Hòa thượng thuộc dòng Thiền Lâm Tế đời
thứ 39, pháp danh Ngộ Đạo hiệu Từ Vân. Thế danh Đinh Công Thân, sinh năm
Bính Dần (1866) Niên hiệu Tự Đức năm thứ 20, tại làng Định Yên, Lấp Vò,
(nay là Đồng Tháp). Thân phụ là Cụ ông Đinh Công Thành và thân mẫu là cụ
bà Lê Thị Hoài. Gia đình 7 anh em, Ngài thứ tư. Sinh trong gia đình
trung lưu phúc hậu, theo truyền thống đạo Phật.
Thuở nhỏ Ngài tỏ vẻ khác hơn các trẻ khác,
không thích ăn sang mặc đẹp, ít nô đùa, ưa trầm tư và ham đọc sách Thánh
Hiền.
Năm Bính Tuất (1886) niên hiệu Đồng Khánh
năm thứ 2, vừa tròn 21 tuổi, sau khi đi chiêm bái vùng thất sơn Châu Đốc,
bổng nhiên Bồ Đề tâm hoa khai, Ngài đến An Phước Tự tại quê nhà cầu lão
Tổ Đạt Hóa hiệu Nguyên Hòa làm Bổn Sư Hòa thượng cạo tóc xuất gia và ban
pháp danh Ngộ Đạo hiệu Từ Vân.
Năm Mậu Tý (1888) niên hiệu Đồng Khánh
năm thứ 4, Ngài thọ giới Sa Di tại giới đàn An Phước do Thiền sư Minh
Thông hiệu Hải Huệ đương vi Đường đầu Hòa thượng, Ngài Phổ Minh đương vi
Yết Ma A xà lê, Ngài Đạt Hóa đương vi Giáo Thọ A xà lê.
Năm Tân Mão (1891) niên hiệu Thành Thái
năm thứ 3, Ngài đăng đàn thọ Tỳ kheo, Bồ tát giới tại giới đàn Tiên
Thiện – Từ Lâm nơi Tổ đình Phước Hưng, Sa Đéc do Thiền sư Minh Thông
hiệu Hải Huệ đương vi Đường đầu Hòa thượng, Thiền sư Hải Huệ hiệu Chân
Giác đạo nhân (HT. Tổ Mẹ Nội) đương vi Yết Ma A xà lê, Thiền sư
Như Khả hiệu Chơn Truyền đương vi Giáo thọ A xà lê.
Và sau đó Ngài vâng lệnh Hòa thượng Bổn
sư về lo Phật sự ở Tổ đình Tân Long, Làng Tân Thuận Tây, Cao Lãnh (nay
thuộc Tp. Cao Lãnh).
Năm Ất Tỵ (1905) niên hiệu Thành Thái năm
thứ 7, Hòa thượng Bổn sư Viên tịch, lo tang lễ hiếu sự xong, Ngài tiếp
tục kế nghiệp Phật sự Tổ đình Tân Long.
Năm Ất Mão (1915) niên hiệu Duy Tân năm
thứ 9, Ngài bắt đầu mở trường Gia giáo dạy học và chuẩn bị khắc Mộc bản
được trích một trong những Kinh, Luật, Luận và các tác phẩm của Ngài
trước tác biên soạn diễn nôm .
Năm Kỷ Mùi (1919) niên hiệu Khải Định năm
thứ 4, Đại Giới Đàn Minh Phước tổ chức tại Tổ đình Phước Hưng, Sa Đéc.
Ngài được cung thỉnh đương vi Đường đầu Hòa thượng, Ngài Bửu Phước Khai
Sơn Phước Ân Tự đương vi Tuyên luật sư Yết ma A xà lê, Ngài Vạn Hiển Trụ
trì Phước Hưng đương vi Giáo thọ A xà lê.
Năm Tân Dậu (1921) niên hiệu Khải Định
năm thứ 6, Ngài tiếp tục xây thêm Tăng xá, tiện nghi phòng ốc để tiếp
Tăng chúng tứ phương tụ hội học tu. Giáo dục đào tạo Tăng tài, trong đó
xuất sắc nhất là Huệ Quang đắc pháp và sau này được cung thỉnh lên ngôi
Hòa thượng Thượng thủ Giáo hội Tăng Già Nam Việt.
Năm Giáp Tý (1924) niên hiệu Khải Định
năm thứ 9, Ngài sang Ấn Độ chiêm bái Phật tích và các nước : Trung Quốc,
Thái Lan, Miến Điện, Lào, Campuchia để nghiên cứu tình hình chấn hưng
Phật giáo thế giới trong khu vực.
Năm Ất Sửu (1925) Khai Trường Kỳ tại Tổ
đình Tân Long Ngài đương vi Chứng minh và Pháp Sư, Ngài Từ Văn chùa Hội
Khánh, Bình Dương đương vi Hòa thượng Bố tát, Ngài Trí Thiền, Sắc tứ Tam
Bảo tự, Rạch Giá đương vi Hòa thượng Thiền Chủ, Ngài Khánh Hòa chùa Tiên
Linh, Bến Tre đương vi Hòa thượng Chứng Đàn, Ngài An Lạc chùa Vĩnh Tràng,
Mỹ Tho đương vi Hòa thượng Bố tát, Ngài Như Lý – Thiên Trường, Bửu Lâm
Tự, Mỹ Tho đương vi Hòa thượng Chánh Chủ sự, Ngài Thiên Ân chùa An Phước,
Lấp Vò đương vi Hòa thượng Bố tát . . . Các bậc Lão tiền bối khai Trường
Hương năm này quy tụ Danh Tăng để thảo kế hoạch trù bị cho cuộc Chấn
Hưng Phật giáo đầu thập niên 20 của thế kỷ XX.
Năm Bính Dần (1926) niên hiệu Bảo Đại
năm thứ 2, Đại giới Đàn Nguyên Hòa tổ chức tại Bổn Tự Tân Long, Ngài
đương vi Đường đầu Hòa Thượng, trong giới tử của đàn giới này có Ngài
Thích Thành Đạo (khai sơn Phật Ấn tự, nay thuộc Quận 1, Thành phố Hồ Chí
Minh) đắc giới.
Năm Đinh Mão (1927) niên hiệu Bảo Đại năm
thứ 3, Đại giới đàn Minh Phước tại Tổ đình Phước Hưng, Sa Đéc Ngài được
cung thỉnh đương vi Đường đầu Hòa thượng, Ngài Bửu Phước đương vi Yết ma
A xà lê, Ngài Vạn Hiển đương vi Giáo thọ A xà lê. Sau đó, Ngài sang Lào
dự Đại hội Phật Giáo khu vực.
Năm Canh Ngọ (1930) niên hiệu Bảo Đại năm
thứ 6, Đại giới đàn Nguyên Hòa tại Bổn tự Tân Long, Ngài đương vi Đường
đầu Hòa thượng, Ngài Bửu Phước đương vi Yết ma A xà lê, Ngài Vạn Hiển
đương vi Giáo thọ A xà lê.
Năm Giáp Tuất (1934) Đại giới đàn tổ chức
tại Chùa An Phước, làng Định Yên, Lấp Vò, Ngài đương vi Đàn đầu Hòa
thượng.
Duyên Ta bà quả mãn, thuận thế vô thường,
sinh diệt quy luật, Ngài an nhiên tọa hóa vào ngày 25 tháng 5 năm Giáp
Tuất (06 -06 – 1934) niên hiệu Bảo Đại năm thứ 10.
Trụ thế 68 Xuân. Pháp lạp 40 Hạ, Trụ trì
43 Đông.
Lúc sinh tiền Ngài đào tạo chúng đệ tử
học điêu khắc để chế tác mộc bản các Kinh, Luật, Luận hiện đang tàng bản
ở Tổ đình Tân Long :
- Kim Cang Kinh
- Lục Tổ Bửu Đàn Kinh diễn nghĩa (văn Nôm
– lục bát)
- Di Giáo Kinh chú giải
- Tứ Thập Nhị Chương chú giải
- Sa di Luật nghi chú giải
- Quy Sơn cảnh sách chú giải
- Quy Nguyên trực chỉ
- Hứa sử truyện vãn
- Thiền Cơ Ngộ Đạo truyện (chữ nôm)
- Chư Sám Quốc Âm
- Thập Nhị đại nguyện vương quốc âm
- Tam quy ngũ giới thích nghĩa (nôm)
- Phục Sơ Giác Bổn diễn ca tập
- Thần Chung Tịnh Độ kinh
- Niệm Phật pháp môn công cứ. . .
(Tài công khắc mộc bản gồm đệ tử Ngài
như các vị :
Tịnh Tu, Tịnh Tư, Tịnh Tâm, Tịnh Ý, Tịnh
Huệ, Tịnh Chí, Huệ Thành, Mỹ Quang, Chơn Huệ. . .)
Cuộc đời hạnh hóa đạo của Ngài rất bình
dị, chân tu thật học, nghiêm trì giới luật, là một trong những bậc Cao
Tăng Thạc Đức tạo tiền đề cho cuộc chấn hưng Phật giáo Nam bộ vào đầu
thế kỷ XX và Huệ Quang Hòa thượng tiếp tục theo gương sáng của Ngài, hợp
tác với Hòa thượng Khánh Hòa cùng phát động phong trào chấn hưng Phật
giáo.
Chúng đệ tử xuất gia với Ngài như :
Tịnh Đắc, Tịnh Nhãn, Tịnh Toàn, Tịnh Trí,
Tịnh Thắng, Tịnh Tu, Tịnh Tư, Tịnh Kiên, Tịnh Nghiêm (Khai sơn chùa
Thành Hoa, huyện Chợ Mới, An giang, tục gọi là Đạo Nằm), Tịnh Lý,
Tịnh Huệ, Pháp Lý, Pháp Tư . . .