HÒA
THƯỢNG
THÍCH THANH KIỂM
I/
Thân thế :
Hòa Thượng Thích
Thanh Kiểm, thế danh Vũ Văn Khang, sinh ngày 23/12/1921 (Tân Dậu), tại
làng Tiêu Bảng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Thân phụ là Cụ Ông
Vũ Đức Khanh, thân mẫu là Cụ Bà Đỗ Thị Thinh. Hoà thượng có 5
anh chị em, 3 trai 2 gái. Ngài là con thứ 4 trong gia đình.
II/ Thời kỳ xuất gia tu học :
Khi
lên 6 tuổi, Hoà Thượng được song thân cho theo học chữ Hán với
các cụ đồ tại địa phương. Năm 15 tuổi, hạt giống xuất trần phát
triển, khi nhân duyên hội đủ, Hòa Thượng đã noi gương chị gái
là Sư Bà Đàm Hữu, phát tâm xuất gia đầu Phật với sư cụ Chùa
Linh Đường. Về sau xin cầu Pháp ý chỉ với Hòa Thượng Thích Thanh
Khoát trụ trì chùa Bạch Chư, Phú Yên , tỉnh Vĩnh Phú.
Năm lên 18
tuổi, Hòa Thượng được Bổn sư cho Đăng đàn thụ giới Sa Di tại
chốn Tổ Trung Hậu.
Sau khi thụ
giới sa di, năm 19 tuổi, để mở mang kiến thức Phật học, làm tư
lương tiến tu hành đạo. Hòa Thượng đã lần lượt theo học với
các chốn Tổ: Tổ Giám Cồn, và Hòa Thượng Thanh Thuyên chùa Cao
Phong .
Năm 22 tuổi,
để viên mãn Tam đàn giới pháp, Hòa Thượng được Bổn sư cho
thọ giới Tỳ Khưu tại chốn Tổ Trung Hậu, tỉnh Vĩnh Phú.
Hòa Thượng Thích Thanh Kiểm
Trong thời
gian lưu học tại Quán Sứ, Bồ Đề, Hòa Thượng đã hoàn tất
chương trình Cao Đẳng Phật Học với các huynh đệ đồng môn như Cố
Hòa Thượng Tâm Giác .v.v
Trong phong
trào chấn hưng Phật Giáo Việt Nam, các Giáo hội được thành lập,
Giáo Hội Tăng Già Bắc Việt là hậu thân của Giáo Hội Tăng Ni
chỉnh lý Bắc Việt do Cố Hòa Thượng Tố Liên khởi xướùng.
Năm 1953
1954, Hòa Thượng được cử làm Thư Ký Giáo Hội Tăng Già
Bắc Việt.
Năm 1954,
trong chương trình đào tạo Tăng tài cho Phật giáo, Tổng Hội Phật
giáo Việt Nam, Hội An Nam Phật Học và Giáo Hội Tăng Già Bắc Việt,
đã cử Hòa Thượng đi du học Nhật Bản với Cố Hòa Thượng Thích
Tâm Giác.
Trong thời
gian lưu học tại Đại Học Đường Rissho, Hòa Thượng lần lượt :
- Năm 1959 thi đậu bằng
Cử Nhân Phật Học.
- Năm 1961 đậu bằng Tiến
sĩ Phật Học.
III/
Thời kỳ hóa Đạo:
Sau
khi tốt nghiệp, năm 1962 Hòa Thượng trở về quê hương để phục
vụ Đạo pháp.
Năm 1963 trong
phong trào đấu tranh chống chế độ gia đình trị Ngô Đình Diệm, Hòa
Thượng đã cùng quý Hòa thượng, Thượng Tọa, Đại Đức, Tăng
Ni, Phật tử đấu tranh tích cực cho đến khi Cách mạng thành công.
Sau ngày
11/11/1963, Cách mạng thành công, Phật giáo được thoát nạn. Đại
Hội Thống Nhất Phật Giáo được tổ chức, Giáo Hội Phật Giáo
Việt Nam Thống Nhất ra đời. Hòa thượng được cử làm Vụ
Trưởng phiên dịch thuộc Tổng Vụ hoằng pháp, do Cố Hòa Thượng
Thích Trí Thủ làm Tổng Vụ Trưởng.
Từ 1964
đến 1971, Hòa Thượng đã cùng Hòa Thượng Tâm Giác và chư Tăng
Ni, Phật tử miền Vĩnh Nghiêm, hổ trợ xây dựng chùa Vĩnh Nghiêm
để làm trụ sở cho Miền, và đã hoàn thành một cách trang nghiêm
tú lệ như ngày hôm nay.
Kể từ năm
1973, sau khi Hòa Thượng Tâm Giác, Chánh Đại diện Miền Vĩnh Nghiêm,
trụ trì tổ đình Vĩnh Nghiêm viên tịch, Hòa Thượng đã được
Giáo Hội và Miền cũng như môn phái Vĩnh Nghiêm suy cử làm Chánh
Đại diện kiêm Trụ Trì chốn Tổ Đình Vĩnh Nghiêm cho đến ngày viên
tịch.
Sau năm 1975,
trải qua một thời gian khó khăn ngắn, Hoà Thượng vẫn tiếp tục
trụ trì Chùa Vĩnh Nghiêm, một ngôi chùa lớn nhất ở Saigon , Việt
Nam. Dù ở trong thời thế nào, Hoà Thượng luôn luôn đặt trọng
tâm vào việc phát triển Đạo Pháp lên trên hết.
Vào năm
1987, Hoà Thượng đã tổ chức tại chùa Vĩnh Nghiêm trường Cơ Bản
Phật Học để chư Tăng Ni sinh và chư Tăng trong môn phái về tu học
thúc liễm thân tâm, trau dồi Giới, Định , Tuệï.
Nhận thấy
sau một cuộc chiến tranh dài và vì ý thức hệ chính trị nên nền
Phật Giáo tại miền Bắc có phần suy yếu, Hòa Thượng đã chú
trọng rất nhiều vào việc chấn hưng Phật Giáo ở miền Bắc trên
phương diện nhân sự. Hòa Thượng đã tuyển vài khóa tăng sinh
từ miền Bắc để vào Nam (Chùa Vĩnh Nghiêm) tu học. Sau đó, vì nhận
thấy có nhiều điều bất tiện trong việc di chuyển, nên Hòa Thượng
phối hợp với chư Tăng miền Bắc tổ chức ngay tại làng Đại Mỗ
tỉnh Hà Tây một trường Trung Cấp Phật Học, đồng thời tiến tới
việc thành lập Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Hà Nội.
Với trình
độ Phật uyên thâm, quảng bác, quán thông, Hòa Thượng đã tham gia
rất nhiều vào công tác giảng dạy, giáo dục đào tạo Tăng tài cho
Phật giáo, Ngài đảm nhiệm làm giáo sư Viện Cao Đẳng Phật học,
Đại học Vạn Hạnh, Trường Cao cấp Phật học, Viện phó Học Viện
Phật giáo Việt Nam .v.v
Qua giới
đức trang nghiêm, thanh tịnh mô phạm chốn Tòng lâm, nên từ những
thập niên 60, Hòa Thượng đã được thỉnh làm Giới sư, Thập sư,
Chứng Minh truyền giới trong các Giới đàn.
Năm 1964 Tôn
Chứng Tăng Gia
Năm 1967
1972 làm Giáo Thọ Đại Giới Đàn Vĩnh Nghiêm.
Năm 1984
1998 làm Tuyên Luật Sư kiêm Giáo thọ Đại Giới Đàn Thiện
Hòa, do Giáo Hội tổ chức .
Tại Sóc
Trăng, trong Đàn Bửu lai, Hòa Thượng được cung thỉnh làm Đàn
Đầu Hòa Thượng. Tại An Giang, Hòa Thượng làm Đường Đàn Hòa
Thượng. Tại Bà Rịa, Vũng Tàu, trong Giới đàn Thiện Hòa, Hòa
Thượng được cử làm Yết Ma A Xà Lê. Tại Đồng Nai và Lâm
Đồng, Hòa Thượng được cung thỉnh làm Tuyên Luật Sư và Yết Ma A
Xà Lê, để truyền giới cho các Giới tử.
Ngoài công
tác Hoằng Dương Phật pháp tiếp dẫn hậu lai báo Phật Ân, Hòa
Thượng còn lưu lại nhiều các tác phẩm Văn hóa, giáo dục:
- Diễn Thuyết Tập, Hà
Nội,1951
- Phật Pháp Sơ Học, Hà Nội,1952
- Nghiên Cứu Về Tư Tưởng Bản Giác Của Phật
Giáo (Nhật Ngữ)
- Lược Sử Phật Giáo Trung Quốc
- Lược Sử Phật Giáo Ấn Độ
- Lược Giảng Kinh Pháp Hoa
- Kinh Viên Giác
- Khóa Hư Lục
- Thiền Lâm Bảo Huấn
- Pháp Hoa Yếu Lược
- Luật Học Đại Cương
- Luận A Tỳ Đàm Câu Xá
- Sách Dạy Cắm Hoa
và nhiều bài
viết đăng trên các báo Phật giáo trong và ngoài nước .
Để đền
đáp công ơn Thầy Tổ và trang nghiêm ngôi Tam Bảo, Hòa Thượng đã
cùng Sơn môn Pháp phái nỗ lực trùng tu chốn Tổ Trung Hậu Tổ Vĩnh
phú được hoàn thành, trang nghiêm tú lệ, xứng đáng là cơ sở
Phật giáo tại địa phương và của Giáo Hội Phật Giáo Việt nam.
Ngoài ra,
Hoà Thượng cũng còn chú trọng vào việc dạy dỗ các thanh niên
Phật Tử. Từ thập niên 50, Hòa Thượng đã đảm trách Cố vấn
giáo hạnh tổ chức Gia Đình Phật tử thuộc Hội Việt Nam Phật giáo
Bắc Việt tại chùa Quán Sứ Hà Nội cho đến ngày hôm nay là Gia
Đình Phật Tử tổ đình Vĩnh Nghiêm. Trong hơn 40 năm qua, một số các
thành viên Gia Đình Phật Tử Vĩnh Nghiêm đã trở nên những anh
tài ưu tú ở trong và ngoài nước, âu đó cũng là nhờ thiền
đức của Hoà Thượng.
Đối
với công đức của Hòa Thượng đã hiến dâng trọn đời cho đạo
pháp và chúng sinh cũng như xã hội, Hoà Thượng đã được toàn
thể chư Tăng và Phật Tử trong và ngoài nước ngưỡng mộ quý
mến.
IV/
Thời kỳ viên tịch:
Những
tưởng Hòa Thượng trên bước đường phục vụ Đạo pháp và
chúng sinh, còn tiếp đóng góp nhiều hơn nữa. Vào ngày 26/12/2000
Hòa Thượng lâm bệnh bất thường, mặc dù đã được tận tình
chữa trị, nhưng không thuyên giảm. Thế rồi, Hòa Thượng đã thuận
lý vô thường, thúc thân an nhiên thị tịch vào lúc 1g30 ngày 30
tháng 12 năm 2000 nhằm ngày 5 tháng 12 Canh Thìn. Trụ thế 80 năm. Hạ
lạp 58 năm.
Hòa Thượng
đã từ bỏ huyễn thân, trở về thế giới Niết Bàn vô tung bất
diệt, nhưng công đức và đạo hạnh của Ngài vẫn còn lưu lại thế
gian, trong tâm tư ký ức Tăng Ni, Phật tử Việt Nam cũng như trong
lịch sử Phật Giáo Việt Nam.
Thật là
một sự mất mát lớn cho Phật Giáo Việt Nam ngày nay vậy!
NAM
MÔ MA HA SA MÔN TỲ KHEO BỔ TÁT GIỚI PHÁP HÚY THÍCH THANH KIỂM
[Khóa Hư Lục -
bản dịch của HT. Thích Thanh Kiểm]
-- o0o --
| Mục lục tác giaû|
Cập nhật ngày: 01-12-2001