KỶ NIỆM 100
NĂM NGÀY SINH
LÃNG
ÐÃNG MỘT KHUẤT NGUYÊN Ở CỤ THIỀU CHỬU
Thích Ðồng Bổn
---o0o---
Khi
viết về ông, tôi vẫn còn nguyên xúc động của lần đầu ra xứ Bắc tìm dấu
tích về nhà trí thức Phật học này cho công trình biên khảo Chư tiền bối
hữu công mà tôi đang thực hiện.Những mãng huyền thoại về cuộc đời của ông
tôi được nghe qua nhiều người kể lại, mỗi nơi một ít, mỗi người thuật mỗi
cách, đã gây cho tôi nhiều trăn trở, nghĩ suy và qua đó cảm nhận sâu sắc
hơn về một nhân vật nhiều tài năng mà cũng đầy bất hạnh này. Nghĩ về ông
nhân 100 ngày sinh, tôi muốn nói về chất “Sĩ” nơi ông được thể hiện qua
năm khía cạnh:
- Thiều Chửu : một “Nho Sĩ” mang chí hướng tải đạo hóa đời.
Vốn xuất thân
từ một gia đình bần nông, hơn ai hết ông tất thấm thía cảnh nghèo khổ do
bị địa chủ và thực dân áp bức bóc lột. Chính vì thế ông quyết tâm tự học
chữ Hán nơi bà Nội của ông với ý nghĩ sẽ mang cái chữ giúp ích cho đờiù.
Vốn là một nhà nho , ông tự học thêm các ngoại ngữ Anh, Pháp, Nhật để
không bị lạc hậu và để tiếp thu các luồng tư tưởng của thời đại từ khắp
nơi trên thế giớùi. Theo gương cha là cụ Cử Cầu – tức nhà Chí sĩ Giản
Thạch trong phong trào Ðông kinh Nghĩa thục - ông trở thành một chiến sĩ
trên mặt trận chống giặc mù chữ , cái đã làm cho dân ta không nhận thấy
con đường sáng vượt qua đói nghèo và con đường cứu nước thoát khỏi cảnh nô
lệ ngoại bang của thực dân đế quốc, cụ thể là việc ông cùng với các ông:
Nguyễn văn Tố, Ðặng Thai Mai, Võ Nguyên Giáp, Phan Thanh, Trần Huy Liệu
lập Hội Truyền bá Quốc ngữ hoạt động tại hội quán Trí Tri, phố Hàng Quạt,
Hà Nội(1).
Sự nghiệp
lớn nhất của Nho sĩ Nguyễn Hữu Kha là tác phẩm “Hán Việt tự điển”, một
cuốn tự điển có giá trị ứng dụng xuyên suốt qua nhiều thời đại, là “sách
tủ” của mọi tu sĩ Phật giáo trên đường nghiên cứu Tam tạng giáo điển để tu
học. Ở lời nói đầu, ông đã viết lên thao thức của mình về Nho học:
“Tôi tự nghĩ rằng Hán học thời nay đang ngày một mất dần, chỉ nhờ có học
Phật thì may ra mới duy trì được ít nhiều; nếu dùng cách nào mà giúp cho
người đọc được kinh biết được chữ, tức là cái nền tảng để xây đắp lại tòa
lâu đài Nho giáo nguy nga tráng lệ”(2). Ngoài ra, ông còn những
bài viết mang đậm tính cách bộc trực, khẳng khái của một Nho sĩ trong
thực hiện sứ mệnh chống cái xấu, cái ác không khoan nhượng . Giớùi Tăng lữ
đương thời không theå không suy ngẫm các bài thơ, bài viết cảnh tỉnh người
tu Phật của ông, tiêu biểu là những lời lẽ thẳng mà đau trong
quyển “Con đường học Phật thế kỷ 20”.
Dù là một Nho sĩ
uyên bác nhưng ông không hề quên cội nguồn bần nông của mình nên suốt
cuộc đời ông vẫn luôn gắn bó giữa sự nghiệp tri thức với công việc nông
trang, nói gọn hơn là một kẻ sĩ làm nông, đó cũng là một nét đặt
biệt nơi ông , ít có nơi nhiều nhà Nho khác.
-
Thiều Chửu : một trí thức “Cư Sĩ” Phật giáo.
Khi đến
với đạo Phật, ông tự nhận mình “ cũng chỉ là một tín đồ tín ngưỡng
triết lý mà thôi” trong lời Tự Bạch. Là một nhà Phật học uyên thâm,
ông có nhiều hoạt động tỏa sáng trong giai đoạn chấn hưng Phật giáo Bắc kỳ
với trên dưới 40 tác phẩm cho Phật giáo. Hàng loạt những dịch phẩm - tác
phẩm về Kinh điển và Phật học có giá trị được ra mắt trong thời này, cùng
nhiều bài viết sắc xảo đăng trên báo Ðuốc Tuệ, cơ quan ngôn luận của hội
Phật giáo Bắc kỳ lúc bấy giờ. Sách và báo đều xuất bản từ nhà in do ông
quản lý, mang đậm tính giáo dục và cải cách.
Trước sự
suy thoái phẩm chất ở một bộ phận hàng ngũ Tăng đoàn của đạo Phật thời kỳ
này, chỉ thiên về danh lợi chức quyền, đến sự xa hoa từ việc bày vẽ cúng
bái mê tín mà xem nhẹ nhiệm vụ truyền bá chính pháp và trau giồi đạo đức
giải thoát. Bối cảnh thực trạng này được ông miêu tả như sau trong sách
“Con đường học Phật thế kỷ 20”:
“
Người tín ngưỡng Phật giáo nước ta hạng trên nhất chỉ tu lấy lợi một mình,
mặc kệ đời chẳng thèm nhìn tới; hạng thứ nhì thì mượn cửa chùa làm chốn
dung thân dễ dàng qua ngày; hạng dưới nữa thì lại lấy chùa chiền làm chỗ
buôn bán kiếm chác, không từ một sự đê hạ, nhơ nhớp nào mà không dám làm”.
Qua ngòi
bút của mình ông muốn làm cuộc cải cách nhằm cảnh tỉnh các tệ nạn trên,
đem lại sự trong sáng cho giáo lý Phật đà bằng đề nghị thẳng thắn: “Tôi
mong rằng các nhà tín ngưỡng Phật giáo nên chú ý vào hai sự này cho: 1 –
Nên gánh vác lấy cái trách nhiệm chỉnh đốn Phật giáo, cải lương Phật giáo.
2 – Ðừng theo cái lối tín ngưỡng về mặt tiêu cực mà phải gắng sức tiến
sang mặt tích cực ngay đi. Làm trái lại thì chẳng đợi người ta phá chùa
đuổi sư mà chính Phật giáo tất phải đi dần đến diệt vong vậy.”(Sđd)
Ông cũng
góp sức truyền bá trào lưu học Phật bằng chữ quốc ngữ ở thời kỳ mà sự mù
chữ còn phổ cập khắp nhân dân, việc tụng niệm còn bằng phiên âm từ chữ Hán.
Ông nói trong lời tựa bản dịch “Kinh A Di Ðà” rằng: “nhưng vì tính ta
kém phần tự lập về tinh thần, cho nên cứ vùi đầu với chữ Hán, ít người dám
phiên dịch sang tiếng ta. Ta chưa biết rằng những Kinh chữ Hán ta tụng
niệm đó có phải là chính tiếng Phật nói đâu”
Chí hướng
và tâm nguyện ấy còn thể hiện trong cách ông chọn Ðạo hiệu cho mình: Thiều
Chửu và Lạc khổ. Thiều Chửu, có nghĩa là cái chổi quét bụi, ý muốn nói lên
những tệ nạn kia chính là bụi dơ làm hoen ố hình ảnh trong sáng của đạo
Phật, mà chính ông là cây chổi quét bụi ấy sẽ làm trong sáng giáo hội qua
ngòi bút cải cách của mình.Bút danh Thiều Chửu còn một ý nữa, là trước khi
sửa người thì phải trong sạch lấy mình, qua sự hàng ngày phải lau quét bụi
trần tham nhiễm, đừng để gương lòng vẫn đục bởi phiền não vô minh che lấp
, như bài kệ tỏ đạo của Ngài Thần Tú:(3)
Thân thị Bồ đề thọ
Tâm như minh cảnh đài
Thời thời thường phất thức
Vật sử nhạ trần ai.
Tạm dịch
:
Thân là cây Bồ đề
Tâm như đài gương sáng
Thường ngày hằng lau quét
Chớ cho dính bụi trần.
Sử dụng
bút danh Lạc Khổ là để cảnh tỉnh chính mình và người trên bước đường tìm
đến thường–lạc–ngã–tịnh. Lạc Khổ có nghĩa là vui trong khổ, tượng trưng
cho pháp hạnh “thiểu dục–tri túc” trong giáo lý căn bản nhà Phật, nghĩa là
ít muốn và biết đủ, thể hiện nơi bản thân ông đã sống trọn đời mình qua
nếp sống giản dị, đạm bạc, trường trai mỗi ngày chỉ ăn một bữa đúng Ngọ,
guốc mộc nâu sòng như ngươi chân quê để làm tấm gương mẫu mực sách tấn học
trò của ông rằng, ngay trong hoàn cảnh khổ ấy hay thân phận khổ đau này,
con người ta vẫn tìm thấy niềm hạnh phúc an lạc hơn hẳn mọi điều phù phiếm
trên đời.
Ý nghĩa
nội hàm của từ Lạc Khổ còn là giác ngộ cái khoå ở chỗ: chỉ có trải
qua khổ đau (tức khổ đế), mới nhận thức được bản chất và nguyên nhân của
khổ (tức tập đế) trong giáo lý căn bản cuûa đạo Phật là Tứ Diệu Ðế (4 chân
lý Khổ-Tập-Diệt-Ðạo).Khi con nguời giác ngộ được chân lý của khổ đau, cũng
chính là trực nhận sự an lạc vô biên trong giải thoát; cho nên, hạnh phúc
hay đau khổ chính là trong nhận thức của mình thôi.
- Thiều Chửu : người mang tấm lòng “Ðại Sĩ”.
Nhờ thấm nhuần tư tưởng nhà Phật từ thuở nhỏ, ông sớm bộc lộ lòng mẫn cảm
thương người nghèo khổ khó khăn hơn mình. Cuộc đời ông đã trải qua bao cay
đắng khổ cực từ thuở ấu thơ nên dễ đồng cảm với những số phận bất hạnh,
như lời ông đã phát thệ rằng: “ Ðời tôi hễ ai thiếu thốn cái gì muốn
nhờ tôi, chưa hé miệng tôi đã vâng, có thì giúp, không thì vay giúp, nếu
không giúp được thì lòng tôi đau khổ cũng như người không vay được. Tôi mà
còn một bát gạo, ai đói hơn, tôi cũng nhường ngay thà tôi chịu nhịn, và
chí tôi với sự nhịn hai ba bữa là thường lắm” (Tự Bạch của Thiều
Chửu-Sđd)).
Lòng từ
bi khiến ông phát tâm noi chí nguyện chư Bồ Tát giúp đời bằng cách gánh
vác và chia sẻ bao nỗi bất hạnh của thời loạn ly, như những việc: chủ
trương lập hội Tế sinh nuôi trẻ bị mồ côi; đứng ra lo việc chôn cất cho
hàng trăm người bị chết vì nạn đói kém; tổ chức các lớp học cho trẻ bị
lạc mất cha mẹ vì chiến cuộc; lập nhà dưỡng lão, nghĩa trang Tế độ và
không nề khó khăn gian khổ đưa các em đi tản cư lánh giặc ra vùng tự do
v.v. . . Ông còn dạy người làm thuốc Ðông y, tự tay chữa bệnh cho bất cứ
ai cần đến không nề hà công sức, còn tổ chức cày cấy ruộng nương, trồng
trọt khoai sắn để tự túc kinh tế nuôi dưỡng các em đến trưởng thành.Các
việc làm ấy ông xem là sự nghiệp cả đời ông , như ông đã viết tiếp trong
lời Tự bạch: “Sau đó, tôi không hề nghĩ đến cái đời riêng của tôi nữa;
người ta cho là tôi tin đạo Phật mà không lập gia đình, có biết đâu uẩn
khúc của tôi từ thuở còn thơ dại”.
Ông quả
là một bậc Ðại sĩ giữa đời thường, một tâm hồn nhân ái giữa cuộc chiến
tranh máu lửa của nhân dân để giành chủ quyền đất nước.
- Thiều Chửu : môt nhà “Chí Sĩ” yêu
nước.
Hun đúc bởi
lòng yêu nước thương nòi, chí căm thù giặc Tây và truyền thống cách mạng
của gia đình ( cha ông bị giặc Pháp đày ra Côn Ðảo vì tham gia phong trào
kháng Pháp, và những người thân trong gia đình của ông đã chết vì chiến
tranh), ông coi việc tận trung tận hiếu vì dân là nghĩa vụ thiêng liêng,
như lời ghi ở đầu sách “Con đường học Phật ở thế kỷ 20”: “Phải tận hiếu
với nhân dân, nhân dân là cha mẹ bao kiếp, là chư Phật vị lai”. Ta
thấy rõ tâm trạng thời trai trẻ của ông trước nỗi đau nước mất nhà tan,
lòng căm thù giặc Pháp và bè lũ tai sai đến xương tủy qua những câu thơ
đề trên vách lăng của tên Việt gian Lê Hoan(4):
“Thanh thần điếu cửu nguyên
Chủng chủng u tình huyên
Thế thái cạnh phú quý
Nhân tình xu ngân tiên
Công cừu ngạch bái thượng
Nghĩa vụ phóng tâm biên”.
Bản dịch của
Nguyễn Hải Hoành :
Tinh mơ qua bãi tha ma,
Vong hồn bao kiếp kêu la vang trời.
Bon chen phú quý thói đời,
Lòng người mê mẫn hướng nơi đồng tiền.
Thù chung: trên trán, đưa lên,
Nghĩa vụ: canh cánh không quên trong lòng”.
Ôâng
đã chọn vị trí chiến đấu ở hậu phương qua sứ mệnh giáo dục trẻ em và tăng
gia sản xuất, đem tri thức của mình giúp ích cho địa phương ở vùng kháng
chiến để góp phần vào sự nghiệp cách mạng giải phóng quê hương khỏi ách
thống trị của thực dân Pháp. Niềm tin cách mạng tất thắng cộng với tín
ngưỡng đạo Phật nơi tâm hồn được ông cảm tác qua bài thơ:
Phen này cắt tóc đi tu,
Tụng kinh Ðộc lập, ở chùa Duy Tân
Ðêm ngày luống những ân cần
Cầu cho ích quốc lợi dân mới là
Cầu cho nước Việt Nam ta
Khắp Trung Nam Bắc một nhà vui chung
Toàn dân kháng chiến thành công
Tự do Hạnh phúc vô cùng vô song.
(Vô Ðề – 1947)
Sự khẳng
khái của một Chí sĩ được ông thể hiện qua bài viết cảnh cáo những người
Phật giáo làm tai sai cho giặc vào cuối năm 1952(5): “ Nội dung bài ấy
có hai phần, phần 1 chỉ rõ tinh thần cách mạng của Phật giáo thuyền tông;
phần 2 chỉ rõ chỗ suy kém của Mỹ, và chỉ cho đường về với kháng chiến”.
Ông quan niệm, thà khổ sở thiếu thốn trăm bề nơi vùng tự do của kháng
chiến, còn hơn sống nhục nơi chốn phồn hoa đô hội do giặc chiếm đóng;
quyết liệt hơn, ông dứt khoát không chịu nhận bất kỳ sự trợ giúp nào bắt
nguồn từ nội thành gửi ra, khi được Hòa thượng Tố Liên gửi biếu 6 lượng
vàng, ông răn dạy học trò của mình rằng: “Chúng ta phải tự lực cánh
sinh; người tư do không ăn xin người mất tự do. Vàng của ai cho phải trả
lại, dứt khoát tôi không dùng” (Tự Bạch của Thiều Chửu-Sđd). Ðó phải
chăng chính là phẩm chất cao thượng của người Chí sĩ ở nơi ông, không còn
gì phải bàn luận thêm vậy.
-Thiều Chửu :một nhân cách rạng danh“Tiết Sĩ”.
Trong
chính sách xác định thành phần cải tạo ruộng đất năm 1954, do trình độ
nhận thức yếu kém của người thực thi và do một số quần chúng dễ bị chi
phối bởi các lời tuyên truyền của những phần tử cơ hội rằng những người
trí thức đều gốc là thành phần tư sản bóc lột ... ông đã trở thành nạn
nhân của một oan án . Là một kẻ sĩ, oÂng đã chọn cái chết để bày tỏ tiết
tháo của mình. Tôi được nghe một vị Nhân sĩ giáo phẩm kể lại rằng: sau
khi viết thư để lại và dặn dò cùng các học trò của mình, ông đã kết thúc
cuộc đời bằng cách thắp hương tạ lễ bốn phương bên bờ sông, sau đó tự quấn
chăn vào mình nhảy xuống giòng sông ở đoạn chảy siết để tự trầm .Ðấy
cũng là cái dũng khí lớn nhất mà ông đã làm được để giữ gìn phẩm giá ở một
người trí thức, để laøm một bài học thức tỉnh những ai còn chưa thấu hiểu
đạo lý tình người, để không một ai có thể tùy tiện bóp méo sự thật về ông.
Lấy cái
chết để thể hiện hiện tấm lòng trong sạch của mình, mà không hề oán hận
người nào, không muốn đổ lỗi cho ai, hoặc bất mãn về đường lối chính sách;
trước sau ông vẫn một lòng tin tưởng vào sự nghiệp cách mạng do chính phủ
lãnh đạo, ấy là sự tuẫn tiết của tấm lòng trung kiên, của niềm tin đạo
nghĩa vẫn có ở đời, và vì ông vững tin vào thế hệ học trò cùng hậu duệ của
mình vẫn sẽ tiếp bước đi theo con đường đúng đắn mà ông đã dạy dỗ ấy, tất
sẽ có ngày trả lại công bằng và danh tiết cho mình mai sau.
* * *
Nghĩ về
ông, tôi không khỏi bùi ngùi cho thân phận kẻ sĩ đã ỡ vào một giai đoạn
lịch sử bi tráng của dân tộc trong thời kỳ đầu giành lại độc lập từ tay
ngoại bang. Những lời kể về việc tử tiết của ông gây ấn tượng mạnh mẽ nơi
tôi, bởi từ trước tới nay tôi chưa hề nghe thấy sự tuẫn tiết nào đặc biệt
và chấn động đến thế. Chính vì thế tôi lặn lội tìm hiểu biên khảo về ông
ở thập niên 80 – 90 để viết tiểu sử của ông .Ôâng tự cho trường hợp của
ông là cái án “mạc tu hữu” mà Nhạc Phi đời Ðường phải gánh chịu(6) nhưng
tôi nghĩ cái chết của ông phảng phất sự tuẫn tiết của Nhà nho Khuất Nguyên
nước Sở- thời Chiến quốc, cũng đã nhảy xuống giòng sông Mịch La tự trầm,
sau khi để lại câu nói bất hũ : “thế gian này tất cả đều say, chỉ có
mình ta là tỉnh”.
Những
điều luận bàn quanh năm chất Sĩ : Nho sĩ, Cư sĩ, Ðại sĩ, Chí sĩ và Tiết sĩ
của Nguyễn Hữu Kha để khẳng định rằng, Thiều Chửu đối với đạo là một
Phật tử có đạo đức mẫu mực; đối với đời là một Nhân sĩ có nhân cách cao
đẹp, Cuộc sống và cái chết của ông đã để lại những mến tiếc vô cùng trong
lòng những thức giả đương thời và hậu học ngày nay.
Mùa Xuân năm Nhâm Ngọ ở Sài Gòn, tháng 3 - 2002
Thích Ðồng
Bổn
Ghi chú:
(1)
Theo “Cư sĩ Thiều Chửu – Nguyễn Hữu Kha”, Trần Việt Quang và Nguyễn
Hải Trừng, Tài liệu lưu hành nội bộ.
(2)
Tự điển Hán Việt, bản in lần thứ nhất của NXB Ðuốc Tuệ, 1942
(3)
Phật học Phổ thông khóa thứ V, Thiền tôn, tr.202,Thành hội PG
Tp.HCM xb, 1997
(4)
. Lê Hoan, kẻ đã làm tay sai cho giặc, chỉ huy đánh úp ông Hoàng
Hoa Thám –tức cụ Ðề Thám, lãnh đạo khởi nghĩa Yên Thế(Bắc Giang) năm 1913,
ông bị tay sai thực dân Pháp ám hại.
(5)
Bài viết này ông gửi cho anh Ðường tìm cách phổ biến trong nội
thành, sau anh đã bị giặc bắt. Tự Bạch của Thiều Chửu, tr.14. Tài liệu
lưu hành nội bộ.
(6)
Lời ông viết ở những dòng cuối cùng của bản Tự Bạch–Sđd, nhưng có
chỗ cần đính chính là Nhạc Phi ở đời Nam Tống chứ không phải đời Ðường.
Tuy nhiên, người viết vẫn trích dẫn nguyên văn.
--- o0o ---
|
Thư
Mục Tác Giả |