Chúng tôi học Kinh (12)
Chúng Tôi
Học Hoa Kinh Duy Ma Cật
Phẩm 1 : Quốc Độ
(“Bồ tát Tịnh Phật Quốc Độ” hay “Quốc Độ
Phật”)
Tâm Minh
Thân
kính tặng ACE Áo Lam
Đây là
bộ Kinh mà ACE chúng tôi đã “nghe danh” từ những năm 60, khi mới “ra nghề”
huynh trưởng mà mãi đến nay (1) hơn 20 năm sau mới được học ! như vậy đủ
biết chúng tôi nao nức như thế nào ! Hồi đó sư bà Bổn sư của chị em chúng
tôi ( hầu hết các chị em trong đoàn Liên Hương là đệ tử của sư bà Diệu
Không) không cho học kinh này , Sư bà bảo: “rồi lớn lên một chút nữa các
con sẽ được học, lúc đó sẽ hiểu lý do luôn, đừng có hỏi lôi thôi!”
Quả thật bây
giờ chúng tôi đã hiểu rõ lời sư bà , và có dịp hỏi sư bà những chỗ vướng
mắc của Kinh vì bà ra vào Saigon-Huế luôn, chúng tôi lên hầu thăm bà rất
dễ dàng.
Bộ Kinh này
tương đối dễ tìm, vì đã được Việt dịch rồi. Phần nhiều ACE chúng tôi có
trong tay tài liệu giảng dạy của thầy Thanh Từ ( “Kinh Duy Ma Cật giảng
giải”) vài người có của thầy Huệ Hưng hay của ông Đoàn Tung Còn và vài ACE
khác được nghe giảng ở Xá Lợi, Vĩnh Nghiêm ( thầy Từ Thông, thầy Trí Quảng
) cho nên những buổi học Kinh Duy Ma Cật tương đối “sôi nổi” hơn những bộ
kinh “khó” đối với ACE chúng tôi vì không có tài liệu !J
J !!
Cũng theo
trình tự như cũ, ACE chúng tôi trước hết đi vào lịch sử dịch thuật của bộ
Kinh để tri ân tiền nhân, xong quyết định học những phẩm nào và bắt tay
học phẩm đầu tiên đã được chọn.
Phần dịch Phạn-
Hán thì theo ngài Trí Khải đại sư có 5 người ( nhưng thất truyền nên chỉ
còn lại 3) , cả 5 vị đều là người Trung Hoa :
* Ngài Chi Lâu Ca Sấm đời
nhà Ngô dịch với tên Kinh là “Duy Ma Cật Kinh” có 3 quyển
* Ngài Cưu Ma La Thập, đời
Diêu Tần, với tên Kinh là “Duy Ma Cật sở thuyết” hay : “Bất tư nghì giải
thoát Kinh” có 2 quyển
* Ngài Huyền Trang, đời
Đường , với tên Kinh là “Thuyết Vô Cãu Kinh” có 6 quyển.
________________________________________
(1) chúng tôi học Kinh
Duy Ma Cật này vào những năm 80
Sau đó có
nhiều nhà sớ giải ( cũng là nguơi Trung Hoa) dựa vào bản dịch của ngài Cưu
Ma La Thập và viết ra những sớ , luận . . . sau đây :
**Ngài Trí Khải , “Duy Ma
Cật Kinh Huyền Sớ” , có 10 quyển
**Ngài Trạm Nhiên , “Duy
Ma Kinh Lược Sớ” , có 10 quyển
**Ngài Chí Thuyên , “Duy
Ma Cật Lược Sớ” ,có 10 quyển
**Ngài Kiết Tạng, “Tịnh
Danh Huyền Luận” ,có 8 quyển và “Duy Ma Cật Nghĩa Sớ” có 6 quyển
**Ngài Khuy Cơ, “Thuyết Vô
Cãu Chơn Kinh Sớ”
**Ngài Tăng Triệu , “Duy
Ma Cật Kinh” có 10 quyển
**Ngài Huệ Viễn, “Duy Ma
Cật Nghĩa Sớ” có 4 quyển
**Ngài Thế Viên (nhà sớ
giải gần đây, cũng người Trung Hoa ) , có “Duy Ma Cật Lược Giải”
Về Việt dịch
thì có các vị sau đây:
Thầy Huệ Hưng ( 1951)
Ô. Đoàn Tung Còn (?)
Sư Bà Diệu Không (1982)
Thầy Thanh Từ (1984)
Ngoài ra, Kinh
này cũng đã được dịch ra nhiều thứ tiếng như Anh, Pháp, Đức nên trên thế
giới nhiều nhà nghiên cứu Phật học phương Tây đã biết đến từ lâu.
Theo bản dịch
của Thầy thanh Từ, “Kinh Duy Ma Cật Giảng Giải” (dịch theo 2 quyển của
ngài Cưu Ma La Thập có tên là “Duy Ma Cật Sở Thuyết” hay “Bất Khả Tư Nghì
Giải Thoát Kinh” ) gồm có 14 phẩm :
1.Quốc Độ, 2. Phương Tiện,
3. Đệ Tử, 4. Bồ Tát, 5. Văn Thù Vấn Tật, 6. Bất Khả Tư Nghì, 7. Quán Chúng
Sanh, 8. Phật Đạo, 9. Nhập Bất Nhị Pháp Môn, 10. Phật Hương Tích, 11. Bồ
Tát Hạnh, 12. A Súc Phật, 13. Cúng Dường và 14. Chúc Lụy . ACE chúng tôi
sẽ lần lượt học 6 Phẩm 1, 5, 6, 9 và 11.
Về ý nghĩa tên
Kinh, tại sao gọi là “Duy ma Cật sở thuyết Kinh” Đây là những lời của
Phật nói hay của DMC nói ? Nếu là của DMC nói thì sao gọi là Kinh ? Đọc
qua bộ Kinh chúng ta thấy đây là những lời đối đáp giữa các vị đệ tử Phật
và cư sĩ DMC , nhưng là dưới sự chứng minh của đức Phật, ngài xác nhận
những điều DMC nói là đúng với chánh pháp, và với “cái nhìn của Hoa Nghiêm”
thì Duy Ma Cật chính là đức Bổn Sư Thích Ca hay ngược lại, vậy . Đó là lý
do được gọi là Kinh . Còn tại sao gọi là “Bất khả tư nghì giải thoát”
?- Là vì giải thoát trong kinh DMC cũng như giải thoát trong kinh Hoa
Nghiêm, với trí phàm phu, với thế giới đối đãi của ngôn ngữ thì không thể
lảnh hội nỗi nên gọi là “bất khả tư nghì” Như vậy điều may mắn của ACE
chúng tôi là học bộ kinh này sau khi làm quen với thế giới trùng trùng
duyên khởi cũng như với mấy cái “vô ngại” của Hoa Nghiêm, cho nên bước vào
Kinh Duy Ma Cật bớt bị bỡ ngỡ, hụt hẫng & “chướng ngại”.
Hôm nay chúng
tôi đi vào giới thiệu bộ Kinh và phẩm 1: Phật Quốc . Sở dĩ chúng ta có
được bộ Kinh quí này để học ngày hôm nay trước hết là do ngài Duy Ma Cật
bệnh, đức Phật bảo các đệ tử của mình đến thăm bệnh ông ấy , chuyện rất
bình thường ; thế nhưng các vị đại đệ tử Phật từ các ngài Xá Lợi Phất, Đại
Ca Diếp, A Nan, Ưu Ba Li . . . cho đến các ngài Phú Lâu Na, La Hầu La, .
. . ai cũng từ chối đi thăm bệnh Duy Ma Cật (DMC) , lý do rất đơn giản là
ai cũng “né” ông cư sĩ này, vì tất cả các vị , ai cũng bị ông cư sĩ
này”dũa” về cách tu hành hay cách thuyết pháp v..v..của mình . Cái dễ
thương và đáng học tập ở đây là cái tâm thanh tịnh của các vị tỳ kheo đại
đệ tử của Phật này khi kể cho đức Phật nghe trường hợp bị DMC “rầy” như
thế nào ; vị nào cũng kể rất rõ ràng minh bạch, ca ngợi trí tuệ thù thắng
của DMC và nhận lỗi của mình, lòng không gợn một chút oán trách, trái lại
còn bái phục DMC mặc dù mình là đệ tử lớn của Phật và “DMC kia” chỉ là
một cư sĩ. Đây chính là bài học thứ nhất của ACE chúng tôi .
Chúng ta hãy
nghe một đoạn đối đáp giữa đức Phật và Ưu Ba Li- vị đệ tử trì luật bậc
nhất của ngài- về trường hợp bị DMC “dũa” mà ông Ưu Ba Li đã “tâm phục
khẩu phục” như thế nào, và đó cũng là lý do từ chối đi thăm bệnh ngài DMC
của ông .( Đọan Kinh này chúng tôi mới cập nhật hoá hôm nay , khi viết
lại, đây là trích trong bản Việt dịch của Hạnh Viên, thầy Tuệ Sỹ hiệu
chính và chú thích - vì hồi chúng tôi học Kinh DMC ,Thầy đang ở trong
tù-15 năm sau mới ra khỏi đó -và mùa hè năm 2000 chúng ta mới có được bản
dịch này):
Phật bảo
Ưu-ba-li:
«Ông hãy đi thăm bịnh
Duy-ma-cật.»
Ưu-ba-li thưa:
«Bạch Thế tôn, con không
đủ năng lực đến thăm bệnh ông ấy. Vì sao? Con nhớ lại, xưa kia có hai tì
kheo phạm giới, xấu hỗ không dám đến hỏi Phật, đến nói với con: ‹Thưa ngài
Ưu-ba-li, chúng tôi đã phạm luật và rất hỗ thẹn vì tội này, không dám đến
hỏi Phật, xin hỏi ông cách sám hối để giũ sạch tội lỗi.› Con bèn theo như
pháp ma` giảmg giải cho họ.
«Lúc ấy
Duy-ma-cật đến nói với con: ‹Thưa ngài Ưu-ba-li, đừng làm nặng thêm tội
của hai tỳ kheo này mà hãy ngay thẳng trừ diệt, chớ làm rối loạn tâm của
họ. Vì sao? Vì bản chất tội không ở trong không ở ngoài,
cũng không ở giữa. Như Phật đã dạy, chúng sanh cáu bẩn vì tâm cáu bẩn; nếu
tâm trong sạch hết thảy đều trong sạch. Tâm cũng không ở trong không ở
ngoài, không ở giữa. Tâm như nhiên, tội cũng như nhiên. Các pháp cung như
nhiên, không vượt ngoài Như. Như ngài Ưu-ba-li, nếu tâm tướng
đã giải thoát, còn có gì cáu bẩn chăng?› Con đáp: ‹Không còn.› Ông ấy nói:
‹Cũng vậy, tâm tướng của chúng sanh thảy đều vô cấu, cùng như vậy. Thưa
ngài Ưu-ba-li, vọng tưởng là cáu bẩn không vọng tưởng là thanh tịnh.
Điên đảo là cáu bẩn không còn điên đảo là thanh tịnh. Chấp ngã là cáu bẩn
không chấp ngã là thanh tịnh. Ưu-ba-li, hết thảy pháp khởi và diệt không
đình trú, như ảo ảnh như tia chớp. Các pháp không đối đãi nhau,
không đình trú trong mỗi tâm niệm. Chúng đến từ những quan niệm sai lầm,
như chiêm bao, như quáng nắng, như trăng trong đáy nước, như bóng trong
gương, vì chúng sinh ra từ vọng tưởng. Hiểu được như vậy là người phụng
trì giới luật. Hiểu như vậy là hiểu biêt thiện xảo.›
«Ngay lúc ấy, Hai vị tì
kheo thán phục: ‹Siêu việt thay trí tuệ, mà ngài Ưu-ba-li không thể sánh
bằng. Tuy là bac trì luật đệ nhất cũng không thể nói được như vậy› Con mới
nói: ‹
Duy trừ Phật ra, chưa từng có một Thanh-văn hay Bồ tát nào vượt hơn biện
tài vô ngại
của người này vì trí tuệ minh đạt của ông thù thắng như vay.›
«Hai vị tì
kheo nhờ đó đã dứt đoạn nghi tình và hối hận, phát tâm cầu giác ngộ tối
thượng và lập nguyện cho hết thảy chúng sanh đều được biện tài như vậy.
Cho nên con không đủ khả năng đến thăm bịnh ông ấy.”
Cứ như thế, họ
đều từ chối đi thăm bệnh cư sĩ DMC . Sự kiện này là bài học thứ hai
của ACE chúng tôi hôm nay: nó nói lên rằng xuất gia hay tại gia đều có khả
năng giác ngộ như nhau. Nếu hàng Phật tử tại gia chúng ta học Kinh DMC
rồi coi thường chư Tăng thì thật là một lỗi lầm trầm trọng, đó là do chúng
ta bị vô minh che kín quá, chứ không phải lỗi của bộ Kinh này. Qua bộ
Kinh DMC , đức Thế tôn muốn nhắn nhủ với đệ tử xuất gia của ngài rằng nếu
người xuất gia mà không chịu tinh tấn tu hành, cứ giải đãi buông lung thì
có thể bị những người cư sĩ tại gia xuất sắc vượt qua mặt dễ dàng và như
vậy thì các vị không còn xứng đáng trong vai trò “trưởng tử của Như lai”-
hướng dẫn chúng sanh đi theo con đường của đức Phật nữa . Còn với người
tại gia thì đức Thế Tôn muốn sách tấn họ noi gương cư sĩ DMC tu hành
tinh tấn, sống giữa cuộc đời ô trược mà không bị đời làm ô nhiễm, còn mang
Đạo vào đời, như vậy thì không cần phải xuất gia làm tỳ kheo mới thành
Phật đâu. Thông điệp của ngài muốn gởi đến chúng ta là : pháp Phật là
pháp phổ biến, ai tu cũng được miễn là tu cho đúng pháp ; mỗi người hãy
theo đó mà xây dựng Tịnh Độ của tự tâm mình. Với suy nghĩ như vậy thì
Kinh Duy Ma Cật không phải là “một sự bùng nổ” hay một “cuộc cách mạng “gì
cả.
Bài học thứ
ba là ý nghĩa tên ngài Duy Ma Cật và thân thế của ngài: Duy Ma Cật
nguyên là tiếng Phạn ( phiên âm là Tỳ-ma-la-cật-lị-đế), chữ Hán dịch ra 2
cách : một là Tịnh Danh, hai là Vô Cãu. Chỉ nghe cái tên là chúng ta đã
hiểu được một phần nội dung Kinh rồi vì Tịnh Danh là một người trong số
500 đồng tử từ nước Diệu Hỷ du hành đến cõi này, sau khi hoàn thành nhiệm
vụ lại trở về chỗ cũ. Ngài Duy Ma Cật lịch sử là một trưởng giả ở thành
Tỳ Da Li (Ấn Độ), có vợ tên là Thiên Cơ, con trai tên là Thiên Tu, con gái
tên là Nguyệt Thiện, nghĩa là ngài vẫn sống đời thế gian thường tình nhưng
sống hướng về Đạo, đem Đạo vào đời, không bị đời làm ô nhiễm mà trái lại,
danh thơm vang khắp bốn phương nên có tên là Tịnh Danh. Đây chính là nhân
cách lý tưởng của Đại Thừa Phật Giáo, trong lớp áo bình dị của 1 người
Phật tử sống trong đời thường- người cư sĩ tại gia hành Bồ Tát Đạo.
Bài học thứ
tư là vai trò của sự xuất hiện ngươi cư sĩ tại gia Duy Ma Cật ở thành
Tỳ Da Ly đối với lịch sử phát triễn của đạo Phật . Tỳ Da Ly lúc đó là
một trung tâm thương mãi và văn hoá với cư dân rất tiến bộ, họ không chấp
nhận Phật giáo chỉ có những giaó lý như niệm Phật, niệm Pháp niệm Tăng,
niệm thí, niệm giới, niệm Thiên và mục đích là lên cõi Trời, an trú trong
an lạc cho riêng mình như đã được dạy trong nền giáo lý nguyên thủy, đó là
lý do mà hình thái sinh hoạt Phật giáo trong một xã hội mới phải thay đổi
về tư tưởng và về cả mặt hành trì để phù hợp. Như đức Phật đã nói : “cái
mà ngài biết như lá trong rừng còn cái ngài giảng ra chỉ là một nắm trong
tay” cho nên sau khi Phật niết bàn 100 năm, xã hội Ấn độ biến đổi theo
trào lưu đổi mới của toàn thế giới, thì chư Tăng lỗi lạc cũng phải vận
dụng “lá trong rừng” để thổi vào sinh hoạt Phât giáo một sinh khí mới;
đó chính là sự xuất hiện cần thiết của Đại thừa Phật giáo. Sự xuất hiện
này như chúng ta đã biết kéo theo một sự rạn nứt của Tăng Đoàn và sự hình
thành của hai phái
Thượng Toạ bộ ( PG Nguyên
Thủy- hay PG Tiểu thừa gồm các tỳ kheo lớn tuổi, có khuynh hướng bảo thủ)
và Đại Chúng Bộ ( Đại thừa, gồm đông đảo tỳ kheo trẻ, có khuynh hướng cải
cách) . Bộ Kinh Duy Ma Cật ra đời vào lúc đó. Đó cũng là lý do mà một số
người cho rằng Kinh DMC không phải là kinh Phật !
Bài học thứ
năm là định danh Tịnh độ hay “Tịnh Phật quốc độ.” Nhân trưởng giả Bảo
Tích hỏi về Tịnh độ, đức Phật liền giảng về Tịnh Độ, nhưng Tịnh độ của đức
Phật A Di Đà mà đức Phật đã giới thiệu và Tịnh độ của kinh Duy Ma Cật khác
nhau chỗ nào?- chúng ta hãy nghe : “Trực tâm là Tịnh độ của Bồ tát, thâm
tâm là tịnh độ của bồ tát, bồ đề tâm là tịnh độ của bồ tát, tinh tấn,
thiền định, trí tuệ . . . . là tịnh độ của bồ tát, tứ nhiếp pháp là tịnh
độ của bồ tát, ba mưoi bảy phẩm trợ đạo là tịnh độ của bồ tát, tự mình
giữ giới, không phê bình người phá giới là tịnh độ của bồ tát “ v..v..và
v..v.. Tuy được hỏi về Tịnh Độ Phật nhưng đức Phật trả lời về Tịnh Độ của
Bồ tát vì phải có Tịnh độ của Bồ tát mới có Tịnh Độ Phật. Tuy Ngài dạy
các thiếu niên về kinh nghiệm tu tập của ngài trong vô lượng kiếp nhưng
qua đó, gián tiếp giáo hoá cho 8000 tỳ kheo trong pháp hội- bằng cách đề
cao lớp bồ tát biết xây dựng Tịnh Độ ( Niết bàn) ngay trong cuộc sống hiện
tại và ngầm chỉ trích tư tưởng yếm thế của hàng Thanh Văn . Thế cho nên
ngài Xá Lợi Phất (XLP) bị Phật quở, khi XLP cho rằng cõi Ta Bà này không
thanh tịnh ; Phật dạy: “mặt trời, mặt trăng không sáng sao? tại sao người
mù lại không thấy? Cũng thế, chúng sanh do tội chướng nên không thấy cõi
nước của Như lai thanh tịnh chứ không phải cõi Ta Bà không thanh tịnh! Cõi
nước ta dây vẫn trang nghiêm thanh tịnh, mà tại ông không thấy đó thôi! “
Đến đây ACE chúng tôi hiểu được rằng sở dĩ có nhiều quan điểm về Tịnh độ
bởi vì “con người nào thì có Tịnh Độ ấy” Tịnh Độ chính là tự tâm thanh
tịnh, ngay ở cõi Ta Bà này chứ không phải ở Tây Phương Cực lạc mới có ; và
quả thật như lời Phật dạy :” Khi tâm ta thanh tịnh, ta thấy thế giới thanh
tịnh.” - thật giống như bài kệ chúng ta thường đọc :
“Trang nghiêm Tịnh độ
Nơi cõi Ta bà
Đất Tâm thanh tịnh
Hiển lộ ngàn hoa.”
Bồ tát muốn có
cõi Phật thanh tịnh thì trước hết tâm mình phải thanh tịnh và lo giáo hóa,
nhiếp phục chúng sanh . . . . làm sao cho tâm của chúng sanh trong cõi ấy
cũng được thanh tịnh thì lúc đó quốc độ mới thanh tịnh.
Bài học thứ
sáu là bài kệ của trưởng giả bảo Tích ca ngợi những công đức vi diệu
của đức Phật : chúng ta thấy trí tuệ, đức hạnh và tài năng của đức Phật
chính là sức mạnh thu hút tất cả mọi người đến với ngài, hướng về ngài.
Ngài thuyết pháp với một loại âm thanh thôi nhưng pháp âm ấy mọi loài, ở
mọi cõi đều nghe hiểu rồi thực hành, mặc dù phản ứng của mỗi chúng sanh có
thể khác nhau : nghe mà kinh sợ, vui mừng , phấn khởi, dứt nghi hay nhàm
chán v..v..
Bài học thứ
bảy là hạnh bệnh của bồ tát Duy Ma Cật . Thật ra Duy Ma Cật chỉ thị
hiện bệnh để giảng nói về vô thường, vô ngã, về sự giả dối của thân tứ đại
này. “Bồ tát bệnh vì chúng sanh bệnh” nên “bệnh” của Duy Ma Cật đây là
“bệnh phương tiện” xuất phát từ tâm đại bi của Bồ tát chứ không phải do
nghiệp chướng như bệnh của chúng sanh. Nhân đây chúng ta được biết thêm
về 5 hạnh của bồ tát : thánh hạnh, thiên hạnh, phạm hạnh, anh nhi hạnh và
bệnh hạnh. Bồ tát sống và sinh hoạt không bị hạn cuộc bởi thế gian, không
còn quan tâm đến những khen chê của người đời nhưng họ luôn sống đời gương
mẫu, thánh thiện , trong sạch, đạo đức và mô phạm để xây dựng niềm tin cho
chúng sanh vào chân, thiện, mỹ, để nhiếp hoá và chuyển hóa chúng sanh, để
đem lại lợi ích cho chúng sanh vậy. Ngoài ra bồ tát không bao giờ thấy
mình “lớn” hay hơn người, càng giỏi, họ càng khiêm tốn vì biết rằng tất
cả những thành tựu của họ nhằm phục vụ chúng sanh , và tất cả đều nhờ Phật
lực mới thành tựu được ( anh nhi hạnh đã được nói đến trong CTHK trước đây-
ở Kinh Pháp Hoa ) .
Bài học thứ
tám là việc 500 thiếu niên con của trưởng giả Bảo Tích tăng cho đức
Phật 500 cái lọng, ngài kết tất cả 500 cái lọng thành một cái lọng lớn có
khả năng che mát cả thành Tỳ Da Ly. Ý nghĩa biểu tượng của hành động này
là : đức Phật xây dựng , giaó hoá tuổi trẻ là thế hệ đại diện cho sự thông
minh, tài năng sức khỏe và đức hạnh, có tương lai tươi sáng , có trí tuệ
và trách nhiệm đưa xã hội đi lên . Nhưng cần phải có sự đoàn kết nhất trí
( kết hợp 500 cây lọng lại) mới tạo nên sức mạnh . Các bậc tiền nhân của
GĐPT chúng ta chắc cũng đã thấm nhuần bài học này nên đã thành lập GĐPT
gồm những thanh thiếu niên cùng nhau học Phật , đưa Đạo Phật vào đời , với
ước mong xoa dịu những nỗi khổ của cuộc đời, như một bóng mát to lớn
giữa cuộc đời nóng bỏng tham ái, sân si ; nghĩa là đem lại an lạc cho bản
thân và cho tha nhân. Ngày nay ACE chúng ta cũng đang nối tiếp sự nghiệp
ấy , đưa đàn em chúng ta đi lên . Riêng chúng ta - những huynh trưởng cao
niên- phải nhận ra vị trí của mình, giúp lớp trẻ đứng ra gánh vác nhiệm vụ
, chúng ta đứng sau lưng các ACE ấy để hổ trợ tinh thần và dù là những HTr.
trẻ hay cao niên, việc cần thiết là phải đoàn kết, hoà hợp, không tranh
cãi , hý luận v..v.. mới đem lại lợi ích cho mình và cho đàn em của mình.
Bài học thứ chín là không có một cõi Tịnh Độ mà chúng
ta chỉ cần cầu nguyện là “bay” ngay đến đó, mà chỉ có Tịnh Độ do chính
chúng ta xây dựng bằng tấm lòng ( từ bi) và khối óc (trí tuệ ) của mình ;
muốn như vậy, trước hết, chúng ta phải tập sống buông bỏ ( hỷ xả) ; đừng
bị vướng mắc bởi thất tình lục dục nhiều quá, đừng bị khen- chê, được-mất,
hơn-thua v..v.. tác động, chi phối mình quá , tập mở rộng lòng yêu mến &
giúp đỡ tha nhân, làm lợi ích cho chúng sanh quanh mình v..v.. rồi dần
dần chúng ta mới có được tâm thanh tịnh để tạo điều kiện cho một quốc độ
thanh tịnh; chứ nếu cứ xây dựng tâm tư, tình cảm, với những chất liệu tham,
sân, si, ác độc, v..v. thì rõ ràng chúng ta đã xây dựng địa ngục ngay tại
đây chứ làm sao mà có Tịnh
Độ đuợc, phải không các bạn ? J
J
J !!
Bài học thứ
mười là qua phẩm Kinh này, chỉ với nhận thức mới mẻ về Tịnh độ,
chúng ta thấy Kinh DMC bao gồm cả giáo lý nguyên thủy lẫn giáo lý đại
thừa, mở ra con đường xây dựng một xã hội mới tốt đẹp . Những người con
Phật có bổn phận vận dụng trí tuệ để hiểu đúng Phật Pháp, áp dụng Phật
Pháp vào cuộc sống trước mặt ; đó chính là cách hoằng dương chánh Pháp có
hiệu quả cao nhất. Đạo Phật có tỏa rạng hay suy tàn là do giới tu sĩ và
cư sĩ Phật tử có biết cách “hoàn thành Phật quốc”hay không. Gương sáng
của các thiền sư các đời Lý , Trần như Vạn Hạnh, Đỗ Thuận, Khuông Việt,
Trúc Lâm Yên tử . . . . đã gắn liền với những trang sử vẻ vang của nước
Việt vẫn còn đó như nhắc nhở tất cả chúng ta luôn cố gắng tinh tấn tu học
và tu tập để kiến tạo Tịnh Độ ngay bây giờ và ở đây- đem lại an lạc cho
chúng sanh và cho bản thân mình.
Bài học này
chấm dứt buổi học Kinh của ACE chúng tôi; hôm nay ngồi viết lại-nhằm ngày
đầu năm Nhâm Ngọ, xin gởi đến mọi người “câu đối” Tết :
“Tâm Xuân, Vũ Trụ Xuân
Tâm Bình, Thế giới Bình”
--- o0o ---
| Mục lục Tác giả |
Cập nhật ngày:
01-04-2002