ĐÔI NÉT VỀ
HÒA THƯỢNG
THÍCH
ẤN THUẬN
(1906-2005)
---o0o---
Thân thế:
Pháp sư Ấn Thuận
thế danh là Trương Lộc Cần, sinh năm 1906 (Thanh Quang năm thứ 32), tức Âm lịch ngày 12 tháng 03, thuộc tỉnh Triết Giang, huyện Hải Ninh, trong
một gia đình nông - thương nghiệp thuộc tầng lớp trung lưu. Cha là Trương
Học Nghĩ; mẹ là Lục Thị. Ngài là con thứ hai trong gia đình, chị gái đầu
sau khi xuất giá vài năm thì sức khỏe dần suy yếu và chết.
Năm bảy tuổi Ngài
theo cha đến thị trấn Tân Thương học tiểu học, đến mười tuổi thì tốt
nghiệp sơ tiểu học. Mùa thu năm kế Ngài đến thị trấn Hiệp Ðịnh học cao
tiểu học tại trường tiểu học Khai Trí. Năm 13 tuổi tốt nghiệp cao tiểu
học. Mùa thu năm ấy Ngài cũng bắt đầu học Ðông đến năm 16 tuổi. Mùa hạ năm
1921, tuy chưa phải chính thức một người dạy học, chủ yếu là tự học.
Trong thời gian này, Ngài cũng từng đọc qua các sách :"Dung Tánh Cương
Uyên", "Tính Mạng Khuê Chỉ", "Kim Hoa Tông Chỉ", "Tiên Thuật Bí Khố" và
"Huệ Mạng Kinh", "Kỳ Môn Ðộn Giáp" và những sách đạo đức khác. Từ đó Ngài
rất thích thú những vấn đề sản sinh ra Thần tiên, Ngài quyết định học về
thuật biến hóa củaThần tiên. Cha Ngài sợ con mình đi vào con đường nghệ
thuật nên giới thiệu Ngài đi vào con đường giảng dạy.
Mùa Thu năm 1921
(16 tuổi) đến 25 tuổi, khoảng thời gian này Ngài từng dạy qua 8 năm tiểu
học, trong thời gian 8 năm này Ngài cũng đọc qua các sách :"Ðơn Kinh",
"Thuật Số", "Lão Tử ", "Trang Tử", " Tân Ước", "Cựu Ước", và các kinh luận
của Phật giáo, tư tưởng bắt đầu thay đổi.
Năm 1925 (20
tuổi), Ngài đọc đến Bình Mộng Trinh trong lời tựa của Trang Tử, lời chú
của Ðôn Hoàng và những sách Phật pháp khác, đó là những động cơ làm Ngài
thâm nhập Phật pháp. Ngài thường đến những chùa miếu lân cận thỉnh những
kinh về đọc như:"Kim Cang kinh", "Long Dự Tịnh Ðộ Văn", "Nhân Thiên Nhãn
Mục" và những kinh sách khác. Không bao lâu Ngài đọc đến "Thành Duy Thức
Luận Học Ký "ù, "Tướng Tông Cang Yếu", “Tam Luận Tông Cang Yếu", "Trung
Luận", "Tam Luận Huyền Nghĩa"..v..v...Trải qua bốn - năm năm tư duy cuối
cùng ít nhiều Ngài đã liễu ngộ được tông chỉ của Phật pháp, bắt đầu tín
ngưỡng Phật giáo, thâm cầu chân lý và phát nguyện xuất gia làm Tăng.
Trải qua mấy tuần
suy nghĩ, vào tháng 10 năm 1930, năm 25 tuổi của thời thanh niên, Ngài đến
Phổ Ðà sơn xin vị tri sự ở am Phúc Tuyền là Hoà Thượng Thanh Niệm xuất
gia, có pháp danh là Ấn Thuận, hiệu Thĩnh Chánh. Sau mười tháng, Ngài cùng
với sư huynh là Thành Minh pháp sư cùng nhau đến chùa Thiên Ðổng ở huyện
Ninh Ba thọ Tỳ kheo giới với Viên Anh pháp sư. Từ đó Ngài chính thức trở
thành vị Tăng của Phật giáo.
Tháng 02 năm 1931
(26 tuổi), ngài đến học ở Mân Nam Phật học viện do Ngài Thái Hư làm viện
trưởng (Hạ môn của Nam Phổ Ðà) bấy giờ lớp học đang vào học kỳ hai của năm
thứ nhất, đến học kỳ một của năm thứ hai thì Ngài được các bạn cùng lớp đề
cử giảng về những bài khoá Phật học, tuy Ngài xuất gia chưa được bao lâu
nhưng đối với vấn đề Phật học có sự hiểu biết thật uyên thâm. Sau đó Ngài
đến học ở Vũ Xương Phật học viện cũng do Ngài Thái Hư làm viện trưởng.
Từ năm 1932-1936
Ngài cũng từng ở tại núi Phổ Ðà đọc qua Phật Giáo Ðại Tạng kinh, và chiêm
bái các thắng địa của Phật Giáo như Phúc Châu Cổ Sơn, Nam Kinh -Thê Hà
Sơn..v..v.. Mục đích của Ngài là nghiên cứu uyên thâm về chân lý trong
Phật pháp.
Ngài từng nói
trong ba điều của người xuất gia là:1-Tu hành, 2-Học vấn, 3-Tu Phúc. Trong
ba điều này Ngài đặt trọng nơi học vấn,tức là chú trọng ở "Văn-Tư, nghiên
cưú thâm sâu trong tam tạng kinh -luật -luận, điều này Ngài đã thực hiện
sau khi xuất gia và đã chứng minh Ngài là một bậc thật nghiêm khắc, tuân
thủ những nguyên tắc đã đưa ra.
Tháng 07 năm 1938(
33 tuổi), Ngài đến Hán Tạng Giáo Lý Viện ở Trùng Khánh, cũng do ngài Thái
Hư làm viện trưởng,dạy lớp Nghiên Cứu Phật Học trong một lĩnh vực mới, sau
khi chiến tranh thắng lợi Ngài lưu lại đây khoảng bốn năm .
Mùa hạ
năm 1941 Ngài đến Tứ Xuyên, tại Hợp Giang Pháp Vương Phật học viện do Pháp
sư Diễn Bồi sáng lập. Ngài làm đạo sư và viện trưởûng tại đây. Trong thời
gian này vừa nghiên cứu vừa biên soạn và tự chính mình đã hình thành nên
một hệ tư tưởng phật học, có thể xem đây là thời gian mà tư tưởng Ngài bộc
phát và đã viết ra nhiều tác phẩm.
Năm 1942 Ngài cho
xuất bản tác phẩm "Ấn Ðộ Chi Phật giáo", cũng thời gian tại Trùng Khánh
Ngài đã xuất bản những tạp chí và bán nguyệt san, có lần tham gia phát
biểu với đề tài là : "Thử bình về Phật Giáo Aán Ðộ",do cư sĩ Trần Gia
Khang biên soạn lại,Ngài nói rằng:Từ năm Tân Hợi về sau khoảng thời gian
32 năm Ngài đưa ra những hoài nghi về Tư Tưởng Ðại Thừa,Ngài cũng là người
góp phần công kích,tuy nó không là vấn đề.Ngài không nghĩ rằng trong thời
binh mã loạn lạc mà tác phẩm "Ấn Ðộ Chi Phật Giáo" của Ngài lại có thể
xuất bản, điều này làm cho công chúng thấy được điểm mới lạ của một kiến
giải mới. Ngài tuy không dám hoài nghi Ðại Thừa , phê bình công kích Ðại
Thừa Phật Giáo , nhưng trong những tác phẩm của Ngài chúng ta có thể thấy
địa vị của Ðại Thừa Phật Giáo trong cái nhìn của những nhà tư tưởng phật
học Trung Quốc, không thể không dao động.
Mùa xuân năm 1946
(41 tuổi) Ngài muốn trở về Hàng Châu nhưng cả vé tàu và máy bay quá đắt
không mua được vé, ngay cả Ngài Diễn Bồi và Diệu Khâm cũng vậy nên đành
phải tiêu dao các nơi như : Thành Ðô, Tây An, Khai Phong ở lại chỗ của
Tịnh Nghiêm pháp sư là bạn đồng học ở Vũ Xương Phật học viện, là trụ trì
Khai Phong Phật Học Xã. Trải qua chặng đường dài vân du, khi đến Khai
Phong Ngài ngã bệnh, nên đành phải lưu lại nơi đây, ngài Diễn Bồi và Diệu
Khâm phải về Hàng Châu trước. Khoảng trung tuần tháng 07 Tịnh Nghiêm pháp
sư đưa ngài đến đất Trịnh, đến nơi thì Trịnh Châu Phật Học Xã đã ngưng
hoạt động, Ngài lại phải đến Vũ Hán tạm thời dừng nghỉ lại đây.
Ðầu năm 1947, Ngài
đến Thượng Hải, tại chùa Ngọc Phật, trước yết kiến Thái Hư Ðại Sư ở đất
Hội (một thành phố nhỏ tại Thượng Hải), sau đó trở về Linh Phong Vũ Lâm
Phật học viện ở Hàng Châu, bấy giờ hai Ngài Diễn Bồi và Diệu khâm đã
giảng dạy tại đây. Không bao lâu được tin ngài Thái Hư tại Thượng Hải lâm
trọng bệnh, ngài cùng pháp sư Diễn Bồi và Diệu Khâm lại trở về Thượng
Hải.Ngài Thái Hư tại đây viên tịch và chư vị phải ở lại lo tang lễ. Hậu
sự hoàn tất, Ngài được ủy thác nhiệm vụ chủ trì biên tập bộ "Thái Hư Ðại
Sư Toàn Thư". Trong thời gian ba tháng Ngài ở tại Hán Tạng Giáo Lý Viện
tiếp tục làm công việc của học sinh, sau đó đến chùa Tuyết Ðậu ở Triết
Giang, trụ trì chùa này là một đệ tử lớn của ngài Thái Hư là Ðại Tỉnh pháp
sư; năm tháng sau Ngài tại đây chính thức bắt đầu biên tập bộ "Thái Hư
Ðại Sư Toàn Thư". Cuối tháng 05 năm 1948 công việc biên tập hoàn tất, bộ
này khoảng bảy trăm vạn chữ biên soạn thời gian khoảng một năm. Sau đó
Ngài trở về Hàng Châu, Phúc châu, Hạ Môn bắt đầu công việc hoằng pháp.
Tháng 06-1949 (44
tuổi), trước một ngày Trung Quốc giải phóng Ngài cùng với một vài vị pháp
sư từ Hạ Môn đến Hương Cảng( Hồng Kông). Ngài trú lại đây ba năm vừa làm
công việc giảng dạy vừa biên tập. Trong thời gian này Ngài đi lại Hương
Cảng và Ðài Loan.
Trung
tuần tháng 07 1953 (48 tuổi), Ngài đến Ðài Loan cùng với Diễn Bồi pháp sư,
Tục Minh pháp sư, Thường Giác pháp sư, Quảng Phạm pháp sư, Diệu Khâm pháp
sư. Trải qua 25 năm xuất gia, thời gian một năm đối với Ngài thật là có ý
nghiã sâu xa. Sau khi đến Ðài Loan Ngài đi Nhật một lần, Thái Lan, Miến
Ðiện một lần, Hương Cảng hai lần, Phi Luật Tân 4 lần.
Ðầu năm 1973 (68
tuổi) Ngài được Hội Phật Giáo Hoa Kiều tại Mỹ thỉnh, nên Ngài đã đến Mỹ,
tại New York vừa dưỡng bệnh vừa hoằng pháp thời gian hơn nửa tháng. Tháng
07 ngài trở lại Ðài Loan. Trong khoảng thời gian chưa đến 60 tuổi, Ngài có
đến Singapore, Malaysia hoằng pháp. Còn Nhật và Miến Ðiện tham dự Hội Nghị
Phật Giáo Quốc tế. Tại Ðài Loan Ngài ngoài bận công việc giảng dạy, viết
lách, ngoài ra còn công tác ngoại sự rất bận rộn.
Tại Ðài Loan, Ngài
đã đảm nhiệm công việc chủ biên nguyệt san "Hải Triều AÂm" do Ngài Thái Hư
sáng lập năm 1920. Cũng như từng là đạo sư tại chùa Thiện Ðạo, trụ trì và
các chức vụ khác. Ngài là một vị tăng có học vấn cao phật sự đa đoan nên
không thể ở lại một tự viện. Ngài thích ở nơi vắng vẻ ngoài giờ làm việc
ra còn phải nghiên cứu kinh điển nên phải có một trú xứ riêng biệt, đó là
cá tính của Ngài.
Năm 1953 tại Tân
Trúc Ngài cùng với những pháp lữ đã tu sửa và xây thêm Phước Nghiêm tinh
xá. Muà đông 1954 đã xây thêm theo ý nguyện của mình khi còn ở Hương Cảng
(nay là Phước Nghiêm Phật Học Viện nằm trong khuông viên Phước Nghiêm tinh
xá)
Năm 1960, Tại Ðài
Bắc Ngài đại trùng tu Huệ Nhật Giảng Ðường.
Năm 1964 tại Gia
Nghĩa Ngài đã xây thêm Diệu Vân Lan Nhã, Hoa Vũ Tinh Xá là nơi để nhập
thất tịnh tâm. Ðó là những đạo tràng của Ngài tại Ðài Loan làm cơ sở để
vân tập đồ chúng giảng dạy, trước tác. Trong đó Huệ Nhật giảng đường có
thể xem như là "Tịnh Ðộ" trong thành thị náo nhiệt, cũng là nơi dừng nghỉ
của chư Tôn Túc từ các phương đến phật Sự tại thành phố Ðài Bắc, đó là
những năm đầu của Ngài tại Ðài Loan. Những cơ sở Ngài trùng tu lại đều là
những nơi cũ kỹ bị sụp đổ theo năm tháng.
Năm 1949 Ngài cho
xuất bản tác phẩm "Phật Pháp khái Luận" tại nhà xuất bản ở Hương Cảng, tập
sách này được Ngài viết khi ngài còn ở Ðại Lục, sau này là một tập trong
"Diệu Vân tập", trong tập sách này Ngài có đềụ cập đến vấn đề của cõi "Bắc
Cu Lô Châu", một thế giới cực kỳ vui vẻ, con người bình đẳng không có giai
cấp, chủng tộc, tài sản cá nhân, tổ chức gia đình ..v..v..
Trong
những năm đầu ở Ðài Loan những việc làm của Ngài không phải là thuận buồm
xuôi gió, khoảng thời gian đầu một số vị đương quyền của Phật giáo Ðài
Loan cũng như Ðảng Quốc Dân cho rằng tác phẩm "Phật Pháp Khái Luận" của
ngài là vì tuyên truyền cho Ðảng Cộng Sản nên đã công kích và dùng nhiều
áp lực đối với Ngài. Sau đó người ta mới tìm thấy được thực sự nội dung
giới thiệu về cõi Bắc Cu Lô Châu không gì lạ hơn là Ngài miêu tả cảnh sinh
hoạt truyền thống thời Ấn Ðộ cổ và Phật Giáo đối với Bắc Cu Lô Châu mà
thôi.Trong thời gian này tập sách này qua nhiều cơ qua chức năng của Quốc
Dân Ðảng kiểm tra. Ngài cũng được mời đến để thẩm vấn nhưng Ngài vẫn duy
trì lập trường của mình lấy giáo nghĩa của phật pháp làm chính, tức tinh
thần "Từ Bi -Vô Ngã". Trải qua thời gian kiểm tra thì tác phẩm đó nội dung
không như những gì người ta tuyên truyền nhằm để công kích Ngài. Sau đó
tác phẩm này được tu chỉnh lại, ít nhiều có thêm bớt một chút chứ không
như nguyên bản. Ðó là thời gian được xem như là đại nạn nhưng trong cuộc
đời hoằng pháp của Ngài. Cũng chính vì điểm nổi bật này nên tác phẩm này
được xem là một thời sự nóng bỏng của phật giáo Ðài Loan ở thập niên 19.
Nhưng khi mọi việc được sáng tỏ, những người công kích Ngài trước đây sau
này đa số trở thành những người hỗ trợ đắc lực cho Ngài rất nhiều trong
công việc hoằng pháp tại đây.
Tháng
06-1973 (66 tuổi), Ngài tiếp tục cho xuất bản tập "Trung Quốc Thiền Tông
Sử", chính tập sách này mà vào tháng 06 năm 1973 tại trường Ðại Học Ðại
Chánh Nhật Bản cấp cho ngài bằng tiến sĩ văn học cho Ngài. Ðược xem là một
vị Tăng đầu tiên đạt được học vị tiến sĩ trong thời cận đại của Phật Giáo
Trung Quốc. Ngài không những mang lại vinh hoa cho giới Phật giáo mà còn
mang lại vinh dự cho quốc gia.
Tháng 05 năm 1981
(76 tuổi), Ngài cho ra đời tác phẩm dày hơn tám chục vạn chữ mang tên "Sơ
Kỳ Ðại Thừa Phật Giáo Chi Khởi Nguyên Dữ Khai Triển". Ðây là tác phẩm giá
trị lịch sử và mang ý nghĩa học thuật uyên bác.
Cuộc đời xuất gia
Ngài có thể được chia làm 4 giai đoạn: 1-Mười năm đầâu (Dân Quốc năm thứ
19 - năm 28) đây là thời kỳ học tập; 2-Mười hai năm tiếp theo (Dân quốc
năm thứ 29 - muà hạ năm 41) đây là thời gian tư tưởng bộc phát, thuyết
giảng và viết lách tương đối nhiều; 3- Mười hai năm kế (Dân Quốc mùa thu
năm thứ 41- mùa hạ năm 53) đến Ðài Loan là thời gian dùng tư tưởng cho
công việc giảng dạy cho thính chúng và xuất dương hoằng pháp thời gian này
viết sách tương đối ít; 4-Dân Quốc mùa hạ năm thứ 53, thời kỳ trạng thái
hồi phục lần thứ hai, tư tưởng tương đối thành thạo, công việc viết lách
nghiêm mật hơn. Tất cả những vấn đề này được Ngài đề cập đến trong tác
phẩm "Bình Phàm Ðích Nhất Sinh" của mình. Hiện nay pháp sư Ấn Thuận được
xem là một bậc danh tăng thạc đức của Phật Giáo Trung Quốc và Ðài Loan.
Ðệ tử và học trò của Ngài cả Tăng lẫn Ni hiện nay có nhiều vị là viện
trưởng, giáo thọ các Phật học viện tại Ðài Loan như: Ðại Học Huyền Trang,
Ðại Học và Bệnh viện Từ Tế, Viên Quang Phật Học Viện, Phước Nghiêm Phật
Học Viện, Phật Học Viện Huyền Trang.
Trước Tác:
Diệu Vân Tập 25
cuốn được chia thành Thượng -Trung và Hạ biến
A-Thượng biến
-Kinh luận giảng ký (7 cuốn)
1-Bát Nhã Giảng Ký
(bao hàm Kinh Kim Cang và Bát Nhã)
2-Bảo Tích Kinh
Giảng Ký
3-Thắng Man Kinh
Giảng Ký
4-Dược Sư Kinh
Giảng Ký
5-Trung Quán Luận
Tụng Giảng Ký
6-Nhiếp Ðại Thừa
Luận Giảng Ký
7-Ðại Thừa Khởi
Tín Luận Giảng Ký
B-Trung biến-
Những tác phẩm trên mười vạn chữ (6tập)
Phật Pháp Khái
Luận
Trung Quán Kim
Luận
Duy Thức Học Thâm
Nguyên
Tánh Không Học
Thâm Nguyên
Thành Phật Chi Ðạo
Thái Hư Ðại Sư
Niên Phổ
C- Hạ Biến-Những
tác phẩm ngắn (12 cuốn)
1- Phật Tại Nhân
Gian
2- Phật Học Tam
Yếu
Dĩ Phật Pháp
Nghiên Cưú Phật Pháp
Thanh Tịnh Dữ
Thiền
Ngã Chi Tông Giáo
Quán
Vô Tránh Chi Biện
Phật Chế Giáo Ðiển
Dữ Giáo Học
Phật Giáo Sử Ðịa
Khảo Luận
Hoa Vũ Hương Vân
10-Phật Pháp Thị
Cưú Thế Chi Quang
11-Thanh Niên Ðích
phật Giáo
12-Bình Phàm Ðích
Nhất Sinh (Bản thêm sau này)
Ngoài ra còn Hoa
Vũ Tập (5 cuốn)
Những tác phẩm
không thuộc hệ thống trên (10 bộ)
Ấn Ðộ Chi Phật
Giáo (Xuất bản tại Trùng Khánh 1942- Ðài Loan 1985)
Thuyết Nhất Thiết
hữu Bộ Vi Chủ Ðích Luận Thư Dữ Luận Sư Chi Nghiên Cứu (Xuất bản tại Ðài
Loan 1968)
Nguyên Thủy Phật
Giáo Thánh Ðiển Chi Tập Thành (Xuất bản tại Ðài Loan 1971)
Trung Quốc Thiền
Tông Sử (Xuất bản tại Ðài Loan 1971)
Sơ Kỳ Ðại Thừa
phật Giáo Chi Khởi Nguyên Dữ Khai Triển (Xuất bản tại Ðài Loan 1981)
Như Lai Tạng Chi
Nghiên Cứu (Xuất bản tại Ðài Loan 1981)
Không Chi Thâm Cứu
(Xuất bản tại Ðài Loan 1985)
Ấn Ðộ Phật Giáo Tư
Tưởng Sử (Xuất bản tại Ðài Loan 1988)
Trung Quốc Cổ Ðại
Dân Tộc Thần Thoại Dữ Văn Hoá Chi Nghiên Cứu (bản cảo)
10-Tạp A Hàm kinh
Luận Hội Biên (3 cuốn) (Xuất bản tại Ðài Loan 1983)
Hoà
Thượng Thích Ấn Thuận sau một cơn bệnh cũ tái phát đã thị tịch lúc
10h7’sáng ngày 04 tháng 06 năm 2005﹙nhằm
28-04- Ất D ậu﹚
tại bệnh viện Từ Tế huyện Hoa Liên - Đài Loan. Trụ thế 101 năm, giới
Iạp 75 hạ , pháp thể được lưu lại tại Truy Ân đường của Đại học Từ Tế để
tứ chúng chiêm ngưỡng và đảnh lễ. Ngày 06-06-2005 kim quan được đưa về
và hoàn tại Phước Nghiêm tinh xá( Phước Nghiêm Phật học viện) ở
huyện Tân Trúc – Đài Loan, và lễ Trà tỳ và Nhập tháp sẽ được cử hành vào
ngày 11- 06-2005 ( nhằm 05-05- At dau)
Như Nguyệt
(Trích
dịch từ Ấn Thuận Phật Học Tư Tưởng Nghiên Cứu của Quách Bằng)
______________
|
Hình ảnh Tang Lễ
cố Đại Lão Hòa Thượng Ấn Thuận tại Đài Loan




























|
Chú Thích: Trong phần
trên tên những tác phẩm của Hoà Thượng không được dịch thành văn tiếng
Việt vì đa số những tác phẩm này chưa được dịch ra tiếng Việt, nên được
giữ nguyên âm Hán để cho đọc giả dễ dàng trong công việc tìm tư liệu.
--- o0o ---
Trình bày: Đông Phương
Cập nhật ngày:
01-06-2005