Một cuộc đời, một ngôi sao
(Truyện Ngài Xá-Lợi-Phất)
Minh Ðức Triều Tâm Ảnh
Huế 1996
---o0o---
[01]
Giòng
tộc
Ven con sông nhỏ, lặng
lẽ, xanh trong bốn mùa, mọc lên một ngôi làng cổ kính, tên
là Upatissa. Nằm ẩn sau những lũy tre xanh, núp mình dưới
những hàng cau cao vút là những căn nhà gạch vòm cong, mái tròn
xưa cũ; đột ngột vươn lên cao là những đền tháp đỏ chói
trang nghiêm, màu sắc rực rỡ huy hoàng. Nơi đây có những tượng
thần Nàgà hình rồng khổng lồ, tượng thần Hanuman hình
khỉ đen đúa, tượng thần Nandì hình bò mộng to tướng. Ngoài
ra, khắp các đền miếu, am động, cội cây to thì thật là vô
số vị thần. Như thần Brahma bốn mặt; thần Sudra có ngàn
mắt và bốn cánh tay; nữ thần Kàlì đen thui thủi, có bốn
tay, mặt mũi kỳ hình dị dạng, trang sức bên ngoài thường
là máu và đầu người vừa mới chặt v.v...
Không biết đã tự bao
giờ, có lẽ đã tự nghìn thu sương khói, khi giống giòng
Aryan cao quý, một dân tộc thượng đẳng - theo suy nghĩ của
họ - từ phương Bắc tràn qua xứ này; sự pha tạp huyết
thống và văn hóa đã mấy thiên niên kỷ, do tự nhiên hoặc
ngẫu nhiên, tự do hoặc tất định, đã để lại dấu ấn
miên tồn trên cơ thể phì nhiêu và bao dung của dân tộc
Ấn. Bây giờ, bước viễn chinh đã tàn phai theo trí nhớ,
thế nhưng trong những đêm trăng mờ trên những ngọn đồi
thấp lau cỏ đẫm sương, ai đó còn giật mình lắng nghe
tiếng xào xạc của gió, tiếng reo của những cành trúc
mềm, những lời thì thào mơ hồ từ hư không vẳng lại.
Trong ký ức di truyền của giòng giống pha tạp còn tồn tại
những hình ảnh xa xăm của những toán binh ma rầm rập qua đồi;
tiếng vũ khí sàn sạt, hờn sôi, tóe lửa của những lần xáp
trận. Không! Tất cả đã lụi tàn, đã phai bóng theo thời
gian. Và lịch sử của dân Trung Ấn cũng dễ dàng quên đi
những bạo tàn kinh khiếp của con người - vì họ sẵn tấm
lòng đức độ bao dung và niềm tin tôn giáo.
Do vậy, nơi đây đã
thật sự yên nghỉ!
Suối nguồn kinh điển
Vệ-Ðà đã thẩm thấu và trang bị cho tâm linh xứ này một
sức sống nội tâm âm thầm và mãnh liệt. Sự hận thù và
tranh chấp trần gian kia có nghĩa gì! "Ôi! Sự huyễn hóa
của MÀYÀ, của Ngươi, đã chưng bày ra đó biết bao nhiêu
tấn tuồng ảo vọng?"
"- Thuở ấy, không có
gì, này con! Kể cả vòm trời mênh mông, ngày và đêm. Không
có cái chết và không có cả cái bất tử. Chỉ có cái 'độc
nhất' và ý chí của Người. Một cái mầm nứt ra, và khi
ấy, tình thương xuất hiện."
Phải! Chỉ có tình thương
và lòng từ ái xuất hiện.
Có những tượng thần nói
lời từ ái bằng tay, bằng mắt. Có những tượng thần gợi
thức thâm sâu cái bản ngã ngu muội đang ẩn tàng trong bao da
đựng thịt, đựng xương. Có những tượng thần cuồng nộ,
trợn trừng như xuyên suốt tim gan của ma quỷ. Có những tượng
thần đen đúa, dữ dằn, giơ cao chiếc búa của thần Indra
sẵn sàng bủa xuống những chiếc đầu tri kiến, kiêu căng và
đa dục... Những ngày lễ hội, đàn tế, những ngày sóc
vọng, khói hương bàng bạc khắp nơi như sương mù. Nơi các
gốc cây cổ thụ ngàn đời, nơi những hang động tịch liêu,
nơi những nghĩa địa xương trắng, nơi những đền miếu to
nhỏ đủ loại... những tiếng "aum, aum" không ngớt
vang lên, ùn ùn xao động cả không gian. Lửa lập lòe từng
đám như đuốc, như ma trơi... Bóng người xỏa tóc nhảy múa,
quỳ mọp, khấn vái, thiền định, nằm ôm đất, mâm trái cây,
đầu súc vật, máu cháy lèo xèo; tiếng hát, lời ca man rợ
của âm binh, lẫn lộn xen nhịp vào đấy là những bài kinh
cao cả, rơi đều đặn, len thấm, từ từ... Nó! Chính Nó. Chính
những lời kinh cao cả chưa pha tạp kia đã duy trì Chánh Khí,
là sợi chỉ vàng xuyên suốt từ ngàn xưa đến ngàn sau, làm
tồn tại một tâm linh độc đáo, làm xán lạn một nền văn
minh tinh thần dẫn đầu loài người: Tự do tín ngưỡng và tâm
linh đạo học!
Upatissa là một ngôi làng
được thừa kế trọn vẹn và tiêu biểu cho sức sống tâm
linh ấy. Ở đây, cả hàng trăm vị thần cùng ngồi hòa bình
trước sự chiêm ngưỡng và thờ cúng của mọi người. Người
ta có thể đến đây để kích bác nhau, tranh luận nhau đến
nẩy lửa nhưng vẫn tôn trọng tín ngưỡng của nhau lẫn
những tư tưởng dị biệt, bất đồng.
Ngài Xá-Lợi-Phất (Sàriputta)
được sinh ra và lớn lên trong ngôi làng này. Thật không
ngạc nhiên gì khi linh địa, giống giòng, văn hóa giáo dục
ngàn đời, túc duyên vạn kiếp - đã làm nên cốt lõi cho
một nhân cách siêu việt, một trí tuệ vượt bực - chờ đến
khi chỉ cần một lời pháp chơn chánh, một ánh nắng siêu
thoát dọi đến, đóa hoa kia sẽ nở khai viên mãn.
Ðứa
con thánh thai
Sau giờ thiền định, Bà
la môn Vaganta ra đứng tựa cửa sổ nhìn lên đỉnh núi xa xăm.
Trời nhàn nhạt ửng sắc hồng. Ngọn Hy mã lạp sơn phủ
tuyết trắng, đứng cô đơn như không có bạn tri âm, lẻ loi
và tịch mịch giữa hư không vô biên! Nhìn núi, lão Bà la môn
Vaganta chạnh nghĩ đến mình, rồi cũng lẻ loi và cô đơn như
thế!
Ông cúi xuống, mái tóc
đã chớm bạc, dấu một tiếng thở dài rất khẽ rồi chậm
chạp bước ra khung cửa Ðông. Vườn cây ăn quả chạy dài
xa hút trong tầm mắt. Bức tường bằng gạch nung rêu phủ,
uốn lượn thoai thoải như con rắn khổng lồ nằm ngủ yên
trong sương sớm. Bà la môn Vaganta dạo quanh một vòng trên sân
gạch rộng thênh thang, bước chân cô liêu dẫm lên lớp rêu
xanh xám từ lâu không có người qua lại. Chiếc lưng như còng
xuống: một sức nặng đau khổ nào đó làm cho ông cơ hồ không
chịu nổi. Xung quanh đìu hiu, tịch mịch không một tiếng người!
Ðến gốc cau có viên đá
chạm sư tử hai đầu, ông Vaganta lừ đừ ngồi xuống. Từ
trong điện thờ khói trầm tỏa ra, làn hương nhạt xanh,
thoang thoảng thơm, mơ hồ, dễ chịu. Nắng sớm đã lên
rồi. Ông Vaganta ngững đầu lên, lướt qua vòm mái tròn to
rộng của Căn Nhà Hội, rồi dừng lại trên đỉnh tháp xa tít.
Một cánh chim chao qua ánh nắng hồng. Bức tượng Ðức thần
Brahma tia ra sáu luồng ngọc xanh đầy uy lực, thân Ngài phủ
lớp men ngũ sắc sáng loáng, rực rỡ, vừng tráng tỏa hào
quang biếc trắng.
Ông Vaganta cúi đầu
thấp xuống, đọc lâm râm một bài chú, bắt ấn quyết rồi
cầu nguyện:
"- Kính lạy Ðức
Phạm Thiên cao cả! Là Ðức Cha sinh của muôn loài. Bởi Ngài
mà chúng sanh có trí tuệ, lạc phúc, vinh quang cùng Bất tử.
Bởi Ngài mà chúng sanh có thực phẩm, trái cây cùng những
nghề nghiệp nuôi mạng..."
"- Kính lạy Ðức
Brahman tối thượng tôn! Là linh hồn ngu si, nhỏ bé đầy đau
khổ do Ngài Sáng Tạo ra, con kính ngưỡng Ngài ban phát cho con
niềm vui trần tục để thế hệ cháu con tiếp nối tuân
phục Ngài, thờ kính Ngài, phủ phục dưới chân Ngài bằng
Ðức Tin thanh khiết và tuyệt đối..."
" Kính lạy Ðức
Brahman vô năng thắng! Là linh hồn ti tiểu đầy nhiễm ô và
bụi bặm do Ngài Sáng Tạo ra, con đã dọn sạch bản ngã
bằng nước thiêng Soma, bởi Trầm Tư và Thiền Ðịnh. Con
lắng dịu mọi vọng tưởng, chỉ còn lại một khát khao
nối truyền tông hệ. Xin Ngài ban cho con một mụn con thơ. Con
là linh hồn lạc lỏng bơ vơ không còn đâu làm điểm tựa
trên cuộc đời này. Vậy, khát khao ấy là duy nhất và chơn
chánh. Kẻ nô lệ của Ngài sẽ mừng vui tri ân Ngài mà làm
một Ngôi Bảo Tháp, uy nghi tạc tượng Ngài, trầm hương, trái
cây, mâm súc vật, tế lễ quanh năm... để bảo truyền linh
khí đầy ơn phúc của Ngài lan rộng ra bốn châu thiên hạ...
"- Kính lạy Ðức
Brahman tối thượng tôn, Hóa Sanh chủ, Vô Năng thắng! Xin Ngài
ban cho con một mụn con thơ!"
Lời cầu nguyện của ông
Bà la môn Vaganta đều đều tuôn ra không ngớt, như trận mưa
lòng phiền não đổ tràn không gian yên tĩnh. Ðức Brahman có
nghe chăng? Và các thượng đẳng thần Brahma, Vishnou và Shiva có
nghe chăng? Hay vợ chồng Bà la môn Vaganta bạc phước, hoặc vô
ý phạm tội với Ngài nên đã hai phần đời người rồi mà
vẫn không con nối dõi? Từ đền thiêng này sang đền thiêng
khác, không biết bao nhiêu là phẩm vật cúng tế: gia súc, trái
cây, ngũ cốc, hương trầm... mà vẫn không linh nghiệm. Rồi
nào là chẩn bần, bố thí, trai đàn..., ghép mình trong bảo
điện âm u mấy tháng trường ròng rả để cầu nguyện;
rồi biết bao nhiêu là bạn hữu Bà la môn uyên thâm về chiêm
tinh, thuật số, đã đoán từ điềm lành này sang điềm lành
khác; nhưng rốt lại, hai vợ chồng vẫn không có tin vui!
Nỗi buồn ấy đè nặng
lên nếp sinh hoạt tôn giáo và sinh hoạt gia đình.
Ông Vaganta vốn là Trưởng
giáo Bà la môn tinh thông kinh điển Vệ-Ðà và các chú
thuật. Môn sinh của ông có đến mấy trăm người, ngày ngày
đến thọ giáo. Tại nhà giảng, nhà Hội to lớn trong trang
viện, bao giờ cũng tấp nập, đông đúc. Lớp học này kế
tục lớp học khác. Toán môn sinh này rời đi, toán môn sinh
khác tìm đến. Nơi cái sân gạch rộng thênh thang này đã có
những buổi sinh hoạt tập thể, lớp học ngoài trời; nơi đã
từng nổ ra những cuộc tranh luận sôi nổi đầy hào hứng.
Nơi bảo điện trang nghiêm cổ kính kia đã có những lớp
cầu nguyện kéo dài cả tuần lễ. Tiếng "aum, aum" đều
đều vang vọng lên cao, lên cao mãi.
Bà Sàrì là vợ của ông,
về với ông lúc mười tuổi. Tục lệ tảo hôn của người
Ấn, do luật Manou chi phối, được dân làng này tuân phục
một cách tuyệt đối. Bà là một người mẫu mực của tôn
giáo, dựa vào đức tin không gì lay chuyển nổi với Ðức
Phạm Thiên. Bà quán xuyến giúp chồng trong nhiều lãnh vực.
Vừa điều khiển m?t trang viện to lớn với hàng trăm gia nô
coi việc đồng áng, vườn tược; vừa tổ chức, sắp xếp
chu đáo, hoàn hảo các buổi lễ cúng, cầu nguyện. Bà còn
rất trẻ, có cá tính và hoạt động sôi nổi. Bà cầu
nguyện tinh tấn không mệt mỏi. Nhưng suốt cả mười năm ròng
rã như thế, tất cả tinh lực dường như đã suy kiệt.
Niềm hy vọng có đứa con để nối dõi tông đường chỉ còn
lắt lay như ngọn đèn sắp lụn bấc.
Lão Bà la môn Vaganta
dẫu chỉ mới năm mươi nhưng trông đã già đi rõ rệt. Còn
bà Sàrì thì đã lộ liễu nỗi buồn phiền làm bạc trắng
những sợi tóc mai! Nghĩ đến cơ đồ do suốt bao đời tâm
huyết của tổ tiên, nếu mai nầy không con, thì trước mắt
họ chợt trống không và khô cháy như một bãi sa mạc. Gia đình
ông là gia đình trưởng làng, nếu có con trai thì họ có
quyền lấy tên làng đặt cho con trai. Và đương nhiên là sẽ
thừa kế cái di sản tinh thần quý báu làm kim chỉ nam sinh
hoạt cho ngôi làng Upatissa cổ kính.
Một lần Bà la môn
Vaganta nói với bà Sàrì:
- Này! Kẻ-nô-lệ-kiều-diễm
của ta! Hãy kiểm soát xem thử chúng ta đã có một lần nào
sơ suất, khiếm khuyết trong các cuộc tế lễ không?
- Chẳng có đâu, Ðấng-thần-linh-chí-tôn
của em! Kẻ nô lệ đã đích thân xem xét đến nước trắng
tinh khiết, cỏ thơm cho bò cái, dao tế lễ và cả que chà răng!
Không có gì là thiếu sót, thưa phu quân!
Ông Vaganta gật đầu. Ông
biết bà nói đúng. Bà là người cẩn thận và chu đáo từng
li, từng tí.
Ông nhớ có lần những
người hầu hạ vì bất cẩn thế nào đó làm cho những cây
đèn thờ phực cháy, nám xám cả một khoảng trần. Ðấy là
hiện tượng "thần linh nổi giận" bởi do một bất
cẩn hay một thiếu sót nào đó của gia chủ. Bà Sàrì đã
tra xét gắt gao đám nữ tỳ lo việc hầu cúng. Bà tìm không
ra tội, nên đã dùng phép "thử tội". Bà cho người
quấy phân bò cái vào thùng dầu sôi, người bị buộc tội
hay bị nghi ngờ là kẻ có tội phải nhúng tay vào đó cho
tới tận khuỷu tay. Ông Vaganta đã từng giải thích cho bà
hay rằng:
"- Những kẻ tình
nghi có tội, luật Manou bảo thế này: nếu sau khi rút tay ra
khỏi thùng dầu sôi mà không bị bỏng, kẻ ấy vô tội vì
được thần linh che chở."
Rốt cuộc, tám người
nữ tỳ, sau lần thử tội ấy đều bị phỏng tay. Thế là
cả tám người đều có tội! Giết những kẻ nô lệ, cả
luật Manou và luật Dharma Shautras đều coi là "không phạm
tội giết người"- vì chỉ có tập cấp cao quý Bà la môn
mới là người! Tám người nữ tỳ sau đó đều phải bị hy
sinh khi "thần linh nổi giận"!
Ông Vaganta khẽ nhíu mày
ưu tư rồi hỏi tiếp:
- Vậy thì lòng chí thành,
chí kính? Này Kẻ-nô-lệ-kiều-diễm của ta, chúng ta có thành
khẩn đúng mực chưa?
Bà Sàrì bất chợt quỳ
xuống, ôm hôn chân ông Vaganta rồi nói:
- Hỡi Ðấng-thần-linh-yêu-quý
của em! Ðối với phu quân mà thiếp đã tôn thờ như thế này,
thì làm sao kẻ nô lệ lại dám thiếu lòng chí thành chí kính
với Ngài!
Ông Vaganta gật đầu hài
lòng. Ông biết bà lại nói đúng nữa. Theo luật Manou, bà đã
tự gọi mình là kẻ "nô lệ" và gọi ông là
"thần linh", đôi khi còn gọi ông là "chúa của lòng
em"; thỉnh thoảng gọi là "thầy", là "phu quân"
nữa. Bà không bao giờ trái lời ông, dù là một việc nhỏ.
Luật Manou nói rằng: "người vợ nào trái lời chồng thì
kiếp sau phải đầu thai thành chó rừng chuyên ăn thịt xác
thú chết". Bà Sàrì luôn là kẻ nói thật và tuân phục
chồng như tuân phục đấng thần linh.
Ông âu yếm khe khẽ nâng
bà dậy. Nếu ông không cho phép hoặc không nâng bà dậy thì
bà sẽ quỳ mãi như vậy cho đến khi gục luôn. Luật Manou
bảo rằng, đấy là mẫu người đàn bà trung thành tuyệt đối
với chồng, sẽ được thần linh khen ngợi.
Hôm nọ, sau buổi cầu
nguyện, bà Sàrì nói với ông bằng khuôn mặt lóe sang niềm
vui cao cả:
- Này thần-linh-của-em!
Kẻ nô lệ đã trải qua những khoảnh khắc xuất thần. Một
vài linh điển ân triệu từ Ðấng Cao Cả đã ban xuống, rung
động 32 đốt xương sống rồi tụ sức nóng ở đốt xương
cuối cùng. Chẳng hay, điều đó là thế nào hở
thần-linh-của-em?
- Hy vọng đó là điềm
đại phúc! Con-mèo-diễm-lệ của ta!
Nói thế nhưng Bà la môn
Vaganta lại nghĩ khác: "Dầu sao, nàng cũng là đàn bà ngu
muội, làm ô nhiễm sự thanh khiết của thần linh! Luật Manou
không cho phép nữ nhân biết đến kinh điển Vệ-Ðà, ngữ ngôn,
chú thuật hoặc bất kỳ một kiến thức nào về các nguyên
tắc lẫn trình tự tu chứng của Yoga. Bà đâu biết rằng đấy
chỉ là hiện tượng tự nhiên do sự tưởng tượng cao độ.
Năng lực tưởng tượng có thể làm phát sanh nhiều hiện tượng
bội lý ở ngoài thường nghiệm của trí năng lẫn cảm giác.
Ồ! Nhưng lạy Ðức Brahman! Biết đâu đấy lại là ân
triệu đại phúc mà Ngài đã ban cho chúng con?" Ðột
ngột Bà la môn Vaganta đứng dậy, rời khỏi tảng đá con sư
tử hai đầu.
Chuyện đó xảy ra bao lâu
rồi? Dường như đã là lâu lắm? Từ đó đến nay, bà Sàrì
đóng cửa cầu nguyện. Bà không tiếp xúc với ai cả. Chỉ vài
nữ gia nhân lui tới như chiếc bóng để phục dịch cơm nước
cùng những nhu cầu cần thiết khác. Chính ông cũng không được
phép gặp mặt.
Mỗi ngày đi qua rất
chậm, mặc đầu thì giờ của ông hoàn toàn để chìm lắng
vào thế giới cao cả của Yoga và cầu nguyện. Cứ mỗi
buổi sáng thức dậy, vào đầu canh ba, ông máy móc thực hành
những nghi thức cần thiết mà luật Manou đã qui định cho
một người Bà la môn - vì nó biểu thị tư cách cao quí của
một tập cấp đứng đầu xã hội, là người trung gian duy
nhất giữa xã hội loài người và Ðấng Thần Linh. Dầu
trời nóng hay lạnh, ông cũng phải tắm rửa rất kỹ càng,
chà răng ba lần bằng một thứ vỏ cây cho sạch tất cả
những uế khí, bợn nhơ được tiết ra từ nội tạng. Rồi
ông cẩn trọng trang điểm cho mình: đeo vòng hoa tươi, vòng vàng,
vòng bạc hoặc đánh phấn, lựa tấm áo mới giặt thật thơm
tho vắt qua vai, cột sợi dây nịt bằng lụa Kàsì có viền
kim tuyến, vấn đầu bằng chiếc khăn to dài chừng bốn, năm
sãi tay, rỏ một loại thuốc vào mắt cho sáng. Sau đó ông đến
bảo điện ngồi công phu, tọa thiền, đọc kinh hay cầu
nguyện. Rời bảo điện thì phương Ðông, sao mai đã nhạt
mờ.
Ở nhà điểm tâm, gia nô
đã chầu sẵn bằng những chiếc khăn trắng tinh, nước mưa
tinh khiết trong cái chậu bạc lóng lánh. Ông Vaganta chậm rãi
bước xuống. Cũng theo luật Manou, ông rửa tay, rửa chân và
rửa miệng. Thức ăn bao giờ cũng cầu kỳ, sang trọng nhưng
được đặt trong những tấm lá chuối, lá vả giản dị. Ông
Vaganta thò tay bốc ăn từng chút một. Dẫu là thượng vị nhưng
ông không thấy ngon miệng.
Nhà điểm tâm lặng
ngắt không nghe cả một tiếng muỗi kêu: gia nô hầu hạ đứng
yên như đã hóa đá. Họ thường không được phép nói gì
khi chủ nhân chưa hỏi.
Cái điều định hỏi,
ông lại ngại ngần: đấy là bà Sàrì! À không, chỉ cần
đưa mắt một vòng là ông biết bà Sàrì chưa xả giờ cầu
nguyện. Ngày này qua ngày khác, cứ lập đi lập lại mãi, ông
Vaganta càng lúc càng thêm chán nãn, buồn phiền. Ông không
muốn bước xuống ngôi nhà điểm tâm như mọi bữa, mà thơ
thẩn mãi trong sân gạch rộng thênh thang. Khi thì nhìn những
hàng cây thốt nốt với những đàn chim trắng bay xa xa. Khi thì
lặng lẽ nhìn những bụi chà là trái vàng nặng trĩu. Khi thì
nhìn những chùm bông ca ri đỏ thắm ẩn hiện ở ngôi vườn
sau. Khi thì nhìn nhà cửa dãy ngang, dãy dọc với kho đụn,
với tài sản mà thở dài! Rồi để làm gì? Rồi để cho ai?
Bỗng, mắt trái ông máy
động liên hồi, linh tính như có chuyện gì vui. Ông quay
lại. Ðầu sân con chim gì cất tiếng hót líu lo, lảnh lót
một tràng dài. Phía xa bà Sàrì bước ra từ khung cửa điện.
Ông đứng sững. Bước đi của bà hôm nay có gì khác lạ. Ðến
gần, ông thấy mặt bà như thoáng ửng hồng.
- Thần linh của thiếp!
- Giọng bà thì thầm, xoắn xít như cố nén niềm vui - Thiếp
đã có tin mừng, phu quân ạ!
Ông Vaganta đứng lặng.
Ông run cả toàn thân, môi lắp bắp hoài nói không được.
Bà Sàrì nắm tay ông:
- Thầy của em! Hãy
trấn tỉnh tâm hồn - Bà nói tiếp, cũng dồn dập trong hơi
thở - Ðúng là Ngài đã ban phúc cho chúng ta, từ cái hôm mà
kẻ nô lệ tiếp nhận được linh điển... Bà dìu ông đi
từng bước một, giọng nói đã bắt đầu điềm tĩnh - nhưng
kẻ nô lệ còn ngờ. Mười hôm nay, thiếp cầu nguyện, lắng
nghe, theo dõi, thì quả thật đúng như vậy. Có một vài
biến chuyển trong cơ thể mà thiếp không tiện nói ra với
phu quân. Hãy tạ ơn Ngài đi, thầy ạ!
Ông Vaganta sung sướng quá.
Người ông như bay bổng chín tầng mây. Lâu lắm... lâu lắm
mà ông chỉ biết lắp bắp:
- Tạ... tạ ơn chứ!
Phải tạ ơn chứ!
Một
ngôi sao chào
đời
Mấy ngày sau, trang viện
của Bà la môn Vaganta đã đổi khác. Một sinh khí mới như
bừng lên. Sân trước, sân sau, nhà trong, nhà ngoài gia nhân
lui tới tấp nập. Bảo điện trước đây âm u hương khói
lạnh lùng, bây giờ sáng rực lên bởi hàng trăm ngọn đèn
chóa đồng, chóa vàng, chóa bạc lấp lóa. Những hình người,
hình vật, hình chim muông hoa lá, linh thần, tiên nữ trên
những bức phù điêu chạm nổi, khảm bạc, khảm xà cừ,
khảm hổ phách, khảm ngà đã được đánh bóng, sáng lung
linh, huyền ảo, sống động.
Các môn sinh, môn đệ
trong làng nghe tin vui của bậc trưởng giáo - nên cùng đến
chung tâm cầu nguyện để tỏ lòng tri ân Ðức Brahman cao
cả. Bà la môn Vaganta đã lấy lại dáng dấp tươi trẻ,
hoạt bát năm xưa. Bằng h?u cố tri khắp mấy thôn làng kế
cận lục tục tìm đến. Tất cả đều là người cùng một
tập cấp cao qúy Bà la môn. Có người ăn bận diêm dúa với
đủ loại trang sức, chân đi giày vải đắt tiền. Có người
chỉ quấn hờ hững một tấm khăn quanh mình không bao che
hết tấm lưng sạm nâu. Có rất nhiều người cao lớn, lực
lưỡng, mắt xanh biếc, mũi cao lộ, râu mọc dữ dằn, vầng
trán phẳng và rộng. Có người thấp, mập, tròn quay, bước
đi lệt đệt. Nhưng tất cả mọi người cử chỉ đều phong
nhã, lịch sự, toát ra một căn bản kiến thức lẫn tu
chứng đạo học! Có người mắt luôn nhìn xuống, trầm
lặng, bước đi chậm rãi, hai tay buông thả. Có người đôi
mắt xa xăm, chìm lắng trong suy tư, dường như đang sống
trong cảnh giới nào.
Họ đều là những Bà
la môn hữu danh, vì trọng đức, mến tài trưởng giáo Vaganta
mà tìm đến. Trong bọn có những người là thuần túy tu sĩ,
có người có gia đình. Họ gồm những nhà bác học, nhà giáo
dục, đạo sĩ yogi, các thầy Bà la môn tư tế ở các đền
miếu - là thành phần ưu tú, tinh ba của xã hội.
Ông Vaganta đứng ở
cổng, chấp tay lên ngực, vái chào, nghiêng mình, mỉm cười
hay bắt dấu ấn tùy theo mỗi vị khách. Cứ nhìn dấu vẽ
bằng thổ hoàng trên trán là biết Bà la môn này tôn thờ
Thần Vichnou. Cứ nhìn vạch ngang bằng than phân bò cái trên lông
mày là biết Bà la môn kia tôn thờ Ðức Shiva. Hoặc các
ngẫu tượng đeo ở cổ, ở tay là biết Bà la môn theo tín ngưỡng
nào, tôn thờ vị thần nào. Dấu hiệu thì thiên hình vạn
trạng, nhưng đa phần họ thờ thượng đẳng thần: tức
Brahma, Vichnou, Shiva.
Bà la môn Vaganta đang vui
niềm vui to lớn thì tiếp nhận thêm một tin vui khác: một
gia đình ở làng Kolita kế cận, giao hảo thâm thiết với
nhau đã bảy đời, cũng có "tin vui". Hai gia đình cố
tri kỳ cựu này cùng đi thông báo cho nhau lại gặp nhau giữa
đường! Như vậy, khi tính lại thì bà Moggallì ở Kolita cũng
được thọ nhận linh điển cùng một ngày với bà Sàrì!
Nếu như phân thân được, Bà la môn Vaganta và vợ đã tức
tốc qua nhà bạn.
Có niềm vui, nỗi buồn
nào mà hai gia đình này không san sẻ cho nhau? Họ thân thiết
với nhau còn hơn là ruột thịt. Họ gặp gỡ nhau không
những ở tập cấp, giòng trưởng, trình độ, kiến thức mà
cùng với cả các thú vui du sơn, ngoạn thủy nữa. Ðiều kỳ
lạ là tuổi tác họ cũng bằng nhau và sự hiếm muộn con cái
cũng y như thế. Cũng đã mười năm ròng rã, họ cầu
nguyện, cúng tế đền thấp, miếu cao, đầu súc vật, mâm trái
cây, bông hoa và trầm hương. Họ sẵn sàng bỏ ra cả mấy trăm
ngàn đồng tiền vàng - để nhận một tin vui - là sẽ có
một người con trai nối dõi tông đường, thừa kế di sản
tinh thần và cả di sản vật chất nguy nga, đồ sộ.
Họ đều là bậc đại
phú, đại quý đứng đầu làng và có quyền lấy tên làng đặt
tên cho con trai họ. Vốn là trưởng giáo tại ngôi làng Kolita
nên môn sinh và bằng hữu đến thăm nhân ngày vui này, cũng
rất đông. Bà Moggallì ở Kolita thế là cũng bắt đầu hoài
thai một nhân cách siêu việt, một ngôi sao thật sự: đấy là
Ngài Mục-Kiền-Liên, mà sau này đã cùng với Ngài Xá-Lợi-Phất,
làm hai vị Ðại Ðệ Tử lỗi lạc, hai cánh tay phải và trái
của Ðức Bổn Sư để lăn bánh xe Pháp, hoằng truyền Chánh
Giáo, phổ độ sinh linh.
Làng Upatissa không lo
nhiều về cái ăn, cái mặc. Con sông Ðại Hằng trước khi
nhập vào biển cả, đã để lại ngôi làng này một nhánh
nhỏ, yên tĩnh, đủ cung cấp nước bốn mùa cho ruộng đồng
và vườn tược. Họ tự do canh tác, hưởng lợi tức mà
khỏi đóng thuế cho nhà nước. Mỗi năm, họ chỉ nộp một
ít lệ phí cho trưởng giáo Bà la môn để nhớ đến ân đức
tổ tiên, dòng họ đã khai phá ra đất đai này. Ngoài phí
tổn sinh hoạt gia đình, họ để dành hầu hết cho tín ngưỡng
và sự thờ cúng.
Vườn nào cũng trồng
cau, trồng xoài, chà là và thốt nốt. Thỉnh thoảng một vài
nơi, họ trồng bông vải để dệt làm áo mặc. Kỹ thuật đan
dệt ở xứ này đã có trước đó mấy ngàn năm, có thể là
từ nên văn minh Mohenjodoro, hai nghìn chín trăm năm trước Công
Nguyên. Như mọi xứ khác, họ trồng thêm ca ri, đậu, kê, lúa
mạch, nếp, rau, các loại cây ăn trái miền nhiệt đới và
chăn nuôi đủ loại gia súc. Bò cái là giống vật linh thiêng,
được tự do ăn ở, đi lại nghênh ngang bất cứ nơi nào.
Ðặc biệt tập cấp Bà
la môn chỉ ăn rau trái và ngũ cốc, còn cá, thịt, gà,
vịt... chỉ để dành cho hạng tiện dân, tôi tớ và kẻ giàu
có ở ngoài tập cấp. Bù lại, họ dùng rất nhiều ca ri,
gừng, đinh hương, hồi hương, hồ tiêu, ớt, quế cùng các
thứ gia vị, hương liệu khác. Do vậy không ngạc nhiên gì,
trong cuộc lễ mừng vui bà Sàrì thọ thai, người dân làng, môn
sinh, bằng hữu mang đến tặng gia đình này cả một núi lương
thực, thực phẩm, rau trái, hoa quả đủ loại.
Ông Vaganta cho mười người
nữ gia nô tín cẩn, kinh nghiệm lão thành để săn sóc cho bà
Sàrì từ cái ăn, cái uống, đi đứng, ngủ nghỉ. Bao giờ cũng
có hai thầy Bà la môn tinh thông y dược, luôn luôn theo dõi các
biến chứng trên cơ thể bà để lo lắng thang thuốc kịp
thời.
Bằng hữu thông thái
khuyên ông tạo điều kiện cho bà được thanh tĩnh và thanh
cao tâm hồn bằng cách nghiêm trì những giới luật mà tập
cấp cho phép. Ấy là một vài cách điều tức, điều tâm
phổ thông, một số kỹ luật về tri thức và cảm xúc được
biểu hiện qua thân, khẩu, ý, ăn nói, đi đứng v.v...Người
Bà la môn ngàn xưa đã hiểu rằng: sự thanh lọc mọi ô
nhiễm ở tâm hồn người mẹ là yếu tố quan trọng quyết
đ?nh cho trí tuệ và nhân cách của con cái sau này. Do vậy, ngày
này qua ngày nọ, tai bà Sàrì không hề nghe một lời nói vô
ích, phù phiếm. Mắt bà không hề thấy một cảnh chướng
mắt, khó chịu. Xung quanh bà tràn đầy mùi hương của hoa,
của trầm, cùng những hương liệu tuyệt hảo làm thư thái và
dịu mát tâm hồn. Ông Vaganta còn cho người lặn lội đi
khắp các miền mua những giống chim có màu sắc rực rỡ, có
giọng hót thật hay, du dương, êm đềm làm phấn khởi và
hoan hỷ lòng người.
Mỗi buổi sáng trước
khi vào nhà nguyện, bà Sàrì đi dạo một vòng quanh hoa viên,
bao giờ cũng thắm tươi các kỳ hoa dị thảo. Tiếng chim điểm
nhịp líu lo, chan hòa, vui tươi như lạc vào một khu rừng
thanh bình, u tĩnh. Lời ra từ cửa miệng mọi người, bao
giờ cũng là lời kinh, lời chú, lời kệ; lời của những
hiền triết uyên thâm có tính khuyến thiện; lời của những
thần linh hay gợi nhắc đến những tư tưởng cao thượng,
thoát trần.
Ngày qua ngày, tháng qua
tháng, nhờ sự chăm sóc chu đáo như thế, bà Sàrì sanh hạ
một trai tuấn tú, phi phàm, không dính một tí huyết dơ;
nằm an tĩnh trong chiếc bao hồng ngọc, sáng rỡ và tinh
khiết. Sắc diện, dung mạo của trẻ như một chúa sư tử lông
vàng bước ra từ động báu. Tất cả đều tinh anh - như
kết tụ ở đó Ánh Sáng và sự Cao Cả từ muôn ngàn kiếp
trước. Tên làng, thế là được phúc hạnh đặt tên cho
trẻ: Upatissa!
Ngôi làng kế cận, bà
Moggallì cũng sanh hạ cùng một ngày, một giờ, một viên
ngọc quý, cũng lấy tên làng đặt tên cho con: Kolita!
Upatissa (Xá-Lợi-Phất) và
Kolita (Mục-Kiền-Liên) là hai vì sao đồng xuất hiện giữa
bầu trời quang sắc diễm kiều, chầu quanh một vừng nguyệt
bạch tinh khôi, mới mẻ: "Một bình minh chân lý đang có
mặt giữa loài người."
Thời
thơ ấu
Thật là không nói hết
sự nuôi nấng, chăm sóc chu đáo của gia đình. Trẻ lớn lên
như chiếc bóng của thiên thần với ngày tháng hạnh phúc,
hoa mộng. Phước báu tiền kiếp sáng rực rỡ nơi dung sắc,
nơi tiếng cười, giọng nói hồn nhiên của trẻ.
Ông bà Vaganta cảm thấy
tuổi già của mình đã được Thượng Ðế ban cho một ân
sủng quá lớn. Hôm kia, ông nói với bà rằng:
- Phu nhân ạ! Kể cả
những trò giải trí, ta cũng nên cho con ta hưởng những niềm
vui thanh cao của cõi trời. Hãy bỏ đi những trò chơi vô ích,
rỗng không, phù phiếm. Quân bình khẩu, ý; trong sáng, lành
mạnh và hướng thượng tâm hồn: ấy là mục đích trò chơi
của giòng giống cao thượng.
Lên sáu tuổi, Upatissa đã
đến tuổi học vỡ lòng. Ông Vaganta cho mời ba thầy Bà la môn
uyên bác từ thành Vương-Xá, đảm trách dạy cho trẻ ba môn
học khác nhau. Ðó là ngữ pháp, luận lý và triết học! Riêng
ông Vaganta dạy cho con về đạo đức học, luân lý học và các
môn thường thức khác... Ðấy là những cái thiện, cái ác,
cái phải, cái trái... ở đời; phép ngoại giao, cách cư xử
đối với kẻ trên, người dưới, trong và ngoài đẳng cấp;
bổn phận đối với thần linh, quốc vương, vợ chồng, con cái
v.v... ; cách giữ gìn thân thể cho lành mạnh cùng một số
kỷ luật về cảm xúc, về tinh thần...
Quả là một tham vọng
quá lớn của ông Vaganta, khi muốn nhồi nhét từng ấy môn
học cho một đứa trẻ sáu tuổi, một chúng hữu tình nhỏ
nhoi được giáng sinh do ân sủng của Thượng Ðế! Nhưng
thật đáng ngạc nhiên làm sao, Upatissa không tỏ vẻ lúng túng
trước môn học nào. Chỉ non nửa năm sau, Bà la môn Vaganta đã
dám hãnh diện để nói với bằng hữu rằng: chỉ cần ít năm
thôi là các thầy A-đồ-lê bác học kia sẽ không còn bao lăm
chữ nghĩa!
Sự thực có lẽ còn hơn
thế nữa - vì Upatissa không phải chỉ có học bấy nhiêu!
Vừa mới canh ba, khi đang còn trong giấc ngủ say nồng, ông
Vaganta đã đánh thức con dậy để tập cho trẻ về Hathayoga
- tức là những động tác thể dục để giữ gìn sức
khỏe! Bà Sàrì còn đề nghị ông dạy đức tin với thần
linh bằng cách để thêm một số giờ cho trẻ đọc kinh, đọc
chú và cầu nguyện.
Dường như Upatissa đã có
sẵn ý chí, tinh tấn, nhẫn nại, căn tu lẫn trí tuệ lâu đời
nên không một lời, một chữ, một môn học nào mà trẻ tỏ
vẻ lơ là hoặc không thực hành, học và hiểu đúng mức.
Tám tuổi, Upatissa đã
nổi tiếng khắp làng về sức học. Và kỳ lạ thay! Trẻ
Kolita ở làng bên cạnh cũng như thế. Hai trẻ là hai ngôi sao
sáng, là hai tiêu chuẩn mẫu mực cho hàng trăm trẻ con cùng
lứa tuổi noi gương.
Hai gia đình thường
tạo cơ hội cho hai trẻ gặp nhau. Và thật lạ lùng làm sao,
những trò chơi của chúng bày ra lại nghiêm túc ngoài sức tưởng
tượng của người lớn. Một trẻ đóng vai đạo sĩ khổ
hạnh, một trẻ đóng vai du sĩ hành cước, chúng hỏi đạo
nhau hoặc giả làm trò bố thí, cúng dường... Thỉnh thoảng
trong những lời đối thoại, các bậc thầy cũng phải ngỡ
ngàng về cái tầm mắc mỏ, có chiều sâu, chiều rộng của
vấn đề. Tuy nhiên, trẻ con vẫn là tuổi vô tư vô lự. Chúng
thích đi tắm sông, suối, thích chạy nhảy reo hò, thích
ngoạn du đây đó. Giữa thiên nhiên, chúng thả sức nô đùa,
rượt đuổi chim thú, hái trái cây, hái hoa xâu thành tràng...
Thi thoảng chúng cũng vật lộn, đóng vai anh hùng, hiệp sĩ...
Có điều đặc biệt là
chúng vẫn gọi nhau là huynh đệ. Upatissa là anh, Kolita là em.
Cả hai không chịu kết bạn với trẻ trong làng mặc dầu là
cùng tập cấp. Chúng tỏ thái độ đàn anh. Ðôi khi lại
dạy bảo, khuyên răn, vẽ vời điều này, điều nọ một cách
nghiêm trang đứng đắn.
Giữa đàn gà chỉ có
hai con phượng hoàng. Cả hai gia đình thấy rõ như vậy và
họ hãnh diện về điều đó.
Năm lên mười tuổi,
sức học của Upatissa đã bằng sức học của một thanh niên
Bà la môn hai mươi tuổi thông minh và ham học nhất. Trẻ đã
bắt đầu bỏ hẳn các trò chơi và hoàn toàn chú tâm vào
sự học. Nhờ sự nuôi nấng và bảo dưỡng đúng mức,
Upatissa lớn như thổi, khuôn mặt thanh tú, phi phàm và đôi
mắt tinh anh, ngời sáng như ánh sao mai. Ngoài các môn học
của thầy mà trẻ theo đuổi dễ dàng, không phải cố gắng
lắm; trẻ còn nghiên cứu số học, đo lường, tự nhiên
học, địa lý, chiêm tinh, thuật số v.v... Cái trí của trẻ
quả là một đại dương thăm thẳm, dung chứa hàng trăm con sông
kiến thức, hiểu biết và trí khôn của cổ nhân từ ngàn xưa
mà vẫn không thấy đầy tràn.
Thế là vừa mới mười
hai tuổi, Upatissa và Kolita đã nổi tiếng là thần đồng bác
học. Trẻ trong làng vây quanh thần tượng của họ. Và
Upatissa bắt đầu đóng vai bậc thầy về đủ loại môn học
một cách thông tuệ và ưu việt.
Cái cây đã đủ sức
lớn. Bây giờ chỉ cần môi trường thuận lợi; các điều
kiện về thời gian, ánh sáng, không khí, nước v.v... là nó
tự đủ sức vươn lên vòm trời xanh cao rộng. Ông bà Vaganta
không còn một mảy may lo âu nào nữa về đạo đức, sở
học cũng như trí tuệ của con. Tính tình và những phẩm
chất cao thượng càng lúc càng hiện rõ như một đóa kỳ hoa
từ từ mãn khai. Từ đây, ông giao phó trọn vẹn sự giáo
dục cho ba thầy Bà la môn uyên bác. Vả chăng, ông bà còn
nhiều việc phải làm; đó là liên tiếp mấy năm sau, bà
lại được "linh điển ơn phúc" thêm ba trai và ba gái
nữa! Quả thật, ông bà Vaganta đã được đấng Rama "quá
thương"!
Upatissa lúc mười lăm
tuổi đã có xung quanh hơn một trăm đồ chúng. Ba thầy Bà la
môn hôm kia đến gặp ông bà Vaganta và nói rằng:
- Thưa Ngài trưởng giáo!
Sở học của chúng tôi có hạn, chữ nghĩa của chúng tôi có
hạn mà trí thông minh, lòng ham hiểu biết của đức công
tử thì vô hạn. Chúng tôi không còn gì để dạy nữa.
Một vị lại nói:
- Chúng tôi, mỗi người,
chỉ làm thầy đức công tử một môn học . Ðức công tử
hiện giờ có khả năng làm thầy chúng tôi rất nhiều môn
học khác.
Tất cả họ đều xin rút
lui.
Thật ra, bản thân
Upatissa, chàng thấy cái sở học của mình còn nhiều thiếu sót,
nông cạn. Cái gì cũng biết nhưng chưa có gì là đi chuyên sâu.
Thế là chàng bắt đầu lựa chọn một môn học hợp với
sở thích cần phải theo đuổi suốt đời: đó là Triết đạo
học.
Mười sáu tuổi, chàng
đi sâu vào kinh điển Vệ-Ðà. Ðấy là kinh điển truyền
thống mà dòng họ chàng đang thừa kế. Chàng nghiên cứu đến
tận chân tơ kẻ tóc. Tuy nhiên, ở đó tổng hợp nhiều tri
thức phức tạp, phong phú, đa dạng và đôi khi lại như mâu
thuẫn nhau. Chàng đã không tìm ra sợi chỉ vàng xuyên suốt,
và nhất quán. Sau khi ba thầy Bà la môn ra đi, họ đã để
lại cho chàng những kiến thức không suy luận, những mặc
khải không được phép hoài nghi! Chẳng lẽ nào lại thừa
nhận, đặt đức tin tuyệt đối trước những tri thức mà
ta không biết gì về nó? Chẳng lẽ nào lại đem rao giảng
những điều mà ta chưa kinh nghiệm và thực hành?
Những thắc mắc, băn
khoăn của Upatissa không phải là hợm hĩnh, cao đại mà là do
lòng trung thực. Nơi vừng trán thanh mãnh, dịu dàng của chàng
trai mới lớn, đã chập chờn suy tư của một lòng biển
rộng. Chàng đã có những giờ khắc ngồi yên lặng, xuất
thần giữa đêm khuya u tĩnh để nhìn lên bầu trời cao, xa xăm,
diệu vợi. Một linh hồn nho nhỏ đang cựa quậy, thao thức,
nhìn ngắm và lắng nghe? Nhưng nó là gì với vô biên - cái thân
phận này, cái thận phận con người muôn nơi, muôn thuở? Nó
có mặt giữa cuộc đời để chịu định luật sinh thành và
hủy diệt? Ðể nhận chịu nước mắt, niềm vui? Vinh quang và
tủi nhục là để làm gì? Cứu cánh của những sinh hoạt lăng
xăng: xu?ng lên, ra đi, sở đắc, yên nghỉ - của thiên thu và
thời đại - là cái gì? Rồi nơi đám cỏ xanh lại có nắm
cỏ vàng? Rồi bên xác chết tanh hôi ruồi nhặng lại có
trầm hương thanh khiết? Rồi nơi tối tăm hắc ám lại có
những nhân cách đâu đó chợt nhiên bừng sáng lên như đốm
sao mai? Ngày và đêm, mưa và nắng, nóng và lạnh, thiện và
ác - là để làm gì? Chàng không hiểu? Có những luật tắc
chi phối nhịp nhàng như bởi bàn tay vạn năng - và đó là Thượng
Ðế? Thật ra, nếu có những câu trả lời - thì những câu
trả lời ấy cũng là những tri thức có sẵn từ Vệ-Ðà! Ôi!
mà ở đó là kết tinh cả hằng vạn tri thức, hằng vạn trí
khôn của cổ nhân - lẽ nào ta lại dám hoài nghi? Bổn phận
của ngươi là trở về với Ngài, với siêu việt tính, với
Phạm Thể tối cao, hằng hữu, đấng vô tạo tác mà hằng
sinh, đấng vô nguyên nhân mà làm ra thế giới! Những tri
thức về thánh ca, tán tụng, cầu khấn, tế lễ, thần chú...
là con đường để đạt tới Ngài, để siêu thể hóa?
Con đường ấy không
phải một sớm một chiều - Upatissa không thể nôn nóng. Chàng
đi từng bước chậm mà chắc. Chàng thu lượm những tri
thức ở tận những chiều sâu của kinh điển Vệ-Ðà. Chàng
dường như mê man, đắm say, trong thế giới lý giải và ý
nghĩa. Ngay cả anh hùng ca Mahabharata, trường ca Bhagavadgita, trường
ca Ramanaya, chàng cũng thuộc lòng và cố tìm cho ra những mật
ngữ uyên áo. Mười bảy tuổi, vầng trán chàng dường như
cao hơn, rộng hơn. Ðôi mắt chàng dường như xanh hơn, sâu
thẳm hơn. Một đôi mắt ngời ngời xuyên thủng hư vô! Nhưng
tri thức tuyệt đối, vô tận, cuối cùng - vẫn không tìm
thấy!
Mười tám tuổi, chàng
đã có phong độ và tư cách của một đạo sư lỗi lạc
nhất. Chàng nghiễm nhiên thay thế cha dạy dỗ môn sinh và
lấy lại sinh khí các lớp học thuở nào. Kolita cũng thành
tựu tương đương như Upatissa. Hiện giờ mỗi người có hơn
một trăm môn sinh ở trong làng cùng các làng kế cận. Danh
tiếng của hai huynh đệ hy hữu này đã vượt qua những lũy
tre xanh , vượt qua dòng sông lặng lẽ, vượt qua phạm vi các
thôn làng nhỏ bé để bay đến Vương-Xá thành - tức là kinh
đô của văn hóa, kinh tế, tín ngưỡng và tâm linh đạo
học.
Tuổi thơ của Upatissa không
còn nữa, chàng đã làm đạo sư khi tuổi vừa thành niên.
Bóng
tối hoài nghi
Như lời cầu nguyện trước
Ðức Brahman và các thượng đẳng thần, ông Vaganta cho xây
dựng một công trình bảo tháp nguy nga đồ sộ.
Suốt hai năm ròng rã,
tiền của đổ ra như nước của con sông Indus để hoàn thành
công trình tạ ơn thiêng liêng này! Ông Vaganta cho mời những
tay thợ tài ba, tinh xảo nhất từ thành Vương-Xá. Vật liệu
quý giá, chắc bền và đẹp đẽ. Những phù điêu, những hoa
văn chạm trổ có giá trị nghệ thuật cao được đặt mua
khắp nơi trong nước. Những mặt hàng đá chạm nổi người,
hoa lá, linh thú, linh điểu, linh thần là những tác phẩm
tuyệt vời của những điêu khắc gia hữu danh, vô danh cặm
cụi từ tháng này sang tháng nọ. Những tấm gỗ chiên đàn,
dạ hương ghép làm tường trong, làm trần cũng là những tác
phẩm nghệ thuật tuyệt vời. Những đồ thờ, khí dụng
bằng đồng, bằng vàng, bằng bạc được đặt mua từ Trung
Hoa, Ba-Tư, Ả-Rập hoặc tại những danh gia cổ kính còn lưu
giữ được.
Ông Vaganta muốn để
lại cho hậu thế, giòng tộc và cháu con một bài học vô ngôn
về đức tin và lòng tri ân nên ông chẳng ngại tốn kém.
Tất cả các thầy thợ được trả công hậu hỉ và hằng trăm
người phụ việc mỗi ngày luôn luôn rộn lên những tiếng
ca, nụ cười, niềm vui bay phơi phới.
Công trình hoàn thành là
ngày vui lớn nhất của ông, của giòng họ, thôn làng và môn
đệ. Lễ lạc thành khánh hỷ diễn ra trong bảy ngày, tiệc tùng
ăn uống linh đình. Hàng ngàn người được mời đến hoặc
không mời, đều được đãi đằng tươm tất, trọng hậu.
Ðây cũng là dịp để ông chứng tỏ uy tín, địa vị, danh
vọng cùng khí độ của một bậc trưởng giáo đạo cao, đức
trọng.
Suốt mấy ngày liên
tục, đêm nào cũng có biểu diễn văn nghệ. Những hí khúc,
vũ khúc do một gánh hát nổi danh đảm nhận được mời đến
từ Vương-Xá thành. Các tuồng hát - mà nội dung được rút
ra từ kinh Vệ-Ðà, các Anh Hùng trường ca - đã được diễn
một cách sống động, có đệm nhạc mang âm hưởng huyền bí.
Những nhạc công sử dụng trống Mridanga, kèn hình rắn, đàn
Tanbura, đàn Vina... đều là những nghệ nhân kỳ tuyệt, đã
phối hợp một cách thiên tài các vi âm để tạo nên các khúc
Raga, những chuỗi Raga, thành kính dâng lên Thượng Ðế làm xúc
động lòng người.
Upatissa đã mất cả ý
chí, quên cả bản ngã khi lắng nghe. Vật thể, không gian và
cả thời gian như hòa làm một. Tâm thần như chìm ngập vào
cõi miền bí ẩn, vô danh và an tĩnh... Chàng nhớ mãi khoảnh
khắc đó - tương tự những khoảng khắc chàng nhập định,
xuất thần - mà cái tiểu ngã ti tiểu, bé mọn đầy những
ưu tư, phiền não... được hòa tan vào đại ngã! Còn tất
cả, chàng đều muốn quên. Quên tòa bảo tháp, quên những câu
chuyện có vẻ uyên bác, thâm thúy của các hàng cha chú, các
danh sĩ Bà la môn. Quên những lời chúc tụng sáo rỗng dường
như là các hoa ngôn, xảo ngữ... chỉ còn dính ở đầu môi,
chót lưỡi. Ðiều làm chàng xúc động nhất, muốn quên
nhất là tiếng rống, tiếng la của hàng trăm súc vật bị hy
sinh để tế thần. Chàng muốn bịt tai lại, nhắm mắt đi trước
những hình ảnh máu me, những đôi mắt ứa lệ, thống
khổ... của những sinh linh vô tội.
" - Ôi! Nếu Thượng
đế, nếu Ðấng ấy là Vô Ngã, là Thần Hóa, là Ðại Ngã,
là Nhất Nguyên, là Bản Thể Vũ Trụ hay Tuyệt Ðối Vô Nhân...
mà còn cần những máu me, xác chết sinh linh kia để cúng tế
cho mình; cần những khổ đau thống thiết kia mới có niềm
vui - thì trách gì cháu con Ngài đang sống trong nhầy nhụa,
tanh hôi của chém giết và hận thù? Một thời đại kế
tiếp một thời đại, một trang sử khép lại một trang sử,
một vinh quang kế tục một tủi nhục, một văn minh nối
tiếp một suy tàn - là nơi diễn ra những đấu trường đẫm
máu, những tàn sát khủng khiếp, những bạo hành vô nhân tính,
những âm mưu ác độc, tàn tệ - thì đấy cũng nằm trong định
luật của Ngài? tất yếu của Ngài? tự do tối thượng của
Ngài?"
Upatissa đứng lên, chàng
lặng lẽ đi vào rừng. Một nỗi buồn mênh mông làm chàng cơ
hồ không chịu nổi. Chàng gặp Kolita ở đó. Cả hai lặng
lẽ nhìn nhau. Ðôi mắt họ cùng ứa lệ. Họ hiểu nhau. Họ
biết nhau. Không ai cần thiết phải nói năng.
Khu rừng buổi chiều im
mát, gió lồng lộng thổi. Họ nằm dài trên cỏ, vắt tay lên
trán và không muốn suy nghĩ gì. Nhưng trí óc họ không yên.
Từng đợt sóng xao động, chìm sâu rồi xao động trở
lại... Tiếng ca đâu đó của những kẻ du mục vọng lại
rất buồn, man mác hư vô. Dường như trong tiếng ca đó có bóng
dáng của những kẻ lữ hành lầm lũi giữa sa mạc, lầm lũi
phong trần giữa cuộc đi, cuộc về, cuộc đến? Họ và chàng
đều giống nhau: một thân phận lưu đày tại thế, lạc lõng,
bơ vơ... trên miền đất hoang vu, bất toàn của Thượng Ðế.
- Ðệ nghĩ gì hở
Kolita?
Upatissa thẩn thờ cất
tiếng hỏi.
Kolita lắng nghe tiếng ca
của kẻ du mục đã loãng xa trong gió, đưa mắt nhìn lên vòm
trời sau những kẻ lá; lâu lắm mới đáp:
- Ðức Brahman không toàn
thiện. Thượng Ðế không toàn thiện. Ở đấy cũng trống không,
hoang vu và đau khổ. Ngài còn tìm kiếm niềm vui và còn cầu
mong sự ngưỡng mộ, cúng tế máu súc vật của cháu con Ngài!
Sự toàn năng, đại bi và siêu việt của Ngài cần phải xét
lại!
Upatissa cười khẽ:
- Vậy từ lâu chúng ta
đi tìm một đấng không toàn thiện ư?
- Phải! Không những chúng
ta mà cả tổ tiên, giòng họ chúng ta từ đời này sang kiếp
nọ, người mù dẫn theo người mù. Và cứ thế, nối dài đến
vô tận. Ði, mà chẳng biết đi về đâu... Hư vô và vực
thẳm đang chờ đợi chúng ta ở phía trước!
Upatissa nghe nhói đau ở
lồng ngực. Phải! Ðiều mà chàng không muốn nghĩ đến,
muốn khỏa lấp đi thì Kolita đã nói ra. Cõi trần này sinh
tử quyện lẫn vào nhau. Vui buồn, thiện ác, vinh nhục, xấu
tốt nương dựa nhau mà tồn tại. Vậy thì toàn thiện nằm
ở đâu giữa những tương tranh nhị nguyên, lưỡng giá bất
toàn?
"- Ôi! thế giới Màyà
huyễn hóa! Giữa cái điêu tàn Ngươi cho mọc lên một nụ
xanh. Giữa bàn tay hủy diệt của Ðức Mẹ Kàlì, một sơ
sinh nhú ra từ nụ cười của đấng sáng tạo Brahma! Thế nghĩa
là gì, hỡi Ngươi, hỡi Màya kinh khiếp?"
Upatissa đau xót nhìn
bạn, thở dài. Sự có mặt của chàng trên đời này cũng
vậy, cũng do sự bất toàn của Ngài! Chàng không hiểu gì
cả. Phải chăng các thượng đẳng thần cảm thấy mình được
tôn trọng, được cúng tế hậu hỉ - nên đã làm sớ tâu lên
Ðấng Brahman - và Ngài đã bằng lòng rứt ra từ cái Ðại Ngã
của mình một cái Tiểu Ngã để quẳng cho gia đình chàng
theo với mong cầu, sở nguyện của họ? Rồi sau chàng, các
tiểu ngã khác, các em chàng đã lần lượt ra đời: Cunda,
Upasena, Revata, Càlà, Upacàlà, Sìsupacàlà. Ðức Brahman đã ban
cho gia đình chàng quá nhiều ân huệ!
* * *
Những khi không tìm ra lý
giải cho những câu hỏi xoắn xít, trùng trùng; khi mà các ưu
tư, hoài nghi và buồn nản làm cho bấn loạn tâm hồn,
Upatissa bèn rủ Kolita du sơn ngoạn thưởng. Họ muốn quên chúng
đi.
Upatissa với hơn một trăm
chiếc võng và hơn một trăm môn sinh. Kolita với hơn một trăm
cổ mã xa và hơn một trăm môn đệ. Họ mang thức ăn cho
nhiều ngày và đi khắp các nơi danh lam thắng cảnh trong vùng.
Giữa thiên nhiên, đất
trời hùng vĩ, cỏ cây và sông núi hữu tình - họ thấy tinh
thần được xoa dịu, mát mẻ. Nhưng nhu cầu hiểu biết không
cho phép họ được nghỉ ngơi lâu dài. Họ lại học những bài
học ngoài trời, thực nghiệm một số hiểu biết từ sách
vở. Các môn học về địa lý, phong thủy, tự nhiên học làm
cho họ mê say không khác gì những môn học về tâm linh. Dịp
này, cả mấy trăm môn đệ được hai vị đạo sư trẻ
tuổi khả kính của họ giảng dạy một cách cụ thể, thực
tiễn, phong phú và sống động vô cùng.
Tuy nhiên, không bao lâu,
nỗi buồn lại đến. Bỏ đám môn đệ, họ bách bộ bên
nhau, đi ra xa. Ở đâu đó vẫn còn tồn tại một cái gì chưa
giải quyết được. Truyền thống ngàn đời kinh viện, từ
chương, cúng tế, cầu nguyện... lẫn những môn học thâm sâu
uyên bác này... cũng không thỏa mãn được chàng.
- Hiền đệ yêu mến!
Rỗng không làm sao là cuộc đời này. Sở học của chúng ta
không mảy may đem lại một ổn định tâm hồn. Càng học
hỏi, hiểu biết, dầu các môn học thuộc về tâm linh đạo
học hay thế học... trí óc chúng ta như rơi vào những đám tơ
vò, các màng nhện chằng chịt xoắn rối, mâu thuẫn và không
tìm ra đầu dây mối nhợ. Vẫn sừng sững tồn tại những
bất khả tri, những bóng tối bất khả kiến giải. Nơi chân
trời của Ðại Ngã, của Brahman dường như vẫn hiện hữu hư
vô, bất toàn và phi nhân tính. Vệ-Ðà có nghĩa là tri
(biết), nhưng lại đầy đặc cái bất khả tri! Còn những cái
tri ấy - những tri thức về thánh ca, tri thức về giáo điều
Samadeva, tri th?c về cầu khấn, tri thức về thần chú, những
Mantra, những Brahmana, những Aranyaka... thì chẳng nên đáng
"tri" một chút nào. Những cái tri ấy giúp ích gì cho
chúng ta? Hay càng học, càng tri chừng nào chúng ta càng ngu
dốt, cuồng tín, bản ngã, kênh kiệu, đa văn... để hình thành
một tập cấp lãnh đạo tinh thần, bá chủ tinh thần, nắm
độc quyền sứ giả của thần linh để vinh thân phì da, để
thao túng và bóc lột xã hội? Ôi! Ta không còn hiểu gì nữa,
không còn biết "tri" cái gì nữa! Ta đã quá rối
loạn, bất lực trước Thượng Ðế vô tri, mù mênh phi lý và
khói sương độc hại!
Thanh niên Kolita cúi đầu,
mắt đỏ lệ, mờ sương. Những ưu tư, băn khoăn của
Upatissa cũng là những ưu tư, băn khoăn của chàng. Kolita nhìn
lên bầu trời trong xanh có những đám mây trắng trôi bàng
bạc. Tiếng cười đùa hồn nhiên của môn sinh bên kia suối
vẳng lại. Một con bò đủng đỉnh, yên lặng gặm cỏ dưới
chân đồi. Một cô gái chăn dê cất tiếng hát ví von bên kia
triền thung lũng. Một đám hoa dại bé bỏng phô những nụ
hoa li ti, khiêm nhường, rực rỡ sau cụm đá bạc đầu...
Ôi! Cảnh vật xung quanh
yên lặng, thanh bình, đại toàn và tuyệt bích như thế - mà
tâm trí chàng thì cứ để đâu, có nhìn thấy mà cũng như không,
bởi chàng đang rối loạn vì tư tưởng lợn cợn, đục vẩn
ở trong đầu.
- Hiền huynh yêu quí!
Kolita nói mà đôi mắt như chìm đắm ở một khoảng vô danh,
xa mờ - Ðấy cũng chính là những điều mà đệ hằng suy nghĩ.
Tất cả đều vô ích, vô vọng và phù phiếm thế nào. Tất
cả đều rỗng không, bất lực và bất toàn. Chúng ta đã
học, đã đọc, đã biết hết rồi tất cả trí khôn, sự
mẫn tuệ, thông bác của tiền nhân, của loài người. Nhưng
sự hiện hữu của một hạt bụi cũng không giải thích được,
cũng là bất khả tri! Chỉ là những giáo điều mặc khải,
những thánh thi vớ vẩn, tối tăm, ngu ngốc và xuẩn động.
Hiền huynh hãy nghe đây!
Và Kolita đã ca lên, đã
hát lên giữa bầu trời cao xanh lồng lộng:
"- Thuở ấy...
Vị đó không vui, không
buồn
Chẳng biết vô tình hay cố ý
Cái Ðộc Nhất sinh ra
trải ra thăm thẳm
Vô biên,
hư vô và mềm mại
tấm lụa xanh trên nền trời
bỗng làm nên hiện hữu
Pati và Patnie ôm hôn nhau
tình yêu xuất hiện
đau khổ có mặt
tinh tú và nhật nguyệt
ngày và đêm
thảng thốt bàng hoàng!
Hỡi các đấng Thần Linh Yên Tĩnh
Mẹ của Thiên Ðạo
Mẹ của Bất Diệt
Thần Lửa, Thần Rạng Ðông
Luống cày,
và Thần Indra giông tố
sự chết và hy vọng
mầm cây và hủy diệt
không ai sáng tạo ra ngươi!
cái Ðộc Nhất hiện hữu
cái Vô Nhị hiện hữu
bỗng làm nên tất cả
bởi ý chí hỗn mang
tối tăm và sáng láng
và đấy là Màyà
Aum, Aum, Aum!"
Hát xong, Kolita thốt lên:
- Cái gì vậy? Cái thánh
ca vớ vẩn kia là gì vậy? Ngu xuẩn!
Trong khi Kolita hát,
Upatissa đăm đăm nhìn bạn. Trong đôi mắt ấy có hai ngôi sao
bừng cháy, sâu thẳm, xa vời vợi. Upatissa không nghe lời ca mà
chàng chỉ nghe âm hưởng, tiết điệu; sự tuôn trào những
cảm thức, cảm tính bơ vơ, nóng hổi! Chúng như là những
thực thể trần truồng, đam mê, thống hận - kêu gào nhảy múa
bên bờ vực thẳm của thần Ràgu!
Ôi! Nhưng đấy cũng chính
là những cảm thức, cảm tính của chàng! Chúng cũng bơ vơ,
nóng hổi và thác loạn như thế. Nhưng, sự phẩn nộ ấy cũng
là những gọi kêu vô vọng, chỉ chứng tỏ sự bạc nhược,
ủy mị của tâm hồn. Phải tỉnh táo, uy dũng mà đứng lên.
Phải có niềm tin. Không còn niềm tin nơi Thượng Ðế thì
phải có niềm tin nơi chính mình. "Bất hạnh thay là
những kẻ đã mất hết niềm tin trên cuộc đời này!"
- Này, hiền đệ Kolita!
Hãy nhẫn nại! Hãy tỉnh táo! Upatissa nắm tay bạn, ân cần nói
- Tại chúng ta ngu si và bất lực chăng? "Tat Tvam Asi"
. Ngươi là cái ấy, ngươi là Ðấng ấy , Ngươi là Chân Như!
Vậy thì Thượng-Ðế-tính, đại-ngã-tính, siêu-việt-tính
ấy có sẵn trong ta. Nó ở trong ta, nhưng Cái Ấy không phải
là xác và hồn, không phải là thân thể vô tri hoặc tư tưởng
và tinh thần ranh ma quỷ quyệt! Vì hỗn mang, vì tối tăm, vì
si mê dục vọng mà chúng ta đã không thấy Ngài chăng? Chúng
ta đã tự xa Ngài chăng? Sự phẩn nộ và bất tín có lý chăng
khi chúng ta chưa tra xét bản thân cho đến tận cùng? Tồn
Tại, An Tĩnh, Tri Thức, Chân Phúc là Một. Có tri thức mà chưa
có An Tĩnh - nghĩa là còn rối loạn - thì ta chưa thể hội
nhập được với Ngài. Vệ-Ðà cũng đã từng dạy như vậy
và đệ cũng đã từng hiểu như vậy mà! Cái thuần nhất, cái
độc nhất, cái vô nhị ấy - cái ở ngoài hồn và xác ấy,
cái ở ngoài thân thể và tư tưởng ấy - là ẩn số mà ta cương
quyết phải tìm, phải bỏ hết cả cuộc đời để săn đuổi
chúng. Chúng ta chưa đi thật sự bằng hai chân của mình - nghĩa
là bằng kinh nghiệm, khổ đau trần trụi và tim huyết nóng
hổi! Chúng ta chỉ mới đi bằng đầu óc, bằng lý luận,
thẩm sát, bằng chữ nghĩa vô hồn và bằng mớ tri thức
luận nhạt nhẽo! Chúng ta cũng chớ vội khinh bỉ thánh ca, thánh
thư và thánh triết. Vì chúng chỉ là sự gợi ý, là ngón tay
chỉ mặt trăng, là chiếc chìa khóa vô hình để chúng ta tự
mở cánh cửa huyền mật của tâm linh. Bao giờ chưa mở được,
chúng ta còn ra đi. Phải cũng cố lại niềm tin, dầu là
niềm tin le lói!
Kolita đứng dậy, đôi
mắt như phủ một làn sương mỏng long lanh. Chàng đã khóc.
Sự chân thành và trung thực của lòng mình đã đẩy chàng đi
quá xa. Upatissa cũng không khác nhưng chàng đã trấn tỉnh được!
Không ai dám thú nhận
sự bất lực của mình trước đám môn sinh bởi cả hai vốn
là bậc thầy ưu tú, cao cả, minh triết trước mọi người và
trước xã hội.
Có một tiếng gọi,
một thúc bách, một kêu réo ở phía bên trong: "Hãy thật
sự lên đường đi thôi!"
--- o0o ---
Mục
lục - [01] - [02]
- [03] - [04]
- [05]
[06]
- [07]
- [08] - [09]
- [10] - [11]
--- o0o ---
| Mục lục Tác giả |
Tủ sách Phật Học
|
Chân thành
cảm ơn Đạo hữu Bình Anson đã gởi tặng tập sách này
Trình bày : Nhị Tường
Cập nhật ngày:
01-04-2002