ÐÔI
LỜI BIỆN BẠCH
Những
bức thư Thầy Viên Minh trả lời về Ðạo cho các đệ tử
trong và ngoài nước, từ năm 1976 đến năm 1986 đã được
chúng tôi sao chép lại trước khi gởi đi, chuyền tay nhau đọc
hầu học hỏi thêm những điều Thầy giải đáp một cách
thiết thực và chân tình cho những vấn đề trong đời
sống của các Phật tử.
Trong thời kỳ đó,
kinh sách rất hiếm hoi, nhiều Phật tử vì điều kiện kinh
tế, phương tiện đi lại v.v... rất khó khăn, không đến
tham dự được những buổi Pháp đàm của Thầy ở đạo tràng
Huyền Không, nên những bức thư Thầy dù là viết cho cá nhân
vẫn được sao chép và truyền đi rất nhanh.
Lúc đầu chúng tôi chép
tay, về sau chị Liễu Vân tình nguyện đánh máy ra nhiều
bản theo yêu cầu của một số bạn đạo thân quen trong
nội bộ, rồi từ đó nhiều người mượn để xin sao chép
hoặc đánh máy lại nữa. Chính quá trình sao chép này mà thành
ra tam sao thất bổn.
Một hôm Thường Như,
nhân viên ở UBND Quận Tân Bình được một người bạn cùng
sở cho xem một bức thư đánh máy và giới thiệu là nhờ
bức thư đó mà mình đã vượt qua được một biến cố
tinh thần khá trầm trọng. Mới xem qua, Thường Như đã
nhận ra ngay đó chính là bức thư mà Thầy gởi để an ủi
và sách tấn mình trong lúc đời sống gia đình đang rơi vào
một giai đoạn gay go bi thảm nhất. Chị ngạc nhiên nói:
"Ủa, sao bạn có được bức thư này? Ðây là bức
thư Thầy gởi cho mình mà!". để chứng minh, Thường
Như rút trong xách ra bức thư chính tay Thầy viết cho chị
[*], bức thư mà chị vẫn đem theo bên mình và đã đọc
đi đọc lại không biết bao nhiêu lần, vì đã cứu đời
chị ra khỏi những tư tưởng bi quan, lầm lẫn và dại
khờ...
Về sau, khi kể lại
với chúng tôi câu chuyện này, chị có lưu ý chúng tôi
một điều là bức thư đánh máy của người bạn không hoàn
toàn giống với bức thư chính tay Thầy viết cho chị, vì có
chỗ bị cắt bớt, có chỗ lại thêm vào, chẳng biết tại
sao, chắc là chỉ vì tam sao thất bổn mà thôi!
Năm 1990, chúng tôi được
biết ở Mỹ, Pháp, Ý v.v...có lưu hành một tập "Thư
Thầy Trò", có lời giới thiệu của Ðại Ðức Giác
Ðẳng, với 10 bức thư của Thầy, nhưng nội dung cũng có
nhiều điểm không đúng với những lá thư gốc.
Năm 1993, ở Thành phố
Hồ Chí Minh, không biết do ai đã in tập "Lá Thư
Thầy" gồm 25 bức thư của Thầy, rất tiếc là
nội dung lại còn sai sót nhiều hơn.
Chúng tôi đã trình bày
việc này với Thầy. Thầy nói: "Cũng
có nhiều Phật tử đề nghị in nhưng Thầy còn đắn đo, vì
những bức thư phần lớn viết cho nội bộ Phật tử
Huyền Không, nếu in ra để phổ biến thì cần phải sửa
chữa lại vài điểm cho phù hợp với căn cơ đại chúng
mới được, và những bức thư nào nặng tính cá biệt thì
nên bỏ bớt đi".
Ðược phép của
Thầy, chúng tôi đã chọn lại những bức thư có tính phổ
biến, bỏ bớt những đoạn mang tính cá nhân, và góp thành
một tập sách lấy tên là "Tuyển Tập Thư
Thầy" để khỏi lầm lẫn với những tập đã in
ngoài ý muốn của Thầy. Sở dĩ chúng tôi lấy tựa đề là
"Tuyển Tập Thư Thầy" vì trong 10 năm Thầy đã
viết rất nhiều thư giải đáp những uẩn khúc trong đời
sống, cũng như những thắc mắc về Ðạo lý của Phật
tử, nếu in hết thì quá nhiều, hơn nữa có một số thư
lại trùng ý nhau nên chỉ cần in một bức tiêu biểu cũng
đủ. Tuy vậy số lượng thư trong tuyển tập này vẫn
nhiều hơn so với hai tập trước.
Trong những lá thư
Thầy, chúng tôi thấy ra được một khía cạnh đáng lưu ý
là đôi lúc một số lời khuyên của Thầy có vẻ trái ngược
nhau. Ví dụ như đối với một người quá nặng tinh thần
phục vụ đến nỗi suy nhược thần kinh, Thầy nói:
"Ðó là bịnh trách nhiệm của thời đại". Nhưng
khi có một Phật tử chỉ thích đời sống du phương hành cước
của các thiền Tăng xưa hơn là đời sống nông thiền cặm
cụi suốt ngày trong nương rẫy của chư Tăng trong thời
buổi kinh tế khó khăn bây giờ, Thầy lại viết: "Không
có thiên đàng nào khác hơn ngoài những gánh nặng mà ta vui
lòng gánh vác để đem lại cho đời một niềm vui, một an
ủi, một nụ cười". Thậm chí Thầy còn nói :
Ta không biết đâu
Suối Nguồn An Lạc
Sáng sớm ra vườn bón đậu trồng dưa
Ta không biết đâu Bến Bờ Diệu Giác
Ðúng ngọ về chùa cất cuốc ăn trưa.
Chính những trái ngược
ấy nói lên tính đại dụng viên dung nhất quán và uyển
chuyển của Ðạo: tùy căn cơ mà đối trị, giáo hóa, chứ
không cố định như những công thức một chiều. Ðặc
biệt là chúng tôi thấy tính "mâu thuẫn đồng
nhất" hay "nhất đa tương dung" này
được thể hiện rõ nét trong chính đời sống của Thầy,
chứ không phải chỉ là những lời khuyên giải lý thuyết
kinh điển đơn thuần. Bằng chứng là mặc dù Phật sự đa
đoan phiền phức Thầy vẫn ung dung thanh thản, giống như
phong cách của một ẩn sĩ thư nhàn, vẫn vẽ tranh thủy
mạc, làm thơ hoặc lãm ngoạn vườn thiền, tưởng chừng
như thảnh thơi vô sự, đúng là "tự do là ung dung
trong ràng buộc" như Thầy đã nói vậy.
Một khía cạnh khác cũng
khá nổi bật là Thầy thường khuyên phải giáp mặt với
thực tại một cách bình tĩnh sáng suốt, không đắm chìm
chấp thủ, cũng không sợ hãi tránh né, dù đó là khổ đau
phiền muộn đến đâu đi nữa. Chính câu nói "Hạnh
phúc là tự tại giữa đau thương" đã giúp biết
bao Phật tử chúng tôi can đảm chịu đựng để tích cực
vượt qua thời kỳ lịch sử khó khăn phức tạp nhất đã
khiến cho nhiều người dao động khủng hoảng.
Nhưng "giáp mặt
thực tại" không phải chỉ thuần túy là một lời
an ủi, mà bây giờ chúng tôi mới biết rằng đó cũng chính
là tinh yếu của Ðạo Phật, là cốt lõi của tinh thần
thiền Vipassanà nguyên thủy nhất của Ðức Phật, mà qua đó
chúng ta mới có thể thấy ra chân diện của cuộc đời.
Với những nhận xét
thô thiển trên, chúng tôi không có ý giới thiệu thư
Thầy, mà chỉ biện bạch cho lý do in lại những lá thư này
dưới nhan đề "Tuyển Tập Thư Thầy" do chúng
tôi biên tập để đảm bảo cho nội dung được trung thực
với nguyên bản. Chắc chắn chúng tôi không tránh khỏi
chủ quan trong việc biên tập, kính xin Thầy hỷ xả và
bạn đọc rộng tình tha thứ.
Ban Biên
Tập
Thiền Viện Bửu Long
PL 2546 - TL 2002
[*] Bức thư thứ nhất
trong "Tuyển Tập Thư Thầy".
|