Hôm nay ACE chúng tôi mới được thực sự đi
vào giáo lý Hoa Nghiêm. Trước hết, chúng ta phải lược sơ qua
lịch sử thuyết giảng kinh Hoa nghiêm cũng như nguồn gốc kinh
Hoa Nghiêm mà chúng ta chưa đề cập tới được-trong bài học
trước (chỉ mới bàn qua về tên Kinh) .
Theo truyền thuyết của Phật Giáo Đại thừa và cũng
theo Đại sư Trí Khải (538-597), sau khi thành đạo, chưa vội rời Bồ
Đề đạo tràng đức Phật Thích Ca Mâu Ni với Pháp thân Tỳ Lô
Giá Na, cùng chư đại Bồ Tát chứng giải thoát môn, tuyên thuyết
kinh Hoa Nghiêm để hóa độ hàng thượng thừa Bồ tát; sau đó mới
đến hàng nhị thừa... nhưng vì giáo lý Hoa Nghiêm quá cao, nên ngài
phải giảng 'hạ thấp xuống cho hợp với căn cơ của chúng sanh.
Lịch sử thuyết giảng Kinh của đức thế Tôn vì vậy, được chia
làm 5 thời :
*Thời Hoa Nghiêm: 21 ngày, giảng về sự hình thành
của vũ trụ vạn hữu để độ cho hàng thượng thừa Bồ tát.
*Thời Lộc Uyển (tức thời A Hàm): 12 năm, giảng các
bộ kinh A Hàm, giảng về Tứ Diệu Đế, 12 nhân duyên, 37 phẩm trợ
đạo v..v.. để độ cho hàng nhị thừa (Thanh Văn, Duyên Giác)
*Thời Phương Đẳng: 8 năm, giảng về giáo nghĩa tánh
Không, Như Lai Tạng, Chân Như
qua các kinh Lăng Già, Duy ma Cật,
Lăng Nghiêm, Thắng Man v..v.. để độ cho hàng sơ phát tâm Bồ tát.
*Thời Bát Nhã: 22 năm, giảng về chân lý Không của
vạn pháp qua các bộ kinh Bát Nhã và Kim Cương để độ cho hàng
quyền thừa Bồ Tát
*Thời Pháp Hoa & Niết Bàn: 8 năm, xác nhận Phật
tánh vốn có trong mọi chúng sanh và ai cũng có thể thành Phật trong
tương lai, không phải chỉ những người có căn bản trí tuệ mới
thành Phật được, qua các bộ kinh Pháp Hoa & Niết Bàn.
Nói riêng về Kinh Hoa Nghiêm, đã có 9 hội giảng kinh
Hoa Nghiêm tại 7 địa điểm khác nhau :
*Hội thứ nhất tại Bồ Đề Đạo Tràng do Bồ tát
Phổ Hiền làm hội chủ .
** Hội thứ hai tại điện Phổ Quang Minh , do Bồ Tát
Văn Thù làm hội chủ
***Hội thứ ba tại cung Trời Đao Lợi do BT Pháp Tuệ
làm hội chủ
****Thứ tư, tại cung Trời Dạ Ma, BT Công Đức Lâm
là hội chủ
*****Thứ năm, tại cung Trời Đâu Suất, Bồ tát Kim
Cương Tràng là hội chủ
******Thứ sáu, tại cung Trời Tha Hoá, Bồ tát Kim
Cương Tràng là hội chủ
****** Hội thứ bảy, tại điện Phổ Quang Minh, đức
Thế Tôn là hội chủ
********Hội thứ tám, tại điện Phổ Quang Minh, Bồ tát
Phổ Hiền là hội chủ
*********Hội thứ 9, tại rừng Thệ Đà , do đức Thế
Tôn và thiện hữu đều là hội chủ.
Cũng theo truyền thuyết, trong 9 hội Hoa Nghiêm này,
đức Thế Tôn chỉ giảng vài phẩm (A Tăng Kỳ, Như Lai Tùy Hảo Quang
Minh Công Đức ) mà thôi .
Về nguồn gốc kinh Hoa Nghiêm, sau khi đức Phật
nhập diệt khoảng 600 năm, do Long Thọ Bồ tát (Nãgãrjuna), kinh Hoa
Nghiêm mới được lưu truyền bằng Phạn văn.
Mặc dù đạo Phật được truyền vào Trung Hoa từ thế
kỷ thứ 1 nhưng bộ kinh Hoa Nghiêm phải 300 năm sau mới chính thức
được dịch từ chữ Phạn ra chữ Hán, do các ngài Phật Đà Bạt
Đà la (Buddhabhadra) người bắc Thiên Trúc đến Trung Hoa vào đời
Đông Tấn (317- 419), ngài Thật Xoa Nan Đà (Sikasananda) người nước Vu
Điền (Kotan), và ngài Bát Nhã (Prajna) người nước Kế Tân ( Kaboul)
đến Trung Hoa vào đời nhà Đường (618-907). Ngoài ra còn những bộ
Luận, Sớ giải, Vấn đáp, Huyền ký v..v.. luận giảng về nghĩa lý
kinh Hoa Nghiêm có giá trị đặc biệt của các ngài Đỗ Thuận Thuyết,
Trí Nghiễm, Pháp Tạng, Trừng Quán (Thanh Lương), Tuệ Uyển, Tông Mật
(Khuê Phong) v..v..
Ở nước ta, bộ Kinh này không hiểu được truyền
vào từ thời nào nhưng Thầy Trí Tịnh đã dịch ra tiếng Việt từ
năm 1965 và Thầy có dặn muốn nghiên cứu đầy đủ hơn thì xem thêm
bộ Hoa Nghiêm Đại Sớ của Tổ Thanh Lương và Thập Huyền Môn của
Tổ Hiền Thủ. ACE chúng tôi, một câu chữ Hán cũng không viết
nổi, và thấy 4 cuốn Kinh Hoa Nghiêm này cũng đủ khiếp
rồi, chỉ mong đọc từ trong này mà hiểu được phần nào giáo lý
Hoa Nghiêm là thấy an ủi mãn nguyện, chưa có dịp ngó thấy mấy cuốn
Kinh Thầy bảo đọc thêm nữa ! ! J J !!
Về nội dung triết lý kinh Hoa Nghiêm, ACE chúng
tôi nhắc nhở nhau (như đã biết ở lần học đầu tiên): giáo nghĩa
Hoa nghiêm được đức Phật và chư pháp thân đại sĩ thừa oai
thần của Phật tuyên dương nên cảnh giới Hoa Nghiêm là cảnh giới
bất tư nghì giải thoát, nên mỗi lời, mỗi câu trong Kinh
đều lấy toàn thể pháp giới tánh làm lượng, nên tất cả
Giáo, Lý, Hạnh , Quả nơi đây đều dung thông vô ngại, nên cũng
gọi là vô ngại pháp giới
Muốn đi vào thế giới trùng trùng duyên
khởi của Hoa Nghiêm mà không bị lạc đường, chúng ta cần
phải biết 4 pháp giới và 6 tướng. 4 pháp giới cũng là 4 cấp
bậc mà hàng Đại thừa Bồ tát tuần tự tu chứng; đó là:
1. Lý vô ngại pháp giới
2. Sự vô ngại pháp giới
3. Lý sự vô ngại pháp giới
4. Sự sự vô ngại pháp giới
Trong thế gian, mọi sự vật hiện tượng được bao
gồm trong bốn loại pháp giới (tứ pháp giới - vừa kể trên ) và
sáu dạng xuất hiện (lục tướng). Mỗi pháp đều có đủ 6
tướng: tổng tướng-biệt tướng; đồng tướng - dị tướng; thành
tướng - hoại tướng; ta thường nghe gọi tắt là tổng-biệt,
đồng-dị, thành-hoại
ACE chúng tôi lần lượt trình bày trước Chúng
những điều thu thập được từ tứ pháp giới và
lục tướng này:
1) Trước hết là Sự Pháp Giới, sự
pháp giới là thế giới của tự nhiên, bao gồm mọi hiện tượng,
sự vật của trời đất, vũ trụ, vạn vật. . . tất cả biểu dương
sức sống mãnh liệt khởi lên từ một nguồn năng lượng duy nhất
là Chân Như. Sở dĩ gọi là pháp giới vì các pháp đều
có tự tánh riêng (hình dáng, tính chất, kích thước, trọng lượng
v..v..); nhưng khi dùng trong nghĩa rộng, pháp giới là vũ trụ rộng
lớn, là không gian bao la.
2) Lý Pháp Giới, là bản thể - là thể
tánh chân thật của tất cả các pháp, còn nhiều tên gọi khác như
là: pháp giới tánh, chân như, pháp thân, thực tướng, bản
thể chân không của vạn pháp hay bản lai diên mục của
mỗi chúng sanh.
3) Lý Sự Vô Ngại Pháp Giới, là thế
giới của hiện tượng và thế giới của bản thể không mâu thuẫn,
ngăn ngại nhau. Sự nhờ lý mà thành, lý nhờ sự mà hiển bày.
Trong Lý có Sự, trong Sự có Lý. Sự là sắc Lý là
không; nói rằng Lý Sự vô ngại cũng đồng
nghĩa với nói Tâm tức vật, Tinh thần tức vật chất
ở thể loãng, mà vật chất là tinh thần ở thể cô đọng lại
hay nói theo ngôn ngữ vật lý Năng lượng là khối lượng
[ công thức của A. Einstein : E (năng lượng) = khối lượng x(bình
phươngcủa tốc độ ánh sáng) ]. Lý & Sự không chỉ là không
ngăn ngại mâu thuẫn nhau mà còn không thể tách rời nhau, ví như
sóng và nước; thật vậy, ngoài nước làm sao có sóng? Nước nổi
lên thì thành sóng, Sóng tan thành nuớc. Lý (chân không) và Sự
(diệu hữu) đan nhau chằng chịt không thể tách rời nên mới nói
'Chân không chẳng rời diệu hữu Đó cũng là lý do mà chúng
ta thường thấy chư Phật- đại diện là đức Thế Tôn của chúng ta-
và chư Tổ không bao giờ trả lời có hay không
của ngoại đạo khi họ hỏi về thượng đế, sự hình thành của vũ
trụ, về nguyên nhân đầu tiên , v..v. .mà các ngài chỉ nói về
Duyên Khởi, 12 nhân duyên v..v.. Lý và Sự tuy hai mà một, tuy một
mà hai, nên nói đồng hay dị đều không đúng,
đó chỉ là 2 mặt của cùng một sự vật, một hiện tượng hay một
vấn đề. Ví dụ, về mặt bản thể thì sóng chính là nuớc nhưng
trên mặt hiện tượng sóng không phải là nuớc; ta có thể nói rõ
hơn bằng một ví dụ cụ thể: một chiếc tàu lướt đi nhẹ nhàng
trên nước nhưng có thể bị chìm, bị gây tổn thương vì sóng lớn,
có phải không? Chơn Tâm (Tâm bình thường) là nước và
tâm tham, tâm sân, tâm si là sóng đó; phải không các bạn? Đó
là lý do tại sao ta thường nghe nói phút truớc là Ma, phút sau
là Phật vì tâm thanh tịnh là Phật mà tâm tham sân si là Ma rồi
(vì nó dẫn ta đi vào các đường ác!)
Lý và Sự trong mỗi pháp đều viên dung vô ngại,
nên trong vạn pháp cũng viên dung vô ngại - ví dụ như nước với
sữa, có thể hoà tan vào nhau, tạo thành một thể duy nhất. Ấy gọi
là trạng thái tự tại vô ngại, viên dung, trong cái thể
tương tùy, tương sinh, tương tức, tương nhập Do đó, nếu
chúng ta sống với điên đảo mộng tưởng, với truy tìm quá
khứ, mơ ước tương lai hay với tâm chấp ngã, thị phi, luôn
thấy có ta có người, người xấu, ta
tốt 'người dở ta hay v..v.. thì tâm luôn bất an, phiền
não, có khi đau khổ vì yêu-ghét, kỳ thị, thù hận . . . vì thấy đủ
thứ chướng ngại, sai biệt ; trái lại, nếu chúng ta tập nhìn cuộc
đời với cái nhìn của Hoa Nghiêm, thấy được tất cả chúng
sanh đều đồng một thể tánh chơn thật - đó là Phật tánh trong ta-
thì ta sẽ không còn vướng vào vòng thị phi điên đảo làm tổn
hại lòng từ bi và trí tuệ của ta nữa. Chúng ta sẽ thấy ngay cái
đồng cụ thể nhất của chúng sanh, đó là tham sống
sợ chết, tham vui sợ khổ Đó là lý do mà đức Khổng Tử
đã dạy 'Cái gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác
(Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân) và ACE chúng ta thì nhắc
nhở nhau mở rộng lòng thương tôn trọng sự sống hay
sáng cho người thêm niềm vui, chiều giúp người bớt khổ.
Quả thật hạnh phúc hay đau khổ đều do lối tư duy mà ra - vì chính
là Ý chỉ đạo mọi hành động về thân và miệng đó mà !!
Vì Thể (lý) và Tướng( sự) và Dụng viên dung nên
công dụng của vạn hữu biến hoá ra vô cùng mầu nhiệm, kỳ diệu
đến nỗi có nhiều người trên thế giới này nghĩ rằng phải có
bàn tay của một vị thượng đế hay thần linh tối
cao mới làm phép thần thiên linh linh, địa linh linh, mới
biến hoá ra được. Một khi biết được những đặc tính tương tùy,
tương sinh, tương tức, tương nhập của vạn pháp và với cách nhìn
được chỉ bày trong kinh Hoa Nghiêm, chúng ta không còn lạ lùng với
thế giới bừng sáng của Hoa Nghiêm ở cảnh giới
Bất tư nghì giải thoát trong đó vắng mặt của tư duy đầy
ngã tính thường tình, vắng mặt của tham ái và chấp thủ. . . . Thế
giới quả nhiên là tuyệt vời và tươi đẹp biết bao khi chúng ta
nhìn thấy được tất cả chúng sanh đều là Một và mỗi Một
Chúng sanh là Tất cả? nghĩa là không còn ranh giới giữa Ta và
Người, nước ta, dân ta và nước khác, dân khác v..v.. Có phải
đó là lúc Thế giới hoà bình chúng sanh an lạc, không
còn chiến tranh khủng bố, không còn trộm cắp giết người, không
còn nhà tù, trại giam v..v.. gì nữa cả, không còn cả địa ngục
nữa, có phải không? Chữ ngã nhỏ xíu này mà có khả
năng phá hoại hơn hằng triệu tấn TNT vì nó đã làm nổ nhiều vùng
trên quả đất , làm nhiều triệu người chết do chiến tranh của kỳ
thị, thù oán . . . mà nó đã gây ra !
4) Sự sự vô ngại pháp giới : Giáo lý
Hoa Nghiêm dạy rằng tất cả mọi pháp đều trống rỗng, rằng hai mặt
của Không là Tĩnh( Lý) và Động ( Sự) đều cùng lúc tồn tại,
xuyên suốt vào nhau, không ngăn ngại. Mỗi hiện tượng đều đồng
nhất với hiện tượng khác. Sự sự vô ngại pháp giới nói lên
rằng mọi sự vật hiện tượng trong thế gian tuy thiên hình vạn trạng
nhưng vẫn ăn khớp nhau, nương tựa lẫn nhau, dựa vào nhau mà có
(cái này có mặt vì cái kia có mặt, cái này sinh vì cái kia
sinh, cái này diệt vì cái kia diệt) . Ví dụ thời gian và
không gian dung thông với nhau. Vật lý học cổ điển chia ra thời gian
và không gian ra thành như là 2 đại lượng khác nhau, được đo
bằng những đơn vị khác nhau; đơn vị của thời gian là giây đồng
hồ (second = sec.) còn đơn vị của không gian là đơn vị của chiều dài
(centimet, mét, km, v..v..). Ngày nay, với khoa học tương đối của
Einstein, với ngành vật lý không gian, với không gian Toán
học n chiều v..v.. người ta không còn tách riêng thời gian
và không gian nữa. Thật vậy, ví dụ muốn nói về khoảng cách giữa
mặt Trời, mặt Trăng hay một ngôi sao nào đó với quả đất,
người ta không còn nói là mấy triệu triệu kilômét nữa mà nói
là mấy năm ánh sáng hay là mấy trăm năm, mấy triệu năm
ánh sáng v..v.. - đó là khoảng cách mà ánh sáng phải mất
thời gian bao lâu mới đi đến (vận tốc ánh sáng là 300.000km/sec).
Danh từ quang niên hay 1 năm ánh sáng là khoảng
cách ánh sáng đi trong 1 năm (1 năm = 365x 24x 3600sec. ) vậy 1 quang niên
hay 1 năm ánh sáng = 3000.000x365x24x3600 (km) = 9 triệu triệu km = 900 tỷ km
.
Nói cách khác, giữa thời gian và không gian không
còn ranh giới nữa, và bản thân chúng không còn là 2 đại lượng
khác nhau nữa. Ngòai ra như ta đã biết trong bài học ở mục thứ 3)
trên đây Lý Sự vô ngại pháp giới: năng lượng và
khối lượng cũng chỉ là một nữa mà! Tương tự như vậy, vật lý
học cổ điển với Descartes cho rằng ánh sáng được truyền đi theo
đường thẳng, nhưng vật lý học hiện đại với Fresnel, Huyghens,
Pflanck v..v.. lại chứng minh rằng ánh sáng được truyền đi theo
đường hình sin dưới dạng những làn sóng và những hạt (photon)
nữa. Thật ra ánh sáng đã có tự muôn đời, còn những lý
thuyết về ánh sáng thì chỉ là những lối nhìn của những nhà khoa
học, như những người mù rờ voi, trong nhiều thế kỷ vẫn chưa rốt
ráo được sự thật về ánh sáng. Tuy nhiên, ít ra cho đến nay
người ta đã đi đến kết luận là những lý thuyết về ánh sáng
không hề mâu thuẫn nhau ngăn ngại nhau vì sóng hay hạt, đường
thẳng hay đường hình sin chỉ là 2 mặt biểu hiện của ánh sáng mà
thôi - đây là điều mà đức Thế Tôn đã thuyết giảng từ cách
đây mấy ngàn năm trong nội dung sự sự vô ngại của kinh
Hoa Nghiêm rồi vậy. J J !!
5) Về Lục Tướng: Lục tuớng là 6 mối
liên hệ giữa cái Tất cả (= cái toàn thể) và
cái Một (= cái riêng lẻ) trên 3 mặt Thể, Tướng
và Dụng. Ngài Pháp Tạng (643- 712) đã đưa ra một ẩn dụ nổi tiếng
để giải thích về 4 loại pháp giới và 6 tướng xuất hiện: đó
là hình ảnh một con sư tử bằng vàng. Sư tử biểu hiện cho thế
giới hiện tượng (Sự); Vàng là biểu hiện của bản chất (Lý ).
Vàng không có hình dáng nhất định nhưng xuất hiện dưới dạng nào
cũng được. Ở đây, Tổng tướng là toàn bộ các chi
tiết làm thành một tướng trạng đồng nhất (là toàn bộ con sư
tử bằng vàng); Biệt tướng là các phần nhỏ của tổng
tướng (= các chi tiết, các bộ phận của con sư tử: đầu, mình,
bờm, chân, v..v..) các chi tiết này dều khác với tổng tướng, có
hình dáng và chức năng riêng ; đó là tổng và biệt = mối
tương quan giũa cái toàn thể và các chi tiết của cái toàn thể ấy
.
Đồng tướng: tuy các bộ phận khác nhau nhưng
chúng lại hoà nhau trong một tổng tuớng, chúng có liên hệ hữu cơ
chặt chẽ với nhau, không thể tách rời nhau. Dị tướng:
sự khác nhau giữa các bộ phận về tướng trạng của chúng ( = hình
thể và chức năng ) ; vậy Đồng và Dị = mối tương quan
giữa những bộ phận của cùng một tổng thể và mối liên hệ
giữa chúng với tổng thể .
Thành tướng: sự kết hợp của các chi tiết,
các bộ phận để tạo thành sự vật hay hiện tượng nào đó (tổng
thể ) ; Hoại tướng: sự tan rã của một sự vật hay
hiện tượng do các bộ phận không còn kết hợp với nhau nữa .
Vậy Thành và Hoại = mối liên hệ của tổng thể với
các bộ phận của nó về mặt hoạt động và tác dụng.
Tóm lại, nói đến Tổng, Đồng, Thành là
nói về mặt bản thể bình đẳng viên dung tự tại vô ngại giữa
các pháp về mặt Tĩnh; còn nói đến Biệt, Dị,
Hoại là nói về mặt hiện tượng muôn màu muôn vẻ, trong đó
mọi sự vật hiện tượng phơi bày những hình tướng & tác dụng
khác nhau , những đặc tính riêng biệt, độc đáo của các pháp,
tức là nói về mặt Động vậy.
Đó là những bài học mà ACE chúng tôi thu nhận
được trong buổi học thứ 2 về Kinh Hoa Nghiêm.