---o0o---
LỜI
NÓI ĐẦU (^)
Thiền : Ánh
bình minh ở phương Tây là cuốn sách đi kèm với quyển Ba trụ
Thiền. Ấn bản đầu tiên năm 1965, Ba trụ Thiền bán được 150000
bản tiếng Anh. Đến nay nó được dịch sang tiếng Đức, tiếng Tây ban
nha, tiếng Pháp, tiếng Bồ đào nha, tiếng Hòa lan, tiếng Ba lan. Chắc
chắn nó là một loại sách kinh điển của Thiền và sẽ tiếp tục
được sử dụng như cuốn sách hướng dẫn cho người tu luyện Thiền
trong những năm sắp tới.
Khi được xuất bản, cuốn Ba trụ
thiền gây tiếng vang lớn. Từ giữa thập niên sáu mươi đến
giữa thập niên bảy mươi, lão sư Kapleau đi ngang dọc khắp nước Mỹ
đáp lại lời mời đến thuyết pháp cho đủ mọi tầng lớp xã
hội.Ông nói chuyện ở trường cao đẳng,viện đại học, trung tâm
phát triển, và hội nghị chuyên đề; ông xuất hiện trước những
nhóm nhân sĩ, các tổ chức tôn giáo, và những nhóm tham vấn; ông
đi đến Canada, Mê hi cô, Costa Rica, Đức và ngay cả Ba Lan. Sự hiện
diện của ôngphong cách bình dị, kinh nghiệm và dãn dịkhẳng
định những gì đã hứa hẹn trong tác phẩm Ba trụ Thiền. Ông là
người phương Tây thấm nhuần Thiền. Hơn nữa, qua phong cách ứng
xử, cho thấy ông đã tiến sâu, len lỏi trong Thiền, cố gắng vượt
qua và giãi quyết được rất nhiều điều vốn đã từng cản trở
và làm thất vọng những người đang lắng nghe ông. Kết quả trứơc
tiên là từng cá nhân một, rồi đến một dòng người rồi một
biển người đến Rochester để nghiên cứu và thực tập với ông
ở trung tâm Thiền do ông thành lập.
Trong nhiều năm lão sư Kapleau đã
chủ trì nhiều cuộc hội nghị và khoá nhiếp tâm, thuyết pháp, cố
vấn cho Thiền sinh, và tiếp xúc đủ các hạng người, họ đến với
ông vì mong được sự khuyên bảo và hướng dẫn. Từ những kinh
nghiệm đó, ông mạnh dạn viết cuốn Thiền: Ánh bình minh ở phương
Tây.
Năm 1966 Trung Tâm Thiền ở Rochester
tổ chức khóa nhiếp tâm đầu tiên; năm 1968 một cơn hỏa hoạn tàn
khốc và thiêu rụi tất cả chỉ còn cái sườn toà nhà Trung tâm.
Bằng những kỹ năng , các thành viên nổ lực trong hai năm đấu
tranh với chính họ, với những người khác, với những chướng
ngại vật chất đề tạo nên một ngôi Thiền viện từ cái sườn
cũ. Trung tâm đã phát triển một cách qui mô kể từ lúc đó và
có nhiều sự cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, dù hỏa hoạn, bận rộn
với những đề án xây dựng, những thay đổi liên tục, những sinh
hoạt căn bản của Thiềntoạ thiền, nhiếp tâm , hội thảo, lễ
lạc và những buổi cầu nguyệnvẫn được tiến hành đều
đặn. Nhiều buổi lể truyền thống đã được chọn lại và điều
chỉnh để đáp ứng những đòi hỏi phù hợp với thời đại và
văn hoá của chúng ta, nhưng lão sư Kapleau kiên quyết và không
ngừng gìn giữ tinh thần Thiền được các lão sư Đại vân và
Bạch vân truyền lại.
Những đòi hỏi của lão sư Kapleau
đối với những người làm việc với ông cũng lớn như những
đòi hỏi được thực hiện ở tu viện Phát Tâm, nơi ông được
đào tạo.Ông không dung thứ sự tự buông thả hoặc tự ti, ông
cũng không chấp nhận các lời xin lổi hoặc lời cầu xin đặc biệt
.Ông mong đợi sự tận tâm và chăm chỉ. "Nếu trò không bằng
hoặc vượt thầy", ông nói," thì đều xem là thất bại."
Đây là người phương Tây vừa
đắc ngộ vừa ăn nói lưu loát, biết được những nghi ngờ, mối
quan tâm, và những hi vọng của những người thiên về kỹ thuật
đương thời. Hiếm có một sự kết hợp các phẩm chất như vậy.
Đọc giả phải biết mục đích thực
của cuốn sách này: như là khóa nhiếp tâm dành cho sự ngộ của
những người tham gia, vì thế cuốn sách được viết bởi người
thầy đắc ngộ, có một mục đích cuối cùngvì sự giác ngộ sau
cùng của đọc giả.
ALBERT LOW
Tác giả cuốn Thiền và sự quản lý sáng tạo
---o0o---
LỜI TỰA (^)
Cuốn sách đầu tiên của tôi, BA TRỤ THIỀN, đưa ra
những nguyên tắc và phương pháp về Thiền Phật giáo qua lời của
những Thiền sư Nhật bản, cổ lẫn kim, trao cho đọc giả tấm bản đồ
và la bàn vẽ ra từng bước của hành trình đến tự Ngộ. Sự quen
thuộc với giáo lý và cách thực hành này được kết hợp với
những nhân tố Thiền của Trung hoa và Ấn độ, tôi tin rằng, điều
thiết yếu liệu người ta có thấy đúng viễn cảnh của Phật giáo
mới phát triển ở phương Tây hay không. Đồng thời phải thừa
nhận rằng Phật giáo ở Nhật bản và các quốc gia khác ở châu Á
không tránh khỏi việc hoà lẫn với những nền văn hoá độc đáo
của từng nền văn minh. Bản sắc Phật giáo phải được gạn lọc
từ các tích lũy mang tính văn hoá. Đó không phải là công việc
đơn giản.
Thiền : Ánh bình minh ở phương Tây
cống hiến một nội dung cũ trong một hình thức mới. Nó phản ánh
sự tác động của Thiền ở những người châu Âu, Bắc và Nam
Mỹnhững phản ứng thân thiện và khác nhau của họtrong
chính mỗi hoàn cảnh văn hóa. Trong phong cách của Thiền, nó trả
lời những câu hỏi họ háo hức tìm kiếm và những hoài nghi
thẳng thừng của họ.
Cuốn sách này cũng là phương tiện
giúp đọc giả tham gia gián tiếp khoá nhiếp tâm, thời kỳ huấn
luyện chuyên sâu tách biệt là trọng tâm của việc tu Thiền, đưa
đến không chỉ là lời ám chỉ về niềm vui và sự diệu kỳ của
ngộ, mà là được miêu tả sống động bởi một số người Tây
phương đã trải qua kinh nghiệm độc đáo này.
Có rất ít sách về Thiền diễn đạt
đầy đủ về ý nghĩa của sự tụng niệm và những nghi thức, vốn
là thành phần không thể thiếu được của việc tu luyện tinh thần.
Một cố gắng được thực hiện ở đây để lấp chổ thiếu này,
không bằng phương pháp mô phạm mà qua những lá thư và những
cuộc đối thoại mang đến sự xoáy sâu vào những e dè của những
người mới tham gia vào lĩnh vực này. Để cung cấp những diễn
đạt có ý nghĩa về những thành khẩn như vậy , bản dịch mới bằng
tiếng Anh bao gồm những bài kinh Thiền chính yếu, được chọn để
diễn đạt trong tụng niệm.
Người ta nói rằng Thiền ở trên đạo lý nhưng đạo lý không nằm
dưới thiền. Câu phát biểu mâu thuẩn này, cùng với sự tự do
đặc biệt của Thiền, thoát khỏi sự đa cảm và những thuyết giảng
đạo đức, đã nảy sinh kiến giãi sai lầm là Thiền chối bỏ đạo
lý và làm ngơ trách nhiệm xã hội. Thật sự, đọc giả sẽ khám
phá, là nó hoàn toàn trái ngược. Thiền nuôi dưỡng hành vi đạo
đức có trách nhiệm bằng cách chế ngự ngọn lửa suy nghĩ tham,
sân, si đang đốt cháy nhân tâm, vì vậy giải thoát lòng từ bi và
yêu thương trong tim mỗi con người.
Mặc dù có nền văn chương Thiền bao
quát bằng tiếng Anh, Thiền Phật giáo đối với nhiều người vẫn
là tôn giáo phương Đông bí hiểm. Người ta hy vọng rằng Thiền
được trình bày ở đây, được chắt lọc qua kinh nghiệm của các
vị thầy người phương Tây, trong những cuộc tham vấn với những
học viên và những Tây phương người đam mê Thiền, sẽ nói trực
tiếp những nam nữ, đương thời ở phương Tây bằng một giọng quen
thuộc của thời đại và văn hóa của chúng ta.
Đọc giả sẽ chú ý là trong việc
dịch tên nước ngoài, đặc biệt với tên các Thiền sư Trung quốc
có nhiều chỗ không đồng nhất. Ở Nhật, tên người Phật tử Ấn
độ và Trung hoa đã được đọc theo tiếng Nhật , một thói quen tôi
không thể điều chỉnh gắn với một cuốn sách tiếng Anh, dù tên
đã Nhật hóa và tương đối dễ phát âm đối với người phương
Tây. Nhưng nó dường như cũng không tương đối hoàn toàn thuận
lợi cho những đọc giả quen với tên người nước ngoài được
Nhật hóa( hầu hết sách Thiền bằng tiếng Anh được dịch bởi các
nhà văn Nhật) để bỏ tất cả những tên như thế trong bản chuyển
thể nguyên gốc của nó, đặc biệt khi tên người Trung hoa gây ra
khó khăn lớn trong việc phát âm đối với đọc giả phương Tây
trung bình. Như sự dung hoà, tôi đả chọn cách -có lẽ không thoả
mãn đọc giả Ấn , Hoa, Nhậtsử dụng tên Nhật hoá khi nó
dường như quen thuộc và được sử dụng nhiều, và vẫn giữ phát
âm tiếng Hoa và tiếng Ấn trong trường hợp nó có sự quen thuộc
đối với đọc giả.
Đằng sau cuốn sách này là sự hộ
trì vô cùng to lớn của các vị Bồ tát từ cổ chí kim. Không có
những khích lệ và sự ủng hộ tích cực đó thì sách này sẽ
không bao giờ hình thành. Những người sau đây luôn hiện diện trong
đầu tôi:
Bodhin, một Thiền tăng ở trung tâm
Thiền Rochester , cùng phối hợp với tôi về mọi phương diện trong
cuốn sách này. Không có khả năng ngôn ngữ và sự cống hiến
của ông, công việc chọn lựa, biên soạn và sắp xếp nội dung
thành cuốn sách này sẽ gặp khó khăn vô cùng to lớn.
Albert Low hoan hĩ đồng ý viết lời
nói đầu, đọc bản thảo nhiều lần và đưa ra nhiều đề nghị quí
giá làm cuốn sách này hoàn chỉnh hơn .
Gail Graef , thư ký của tôi, khôn
khéo thúc dục và vỗ về, không để công việc chậm lại. Sự lưu
tâm chú ý của cô đến từng chi tiết cũng như việc đánh máy và
các kỹ năng khác là sự giúp đở rất lớn.
Tina Kjolhede dành miễn phí thời gian
rãnh của mình và kỹ năng biên tập của cô. Với đôi mắt sắc
bén và sự quan tâm chịu khó, cô đã rút gọn lời văn mà có
thể làm người đọc khó hiểu.
Toni Packer, người thầy lâu năm của
Trung tâm Thiền, đọc bản thảo với con mắt phê bình và đã đưa ra
nhiều lời khuyên cải thiện rất lớn chất lượng sách.
Richard Wehrman rộng lòng đóng góp
thời gian và tài năng của mình trong việc thiết kế bìa sách, bức
vẽ hình con cá ở trang tựa và ba hình vẽ ở phần "tụng niệm
".
Rafe Martin, chủ của tiệm sách Oxcart,
đã góp phần đáng giá trong việc chuẩn bị phần giới thiệu sách.
Bản dịch của Richard Clarke về "TÍN
TÂM MINH" rất có ích cho việc chuẩn bị bản mới nhất.
Polly Papageorge gánh vác nhiều công
việc đánh máy cũng như chuẩn bị những bửa ăn rất ngon không thể
phàn nàn. Trong bàn tay đầy năng lực và tận tụy của bà, các
công việc đáp ứng được những nhu cầu cần thiết kịp thời, tạo
nên một bầu không khí làm việc đầy khích lệ .
Đối với những người được đề
cập ở trên cũng như những thành viên của Trung tâm Thiền Rochester,
đã chấp nhận sự vắng mặt của tôi trong kế hoạch hằng ngày với
sự chịu đựng thông cảm, cho tôi bày tỏ lòng biết ơn chân thành
.
Rochester , Newyork ngày 8 tháng tư, 1978
PHILIP KAPLEAU
---o0o---
Mục lục | Phần 1a | Phần 1b | Phần 1c |Phần 2a |Phần 2b
Phần 3a | Phần 3b |Phần 3c |Phần 4a | Phần 4b |Phần 4c
Lời kết | Sách thiền | Về tác giả
---o0o---