Trang tiếng Việt

 Trang Nhà Quảng Đức

Trang tiếng Anh

Thiền Định Phật Giáo


 

 

 

 

THIỀN LUẬN

Quyển Trung

Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki
Dịch giả: Tuệ Sỹ

 

PHỤ LỤC[1]

 

 

Giá nhất giao, giá nhất giao.

Vạn lạng hoàng kim dã hiệp tiêu

,

Đầu thượng liệp, yêu hạ bao

Thanh phong minh nguyệt trượng đầu khiêu

 

Một lần này, một lần này

Muôn lạng vàng ròng cũng tiêu ngay

Trên đầu nón, ngang lưng đáy

Gió mát trăng trong đầu gậy khảy

 

Theo Tục truyền đăng lục,[2] bài thơ này do Huệ Viên làm ra; sư chứng ngộ vào lúc chợt té nhân đi dạo trong sân. Tuy nhiên, cũng bài Thơ đó, được dẫn ở chỗ khác, nói là do Chứng ngộ Tu Ngung làm ra.

2

 

Hối Đường Tổ Tâm[3] (l025-1100) học Thiền với Hoàng Bá Huệ Nam trải qua nhiều năm nhưng không thành công. Một hôm nhân đọc Truyền Đăng đến chỗ:

Tăng hỏi Đa Phúc Thiền sư: “Thế nào là một khóm trúc của Đa Phúc?”

“Một nhánh hai nhánh tà tà”

“Tôi không hiểu”

“Ba nhánh bốn nhánh cong cong”

Vấn đáp này làm sáng mắt Hối Đường. Ngài trở về với thầy là Huệ Nam, sau khi trải tọa cụ, vừa muốn làm lễ, Huệ Nam cườì và bảo: “Con giờ đã vào nhà rồi đó”. Tổ Tâm rất vui vẻ, nói: “Đạo Thiền mà vốn là như thế này, hòa thượng cần gì dạy người khán thoại đầu và ráng hết sức vạch tìm ý nghĩa?” Sư nói: nếu không bắt con gắng tìm tòi tham cứu như thế cho đến chỗ vô dụng, tâm tự thấy tự khẳng, tức là ta đã vùi lấp con rồi đó”

 

3

溪 聲 便 是 長 廣 舌

Khê thanh tiện thị quảng trường thiệt

山 色 豈 非 清 潔 身

Sơn sắc khởi phi thanh khiết thân

夜 來 八 萬 四 天 偈

Dạ lai bát vạn tứ thiên kệ

他 日 如 何 舉 似 人

Tha nhật như hà cử tự nhân.

 

Tiếng suối vốn thiệt lưỡi rộng dài (của Phật)

Màu non há chẳng thân thanh tịnh?

Tám muôn bốn nghìn kệ dêm nay

Ngày mai ăn nói làm sao nhỉ?

 

Đây là so từ ngòi bút của nhà thơ Tô Đông Pha[4] .Ông là một trong những ngôi sao văn học lớn làm ngời sáng thế giới văn hóa của nhà Tống. Khi đến Kinh Nam, nghe nói có Kiểu Thiền sư ngụ ở Ngọc Tuyền nổi tiếng về ứng đối sắc bén. Đông Pha cũng có tài lớn cỡ này. Muốn làm im tiếng Thiền sư, một hôm nhà thơ cải trang đến gõ cửa sư. Sư hỏi: “Ông tên gì?”- “Tên Bình (cái cân). Bình (nghĩa là cân đo) hết thảy các trưởng lão trong thiên hạ”. Kiểu bỗng HÉT lên một tiếng và nói: “nặng bao nhiêu?” Nhà thơ tự phụ này không đáp; và coi sư như bậc thầy của mình.

 

4

 

Khi Nghĩa Hải[5] đến kiếm Vân Cư Tề thiền sư, Tề hỏi : “Cái gì đến làm gì?”. Nhờ đó Nghĩa Hải bừng tâm chứng ngộ và làm ra bài thơ sau đây:

 

雲 居 甚 麽 物

Vân cư thậm ma vật

問 著 頭 恍 惚

Vấn trước đầu hoảng hốt

直 下 便 承 當

Trực hạ tiện thừa đương

由 是 生 埋 沒

Do thị sinh mai một

 

Vân Cư là gì nhỉ?

Sao hói đầu choáng thế?

Mà gục gặc "vâng vâng!”

Chôn sống cũng chẳng khỏi

 

5

 

二 十 年 來 行

Nhị thập niên lai hành cước

走 盡 東 京 西 洛

Tẩu tận Đông Kinh Tây Lạc

如 今 卻 到 棲 賢

Như kim khước đáo thê hiền

步 不 曾 移 著

Nhất bộ bất tằng di trước

 

Hai mươi năm rảo bước

Đi suốt Đông Kinh Tây Lạc

Bằng nay lại đến thê hiền

Chẳng hề dời thêm một bước.

 

Bài thơ này do từ Trí Nhu,[6]ở am Thê hiền, núi Lô Sơn, nhờ tham học với Viên Thông mà chứng ngộ.

 

Khi Ngưỡng Sơn theo Tổ Bá Trượng học Thiền, sư có cái lưỡi lém lĩnh, thậm chí Tổ nói một sư đáp mười. Bá Trượng nói: “Ta nghĩ, sẽ có người khác chiếu cố cho ông”. Về sau, Ngưỡng Sơn đến Quy Sơn. Quy Sơn hỏi: “Ta nghe trong lúc theo hầu Bá Trượng, Bá Trượng nói một ông đáp mười, có phải vậy không?”- Ngưỡng đáp: “không dám!”. Quy Sơn hỏi: “Đối với thâm nghĩa của Phật pháp, ông đã đến đâu?”- Ngưỡng sắp sửa mở miệng thì Quy Sơn hét lên. Ba lần hỏi, ba lần há hốc mồm và ba lần hét. Cuối cùng Ngưỡng Sơn bị khuất phục, cúi đầu rơi nước mắt, nói: “Thầy Bá Trượng tiên đoán tôi sẽ được ích lợi với người khác, ngày nay người đó chính thì là đây”. Tự mình xác chứng đạo Thiền, sư trải qua ba năm chuyên cần tham học. Một hôm, Quy Sơn thấy sư đang ngồi dưới một gốc cây. Ngài đến gần, đụng cây gậy vào lưng sư. Ngưỡng Sơn quay lại, Quy Sơn nói: “Này Tịch, giờ ông có thể nói một lời hay không?”- Ngưỡng Sơn đáp: “Không, không lời nào nữa, tôi không muốn nhờ vả ai hết”. Quy Sơn bảo: “Này Tịch, ông hiểu rồi đó[7].

 

7

 

Để hiểu chuyện Đạo Viên được kể dưới đây, cũng nên biết về Bá Trượng và con chồn già của ngài. Câu chuyện như vậy : Mỗi khi Bá Trượng giảng Thiền, có một ông già ở trong giảng đường ngài giảng. Một hôm, sau khi chúng hội giải tán, ông còn ở y đấy. Bá Trượng bèn hỏi ông là ai. Ông già đáp: Vào thời Phật Ca Diếp (Kasyapa-budha), tôi thường ngụ trong núi này. Một hôm có thầy Tăng hỏi nếu có hành giả dốc chí tu tập y có bị rơi vào pháp nhân quả không, tôi đáp rằng y không rơi vào nhân quả. Do thế mà tôi đọa vào đường súc sinh làm thân con chồn mãi từ thời Phật Ca Diếp. Ước mong của tôi là ngài ân cần nói cho một lời để cứu độ tôi thoát khỏi luân hồi. Bá Trượng nói: “Y không mê mờ nhân quả”

Ngài vừa nói xong câu thì ông già thâm đạt tác dụng của pháp nhân quả. Khi từ giã Bá Trượng, ông nói: “Bây giờ tôi thoát kiếp súc sinh rồi. Tôi hằng ở sau núi này, mong ngài hoan hỉ thiêu xác tôi theo tang lễ của một vị tăng”. Sau buổi ngọ trai, Bá Trượng cho gọi thị giả sửa soạn tang lễ cho một vị Tăng thị tịch, và hết thảy Tăng chúng đều được dự lễ. Tăng chúng không hiểu chuyện gì, vì không thấy ai chết ở đây cả. Nhưng, Bá Trượng dẫn đầu cả bọn đi về mé múi kia, và lôi ra một con chồn chết từ trong một hang đá. Theo như lời yêu cầu của ông già, mọi người làm lễ hỏa táng y nghi thức dành cho một nhà sư. Vấn đề bất lạc nhân quả và bất muội nhân quả là một vấn đề trọng đại không riêng cho các Phật tử của mọi tông phái mà cho tất cả các triết gia và những người có đạo tâm. Nói cách khác, đây là vấn đề ý chí tự do, là vấn đề ân huệ thần thánh là vấn đề nghiệp báo siêu việt; nó là vấn đề của luận lý và tâm linh của khoa học và tôn giáo, của nhiên giới và siêu nhân giới, của đạo đức và tín ngưỡng. Quả thực, nó là vấn đề căn bản nhất của mọi vấn đề tôn giáo. Nếu là bất lạc nhân quả, tức thị làm hư toàn bộ kế hoạch của vũ trụ; bởi vì chính luật nhân quả ràng buộc hiện hữu; và nếu không có thực tại của trách nhiệm đạo đức thì căn cơ cốt yếu của xã hội bị đổ nhào.

Vậy bất lạc và bất muội khác nhau ở chỗ nào? “Bất lạc” là một hành vi luân lý, và “Bất muội” là một thái độ tri thức. Điều thứ nhất đặt người ta đứng hẳn ra ngoài vòng nhân quả vốn là thế giới vạn biệt này và đấy là cái vòng hiện hữu của chúng ta. Đây là một điều trái cựa - ở trong mà lại ở ngoài. Trong trường hợp “bất muội” (không mê mờ), việc xảy ra là sự chuyển hướng của thái độ tinh thần chúng ta hướng về một thế giới ở trên nhân quả. Và do ở sự chuyển hướng nay toàn thể viễn quan về đời sống đón nhận một sắc thái mới mẻ đáng được gọi là bất lạc nhân quả.

Với ghi chú dẫn khởi trên, câu chuyện sau đây sẽ thành dễ hiểu. Đạo Viên[8] theo học Thiền với Huệ Nam (1002 - l069), một hôm nghe hai thầy tăng cãi nhau về công án “Bá Trượng dã hồ”[9] .Một thầy bảo: “Chỉ như bất muội nhân quả, cũng chẳng thoát khỏi cái kiếp con dã hồ”. Thầy kia lên tiếng tức thì: “Chính là bất muội nhân quả đó, còn ai từng đọa làm kiếp dã hồ nữa?” Nghe thế, Đạo Viên lấy làm lạ, đứng dậy bước lên núi mà không hay, khi vừa bước ngang dòng suối, hốt nhiên đại ngộ. Sau đó, khi đang kể lại cho Huệ Nam việc này, nước mắt chảy tràn trên má. Huệ Nam biểu sư hãy ngồi mà nghỉ trên ghế. Từ giấc ngủ say sưa, sư bỗng tỉnh dậy và thốt lên rằng :

 

人 果 不 洛 不 眯

Nhân quả bất lạc bất mị (muội)

僧 俗 無 忌 無 諱

Tăng tục vô ky vô húy

丈 夫 氣 如 王

Trượng phu khí vũ như vương

爭 受 囊 藏 被 蓋

Tranh thọ nang tàng bị cái 

一 條 慄 任 縱 橫

Nhất điều tức lật nhiệm tung hoành

野 狐 跳 入 金 毛 隊

Dã hồ khiêu nhập kim mao đội

 

Nhân quả bất lạc bất mị

Tăng tục chẳng kiêng chẳng ky

Trượng phu khí bốc như vua

Há chịu đẩy che lọng úp

Một cây gậy gai quơ ngang dọc

Dã hồ nhảy vào bầy sư tử

8

 

Thiên y Nghĩa Hoài, [10] hậu bán thế kỷ XI, con nhà chài lưới. Ít năm sau khi gia nhập Tăng chúng, sư đến Minh Giác học Thiền.

Minh Giác hỏi: “Ông tên gì?”

“Nnghĩa Hoài”

“Sao không đổi là Hoài Nghĩa?”

"Bây giờ thì được”

“Ai đặt tên cho ông?”

"Đã mười năm rồi, từ khi thọ giới"

“Ông đã mang bao nhiêu đôi giày rơm trong bước đường hành cước?”

“Ôi thôi, xin hòa thượng chớ đùa đai”

Bấy giờ Minh Giác hỏi: “Ta không xét nét những lỗi lầm, ông cũng vậy. Ông nói sao?”

Nghĩa Hoài không đáp. Tức thì, Minh giác tát cho một cái, bảo: “Ôi thôi cái gã nói lông bông này xéo đi!”

Một lân khác, Nghĩa Hoài gặp Minh Giác; Giác bảo: “Chẳng nhận, chẳng chối, chẳng vừa nhận vừa chối; ông nói sao?”. Nghĩa Hoài do dự, tức thì Minh Giác phóng ra một gậy. Bốn lần như thế. Bấy giờ Nghĩa Hoài lo việc cung cấp nước cho chùa. Nhân lúc đang gánh nước, thùng bỗng vỡ, nhờ đó hốt nhiên tỏ ngộ cái đạo lý lẩn quất trong mình. Bài thơ được làm ra để giải bày chỗ thấy của mình như sau:

 

二 三 四 五 六 七

Nhất nhị tam tứ ngũ lục thất

萬 仞 峰 頭 獨 足 立

Vạn nhận phong đầu độc túc lập

驪 龍 頷 下 奪 明 珠

Li long hàm hạ đoạt minh châu

一 言 勘 破 維 摩 詰

Nhất ngôn khám phá Duy-ma-cật,

 

Một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy

Muôn trượng đầu non một chân đế

Dưới cằm li long giựt minh châu

Một lời đủ phá Duy-ma đấy.

Minh Giác vỗ vào ghế khen hay.

 

9

 

Linh Thao thủ tòa[11], đồ đệ của Lặc Đàm Hoài Trừng Tổ sư. Tổ hỏi sư hiểu sao về Đạt ma Tây lại, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật. Linh Thao bày tỏ rằng không hiểu.

Lặc Đàm nói : “Trước khi xuất gia, ông làm gì ?”.

“Chăn trâu”.

“Chăn như thế nào?”.

“Sáng sớm cưỡi đi, chiều tối cưỡi về”.

Tổ sư nhận xét: “Ông thiệt ngu si quá đỗi”.

Nhờ đó mà sư đại ngộ, và giải bày như sau :

 

放 卻 牛 绳 便 出 家

Phóng khước ngưu thằng tiện xuất gia

剃 除 鬚 髪 著 袈 裟

Thế trừ tu phát trước ca sa

有 人 問 我 西 來 意

Hữu nhân vấn ngã Tây lai ý

柱 杖 橫 挑 囉 哩 囉

Trụ trượng hoành khiêu la lí la

 

Vứt bỏ giây chăn rồi xuất gia

Cạo râu cạo tóc khoác Ca-sa

Có ai hỏi ý từ Tây đến

Vác gậy quơ ngang la lí la.

 

10

 

Khi Vân Phong Văn Duyệt[12] đến với Đại Ngu Thủ Chi để tham học, sư nghe ngài giảng như vầy: “Này các thầy, mỗi ngày các thầy tụ nhau lại ngấu nghiến biết bao nhiêu cọng rau. Nhưng nếu gọi đấy là một cọng rau, khi vào Đại ngục, nó bắn ra như một mũi tên”. Rồi bước xuống, không nói gì thêm. Văn Duyệt hết sức kinh ngạc, chẳng hiểu ất giáp gì hết. Tối đến, sư vào phương trượng, Đại Ngu hỏi: “Đến tìm cái gì?” Duyệt đáp: “Tìm cầu tâm pháp”. Nhưng Đại Ngu không chịu dạy, mà chỉ bảo: “Bánh xe Chánh pháp chưa quay mà bánh xe cơm gạo đã quay trước. Những kẻ hậu sinh tươi trẻ khỏe mạnh như ngươi sao không đi xin ăn cho Tăng chúng? Ta chịu đói không rỗi rãnh, rỗi rãnh đâu mà nói Thiền với ngươi”. Duyệt không dám trái lời và để hết đời mình coi sóc việc cung cấp đầy đủ cho trù phòng của Tăng chúng. Chẳng bao lâu, Đại Ngu dời sang Thúy Nham và Văn Duyệt cũng đi theo. Khi sư xin Thúy Nham chỉ thị Thiền cho mình, Thúy Nham bảo: “Phật pháp chưa được sáng tỏ. Nay mùa tuyết lạnh, hãy đi kiếm than cho Tăng chúng.” Duyệt vâng lời làm y như thầy dạy. .Lúc trở về, Thúy Nham lại yêu cầu sư giữ việc thơ lại trong chùa, vì thiếu người mà không ai có thể bổ sung vào đó. Văn Duyệt chẳng vui, vì luôn luôn bị sai khiến làm những việc nghĩ ra không ăn nhập gì với Thiền hết; sư hận thầy mình ép buộc mình quá đáng. Nhân lúc đang làm việc phía sau hè, có lẽ tâm trí ngổn ngang trăm mối và tâm trạng căng thẳng khôn cùng, thình lình những cái khoanh của thùng gỗ sư đang ngồi rớt xuống và sư cũng té nhào luôn. Biến cố này là cơ hội tuôn tràn dồn dập ánh sáng vào phòng tối của tâm trí bị nhốt chặt trong đấy và sư chợt thấy cái mật chỉ mà tâm trí của Thầy mình lúc nào cũng vận dụng. Sư vội khoác áo và đến kiếm Thúy Nham. Nham mỉm cười chào đón và bảo: “Này duy-na[13], mừng cho việc lớn đã xong rồi!” Văn Duyệt lạy hai lạy và bước ra, không một lời từ giã.

 

11

 

Đồ-lăng-huyện, Úc sơn chủ,[14] đệ tử của Dương Kỳ (tịch 1049), thường cúng thực cho các Thiền tăng trên đường hành cước mỗi khi ngang qua chùa sư. Một hôm, sư tiếp đón một thầy tăng tử Dương Kỳ đến và hỏi tông chỉ Thiền của tổ sư của thầy tăng là gì? Thầy tăng nói: Sư tổ tôi thường hay hỏi môn đồ như sau:

“Có một thầy tăng hỏi Pháp Đăng: Trăm thước đầu gậy làm sao bước tới?”

Pháp Đăng bảo: “Á!”

Khi Úc nghe chuyện này, suy nghĩ rất nhiều. Đoạn dẫn trên đây là một bài kệ của Trường Sa Cảnh Sầm,[15] kệ nói:

 

Bách trượng can đầu bất động nhân

Tuy nhiên đắc nhập vị vi chân

Bách trượng can đầu tu tiến bộ

thập phương thế giới thị toàn thân.

 

Gậy đầu nghìn thước chẳng lung lay

Dù đã lên đây chưa thật đây

Chót gậy nghìn tầm còn bước nữa

Mười phương thế giới thiệt thân này.

 

Người đã lên đến chót vót đầu gậy, làm sao y có thể bước tới nữa? Nhưng ở đây cần một bước nhảy để chứng nghiệm Thiền.

Một hôm được mời ra ngoài, Úc cưỡi một con lừa khập khiễng, khi băng ngang qua một cây cầu, con lừa bị kẹt chân vào một cái lỗ, khiến sư bị té nhào xuống đất. Sư la lên, “Á!” Hốt nhiên tiếng la đánh thức cái ý bị che khuất của mình, và tỏ ngộ. Sư làm bài kệ để giải:

 

Ngã hữu thần châu nhất lõa

Cửu bị trần lao cơ tỏa

Kim triệu trần tận quang sinh

Chiếu kiến sơn hà vạn đóa

 

Ta có thần châu một hạt

Lâu bị bụi mờ che khuất

Ngày nay sạch bụi, sáng trưng

Soi thấy nghìn trùng non nước.

12

 

Hạt minh châu độc nhất mà Đồ- lăng- Úc tìm thấy sẽ giúp ta soi tỏ tâm hồn của Bạch Sơn Thủ Đoan[16]. Dương Kỳ, vốn cũng là sư tổ của sư, một hôm hỏi sư ai thọ giới làm tăng cho. Đoan đáp:

“Hòa thượng Đồ Lăng Úc.” Dương Kỳ bèn nói: “Ta nghe nói y từ trên con lừa què té xuống mà được tỉnh ngộ. Vậy ông có thuộc bài kệ của y làm không?” Đoan liền đọc hết bài kệ bắt đầu từ: “Ngã hữu thần châu nhất lõa..”

Khi sư đọc hết bài kệ, Dương Kỳ cả cười khoái trá và đột ngột rời chỗ ngồi.

Thủ Đoan ngạc nhiên; đêm ấy không ngủ được. Trời vừa hừng sáng sư đã đến trước sư tổ và hỏi cái ý của trận cười. Bây giờ là cuối năm, nên sư tổ hỏi: “Hôm qua ông có thấy mấy người đuổi tà chạy ngoài đường không.?”

Đoan đáp : "Bẩm, có.”

“So với họ, ông không hơn được một chút ; phải không ?”

Thủ Đoan lại kinh hãi nữa, hỏi : “Bẩm, ý muốn nói gì thế ? Xin dạy cho biết”.

Kỳ bảo: “Họ ưa bị cười, còn ông thì sợ bị cười”.

Đoan đại ngộ.

 

13

 

Tổ Ấn Cư Nạp quê Tử Châu, sống khoảng giữa thế kỷ XIX là một học giả lớn, tinh thông kinh Pháp Hoa và những tông phái khác của triết học Phật giáo; thậm chí những bậc trưởng lão cũng muốn học hỏi với sư. Sư có vẻ không hay biết gì về Thiền. Một hôm có người có tiếp xúc với các hoạt động của Thiền ở phương Nam. Y bảo rằng toàn thể thế giới Phật giáo của Trung Hoa đều được thâu tóm vào pháp môn của Đạt ma và Mã Tổ - một trong những hậu duệ tài ba nhất của Đạt Ma, hình như thỏa mãn một sấm ngôn của Bát-nhã-đa-la (Prajnàtala) và đã có ảnh hưởng lớn đối với các học giả Phật giáo của xứ này, đến nói cả những người có học và có hiểu, nổi danh khắp vùng đất Thục như Lượng công và Giám công, họ đã từ bỏ môn đệ hay đốt cháy kho sách luận giải của mình để chứng đạt pháp môn Thiền.

Cư Nạp rất xúc động về tường thuật của ông bạn Thiền này. Y hết sức khuyên sư hãy bước ra với đời mà tự mình chứng kiến mọi việc. Cư Nạp từ giã quê quán và du hành khoảng vài năm ở Kinh và Sở, nhưng không thấy có kết quả nào. Rồi sư tiếp tục dời bước về đông và ngụ tại Tương Châu, trải qua mười năm dưới Thiền sư Động sơn Vinh. Một hôm, sư đang đọc một bản luận giải về Kinh Hoa Nghiêm và xúc động sâu xa về đoạn văn sau đây, nhờ thế mà tỏ ngộ đạo lý của Thiền:

“Núi Tu-di (Sumeru) nổi lên giữa biển cả cao 84.000 do tuần (yojanas), đỉnh của nó không phải là chỗ vịn tay đặt chân mà lên được. Đây chỉ cho ngọn núi của 84.000 trần lao nổi lên tự đại dương của phiền não. Khi chúng sinh đạt đến chỗ vô tư vô vi đối với hết thảy các pháp, phiền não sẽ khô cạn. Trần lao giờ đây chuyển thành ngọn núi Nhất thiết trí, và phiền não trở thành biển Nhất thiết trí. Trái lại, nếu khởi tâm tư lự tức có nhưng vấn vít. Rồi ra phiền não càng thêm sâu, đường lên đỉnh núi của Phật Trí bị ngăn chận lại.”

Cư Nạp bèn nhận xét: “Thạch Cung nói rằng: “Không có chỗ ra tay” và Mã Tổ: “Vô minh từ quá khứ vô thủy nay đã tiêu tan hết thảy. Đây thực không phải là những lời hư dối !”.

14

 

Long môn Thanh viên Phật Nhân thiền sư, tịch năm 1120, trước tiên học Ti-nại-da (vinaja – luât); sau, nhân đọc kinh Pháp Hoa đến đoạn :   Thị pháp phi tư lương phân biệt chi sở năng giải “Pháp này vuợt ngoài lãnh vực của tư duy và phân biệt”. Điều này gây xúc động ở sư, nên sư đến kiếm giảng sư của mình và hỏi pháp siêu việt tri thức đó là gì. Giảng sư không soi sáng cho sư nổi; sư mới thấy rằng: nghĩa học và danh tướng không phải là duyên cớ để giải quyết việc lớn sinh tử.

Rồi Phật Nhân cuốn áo du hành sang Nam để tham kiến Thái bình Pháp Diễn. Nhân khi đi xin ăn ngang qua xứ Lư Châu, trợt chân té nhào xuống. Trong cơn đau đớn, thoảng nghe hai người chửi lộn nhau, người đứng can bảo: “Vậy là tôi thấy hai ông vẫn còn ôm ấp những phiền não.” Tức thì sư tỉnh ngộ.

Nhưng hễ có điều gì hỏi Pháp Diễn, Diễn cứ trả lời: “Ta không thể hơn ngươi; cứ tự mình mà hiểu lấy”. Có khi Pháp Diễn bảo: “Ta không hiểu; Ta không hiểu hơn người”. Lối nhận xét ấy càng khiến cho Thanh Viễn rất muốn biết Thiền. Sư nhất định nhờ Nguyên Lễ thủ tòa giải quyết vấn đề, nhưng Nguyên Lễ kéo tai sư vừa đi quanh lò lửa vừa bảo: “Tốt hơn hết là ông cứ tự hiểu lấy”. Thanh Viễn gằn giọng: “Nếu thật có Thiền sao không khui bí mật ra cho tôi? Thế mà ông lại lấy làm trò đùa sao?” Tuy nhiên, Lễ bảo sư: “Mai sau ông sẻ tỏ ngộ mới hay cái quanh co ngày này.”

Khi Pháp Diễn rời khỏi Thái Bình, Thanh Viễn từ giã ngài, và trải qua mùa kiết hạ ở Tương sơn, ở đây sư kết ban thâm giao với Linh Nguyên thiền sư. Bấy giờ Thanh Viễn xin chỉ giáo rằng: gần đây, tôi có biết một vi tôn túc ở đô thành, những lời của ngài hình như hợp với tri thức của tôi rất nhiều.” Nhưng Linh Nguyên khuyên sư hãy đến với Pháp Diễn, ngài vốn là vị tôn sư bậc nhất trong thiên hạ, và nói thêm rằng những ai mà lời nói nghe ra như dễ hiểu, họ chỉ là ông thầy trí giải chớ không phải là những Thiền sư thật sự.

Thanh Viễn theo lời khuyên của bạn, trở về với thầy cũ. Vào một đêm lạnh, sư ngồi một mình và cố khêu sáng đống tro trong lò lữa thử xem có còn lại một chút than đỏ nào không, thấy, tận dưới đống tro có một cục than nhỏ xíu bằng hạt đậu, sư tự nhủ rằng lý của Thiền cũng tự khơi mở y như đào sâu xuống tảng đá của tâm thức. Sư đặt quyển sử Thiền gọi là Truyền đăng lục trên bàn, mở mắt nhìn vào tiểu sử của Phá Táo Đọa, bỗng dưng tâm trí khai thông mà được chứng ngộ. Rồi sư làm một bài kệ như sau:

 

Điêu điêu lâm điểu đề

披 衤 夜 坐

Phi y chung dạ tọa

撥 火 俉 平 生

Bát hỏa ngộ bình sinh

Sự hiệu nhân tự mê

Khúc đạm thùy năng họa

Niệm chi vĩnh bất vong

Môn khai thiểu nhân quá

 

Chim rừng hót líu lo

Khoác áo ngồi đêm thâu

Khơi lửa, bình sinh tỏ

Quẩn trí thành bếp đổ.

Việc sáng nhưng người mù

Khúc nhạc ai hòa ca

Nghĩ đến khăng khăng nhớ

Cửa mở, ít người qua

 

Chuyện Phá Táo Đọa được nhắc nhở trên đây vốn như vầy : Phá Táo Đọa là cái tên do Huệ An đặt cho một đệ tử của mình ở Tung nhạc. Nghĩa đen là “bếp hư đổ” chỉ cho biến cố trong đời sống của một Thiền sư không tên họ, nhờ đấy mà được chú ý. Tại một làng vùng núi Tung nhạc, có một cái miếu bên trong điện có để một bếp lửa. Dân ở gần xa đến tế tự bếp lửa này không hở, họ luộc rất nhiều con vật để cúng.

Một hôm có nhà sư vô danh dẫn các tăng hầu vào miếu. Sư lấy gậy gõ vào bếp ba lần, và bảo: “Chặc? Bếp ơi là bếp! Mi há không phải chỉ là bùn gạch hiệp thành sao? Thánh linh đâu nơi mi vậy? Sao mi đòi luộc nhiều mạng vật để cúng như thế?” Nói ông, ông lại gõ vào bếp ba lần nữa. Bếp liền nghiêng đổ xuống đất vỡ ra từng mảnh.

Chốc lát, chợt có một người áo xanh nón cối chạy lại gần sư cúi đầu lạy. Sư hỏi ông là ai. Y đáp: “Tôi là Tào thần của miếu này. Tôi ở đây rất lâu do nghiệp báo đời trước của mình. Nay nhờ nghe “pháp vô sinh” của thầy mà thoát khỏi ràng buộc thác sinh lên trời. Đến đây để hết lòng bái tạ Thầy.” Sư bảo: “Vô sinh là bản tính của người, chẳng phải nhờ ta thuyết pháp”.Thần lại lạy và biến mất.

Sau đó, các Tăng hầu và các người khác hỏi sư: “Chúng con theo hầu thầy rất lâu, nhưng chưa hề được nghe chính ngài giảng pháp. Táo thần được thầy dạy cho pháp chỉ gì mà có thể thác sinh ngay trên trời ?”

Sư nói: “Ta chỉ bảo nó là nó do bùn gạch hiệp thành  chứ chẳng có đạo lý gì khác dạy riêng cho nó.”

Các tăng hầu và những người khác đứng im không nói.

Sư lên tiếng: “Hiểu không?”

Vị chủ sự thưa: “Bẩm, chúng con không hiểu.”

Sư tiếp lời: “Tánh bản hữu của hết thảy các pháp[17] -Tại sao các ông không hiểu? “

Các thầy tăng bèn lạy, sư bèn bảo : "Đổ rồi ! Đổ rồi!” Vỡ rồi! Vở rồi !”

 

15

 

Lặc đàm Văn Chuẩn[18] (l061-1115) tự thiếu thời đã gia công tinh cứu triết lý đạo Phật nhưng về sau lại bỏ, nói rằng không quan tâm lắm. Rồi sư khởi sự học Thiền. Sang phương Nam ngụ với Qui sơn Chân Như trải qua nhiều năm nhưng chẳng có tiến bộ nào. Sư đến kiếm Cửu phong Chân Tịnh một đại thiền sư khác đương thời.

Tịnh hỏi: “Quê quán ở đâu?”

“Hưng nguyên phủ”

“Vừa từđâu đến đây?”

“Đại ngưỡng”

“An cư mùa hạ ở đâu?”

“Ở Quy sơn”

Bấy giờ Chân Tịnh dang tay ra bảo: “Tay ta sao lại giống tay Phật thế?”

Văn Chuẩn mù tịt không trả lời được câu nào.

Tịnh quở: “Trước thì ông trả lời ta từng câu từng câu rõ ràng sáng sủa. Vừa nhắc đến bàn tay Phật thì lại bí. Hỏng ở chỗ nào?”

Chuẩn thú là không hiểu. Tịnh nói: “Mọi cái đều mở rộng hết ra trước mắt ngươi. Còn dạy cái gì nữa?”

Trải qua mười năm, Văn Chuẩn ở lại với thầy mình là Chân Tịnh; thầy đi đâu thì đi theo. Tịnh là một ông thầy im lặng không có chỉ giáo riêng biệt cho bất cứ ai, dù môn nhân càng ngày càng nhiều ra. Nếu có một thầy tăng vào thất của ngài để xin chỉ giáo, ngài cứ nhắm mắt và quỳ, chẳng nói gì hết. Nếu thấy có ai đến, ngài đứng dậy, đi ra vườn cuốc đất với những người làm vườn. Đấy là lại tiếp xúc với môn nhân rất thường của ngài. Văn Chuẩn thường nói với bạn mình, tên Cung, rằng: “Thầy không có ý dạy pháp cho môn nhân sao? khó mà hiểu nổi!”.

Một hôm, nhân đưa gậy khơi ngòi nước để giặt áo, tâm trí đột nhiên tỉnh ngộ; sư chạy kiếm thầy và kể cho thầy nghe tất cả việc đã xảy ra. Nhưng thầy lạnh lùng mắng cho: “Ở đây sao dám lộn xộn thế?”

 

16

 

Khắc cần Phật Quả[19], tịch năm 1135, vốn dòng dõi nhà Nho. Thiếu thời đã thuộc rất nhiều sách vở. Một hôm dạo chơi chùa Diệu tịch, tình cờ đọc được sách Phật, nghe như đang nhớ lại những ký ức xa xưa. Sư nghĩ: “Kiếp trước chắc mình là một ông thầy tu”

Sau đó, sư thọ giới làm tăng, chuyên cần tinh cứu triết lý đạo Phật. Nhân lúc bịnh cơ hồ sắp chết, sư nghĩ: “Con đường chân chánh dẫn đến Niết bàn theo như chư Phật giảng dạy không nằm trong văn cú. Muốn tìm thấy trong thanh và sắc, thì chỉ còn cách chết mà thôi”. Đến hồi bình phục, sư từ giã phương pháp cũ đến kiếm Thiền sư Chân giác Thắng. Lối dạy của Thắng là lấy dao chích vào cánh tay cho chảy máu rồi bảo mỗi giọt máu chảy ra từ Tào khê. Tào khê là nơi Huệ Năng, Tổ thứ sáu của Thiền tông Trung Hoa, thiết lập tông phái của ngài, và câu nói trên ám chỉ rằng phải đem sinh mệnh ra mà thủ đắc Thiền.

Được gợi hứng như thế, Phật Quả bái phỏng rất nhiều Thiền sư. Họ rất cảm kích bởi sự thành đạt của sư, có vị còn nghĩ rằng chính sư sẽ là người dựng lên một tông phái đặc sắc mới trong pháp môn của Lâm Tế. Cuối cùng, sư đến kiếm Pháp Diễn ở chùa Ngũ tổ, nhưng Pháp Diễn không chịu ấn chứng kiến giải Thiền của Phật Quả. Sư nghĩ rằng Pháp Diễn cứ một mực nói ngược lại mình, bên thốt lên những lời vô lễ rồi tức giận bỏ đi. Khi sắp sửa rời khỏi Pháp liễn, chỉ nghe nói: “Đợi đến khi bịnh ngặt, bấy giờ ông mới nhớ đến tôi”.

Sư ở Kinh sơn, mắc chứng thương hàn rất nặng, cố nhặt hết chỗ thấy bình nhật bằng tất cả kinh nghiệm Thiền đã từng đạt được trước kia, nhưng chẳng giúp được gì. Sư bèn nhớ đến lên dự đoán của Pháp Diễn. Vì vậy, sư cảm thấy tốt hơn nên trở lại chùa Ngũ tổ. Pháp Diễn vui vẻ thấy gã đồ đệ ăn năn đã trở về lại. Không bao lâu, Diễn có khách, khách vốn là quan đề hình đã treo ấn từ kinh trở về. Khách hỏi về đạo lý Thiền.. Pháp Diễn nói :

“Quan đề hình có biết một bài thơ tiểu diễm mà bọn Thiền chúng tôi nhớ mài mại hai câu cuối không? Đó là:

 

Tần hô Tiểu Ngọc nguyên vô sự

Chỉ yếu Đàn lang nhận đắc thanh

 

Cô nàng gọi mãi nhưng vô ích

Chỉ thằng tốt mã nghe ra thôi.

 

Nghe đọc xong, viên quan trẻ nói: “Vâng, vâng thưa đại sư, Nhưng sư bảo ông đừng có nghe theo dễ dàng như thế.

Từ ngoài trở vào, vừa nghe cuộc đàm đạo này Phật Quả hỏi: “Nghe nói hòa thượng đọc bài thơ tiểu diễm cho quan đề hình lúc tôi ra ngoài. Đề hình có hiểu không?”

Pháp Diễn đáp: “Y nhận ra tiếng”.

Phật Quả nói: “Câu thơ nói : Chỉ thằng tổ mã nghe ra thôi; nếu như đề hình nghe ra tiếng y lầm lẫn ở chỗ nào?”

Không trả lời thẳng câu hỏi, Pháp Diễn bảo: “Ý Tổ sư Tây lại là gì? Cây bách trước sân. Thế là thế nào?” Tức thì tầm mắt Phật Quả mở ra mà thấy đạo lý của Thiền . Sư chuồn ra khỏi thất, chợt thấy một con gà đang xóc cánh mà gáy. Sư nói : "Đấy há không phải là tiếng?” Rồi sư làm bài thơ sau đây:

 

金 鴨 香 銷 錦 繡 幃

Kim áp hương tiêu cẩm tú vi

Sênh ca tòng lí túy phò qui

Thiếu niên nhất đoạn phong lưu sự

Chỉ hứa giai nhân độc tự tri

 

Ngỗng vàng màn gấm hết hương rồi

Say giữa đàn ca đỡ dậy thôi

Một đoạn phong tình qua tuổi trẻ

Dành riêng ngưòi đẹp nhận ra ngươi[20]

 

Pháp Diễn góp lời thêm: “Việc lớn một đời của Phật và Tổ, không phải bọn căn nhỏ chất kém mà có thể tạo nghệ được Ta giúp vui cho người đó”.

 

 

Huệ cần Phật Giám[21] ở Thái Bình trải qua nhiều năm học hỏi Thiền với nhiều vị tôn túc và nghĩ mình đã thành tựu viên mãn. Nhưng Ngũ tổ sơn Pháp Diễn không chịu ấn chứng cho sở kiến, nên lòng phẫn hận. Sư từ giã như đồng bạn là Phật Quả. Nhưng Phật Quả thì quay về Ngũ tổ và nhờ ngài mà chứng ngộ triệt để. Phật Giám cũng trở về một đỗi, nhưng thực tâm thì muốn đi nơi khác. Tuy nhiên, Phật Quả khuyên sư hãy ở lại với thầy, bảo rằng: “Chúng ta mới rời nhau hơn một tháng nhưng so với lần trước, sư huynh thấy tôi ra sao?”. Sư đáp: “Chỗ ngờ của tôi là ở đấy”.

Ý nghĩa của cuộc bàn luận này là Phật Quả, như đã kể ở trên, đã chứng ngộ ngay sau khi trở về với thầy cũ của mình. Sự kiện đó, xảy ra trong một tháng cách mặt đồng bạn, đã tao ra một biến chuyển trong đời tâm linh của Phật Quả, khiến cho Phật Giám lấy làm lạ đâu là nguyên nhân và ý nghĩa của sự cải hóa ấy.

Phật Giám quyết định ở lại Ngũ tổ sơn với lão sư Pháp Diễn của mình và người bạn tốt Phật Quả. Một hôm, Pháp Diễn đề cử vấn đáp giữa Triệu Châu và một thầy tăng:

Tăng hỏi : ‘Thói nhà của hòa thượng là gì?”

Châu đáp: “Lão tăng tai điếc, xin nói to hơn”.

Tăng lặp lại câu hỏi

Triệu Châu bèn nói: “Ông hỏi thói nhà của ta, và ta hiểu thói nhà của ông rồi đó”.

Vấn đáp này làm cho tâm trí của Phật Giám khai thông tỏ ngộ. Bấy giờ sư hỏi Pháp Diễn: “Xin thầy chỉ thị cho đạo lý rốt ráo của Thiền là gì?” Thầy đáp: “Sum la vạn tượng được ấn thành Nhất pháp”. Phật Giám đảnh lễ và rút lui.

Về sau, khi Phật Giám nói chuyện về Thiền, có nhắc đến chuyện Đông Tự hỏi Ngưỡng Sơn về Trấn hải minh châu[22]. Nói đến chỗ “không có lý để tỏ bày”, Phật Quả hỏi: “Đã bảo minh châu nằm sẵn trong tay, tại sao lại còn không lời để đối đáp, không lý để tỏ bày?”. Phật Giám chẳng biết trả lời làm sao. Nhưng, hôm sau sư bảo: “Đông Tự chỉ muốn có một hạt châu mà thôi, nhưng cái điều Ngưỡng Sơn đưa ra chỉ là cái giỏ tre cũ kỹ”. Phật Quả ấn chứng sở kiến này, nhưng khuyên sư hãy gặp riêng hòa thượng.

Một hôm, bước vào phương trượng của hòa thượng, vừa sắp mở lời thì hòa thượng mắng chửi thậm tệ. Phật Giám khốn nạn phải lính quýnh rút lui. Trở về liêu, đóng cửa nằm mà lòng hận thầy không thôi.

Phật Quả âm thầm biết chuyện đó đi đến liệu đồng bạn và gõ cửa. Phật giám gọi ra: “Ai đó?”. Khi biết đấy là ông bạn thân Phật Quả, sư bảo Phật Quả hãy vào. Quả e dè hỏi: “Sư huynh có gặp lão hòa thượng không? Việc bái phỏng ra sao?”. Sư phiền trách bạn rằng: “Bởi nghe sư huynh khuyên nên tôi ở lại đây; kết cục việc lừa phỉnh này là gì? Tôi đã bị lão hòa thượng mắng chửi thậm tệ”. Phật Quả bật cười ha hả và bảo: “Huynh có nhớ ngày kia huynh nói gì với tôi không?”. Phật Giám ý hỏi: “Nghĩa là gì?”. Quả bèn thêm: “Há không phải sư huynh bảo rằng Đông Tự chỉ muốn hạt châu mà thôi, còn cái điều Ngưỡng Sơn đưa ra là cái giỏ tre cũ kỹ?”

Khi nghe đồng bạn nhắc lại câu nói của mình, Giám thấy ngay yếu điểm. Rồi thì, cả hai Quả và Giám được hòa thượng gọi; vừa thấy hai người, ngài nói ngay: “Mừng cho anh Cần, việc lớn đã xong !"

 

18

 

Phật đăng Thủ Tuân[23] (l079-1134) khởi sự học Thiền với Quảng giam Anh. Sau đó, đến Thái bình, nơi Phật Giám cư ngụ, nhưng không biết làm cách nào để nắm được Thiền. Sư quấn chăn lại thề rằng: “Đời này mà không thấu suốt lẽ Thiền, sẽ không bao giờ dở chăn ra mà nằm nghỉ. Ngày ngồi thiền, đêm đứng dậy, sư dốc chí tinh nghiên Thiền cần mẫn cơ hồ mất cha mất mẹ. Cứ bảy ngày, rồi bảy ngày như thế trôi qua, nhân lúc Phật Giám thượng tướng thuyết pháp, rằng: “Sum la vạn tượng được ấn thành Nhất pháp”. Nhờ đó mà Thủ Tuân sáng mắt ra. Phật Giám bảo: “Tiếc thay một hạt minh châu bị gã phong điên lượm được.”

Rồi ngài bảo Tuân: “Linh Vân nói rằng: (tự tùng nhất kiến đào hậu, trực chí như kim bất cánh nghi) “Một lần từ thấy hoa đào đó, cho đến bằng này hết cả ngờ”. Cái chỗ người ta không còn ôm ấp mối ngờ ấy là gì?”.

Tuân đáp: “Đừng nói Linh Nguyên không hề ôm ấp một mối ngờ; thực tình chính nay chẳng thể có mối ngờ bị ôm ấp ở đâu cả”.

Giám nói: “Huyền Sa quở Linh Nguyên rằng: “Đúng thì có đúng đấy, nhưng chưa thật thấu triệt”. Giờ hãy bảo cho ta biết cái chỗ chưa thấu triệt này ở đâu?”.

Tuân đáp: “Con cảm kích sâu đậm tấm lòng thiết tha như bà mẹ của Thầy”. Giám đồng ý lời giãi bày này. Rồi thì, Tuân làm một bài kệ sau đây:

 

Chung nhật khan thiên bất cử đầu

爛 蔓 始 枱 眸     

Đào hoa lạn mạn thủy đài mâu

君 更 有 遮 天 網

Nhiêu quân cánh hữu già thiên võng

便

Thấu đắc lao quan tức tiện hưu.

 

Trọn ngày nhìn trời mà không ngẩng đầu

Khi thấy hoa đào rậm rạp mới nhướng mi

Giả sử cho ngài có lưới trùm trời đất

Qua khỏi quan ải rồi hãy nghĩ đi.

 

Viên ngộ Phật Quả, nghe chuyện này, hơi ngờ chỗ chứng của Thủ Tuần. Ngài nghĩ, phải để tự mình chứng kiến thực tình Tuân là như thế nào. Ngài cho gọi sư đến và cùng đi dạo núi với sư. Khi họ đến một đầm nước sâu, Phật Quả đẩy mạnh đồng hành của mình xuống nước. Không đợi lâu, ngài hỏi ngay:

“Trước khi Ngưu Đầu chưa thấy Tứ tổ thì sao?”

“Đầm sâu, nhiều cá”

“Về sau thì sao?”

“Cây cao vời gió”

“Khi thấy và chưa thấy thì sao?”

“Chân co chân duỗi”

Cuộc thử thách hoàn toàn vừa ý Phật Quả, và do đó Phật Quả đã là bá phụ của Thủ Tuần về mặt chánh tín[24].

 

19

 

Hương Nghiêm[25] hỏi một thầy tăng : “Từ đâu đến ?”

- Từ Qui Sơn đến.

- Gần đây hòa thượng có dạy lời gì ?

Thầy tăng đáp:

- Có người đến hỏi ý chỉ của Tổ sư từ Tây lại là gì thì hòa thượng đưa cây phất tử lên.

Hương Nghiêm mới hỏi :

- Các huynh đệ ở đó hiểu ý chỉ của hòa thượng ra sao?

- Họ diễn giải rằng hòa thượng muốn nói tức sắc minh tâm, phụ vật hiển lý.

Hương Nghiêm bảo: Hiểu thì phải hiểu ngay. Nếu không hiểu, lý luận có ích chi?”

Thầy tăng liền hỏi sư hiểu hòa thượng Qui Sơn như thế nào?

Nghiêm đưa cây phất tử lên.

Linh Vân[26] là đồ đệ của Qui Sơn Linh Hựu. Khi theo ngài học đạo, nhân tình cờ thấy hoa đào mà ngộ đạo, có làm kệ nói về cơ duyên này như sau:

 

  

Tam thập niên lai tầm kiếm khách

落 葉

Kỷ hồi lạc diệp kỷ trừu chi

后      

Tự tùng nhất kiến đào hoa hậu

Trực chí như kim bất cánh nghi

 

Ba chục năm qua tìm kiếm khách

Bao hồi lá rụng với cành trơ

Một lần từ thấy đào hoa đó

Cho đến bằng nay hết cả ngờ.

 

Thạch Cung Huệ Tạng[27], trước khi xuất gia làm Thiền tăng, vốn là một thợ săn chẳng ưa gì các sa môn; vì họ hay chê cái nghề săn bắn này. Một hôm, nhân đuổi một con hươu chạy ngang qua trước am của Mã Tổ. Mã Tổ ra đón lại. Thợ săn hỏi:

“Hòa thượng có thấy hươu chạy qua trước cửa không?”

Tổ sư hỏi: “Ông là ai ?”

- Thợ săn.

- Biết bắn không?

- Biết !

- Một mũi tên ông băn được mấy con ?

- Một mũi tên một con.

Mã Tổ tới bảo :

- Vậy là ông không biết bắn.

Thợ săn hỏi :

- Hòa thượng biết bắn không?

- Biết chắc đi.

- Một mũi tên hòa thượng bắt được mấy con?

- Một mũi bắn một bầy.

- Đây là những sinh vật của tạo hóa, sao lại tiêu diệt cả bầy chỉ bắn một mũi ?

- Biết thế, sao ông không tự bắn mình.

- Bảo tôi bắn lấy tôi, làm sao ra tay được?

Mã Tổ tức thì kêu lên:

- Gã này nhiều kiếp vô minh phiền não, ngày nay dứt tuyệt.

Rồi thì, thợ săn Thạch Cung bẻ gãy cung tên và trở thành đồ đệ của Mã Tổ.

Sau khi trở thành Thiền sư, ngài mang theo một cây cung và một mũi tên, sẵn sàng bắn, và dọa những nhà sư đến gần hỏi han. Sư Tam Bình đã dược đối xử như thế. Thạch Cung kêu lên: “Coi chừng tên?”. Tam Bình phanh ngực ra bảo: “Đó là mũi tên làm chết người; còn mũi tên làm sống người ở đâu?”. Thạch Cung gảy vào dây cung ba lần. Bình cúi lạy Cung nói: “Ba mươi năm qua ta dương một cung và hai mũi tên, mà nay chỉ bắn được một nửa Thánh nhân.”

Rồi sư bẻ gãy cung tên và từ đó không bao giờ dùng đến.

 


 

[1] Phần này gồm một số “Tôki-no-ge’ (xem Bộ Thượng tr.248) của các Thiền sư và những cơ duyên chứng ngộ của họ, hi vọng sẽ giúp những vị khảo cứu về tâm lý tôn giáo có đầu mối lẫn vàotâm trí của hành giả Thiền vốn được tôi luyện cho chứng nghiệm rốt ráo. Nếu khảo cứu liên hệ với thủ thuật tu tập công án, bản chất của Phật giáo Thiền tông sẽ được soi sáng thêm nhiều.

[2] Tục truyền đăng lụcgồm 36 quyển, chứa đựng  tiểu sử  các Thiền sư khoảng giữa hậu bán thế kỷ X và thế kỷ XIV. Tác phẩm này tiếp theo Truyền đăng lục. Về Huệ Viên, xem ở quyển XX và Tu ngung, quyển XIV

[3] Tục truyền đăng lục, quyển XV

 

[4] Tục truyền đăng, XX.

 

[5] Tục truyện đăng, XI.

 

[6] Tục Truyền đăng, XII

[7] Trích bởi Thạch ốc Thanh Hồng trong Ngữ  lục

 

[8] Tục truyền đăng, XVI

[9] Công án được ghi trong Vô Môn Quan, gọi là Tổ Bách Trượng và con chồn hoang

 

[10] Tục Truyền đăng, VI

 

[11] Tục Truyền đăng, V.

[12] Tục truyền đăng, IX

[13] Skt. : Karmãdãna. Một chức sự trong Thiền viện. gần giống với thầy chủ tế, đôi khi là quản đốc hay giám sự.

 

[14] Tục truyền đăng,  XIII

[15] Truyền đăng lục, X

[16] Tục Truyền Đăng, XIII

[17] Tánh bản hữu của các pháp là: sinh tức vô sinh. Đạo lý này vốn được các nhà Tánh Không luận của Đại thừa tích cực quảng diễn; theo đó, mọi smh khởi đều do nhân duyên, do đó chúng không có tự tính. Không tự tính tức không tự hữu: không tự hữu tức không hiện hữu hay vô sinh. (D.G.)

 

[18] Tục truyền đăng, XXII.

 

[19] Tục truyền đăng, XXV. Sư nổi tiếng nhờ là tác giả của Bích Nham Lục. Tước hiệu là “Viên Ngộ Thiền Sư” .

 

[20] Bài thơ này đã được trích ở Bộ Thượng.

 

[21] Tục truyền đăng, XXV

 

[22] Trấn hải minh châu: Ngưỡng Sơn tham bái Như Hội ở Đông tự (TL. 742-823). Hội hỏi: “Người quê ở đâu?” - “Người ở Quảng Nam” -  “Nghe nói ở Quảng Nam có Trấn hải minh châu phải không?” – “Thưa phải” – “Hạt châu ấy ra sao?” – “Trăng tối thì ẩn; trăng sáng thì hiện”. “Có mang theo đó không?” – “Thưa có” – “Sao không trình cho Lão Tăng coi?” – “Hôm qua tới Qui Sơn cũng vì đòi hạt châu ấy, nhưng không lời để nói, không lý để bày”

 

[23] Tục truyền đăng, XXIX

 

[24] Phụ lục trong nguyên tác Anh ngữ đến đây là hết. Nhưng bản dịch Pháp văn có ghi thêm,chúng tôi vì theo đó mà dịch thêm. (D.G )

 

[25] Truyền đăng lục. XI.

 

[26] lbid, XI

 

[27] lbid, VI và XIV

 

 

 

----o0o---

 

 

Mục lục Thiền Luận 02

 

----o0o---

Vi tính: Diệu Tánh - Diệu An
Trình bày: Nhị Tường - Vĩnh Thái

Cập nhật: 5-2007


Webmaster:quangduc@quangduc.com

Trở về Trang Mục Lục

Đầu trang

 

Biên tập nội dung: Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng
Xin gởi bài mới và ý kiến đóng góp cho Trang Nhà qua địa chỉ: quangduc@tpg.com.au
Địa chỉ gởi thư: Tu Viện Quảng Đức, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic. 3060. Tel: 61. 03. 9357 3544