽ; nói lời thô tục ch?i rủa mắng
nhiếc; nói lời vô ích.
- Ý ác nghiệp có 3 loại:
tham lam, thù hận, tà kiến.
Ðó là 10 ác nghiệp mà kẻ
ác thường tạo.
Do đó, chư bậc Thiện trí
nhận xét biết rõ được người ấy là kẻ ác.
* Nhận xét về tội lỗi:
- Kẻ ác không thấy,
không biết điều tội lỗi, sai lầm của mình.
- Dầu được thấy, được
biết điều tội lỗi sai lầm của mình rồi, vẫn không chịu từ bỏ, không chịu
sửa sai.
- Người khác phạm lỗi với kẻ ác, đến xin sám hối tha
lỗi, kẻ ác vẫn khư khư không chịu xá lỗi cho họ.
Người nào có hành vi cử
chỉ như vậy gọi là kẻ ác.
Kẻ ác thường che giấu tội
lỗi của mình, khoe khoang điều tốt của mình; và thường hay nói điều xấu,
phơi bày những tội lỗi của người khác, không ca ngợi những điều thiện,
điều tốt của người khác.
Người nào có tánh xấu như
vậy gọi là kẻ ác.
Kẻ ác thường chê trách
những bậc đáng ca tụng; thường ca tụng những hạng người đáng chê trách;
thường tin tưởng những hạng người không đáng tin.
Người nào có tư cách sai
lầm như vậy gọi là kẻ ác v.v....
Thật ra, kẻ ác không tự
biết mình là người ác, cũng không biết kẻ khác là người ác hoặc là bậc
Thiện trí; bởi vì họ quá si mê.
Kẻ ác đã tạo thân ác
nghiệp, khẩu ác nghiệp, ý ác nghiệp tự làm khổ mình, làm khổ người và làm
khổ những chúng sinh khác.
Kẻ ác không những làm cho
mình những điều bất lợi, sự thoái hoá, sự thống khổ lâu dài trong kiếp
hiện tại lẫn nhiều kiếp vị lai; mà còn đem lại cho những chúng sinh gần
gũi những điều bất lợi, những sự thoái hoá, những sự thống khổ lâu dài
trong kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp vị lai nữa.
Kẻ ác đã tạo thân ác
nghiệp, khẩu ác nghiệp, ý ác nghiệp cho quả khổ ở kiếp hiện tại; sau khi
chết, do ác nghiệp ấy cho quả tái sanh trong 4 ác đạo: địa ngục, atula,
ngạ quỷ, súc sanh chịu khổ do ác nghiệp của mình đã tạo.
Do đó, Ðức Phật dạy:
"Không nên thân cận với kẻ ác". Ðó là điều hạnh phúc an lành cao
thượng trong kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp vị lai.
Thế nào gọi là bậc Thiện
trí?
Bậc Thiện trí (pandita)
không hẳn là người có học thức, giàu sang phú quý, có quyền cao chức
trọng, xinh đẹp v.v....
Ðức Phật dạy có nhiều cách
nhận xét về bậc Thiện trí như sau:
* Nhận xét về trạng thái:
Trong đời này, bậc Thiện
trí thường nghĩ đến điều thiện; thường nói đến điều thiện; thường làm
nhiều việc thiện. Nếu bậc Thiện trí không nghĩ đến điều thiện, không nói
đến điều thiện; không làm nhiều việc thiện thì làm sao chư bậc Thiện trí
biết rõ được rằng: người ấy là bậc Thiện trí?
Do bậc Thiện trí thường
nghĩ đến điều thiện; thường nói đến điều thiện; thường làm nhiều việc
thiện; cho nên, chư bậc Thiện trí mới biết được rằng: người ấy là bậc
Thiện trí.
- Nghĩ đến điều thiện
nghĩa là: không nghĩ đến sự tham lam của cải người khác một cách phi
pháp, mà thường hay bố thí; không nghĩ đến thù hận người khác, mà thường
rải tâm từ; không nghĩ đến tà kiến thấy sai chấp lầm, mà nghĩ đến chánh
kiến thấy đúng theo sự thật chân lý.
- Nói điều thiện nghĩa
là: không nói dối, mà nói lời chân thật; không nói lời đâm thọc chia rẽ,
mà nói lời hoà hợp; không nói lời thô tục chửi rủa mắng nhiếc, mà nói
lời nghe êm tai, tế nhị; không nói lời vô ích, mà nói lời có ích cho mọi
người.
- Làm việc thiện nghĩa
là: không sát sanh, mà thường phóng sanh; không trộm cắp, mà thường đem
của cải bố thí cho người khác; không tà dâm, mà thường tôn trọng hạnh
phúc gia đình người khác.
* Nhận xét về nghiệp:
Bậc thiện trí thường tạo
thân thiện nghiệp, khẩu thiện nghiệp, ý thiện nghiệp.
- Thân thiện nghiệp có 3
loại: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm.
- Khẩu thiện nghiệp có 4
loại: không nói dối, không nói lời đâm thọc chia rẽ, không nói lời thô
tục chửi rủa mắng nhiếc, không nói lời vô ích.
- Ý thiện nghiệp có 3
loại: không tham lam, không thù hận, có chánh kiến.
Ðó là 10 thiện nghiệp mà
bậc Thiện trí thường tạo. Do đó, chư bậc Thiện trí biết rõ người ấy là bậc
Thiện trí.
* Nhận xét về tội lỗi:
- Bậc Thiện trí thấy rõ,
biết rõ được điều tội lỗi sai lầm của mình.
- Khi thấy rõ biết rõ
được điều tội lỗi sai lầm của mình rồi, liền sửa chữa ngay; rồi họ cố
gắng thu thúc không để tái phạm nữa.
- Người khác phạm lỗi
với bậc Thiện trí, đến xin sám hối tha lỗi, bậc Thiện trí hoan hỷ xá
lỗi, không còn chấp lỗi.
Người nào có hành vi cử
chỉ như vậy, gọi là bậc Thiện trí.
Bậc Thiện trí không che
giấu tội lỗi của mình; không thích khoe khoang điều thiện, điều tốt của
mình; và thường không nói điều xấu, không phơi bày những tội lỗi của người
khác, thường ca ngợi những điều thiện điều tốt của người khác.
Người nào có đức tánh tốt
như vậy gọi là bậc Thiện trí.
Bậc Thiện trí thường ca
tụng những bậc đáng ca tụng; thường chê trách những hạng người đáng chê
trách; thường có đức tin trong sạch nơi hạng người đáng tín.
Người nào có tư cách đúng
đắn như vậy gọi là bậc Thiện Trí v.v....
Thật ra, bậc Thiện trí tự
biết mình là bậc Thiện trí; biết người khác là bậc Thiện trí hoặc là kẻ
ác; bởi vì họ có trí tuệ sáng suốt.
Bậc Thiện trí đã tạo thân
thiện nghiệp, khẩu thiện nghiệp, ý thiện nghiệp cho quả an lạc kiếp hiện
tại; sau khi chết, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sanh lên cõi thiện giới
như: tái sanh làm người ở cõi người, hoặc tái sanh làm chư thiên ở cõi
trời dục giới, an hưởng sự an lạc và tuổi thọ lâu dài ở cõi trời ấy, do
thiện nghiệp của mình đã tạo.
Bậc Thiện trí không những
làm cho mình được những sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài trong
kiếp hiện tại và những kiếp vị lai; mà còn đem lại cho những chúng sinh
gần gũi thân cận cũng được những sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu
dài trong kiếp hiện tại và những kiếp vị lai.
Do đó, Ðức Phật dạy:
"Nên thân cận với bậc Thiện trí". Ðó là điều hạnh phúc an lành cao
thượng trong kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp vị lai.
-ooOoo-
YÊU MÌNH
^
T
rong
đời này, không ai yêu mình bằng mình; người biết yêu mình thật sự, phải
biết lánh xa mọi tội ác, phải biết hướng thiện, tạo mọi phước thiện, vì
chỉ có thiện pháp mới có sự an lạc và còn có thể nâng đỡ mình trở thành
người cao thượng mà thôi.
Muốn được như vậy, hãy xem
kẻ ác đáng kinh sợ hơn rắn độc, hơn hổ đói. Vì rắn độc, hổ đói chỉ có thể
hại mình được kiếp hiện tại này thôi; còn kẻ ác có thể hại mình cả kiếp
hiện tại lẫn nhiều kiếp vị lai khác nữa. Nên không thân cận với kẻ ác.
Và hãy xem bậc Thiện trí
đáng kính yêu hơn cha mẹ của mình, vì cha mẹ là nơi nương nhờ để mình sanh
ra; muốn chứng đạt đến pháp vô sanh bất tử phải nương nhờ đến bậc Thiện
trí.
Bậc thiện trí đóng vai trò
quan trọng như thế nào?
Một thuở nọ Ngài Ðại Ðức
Ànanda bạch Ðức Thế Tôn rằng:
- Kính bạch Ðức Thế Tôn,
con nghĩ rằng: người có bạn lành, bạn tốt, bạn thân thiết, bạn Thiện trí
giúp đỡ hỗ trợ một nửa phạm hạnh".
Ðức Thế Tôn dạy rằng:
- Này Ànanda! Con chớ nên
nghĩ như vậy! Này Ànanda! Con chớ nên nghĩ như vậy!
Ngài dạy tiếp:
- Này Ànanda, người có bạn
lành, bạn tốt, bạn thân thiết, bạn thiện trí giúp đỡ hỗ trợ hoàn thành
trọn vẹn phạm hạnh.
"Bạn" có ý nghĩa rất rộng,
ngay Ðức Phật, Ngài tự xưng là bạn lành (kalyànamitta) của tất cả
chúng sinh.
Cuộc đời của mỗi chúng
sinh nói chung, con người phàm nhân nói riêng tốt hoặc xấu, thành công
hoặc thất bại... hoàn toàn tuỳ thuộc vào bạn. Nếu gần gũi thân cận bạn
Thiện trí, được bạn tận tình chỉ dẫn, những ác pháp nên diệt; những thiện
pháp nên làm cho phát sanh và tăng trưởng, dẫn đến sự giải thoát khổ.
Ngược lại, nếu gần gũi thân cận bạn xấu, họ dẫn dắt vào con đường tội ác,
làm khổ cuộc đời mình trong kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp vị lai.
Tục ngữ có câu: "Gần mực
thì đen, gần đèn thì sáng": gần gũi bạn xấu, bạn ác thì bị ảnh hưởng, tiêm
nhiễm tật xấu, điều ác làm cho cuộc đời mình trở nên đen tối, bị sa đoạ;
gần gũi bạn tốt, bạn thiện trí thì học hỏi, tiếp thu được tánh tốt, điều
thiện để tiến hoá trong mọi thiện pháp, làm cho cuộc đời trở nên xán lạn,
thánh thiện.
Thông thường, tật xấu nào
đã bị tiêm nhiễm rồi, thì khó bỏ; tánh tốt nào đã học tập thành thói quen
rồi, nhưng dễ duôi cũng dễ mất. Nên thận trọng vẫn là hơn!
Vậy, gần gũi thân cận với
kẻ ác hoặc bậc Thiện trí đem lại cho mình sự tai hại hoặc sự lợi ích, sự
tiến hoá như thế nào?
Chúng ta nên tìm hiểu
truyện tiền thân của Ðức Phật, tích đạo sĩ Akitti được tóm lược như sau:
Một thuở nọ Ðức Thế Tôn
ngự tại chùa Jetavana thuyết về chuyện tiền thân của Ngài.
Trong thời quá khứ, đức
vua Brahmadatta ngự tại kinh thành Bàrànasì. Vào thuở ấy, Ðức Bồ Tát, tiền
thân của Ðức Phật, sanh trưởng trong một gia đình giàu sang thuộc dòng dõi
Bà la môn có tài sản nhiều đến 800 triệu, được đặt tên Ngài là Akitti, có
một người em gái tên Yasavatì. Ðến tuổi trưởng thành Ngài được cha mẹ gởi
đến xứ Takkasilà học xong các môn học theo truyền thống, Ngài trở về. Về
sau cha mẹ của Ngài qua đời, toàn bộ gia tài để lại cho Ngài và người em
gái. Ngài suy tư rằng: "tổ tiên, ông bà, cha mẹ ta gom góp lại được toàn
bộ tài sản này, không có một ai đem theo được thứ gì, rồi đến phiên ta
cũng như vậy". Nghĩ xong, Ngài gọi em gái bảo rằng:
- Này Yasavatì! Anh giao
trọn bộ tài sản này cho em.
Người em gái ngạc nhiên
hỏi:
- Anh à! Tại sao anh nói
như vậy?
- Anh muốn xuất gia trở
thành đạo sĩ, em à!
- Thưa anh thân yêu! Em
không thể cúi đầu nhận lấy tài sản mà anh đã nhổ bỏ, như nhổ bãi nước bọt
đâu! Em không cần tài sản này, em cũng muốn xin xuất gia trở thành đạo sĩ
như anh.
Ðức Bồ Tát vào chầu đức
vua Brahmadatta tâu rõ ý định của mình, xin đức vua thông báo người nào
cần của cải thứ nào, đến nhà Akitti mà lấy tự nhiên.
Ðức Bồ Tát làm phước bố
thí suốt 7 ngày mà chưa hết số tài sản. Ngài suy tư rằng: "tuổi thọ của ta
sẽ giảm dần qua từng giờ, từng ngày; tại sao ta lại phải chờ đến hết của
cải". Ngài mở hết tất cả các kho của cải, mở cửa nhà, dán giấy thông báo:
"Chúng tôi bố thí toàn bộ của cải này, người nào cần thứ gì xin chọn lấy
tự nhiên".
Ngài dẫn người em gái đi
ra khỏi kinh thành Bàrànasì, mặc cho bà con thân quyến khóc than.
Ngài đến một nơi thanh
vắng, hai anh em xuất gia trở thành đạo sĩ, mỗi người ở mỗi cốc lá. Dân
chúng trong làng theo Ngài xuất gia rất đông, Ngài cảm thấy bận rộn, muốn
sống một mình nên trốn sang nơi khác mà không cho em gái biết, sống một
mình Ngài tiến hành thiền định chứng đắc các bậc thiền cùng phép thần
thông. Ngài bay trên hư không đáp xuống một hòn đảo nhỏ tên Kàradìpa (đảo
cây kàra), còn có tên "Ðảo Rồng", làm cốc lá ở gần cây kàra không một ai
hay biết. Ngài sống tri túc, khi cây kàra có quả, thì dùng quả kàra. Khi
hết kỳ có quả, thì dùng lá kàra luộc chín để sống qua ngày.
Do năng lực giới đức của
Ðức Bồ Tát, làm cho tảng đá chỗ ngồi của đức vua trời Sakka phát nóng. Ðể
xem biết nguyên nhân nào, đức vua trời nhìn thấy vị đạo sĩ Akitta hành
giới rất nghiêm túc, không biết với mục đích gì? Có phải vì cần đến ngôi
vị vua trời Sakka hay với mục đích khác?
Một hôm, như thường lệ vị
đạo sĩ hái một nắm lá kàra luộc chín xong, đặt xuống, ngồi chờ cho nguội
sẽ dùng. Ngay khi ấy, đức vua trời hoá ra vị Bà la môn khất thực đứng
trước cửa cốc lá. Ðức Bồ Tát nhìn thấy vị Bà la môn liền phát sanh đức tin
trong sạch nghĩ rằng: "Hôm nay, thật là đại phúc cho ta, thấy được một vị
Bà la môn khất thực, ta nên hoan hỷ làm phước bố thí". Nghĩ xong, Ðức Bồ
Tát đem tất cả lá kàra đã luộc chín để vào bát của vị Bà la môn, không còn
sót lại lá nào cho mình, để bát xong phát nguyện rằng:
"Idam me dànam
sabbannutannanassa paccayo hotu".
"Cầu xin phước bố thí
này của tôi làm duyên lành để chứng đắc thành bậc Toàn Tri Diệu Giác".
Vị Bà la môn thọ nhận một
ít lá kàra xong, đi một đoạn đường rồi biến mất, hiện về cõi trời. Còn Ðức
Bồ Tát sau khi bố thí nắm lá chín xong, tâm vô cùng hoan hỷ, không tìm lá
kàra khác, Ngài nhịn ăn hôm ấy.
Sáng ngày hôm sau, Ðức Bồ
Tát đi hái lá kàra đem luộc chín xong, đặt xuống ngồi chờ nguội sẽ dùng,
vị Bà la môn lại xuất hiện như lần trước. Ðức Bồ Tát đem bố thí đến vị Bà
la môn tất cả lá kàra đã luộc chín ấy, không dư để lại, Ngài lại nhịn ăn
thêm một ngày nữa. Ðến ngày thứ ba mọi việc lại xảy ra cũng như hai ngày
trước.
Như vậy, nhịn ăn suốt ba
ngày, Ðức Bồ Tát tâm vẫn vô cùng hoan hỷ đến phước bố thí, dù thân thể yếu
đi, vì thiếu vật thực. Nửa đêm Ðức Bồ Tát ngồi trước cửa cốc lá niệm tưởng
phước bố thí, tâm phát sanh hỷ lạc. Ðức vua trời Sakka nghĩ rằng: vị đạo
sĩ này đã nhịn ăn suốt ba ngày rồi, dầu thân thể có phần yếu, song thiện
tâm trong sạch, hoan hỷ trong phước thiện bố thí, ta chưa biết rõ Ngài có
nguyện vọng như thế nào? Mong muốn quả báu cõi người hoặc cõi trời. - Ðức
vua trời Sakka hiện xuống đứng trước mặt Ðức Bồ Tát đạo sĩ bạch rằng:
- Kính bạch Ngài đạo sĩ,
đêm khuya, giữa rừng cây kàra trên hòn đảo hoang vắng, xung quanh nước
biển bao bọc, Ngài hành đạo một mình nơi này có nguyện vọng như thế nào?
Bạch Ngài.
Ðức Bồ tát biết vị này là
đức vua trời Sakka nên tâu rằng:
- Tâu đức vua trời Sakka
kính mến!
Tử sanh luân hồi mãi mãi là khổ.
Ngũ uẩn rã, chết mê muội là khổ.
Bần đạo có nguyện vọng ngộ Niết Bàn,
Pháp giải thoát khổ tử sanh luân hồi.
Vì vậy, nên bần đạo cố gắng, nhẫn nại hành đạo nơi này.
Lắng nghe lời giải đáp,
đức vua trời Sakka vô cùng hoan hỷ được biết rằng, vị đạo sĩ này nhàm chán
cảnh sanh tử, chịu nhẫn nại ở nơi này hành đạo mong chứng ngộ Niết Bàn.
Ðức vua trời phát sanh đức
tin trong sạch nên ban nhiều điều ân huệ cho đạo sĩ.
Ở đây xin đề cập đến điều
mà đức Bồ tát đạo sĩ tâu:
- Tâu đức vua trời Sakka kính mến! Nếu đức vua ban ân
huệ cho bần đạo. Bần đạo xin nhận:
* Không muốn nhìn thấy
kẻ ác.
* Không muốn nghe đến kẻ ác ở bất cứ nơi nào.
* Không muốn gần gũi thân cận với kẻ ác.
* Không muốn nói chuyện với kẻ ác.
* Không hài lòng hoan hỷ với kẻ ác.
Ðức vua trời bạch:
- Kính bạch Ngài đạo sĩ
khả kính! Kẻ ác đã làm điều tai hại gì đối với Ngài? Kính xin Ngài nói cho
rõ nguyên nhân. Tại sao Ngài không muốn nhìn thấy kẻ ác? Bạch Ngài.
- Tâu đức vua trời Sakka!
Kẻ ác chỉ dẫn những điều tai hại,
Khuyến khích làm những việc tội ác.
Hướng dẫn làm những điều ác là sở trường của kẻ ác.
Dầu nghe nói lẽ phải kẻ ác cũng tức giận.
Kẻ ác không hiểu biết về giới luật.
Vì vậy bần đạo không muốn thấy kẻ ác, đó là điều tốt lành.
Nghe vậy đức vua vô cùng
hoan hỷ bạch:
- Kính bạch Ngài đạo sĩ
khả kính! Ngài giải thích bằng chân lý hay quá! Ðó là lời hợp với pháp, là
thiện ngôn quý giá. Kính bạch Ngài đạo sĩ, Trẫm xin ban cho Ngài ân huệ mà
Ngài muốn, xin Ngài nhận ân huệ ấy.
- Tâu đức vua trời Sakka
kính mến! Nếu đức vua ban ân huệ cho bần đạo. Bần đạo xin nhận:
* Muốn nhìn thấy bậc
Thiện trí.
* Muốn nghe đến bậc Thiện trí ở bất cứ nơi nào.
* Muốn gần gũi thân cận với bậc Thiện trí.
* Muốn nói chuyện, đàm đạo với bậc Thiện trí.
* Rất hài lòng, hoan hỷ với bậc thiện trí.
- Kính bạch Ngài đạo sĩ
khả kính! Bậc thiện trí đã làm điều lợi ích gì đối với Ngài? Kính xin Ngài
nói về nguyên nhân, tại sao Ngài muốn nhìn thấy bậc Thiện trí. - Bạch
Ngài?
- Tâu đức vua trời Sakka
kính mến!
Bậc thiện trí chỉ dẫn những điều lợi ích,
Không khuyến khích làm điều bất lợi.
Hướng dẫn làm những điều thiện là ưu điểm của bậc Thiện trí.
Khi nghe nói lẽ phải, bậc Thiện trí không nổi giận.
Bậc Thiện trí hiểu biết rành rẽ về giới luật.
Vì vậy, bần đạo muốn thấy bậc Thiện trí đó là điều tốt lành nhất.
Qua câu chuyện tiền thân
này, chúng ta nên nhận thức rõ ràng rằng: "gần gũi thân cận với kẻ ác đem
lại cho mình những điều bất lợi, gần gũi thân cận với bậc thiện trí đem
lại cho mình những điều lợi ích lớn".
-ooOoo-
THƯƠNG NGƯỜI
^
T
hương
người, có tâm từ đến tất cả chúng sinh, mong muốn sự lợi ích, sự tiến hoá,
sự an lạc đến với tất cả chúng sinh là một đức tính cao quý, một hạnh cao
thượng.
Không nên gần gũi thân cận
với kẻ ác, không phải hoàn toàn xa lánh kẻ ác. Mặc dù tâm từ không thể
phát sinh đến với kẻ ác, nhưng kẻ ác cũng là một chúng sinh, nên cần phải
có tâm bi thương xót kẻ ác, tìm mọi cách cứu vớt, khuyên bảo họ bỏ ác làm
thiện, cải tà quy chánh.
Muốn tế độ người ác, bậc
Thiện trí cần có nhiều năng lực, có đức độ cao dày mới có thể cảm hoá được
người ác.
Như trường hợp Ðức Phật có
tâm đại bi, dùng thần thông tế độ cảm hoá tên cướp sát nhân Angulimàla, từ
kẻ ác sát nhân trở thành bậc Thánh Arahán. Ngài Ðại Ðức Mahàmoggallàna
dùng phép thần thông để thu phục rồng chúa Nandopananda, là rồng tà kiến
trở thành chánh kiến xin quy y Tam bảo v.v...
Ðó là những trường hợp
thương xót người mà không hại mình.
Trường hợp thương xót
người mà hại mình như:
- Nhìn thấy người sắp chết
đuối, mình không biết bơi lội, mà vội vàng nhảy xuống nước cứu, để rồi bị
chết chìm cả hai....
Bậc Thiện trí phàm nhân
xét thấy mình có đủ năng lực, có đức độ cao dày, làm chủ được mình, nên
gần gũi với kẻ ác để tế độ họ; hoặc muốn tế độ họ dù được hay không, nhưng
phải tự biết mình chắc chắn không bị nhiễm tật xấu của họ.
Nếu xét thấy mình không có
đủ khả năng tự vệ, thì tốt hơn, không nên gần gũi với kẻ ác, để tránh mang
hoạ vào thân.
-ooOoo-
NGƯỜI ÁC - NGƯỜI THIỆN
^
G
ọi
là người ác, người thiện có thật hay không?
Gọi là người ác bởi do ác
nghiệp hay bất thiện nghiệp của họ đã tạo.
Gọi là người thiện bởi do
thiện nghiệp của họ đã tạo.
Ðức Phật dạy rằng:
"Này chư Tỳ khưu, Như
Lai gọi tác ý (cetanà) là nghiệp, sau khi nghĩ xong, tạo nghiệp bằng
thân, khẩu, ý".
Nghiệp có 2 loại: ác
nghiệp và thiện nghiệp.
* Ác nghiệp được
tạo do 3 môn:
- Thân ác nghiệp có 3
loại: sát sanh, trộm cắp, tà dâm.
- Khẩu ác nghiệp có 4 loại: nói dối, nói lời đâm thọc
chia rẽ, nói lời thô tục chửi rủa mắng nhiếc, nói lời vô ích.
- Ý ác nghiệp có 3 loại:
tham lam, thù hận, tà kiến.
Ðó là 10 ác nghiệp hoặc 10
bất thiện nghiệp.
Người nào có tác ý ác (tác
ý bất thiện) tạo nên ác nghiệp, gọi người ấy là người ác, gọi theo ác
nghiệp.
Cũng như người nào làm
nghề giết gia súc bán thịt, người ấy gọi là "tên đồ tể", gọi theo nghề.
Nếu người ấy thay đổi nghề khác, thì không còn gọi là "tên đồ tể" nữa.
* Thiện nghiệp được
tạo do 3 môn:
- Thân thiện nghiệp có 3
loại: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm.
- Khẩu thiện nghiệp có 4
loại: không nói dối, không nói lời đâm thọc chia rẽ, không nói lời thô
tục chửi rủa mắng nhiếc, không nói lời vô ích.
- Ý thiện nghiệp có 3
loại: không tham lam, không thù hận, có chánh kiến.
Ðó là 10 thiện nghiệp
Người nào có tác ý thiện
tạo nên thiện nghiệp, người ấy gọi là người thiện, gọi theo thiện nghiệp.
Cũng như người nào làm
nghề dạy học, người ấy gọi là "giáo viên", "giáo sư", gọi theo nghề. Nếu
người ấy thay đổi nghề khác, thì không còn gọi là "giáo viên", "giáo sư"
nữa.
Thử hỏi: có ai biết được
"người ác", "người thiện" thân hình như thế nào không? - Chắc chắn là
không. Bởi vì, người ác, người thiện hoàn toàn không có thật, mà chỉ có ác
tâm (bất thiện tâm), thiện tâm mà thôi.
Khi ác tâm phát sanh tạo
nên ác nghiệp gọi là "người ác".
Khi thiện tâm phát sanh
tạo nên thiện nghiệp gọi là "người thiện".
Tâm (citta) phát sanh rồi
diệt liên tục không ngừng.
Tâm phát sanh do bởi nhân
duyên. Thiện tâm phát sanh do nhân duyên của thiện tâm; ác tâm phát sanh
do nhân duyên của ác tâm. Nói chung mỗi tâm phát sanh đều do nhân duyên
của chính nó, sanh rồi diệt thay đổi không ngừng từ kiếp quá khứ đến kiếp
hiện tại; từ kiếp hiện tại đến kiếp vị lai; nếu chúng sinh ấy vẫn còn tử
sanh luân hồi, chỉ ngoại trừ bậc Thánh Arahán tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt
tử sanh luân hồi.
Do đó, con người hoàn toàn
khác với loài thực vật.
Ðối với loài thực vật, cây
nào là cây ấy, từ nhỏ đến lớn, già rồi chết, không bao giờ thay đổi sang
loài cây khác.
Ví dụ: cây chanh có trái
chanh vị chua, cây chanh già, cây chanh chết chấm dứt một cây chanh
v.v....
Ðối với con người, tên gọi
người ác, người thiện có thể thay đổi do tâm thay đổi, còn phần thân thể
vẫn sanh diệt bình thường, già - bịnh - chết không có gì khác biệt rõ rệt.
Ví dụ những trường hợp
như:
- Ngài Ðại Ðức Angulimàla
- khi còn là kẻ cướp sát nhân tàn bạo giết hơn cả 1.000 người, cắt đầu
ngón tay xâu làm vòng đeo cổ - gọi là "kẻ cướp sát nhân Angulimàla". Do
đó, gọi là người ác, do bởi ác tâm sát sanh. Nhưng khi Ðức Phật đến tế độ,
thì kẻ cướp sát nhân Angulimàla từ bỏ sát nhân, xin Ðức Phật cho phép xuất
gia trở thành Tỳ khưu, về sau Ngài chứng đắc đến bậc Thánh Arahán cao
thượng. Vì vậy, gọi Ngài là bậc Thiện trí, do bởi siêu tam giới thiện tâm
đó là Arahán Thánh Ðạo tâm.
Như vậy, có thể kết luận:
tên gọi người ác trở thành tên gọi người thiện do bởi diệt ác tâm, thiện
tâm phát sanh.
- Tỳ khưu Devadatta - khi
còn là hoàng tử dòng Sakya có đức tin trong sạch nơi Ðức Phật, xin phép
xuất gia trở thành Tỳ khưu cùng với 5 hoàng tử Bhaddhiya, Anurudha,
Ànanda, Bhagu và Kimila; năm hoàng tử này sau khi xuất gia trở thành Tỳ
khưu, về sau đều chứng đắc thành bậc Thánh Arahán. Riêng Tỳ khưu Devadatta
chỉ chứng đắc các bậc thiền thế gian và chứng đắc phép thần thông, vẫn còn
là phàm nhân (chưa phải Thánh nhân).
Do đó, Tỳ khưu Devadatta
gọi là bậc Thiện trí, do bởi tam giới thiện tâm phát sanh.
Về sau, Tỳ khưu Devadatta
phạm tội chia rẽ Tăng, có mưu đồ đen tối, tìm mọi cách mưu sát Ðức Phật để
làm Phật; nhưng không thể nào sát hại Ðức Phật được, chỉ làm bầm máu bàn
chân của Ðức Phật mà thôi. Tỳ khưu Devadatta đã phạm trọng tội lớn thuộc
ngũ vô gián nghiệp, các bậc thiền bị hư mất hết.
Do đó, gọi Tỳ khưu
Devadatta là người ác, do bởi ác tâm phát sanh.
Tỳ khưu Devadatta lâm bệnh
nặng, vì tội lỗi quá nặng nên mặt đất nẻ ra rút xuống. Sau khi chết, do
năng lực của ác trọng nghiệp, cho quả tái sanh vào địa ngục Avìci chịu quả
khổ của ác nghiệp mà chính mình đã tạo.
Như vậy, có thể kết luận:
tên gọi người thiện trở thành tên gọi người ác do bởi thiện tâm không
sanh, ác tâm phát sanh.
- Ngài Ðại Ðức Ànanda -
khi còn là hoàng tử dòng Sakya có đức tin trong sạch nơi Ðức Phật, xin
phép xuất gia trở thành Tỳ khưu tiến hành thiền tuệ chứng đắc Nhập Lưu
Thánh Ðạo - Nhập Lưu Thánh Quả trở thành bậc Thánh Nhập Lưu, theo hầu Ðức
Phật. Sau khi Ðức Phật tịch diệt Niết Bàn, Ngài Ðại Ðức Ànanda chứng đắc
đến bậc Thánh Arahán cao thượng. Do đó, gọi Ngài là bậc Thiện trí cao
thượng.
Như vậy, có thể kết luận:
tên gọi người thiện trở thành tên gọi bậc Thiện trí, do bởi dục giới thiện
tâm tiến hoá lên đến siêu tam giới thiện tâm.
Ðó là sự thay đổi "tâm" do
bởi nhân duyên của nó, tâm sanh - diệt không ngừng; còn phần "thân" vẫn
giữ nguyên tánh tự nhiên của nó, thân sanh - diệt liên tục, vô thường biến
đổi không ngừng qua thời gian trở thành già - bịnh cuối cùng chết, chấm
dứt một sanh mạng, một cuộc đời.
Theo quan niệm Phật giáo,
quá khứ của con người dầu thiện hay ác, dầu tốt hay xấu thế nào không quan
trọng, mà chỉ đặt tầm quan trọng con người đang sống, đang tạo nghiệp ở
hiện tại.
Quá khứ, người nào gọi là
người ác, song hiện tại người ấy từ bỏ ác nghiệp, tạo nên thiện nghiệp,
trở thành người thiện, vị lai sẽ xán lạn hạnh phúc an lạc.
Quá khứ, người nào là
người thiện, song hiện tại, người ấy từ bỏ thiện nghiệp, tạo ác nghiệp,
trở thành người ác, vị lai sẽ đen tối, bất hạnh khổ não.
Người ác có ác tâm thay
đổi tuỳ theo đối tượng
Ví dụ: người ác có ý tham
lam muốn xin một vật nào của ai, người ấy có cử chỉ dịu dàng, lời nói ngon
ngọt; nếu xin được vật ấy từ người chủ nhân, thì chẳng có việc gì xảy ra
giữa hai người; nếu xin mà không được vật ấy như ý; nghĩa là tham lam mà
không được như ý, liền làm nhân để cho sân tâm phát sanh, có cử chỉ thô
bạo, lời nói hung ác, có thể gây tai hại cho người chủ nhân kia.
Do đó: Không nên gần
gũi thân cận với kẻ ác.
Người thiện có thiện tâm không thay đổi theo đối tượng.
Ví dụ: người thiện có
thiện tâm muốn tế độ người khác, để cho người khác có cơ hội làm phước
thiện bố thí, nên đến xin một vật cần thiết1 không chỉ định. Dù thí chủ
làm phước bố thí, hoặc không, người thiện vẫn có thiện tâm không thay đổi,
không có việc gì xảy ra giữa hai người.
Do đó: Nên gần gũi thân
cận với bậc Thiện trí.
-ooOoo-
CON NGƯỜI PHÀM NHÂN
^
Ð
ối
với hạng phàm nhân, trong mỗi người vốn có đủ 12 loại ác tâm (bất thiện
tâm) đó là: 8 tham tâm + 2 sân tâm + 2 si tâm, và cũng có thiện tâm và các
tâm khác.
- Khi ác tâm phát sanh
do theo đối tượng khiến tạo nên ác nghiệp gọi là người ác.
- Khi thiện tâm phát
sanh do theo đối tượng khiến tạo nên thiện nghiệp gọi là người thiện.
Trong mỗi phàm nhân có ác
tâm, có thiện tâm, khi ác tâm phát sanh, thì thiện tâm không sanh; khi
thiện tâm phát sanh, thì ác tâm không sanh. Như vậy, có thể nói rằng:
trong mỗi người có khi gọi là người ác; có khi gọi là người thiện, do bởi
ác tâm hoặc thiện tâm phát sanh khiến tạo ác nghiệp hoặc thiện nghiệp, có
đúng như vậy không?
Nếu đúng, để nhân cách hoá
cái tâm trở thành con người: con người bên trong, con người bên ngoài.
- Con người bên trong,
chính mình có 2 loại người: khi thì người ác, khi thì người thiện.
- Con người bên ngoài,
người khác cũng có 2 loại người: khi thì người ác, khi thì người thiện.
Muốn được hạnh phúc an
lành Ðức Phật dạy rằng:
- Không nên gần gũi thân
cận với kẻ ác; nên gần gũi thân cận với bậc Thiện trí.
Như vậy, kẻ ác bên ngoài:
đó là người khác, khi ác tâm phát sanh khiến tạo nên ác nghiệp. Khi ấy, ta
không nên gần gũi với họ, để tránh điều bất lợi, sự thoái hoá, sự thống
khổ lâu dài cho kiếp hiện tại lẫn kiếp vị lai.
Kẻ ác bên trong: đó là
chính mình, nếu khi ác tâm phát sanh, ta không nên theo ác tâm ấy mà tạo
ác nghiệp. Ta cần phải có chánh niệm, có trí tuệ tỉnh giác, tinh tấn diệt
ác tâm ấy đã phát sanh.
Bậc Thiện trí bên ngoài:
đó là người khác, khi thiện tâm phát sanh khiến tạo nên thiện nghiệp, có
tâm từ bi tế độ chúng sinh. Khi ấy, ta nên gần gũi thân cận với họ, để
được sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài cho kiếp hiện tại và nhiều
kiếp vị lai.
Bậc Thiện trí bên trong:
đó là chính mình, khi thiện tâm phát sanh khiến tạo nên mọi thiện nghiệp,
ta cần phải có tinh tấn làm cho thiện tâm tăng trưởng từ tam giới thiện
tâm cho đến siêu tam giới thiện tâm, đó là 4 Thánh Ðạo Tâm.
-ooOoo-
NIỀM THÔNG CẢM CON NGƯỜI
^
Trong cuộc sống hằng ngày,
chúng ta là những phàm nhân (không phải Thánh nhân) vốn có đầy đủ 12 ác
tâm (bất thiện tâm), 108 loại tham ái, 1.500 loại phiền não. Cho nên, mỗi
người trong chúng ta ít có ai tránh khỏi lỗi lầm, vì si mê, ác tâm phát
sanh khiến tạo ác nghiệp. Nếu khi thức tỉnh, người ấy biết ăn năn hối lỗi,
sửa chữa lỗi lầm, từ bỏ ác nghiệp, cố gắng tinh tấn tạo mọi thiện nghiệp
trở thành người thiện. Ðó là điều nên tán dương ca tụng, chúng ta nên có
niềm thông cảm với họ.
Thành ngữ có câu "nhân vô
thập toàn" nghĩa là con người không ai toàn thiện toàn mỹ về tất cả mọi
mặt; chắc chắn còn có chỗ sai sót, khuyết điểm nào đó.
"Con người" ở đây ám chỉ
đến hạng phàm nhân và một số bậc Thánh nhân còn tham ái phiền não, còn
tiền khiên tật do tích luỹ từ nhiều đời nhiều kiếp trong quá khứ.
* Như "con người" là bậc
Thánh Nhập Lưu không còn tà kiến và hoài nghi, là do đã diệt đoạn tuyệt
rồi, nên lúc nào cũng có chánh kiến và có đức tin trong sạch vững chắc nơi
Tam bảo; còn hạng phàm nhân vẫn còn tà kiến, hoài nghi... nên thấy sai
chấp lầm, hoài nghi....
Ðó là việc bình thường,
không có gì đặc biệt.
* Như "con người" là bậc
Thánh Bất Lai không còn tâm sân, là do đã diệt đoạn tuyệt rồi, nên chẳng
bao giờ có giận hờn; còn hạng phàm nhân, bậc Thánh Nhập Lưu, bậc Thánh
Nhất Lai vẫn còn tâm sân, nên có khi giận hờn....
Ðó là việc bình thường,
không có gì đặc biệt.
* Như "con người" là bậc
Thánh Arahán không còn tâm tham, sân, si là do đã diệt đoạn tuyệt hoàn
toàn, không còn dư sót, nếu còn chỉ có tiền khiên tật do tích luỹ nhiều
đời nhiều kiếp trong quá khứ. Cho nên, tâm của bậc Thánh Arahán lúc nào
cũng hoàn toàn trong sạch không bị phiền não làm ô nhiễm; còn hạng phàm
nhân, bậc Thánh Nhập Lưu, bậc Thánh Nhất Lai, bậc Thánh Bất Lai vẫn còn
phiền não, tham ái, nên tâm còn tham muốn và bị ô nhiễm bởi phiền não.
Ðó là việc bình thường,
không có gì đặc biệt.
* Như "con người" là Ðức
Phật Ðộc Giác, Ðức Phật Toàn Giác không còn ác tâm, phiền não, tham ái,
đặc biệt không còn tiền khiên tật nữa; nên hành vi, cử chỉ, nói năng không
thể nào có thể chê trách được.
Vậy, chỉ có Chư Phật mới
là bậc toàn thiện, toàn mỹ về tất cả mọi mặt mà thôi.
Mỗi người trong chúng ta,
có khi hành thiện, có khi hành ác, có khi tốt, có khi xấu, có ưu điểm, có
khuyết điểm... có khi mình lầm lỗi, có khi người khác lỗi lầm....
Vậy, nên biết mình, biết
người mà phải có niềm thông cảm với nhau.
Có điều quan trọng, nên có
trí nhớ biết mình, có trí tuệ sáng suốt, có sự tinh tấn cố gắng diệt mọi
điều ác, điều xấu, nên sửa chữa những khuyết điểm; và tinh tấn làm cho mọi
thiện pháp phát sanh; tinh tấn làm cho tăng trưởng thiện pháp đã phát
sanh, nên phát huy mọi ưu điểm càng thêm tốt đẹp.
Trong thời đại hiện tại
này, như chúng ta đã thấy, đã nghe, đã biết, không có một con người nào
gọi là toàn thiện và cũng không có một con người nào gọi là toàn ác cả.
Trong cuộc sống, con người
chúng ta không thể sống lẻ loi đơn độc một mình, mà hằng ngày phải giao
tiếp với mọi người trong xã hội.
Vậy, chúng ta nên tiếp xúc
với hạng người nào, và không nên tiếp xúc với hạng người nào, để cho đời
sống của mình được hạnh phúc an lành?
Ðó là một câu hỏi, là một
vấn đề thiết yếu cho cuộc sống mỗi người.
Như vậy:
- Nên thân cận với hạng
người có nhiều thiện pháp, ít ác pháp; có nhiều điều tốt, ít điều xấu...
để đem lại cho mình sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài.
- Không nên thân cận với
hạng người có nhiều ác pháp, ít thiện pháp; có nhiều điều xấu, ít điều
tốt... để tránh cho mình nhiều điều bất lợi, sự thoái hoá, sự khổ não
lâu dài.
Trong đời này, chúng ta
nên thận trọng, có trí tuệ sáng suốt biết nhận xét về con người.
- Quá khứ con người thiện,
hiện tại không hẳn là người thiện như vậy!
- Quá khứ con người ác,
hiện tại không hẳn là người ác như vậy!
Nhận định về con người,
chúng ta không nên chấp thủ quá khứ con người căn cứ từ thân thể của người
ấy, mà cần phải có trí tuệ sáng suốt nhận thức hiện tại, căn cứ tâm tính,
lời nói, việc làm của họ. Ví dụ:
Trước đây, người này gọi
là người thiện do bởi thiện tâm, nên ý nghĩ, lời nói, hành động với thiện
tâm ấy. Nhưng bây giờ người ấy có ác tâm phát sanh khiến cho ý nghĩ, lời
nói, hành động với ác tâm ấy. Như vậy, người này đâu còn là người thiện
như trước đây nữa.
Và trước đây, người này
gọi là người ác do bởi ác tâm khiến cho ý nghĩ, lời nói, hành động với ác
tâm ấy. Nhưng bây giờ người ấy thức tỉnh biết ăn năn hối lỗi, ác tâm không
sanh mà thiện tâm phát sanh, nên ý nghĩ, lời nói, hành động với thiện tâm
ấy. Như vậy, người này đâu còn là người ác như trước đây nữa.
Trong cuộc sống hằng ngày
ngay chính mình, khi thì ác tâm phát sanh, phiền não quấy nhiễu, tham ái
lôi cuốn... tự lừa dối mình, chính mình còn không tin nơi mình được, huống
gì người khác.
Cho nên, đối với người
khác, dầu quen biết nhau đã lâu hoặc mới quen biết, chúng ta nên thận
trọng, có trí tuệ sáng suốt nhận thức đúng đắn, có cơ sở vững chắc ngay
hiện tại về người ấy, trước khi đặt niềm tin vẫn là hơn!
Chúng ta là người Phật tử,
cần phải có đức tin trong sạch nơi Ðức Phật, Ðức Pháp, Ðức Tăng (bậc Thánh
Tăng), cùng chư bậc có giới đức trong sạch, làm nơi nương nhờ trong đời
sống của mình, chắc chắn chúng ta được hạnh phúc an lành, tuỳ theo phước
thiện và trí tuệ của mỗi người.
Vậy, nền tảng mọi nguồn
hạnh phúc an lành bắt đầu từ:
"Không nên thân cận với
kẻ ác,
Nên thân cận với bậc Thiện trí".
Hai pháp này là pháp đem
lại hạnh phúc an lành cao thượng, để mở ra con đường dẫn đến hạnh phúc an
lành cao thượng khác, từ tam giới cho đến siêu tam giới - Niết Bàn - pháp
diệt khổ sanh là diệt mọi cảnh khổ, an lạc tuyệt đối.
"Nibbànam paramam
sukham".
"Niết Bàn an lạc tuyệt đối".
Chứng ngộ Niết Bàn là cứu
cánh của mỗi người Phật tử chúng ta.