...... ... |
. |
Đường Tam Tạng Thỉnh Kinh
Võ Đình Cường
Sàigòn 2002
---o0o---
[Phần
3]
-oOo-
VII. VIẾNG
BẮC ẤN ÐỘ
Ð ?t chân vào Bắc
Ấn Ðộ, Ngài đi ngang qua hai tiểu quốc là Ca-bi-ca (Capica)
và Lâm-ba (Lampaka) là những nước thuộc Tiểu thừa Phật giáo.
Sau khi ở đấy vài tháng để nghiên cứu kinh điển Tiểu thừa,
Ngài đi đến một nước rất hùng cường trong năm xứ Ấn
Ðộ thời xưa là Kiền-đà-la (Gandhara). Nước này trong quá
khứ có những vì vua anh hùng cái thế, và rất sùng mộ đạo
Phật như vua Di-lan-đà (Nilanda), Già-nhi-sắc-già (Kanishka). Nước
này cũng là quê hương của những vị luận sư xuất chúng,
hay những tổ sư đã sáng lập các tông phái như Ngài Na Tiên
Tỳ kheo, Pháp Cữu, Như Ý, Hiếp Tôn Giả ...
Trước khi đến nước này, Ngài nghe nói có một
cái hang mà bóng đức Phật Thích Ca thường xuất hiện, nên
Ngài định đến chiêm ngưỡng. Hang này, theo người ta kể lại,
là nơi đức Phật đã hàng phục con Long thần Gopâla và còn
để lại hình bóng Ngài. Nhưng con đường đến hang ấy rất
hoang vu và có nhiều trộm cướp hoành hành. Từ mấy năm rồi,
không còn ai dám đến đấy nữa. Những người đồng hành với
Ngài đều khuyên Ngài không nên ghé đến. Ngài trả lời:
–Trong mấy ngàn A-tăng-kỳ-kiếp chưa chắc đã
có một lần thấy được hình ảnh của Phật. Tôi đã đến
đây, làm sao không đến chiêm ngưỡng được? Các người hãy
đi trước đi, tôi ghé đấy rồi sẽ theo sau.
Nói xong, Ngài một mình đi rẽ về phía hang
bóng Phật. Khi Ngài đến một ngôi chùa gần đây, không ai
dám dẫn Ngài đi. Ngài đành đi một mình. Giữa đường, Ngài
gặp một ông già bằng lòng hướng dẫn Ngài đến hang. Ði
được vài dặm, hai người gặp năm tên cướp tay nắm giáo
mác đang tiến tới phía Ngài. Ngài cất mũ và chỉ vào bộ
áo quần nhà sư của mình. Bọn cướp hỏi:
–Nhà sư muốn đi đâu đây?
–Tôi muốn đi chiêm bái bóng đức Phật.
–Nhà sư không biết rằng trong vùng này có nhiều
kẻ cướp sao?
Ngài ôn tồn trả lời:
Kẻ cướp cũng là người. Tôi đi chiêm bái đức
Phật, thì dù có gặp thú dữ, rắn độc, tôi cũng không sợ.
Các anh là người, nghĩa là trong lòng đã sẵn có mầm từ
bi, sao tôi lại sợ?
Bọn cướp nghe Ngài nói rất cảm kích, và tình
nguyện đi theo Ngài đến hang.
Hang này ở phía đông một dải suối chảy giữa
hai trái núi. Cửa hang mở ra một thành đá. Ngài nhìn vào cửa
hang không thấy gì khác hơn là một khoảng tối om om. Ông
già bảo Ngài:
–Pháp sư hãy đi vào trong, khi Ngài đến đụng
vách đá phía đông Ngài hãy lùi lại đó độ 50 bước và đứng
nhìn vào vách đá, sẽ thấy bóng đức Như Lai.
Ngài Huyền Trang đi vào một mình, làm như lời
ông lão dặn. Ngài xây mặt về phía vách đá, lạy một trăm
lạy, nhưng vẫn không thấy gì. Ngài òa lên khóc vì tự thấy
mình bạc phước và chứa nhiều tội lỗi nên không được bóng
đức Phật thị hiện ra. Bấy giờ với một tấm lòng thành
khẩn. Ngài tụng những bài sám hối, và sau mỗi đoạn lại
đảnh lễ Phật. Quả thật, sự linh diệu bắt đầu hiện
ra! Sau khi Ngài đã lạy trên 100 lạy, một điểm sáng bằng
cái bình bát hiện ra ở trên vách đá phía đông và vụt tắt
ngay. Vừa mừng, vừa tủi, Ngài lạy nữa, và lần này, Ngài
thấy một khoảng sáng lớn bằng cái thau xuất hiện rồi vụt
tắt, nhanh như chớp. Bấy giờ lòng tràn ngập hân hoan và
thành kính, Ngài thệ nguyện quyết tâm ở lại đây mãi cho
đến khi nào thấy được hình bóng thiêng liêng của đức Phật
mới thôi. Ngài tiếp tục tụng niệm. Và thình lình, tất cả
hang đá đều sáng rực lên, và hình ảnh đức Như Lai hiện
ra trắng toát. Một đường ánh sáng viền quanh khuôn mặt đấng
giác ngộ, thân hình Ngài và chiếc y rực lên một màu vàng
chói. Từ hai đầu gối Ngài trở lên, những tướng tốt hiện
ra trong ánh sáng; nhưng phía dưới tòa sen ánh sáng mờ nhạt
như ánh sáng hoàng hôn. Hai bên tả, hữu Ngài, có rất nhiều
hình bóng của các vị Bồ tát.
Ngài Huyền Trang ngây ngất đứng nhìn hình ảnh
nhiệm mầu, thiêng liêng ấy một hồi rồi gọi sáu người
đi theo Ngài đang đứng ở ngoài cửa hang, đem đèn đuốc và
hương hoa vào, thì đức Như Lai biến mất. Ngài Huyền Trang bảo
tắt đèn đuốc, và hình ảnh trước lại xuất hiện. Trong sáu
người đi theo Ngài – Ông lão và năm tên cướp – chỉ có
năm người nhận thấy hình ảnh đức Phật, còn một trong năm
tên cướp không nhận thấy gì hết.
Ngài Huyền Trang quỳ xuống dâng hương hoa và
tán thán đức Phật một hồi thì bóng đức Phật tắt hẳn.
Ngài lạy tạ rồi đi ra.
Sau khi được chứng kiến rõ ràng hiện tượng
kỳ diệu ấy, Ngài Huyền Trang đi thẳng đến nước Kiền
Ðà La (Bắc Ấn Ðộ) phía đông giáp Ấn Ðộ hà (Indus). Ở
đây, trước kia là một nơi chứa rất nhiều di tích Phật
giáo, nhất là ở cựu thành Bố-lộ-sa-bố-la (Peshawar). Hoàng
đế Ca-nị-sắc-ca (Kanishka) xưa kia có dựng trong vùng này
trên một ngàn tịnh xá để chư tăng ở. Nhưng khi Ngài Huyền
Trang đến đây thì quang cảnh thật là buồn bã, hoang phế.
Dân cư thưa thớt. Dinh thự, đền đài, tịnh xá, thành quách
đã bị quân Hung nô nhiều lần đến tàn phá. Những di tích
quý báu của đức Phật đều bị cướp đem đi, cho đến cái
bảo vật quý nhất là bình bát mà xưa kia lúc tại thế, đức
Phật đã dùng đi khất thực, cũng không còn.
Trong hơn một ngàn tịnh xá trước kia, nay chỉ
còn lại một cái. Ðó là tịnh xá mà Ðại đế Ca-nị-sắc-ca
đã dựng lên cho Ngài Hiếp Tôn Giả.
Sự tích của Ngài Hiếp Tôn Giả là một cái gương
kiên nhẫn, tinh tấn, vô cùng quý báu, mà hàng tín đồ Phật
tử thường kể cho nhau nghe:
Tôn giả đã gần 80 tuổi mới xả tục xuất
gia. Những người thanh niên trong thành phố đều nhạo báng
và chê Ngài là người không biết điều: "Lão già thật
ngu. Xuất gia thì phải đủ sức để tập định và tụng
kinh. Nay đã già khọm đi rồi, còn tiến thủ sao được nữa,
mà dám lạm dự vào bậc thanh lưu. Thật là để ăn bám mà
thôi".
Hiếp Tôn Giả nghe những lời nhục mạ như thế,
đứng trước mọi người mà thề rằng:
–Hiếp này, nếu không thông suốt được Tam tạng
kinh điển, không đoạn trừ được phiền não của tam giới,
thì quyết đừng cho Hiếp này dự vào chỗ chiếu ngồi.
Từ đấy, Tôn giả chăm chỉ học hỏi không ngừng;
khi đi, khi đứng, khi ngồi, lúc nào cũng nghiền ngẫm đến
những điều mình vừa học. Ban ngày thì nghiên tầm giáo lý,
đêm đến thì tĩnh tọa tham thiền, trong khoảng ba năm Ngài
đã thông hiểu hết ba tạng kinh điển. Do đó người đời mới
tôn kính đặt cho Ngài cái danh hiệu "Hiếp Tôn Giả".
Sau khi lễ bái các Phật tích ở đây và đem các
tặng phẩm mà vua Cao Xương đã biếu cho Ngài như vàng, bạc,
vóc lụa, y phục ... phân phát cho các tu viện, Ngài Huyền
Trang đi lần về phía đông nam.
Ngài đi đến nước Ca Thấp Di La (bây giờ là
Taxila trong vùng Panjab). Vị trí nước này ở phía Tây dãy Hy
Ma Lạp Sơn, thượng lưu sông Na Bô và sông Xa Lâm, là những
chi lưu của sông Ấn Ðộ, diện tích độ 1.900 dặm vuông
Anh. Nước này là nơi phát nguyên Ðại thừa Phật giáo. Trong
thời vua A Dục trị vì, Ngài đã đặt ở đây Thủ đô của
những tỉnh miền Tây bắc và cử Hoàng tử Câu Na La
(Kunâla), con Ngài, làm thủ hiến vùng này. Nhân đây, tưởng
cũng nên nhắc lại câu chuyện thương tâm của vị Hoàng tử
này:
Hoàng hậu, vợ vua A Dục mất, vua lấy một người
vợ sau. Bà này là người không đứng đắn, đem lòng yêu
Hoàng tử Câu Na La, nhưng bị Hoàng tử cự tuyệt. Bà sinh
tâm oán hận Hoàng tử và xúi vua đày Hoàng tử lên trấn nhiệm
các tỉnh miền Tây bắc, tức là nước Ca Thấp Di La. Nhưng bà
mẹ kế này vẫn chưa nguôi thù oán. Bà làm một sắc chiếu
giả và thừa lúc vua ngủ, đóng dấu răng ngài vào – sự đóng
dấu theo thể thức này là một luật lệ của triều đình
– Tờ chiếu truyền lệnh móc đôi mắt Hoàng tử. Khi nhận
được chiếu chỉ, các thủ hạ của Hoàng tử do dự không
dám thi hành. Thái tử bảo họ:
–Phụ thân ta đã truyền lệnh như thế, ta đâu
dám chẳng tuân theo? Các người hãy thi hành đi.
Hoàng tử bị mù cả hai mắt từ đấy. Với một
cây đàn, Câu Na La đi kiếm ăn hết tỉnh thành này đến tỉnh
thành khác. Một hôm, thái tử đi về phía kinh đô, đến gần
hoàng thành, nơi vua A Dục đang ở. Trong đêm khuya Thái tử vừa
gảy đàn vừa than trách số kiếp xót đau của mình. Vua từ
trên lầu cao, giật mình kinh ngạc khi nghe giọng hát ấy. Vua
cho thị vệ gọi người hát vào và đau đớn nhận ra là con
mình! ...
Trong thời Ngài Huyền Trang đến đây, ảnh hưởng
Phật giáo Ðại thừa vẫn còn đang mạnh mẽ trong dân chúng.
Khi Ngài đến gần kinh thành, vua nước ấy thân hành đem triều
thần, tăng chúng, quân lính ra nghinh đón có trên ngàn người.
Cờ quạt rợp trời, hương hoa đầy đất. Vua thân đến trước
mặt Ngài, rải hoa dưới chân Ngài và mời Ngài lên ngồi
trên một thớt voi lớn, còn vua và đám rước đi theo sau.
Sau khi biết được ý định của Ngài sang Ấn
Ðộ để sưu tầm kinh điển, vua truyền cho 20 người thơ lại
đi theo Ngài biên chép.
Ngài đến trọ tại một ngôi chùa
"Am-ra-nhân-đà" trong kinh thành. Chùa này có 30 vạn biến
kinh, cọng 96 vạn câu, và một vị cao tăng đã 70 tuổi là Xưng
Lão Pháp sư rất tinh thông kinh điển Ðại thừa. Ngài ở đây
biên chép kinh điển và theo học với vị cao tăng này trong
hai năm. Ngài đã tìm thấy ở đây một vị sư xứng đáng với
hoài bảo của mình. Ngài thường ca tụng vị sư này là một
người nghiêm trì giới luật, thông minh xuất chúng, học hỏi
uyên thâm và đức hạnh hoàn toàn. Do sự mến phục ấy,
Ngài theo học với vị cao tăng đêm ngày không biết mệt. Và
vị cao tăng này, khi Ngài Huyền Trang từ giã ra đi, đã tuyên
bố với đại chúng rằng:
–Thầy Tăng Chi Na này trí lực hoằng thâm,
trong bọn chúng ta không ai hơn được. Ông là người thông
minh đức độ, đủ nối được cái phong thái và sự nghiệp
của anh em Thế Thân Bồ tát.
*
* *
VIII.
TRÊN ÐƯỜNG ÐI ÐẾN CÁC THÁNH ÐỊA PHẬT GIÁO
N gài Huyền Trang
đi dần về phía Trung Ấn Ðộ. Sau khi đi chừng 1.000 dặm và
qua mấy tiểu quốc ở Bắc Ấn Ðộ, một hôm, đi ngang một
khu rừng rậm rạp, Ngài và những người bạn đồng hành gặp
phải một bọn cướp chừng 50 tên. Sau khi lấy hết cả đồ
dùng, áo quần, vàng bạc, chúng nó còn nắm giáo mác đuổi
theo Ngài và mấy người lữ hành. Chạy được một đoạn
đường, mấy người lữ hành nhận thấy bên bờ một cái hồ
khô nước, cây cỏ rậm rạp, có một cái hang rộng, có thể
chứa được nhiều người. Họ ra dấu cho Ngài và mấy người
cùng nhau chạy xuống đấy ẩn trốn. Bọn cướp đuổi theo
sau, đến đây thấy mất tăm dạng các người lữ hành,
chúng mới thôi, không đuổi nữa. Sau khi thoát nạn, họ chạy
đến một làng gần đấy và kể lại tai nạn vừa xảy ra. Một
người Bà-la-môn, có lẽ là xã trưởng, đánh trống hội họp
dân làng cùng nhau đuổi theo tiêu trừ bọn cướp. Nhưng bọn
này đã cao bay xa chạy vào rừng sâu. Các lữ hành mất hết
của cải rất đau buồn, chỉ có Ngài là giữ được vẻ mặt
tự nhiên tươi sáng, vì Ngài nghĩ rằng tánh mạng là điều
quý nhất chưa mất, thì cái gì rồi cũng có thể tạo lại
được.
Mà thật, khi đến một thành phố gần đấy, họ
gặp được một vị Bà-la-môn già, có cảm tình với đạo
Phật, triệu tập dân chúng và hô hào họ quyên góp vàng bạc,
áo quần, vật dụng trao tặng lại cho những người đã bị
cướp. Ðiều may mắn nhất cho Ngài là vị Bà-la-môn già ấy
lại là đệ tử thông thái của một đại sư đã có công lớn
trong sự kiện toàn môn Nhân Minh học, là môn luận lý học của
Phật giáo. Ngài Huyền Trang bất ngờ mà gặp được vị đệ
tử giỏi về môn học này rất vui mừng, và xin ở lại thụ
giáo với vị này trong một tháng trời. Ngài Huyền Trang nhờ
môn học này, mà đã thông hiểu một cách tường tận hệ thống
triết lý Ðại thừa và nhất là Duy Thức học Phật giáo.
Ngài đi dần về phía đông, và qua mỗi đoạn
đường, Ngài lại gặp thêm nhiều minh sư, ích hữu, thu hoạch
được rất nhiều kinh điển Ðại thừa quý báu. Ngài ở chỗ
này một năm, chỗ kia năm ba tháng để khảo sát, biên chép,
hay thỉnh giáo với những vị học rộng biết nhiều.
Rồi Ngài đi dần về phía đông nam, đến thành
phố Ma-siêu-la (Mathura) trong lưu vực sông Jumna là thành phố
còn giữ rất nhiều di tích của các vị đệ tử tiếng tăm
của đức Thích Ca, như Ngài Mục Kiền Liên, Xá Lợi Phất,
Ưu Bà Ly, A Nan Ðà, La Hầu La ...
Sau khi đến chiêm bái các nơi này. Ngài lại đi
tiếp sang phía đông, đến thượng lưu sông Hằng. Ðối với
tín đồ Ấn Ðộ giáo, sông Hằng là một con sông linh
thiêng, bắt nguồn từ trên cõi trời mà chảy xuống đất. Sắc
nước luôn luôn thay đổi màu, sóng rất lớn. Nước ngọt và
lòng sông toàn cát trắng rất mịn. Theo kinh điển Ấn Ðộ
giáo, người ta gọi sông này là sông Hạnh phúc, ai tắm trong
nước của nó thì được rửa sạch tội lỗi, ai uống nước
của nó, hay chỉ súc miệng thôi, cũng đủ thoát nhiều tai nạn;
ai trầm mình chết ở đấy sẽ tái sanh lên cõi trời. Vì thế
dân chúng theo Ấn Ðộ giáo đêm ngày tụ tập lễ bái hai
bên bờ sông. Và một số người tìm cái chết trong dòng nước
thiêng ấy để hy vọng lên cõi trời. Rải rác từng khoảng
gần hai bên bờ sông, Ngài thấy có những chiếc sào cắm xuống
nước, phía trên đầu có những cái móc hay cái nạn để cho
người tín đồ treo mình lên đấy. Từ sáng sớm, khi mặt trời
bắt đầu lên, Ngài Huyền Trang đã thấy một vài tín đồ
ra sông, tự treo mình dọc theo cái sào ấy với một tay và một
chân móc vào cái nạn, còn tay và chân kia thì dang thẳng ra,
đôi mắt họ nhìn mặt trời và theo nó từ phía đông cho đến
phía tây, từ khi nó mới mọc cho đến khi nó lặn xuống
chân trời mới trở về nhà, để sáng hôm sau lại tiếp tục
cái công việc ấy. Và cứ như thế, họ làm hết tháng này
đến tháng khác, hết năm này đến năm khác, hết hàng chục
năm này đến hàng chục năm khác, với mục đích là giải
cho tâm linh thoát kiếp luân hồi!
Dọc theo sông Hằng, Ngài Huyền Trang đi đến thành
Khúc Nữ (Kanauj) là kinh đô của nước Yết-nhược-cúc-đồ
(Kayakubja). Nước này thuộc Trung Ấn Ðộ là miền rất có
nhiều thánh tích đức Phật Thích Ca. Thời cổ gọi là
"Ðất Giữa" vì nó nằm ở giữa Ấn Ðộ. Khi Ngài
Huyền Trang đến, thì Yết-nhược-cúc-đồ là một nước
đang thời thịnh trị, dân cư giàu có, vui vẻ làm ăn. Vị
vua đang trị vì nước ấy là Giới Nhật (Harsha) một anh
quân, rất sùng mộ đạo Phật có thể so sánh được với A
Dục vương thời trước. Kinh thành Khúc Nữ nằm trên bờ
tây sông Hằng có đến 100 ngôi chùa, tăng lữ có trên vạn
người. Khi Ngài Huyền Trang đến đây, vua Giới Nhật không
có ở kinh đô, nên không được vua tiếp đón như những nước
mà Ngài đã đi qua. Ngài ở lại đây ba tháng, trọ lại chùa
Bạt-đạt-di-kha-la (Bhadravihârâ) để học hỏi Tam tạng kinh
điển. Sau ba tháng ở thành Khúc Nữ, Ngài lại vượt sông Hằng
đi về phía đông, đến một thành có nhiều di tích rất
thân thiết đối với Ngài, là thành A Du Ðà (Ayodhya, tỉnh
Oude). Thành này còn rực rỡ oai danh của hai vị Bồ-tát có
công lớn với Ðại thừa Phật giáo và là những vị đã
thành lập môn Duy Thức học, đó là hai anh em Ngài Vô Trước
(Asanga) và Thế Thân Bồ-tát (Vasubandhu). Ngài Huyền Trang đến
khu rừng Xoài, cách 5, 6 dặm về phía tây nam A Du Ðà, là nơi
có tịnh xá mà hai thế kỷ trước, hai vị bồ-tát này đã
tu niệm và giảng dạy giáo phái của hai Ngài.
Câu chuyện của hai vị Bồ tát này cũng đáng
để cho chúng ta suy gẫm trong vấn đề đi tìm sự thật:
Hai anh em Ngài Vô Trước và Thế Thân, gốc ở
thượng lưu sông Hằng, đều là những vị thông minh xuất
chúng. Nhưng trong lúc Ngài Vô Trước là anh, tu theo phái Ðại
thừa thì Ngài Thế Thân là em lại theo Tiểu thừa. Hai Ngài
đều có trước tác những bộ luận để xướng minh giáo lý
của phái mình, và tất nhiên không thể không có những sự
xung đột về lý thuyết.
Một hôm, Ngài Vô Trước mời em đến tịnh xá
của mình tại rừng Xoài chơi. Ðêm đến, Ngài Vô Trước dẫn
Ngài Thế Thân ra một cái gác dựng bên sông để em nằm hóng
mát, còn mình thì trở vào. Ðêm ấy là một đêm thu, có trăng
rất đẹp. Trăng và nước hòa hợp trong một bầu trời thu,
mênh mông, huyền ảo. Bỗng một giọng tụng niệm trong trẻo
thanh thoát ngân lên, ngân lên, bay trong gió, hòa hợp trong
không trung. Ðó là một bài luận về Ðại thừa. Qua ý nghĩa
bài luận, thế giới vật chất như tan biến, mung lung, mộng
ảo như ánh trăng, như hơi nước đang bàn bạc trên sông. Trước
mắt Ngài, vật chất chỉ là thế, nghĩa là hư ảo, là duy
tâm, là duy thức.
Ngài Thế Thân xúc động đến tận đáy lòng,
và cảm thông được cái cao thâm huyền diệu của giáo lý Ðại
thừa, Ngài vừa xấu hổ, vừa hối hận, đi vào nhà, xin cắt
lưỡi trước mặt anh để chuộc cái tội đã phỉ báng Ðại
thừa.
Ngài Vô Trước can em:
– Sao lại cắt lưỡi? Em đã dùng cái lưỡi
ấy để công kích Ðại thừa thì nay cũng nên dùng cái lưỡi
ấy để xiểng dương Ðại thừa, mới phải chứ!
Ngài Thế Thân nghe theo lời anh dạy. Trước kia
Ngài đã viết 500 bộ luận về Tiểu thừa để kích bác Ðại
thừa, thì từ đấy, Ngài lại viết 500 bộ luận về Ðại
thừa để thuyết minh giáo lý Ðại thừa. Do đó, người đời
tôn xưng Ngài là "Thiên bộ Luận sư", vị luận sư tạo
ngàn bộ luận.
Ngài Huyền Trang khi đến thăm tịnh xá của hai
vị Bồ tát này, chắc không thể không xúc động mãnh liệt,
vì giáo lý Duy thức mà hai vị này đã phát huy ra trước Ngài
hai thế kỷ, chính là giáo lý mà sau này Ngài đã dùng làm cơ
sở cho bộ luận Thành Duy Thức đồ sộ của Ngài, và là căn
bản của Pháp Tướng tông.
Từ giã tịnh xá của hai vị Bồ-tát này, Ngài
đi thuyền xuôi theo sông Hằng về phía đông để tiếp tục
viếng các Phật tích. Trong thuyền có lối 20 hành khách. Thuyền
xuôi theo dòng sông, độ vài chục dặm thì xảy ra một tai nạn
lớn, có thể nói là lớn nhất trong cuộc hành trình của
Ngài từ trước đến nay, và có thể làm Ngài bỏ xác nơi đây.
Thuyền đi vào một khúc sông, hai bên bờ có nhiều
cây cối rậm rạp của rừng cây "A Dục". Dưới những
tàn cây rậm rạp bổ ra sông, có mười chiếc ghe của bọn
cướp đang ẩn núp đợi mồi. Khi thấy thuyền Ngài gần đến,
bọn cướp hè nhau bơi thuyền ra chặn đường. Nhiều hành
khách sợ quá nhảy ùm xuống sông và mất xác, những người
còn lại bị đưa vào bờ và bị bọn cướp lột hết quần
áo, của cải. Bọn cướp này thờ "Durga", một nữ
hung thần thường bắt các đệ tử cuồng tín phải làm lễ
hy sinh người sống cho mình. Thường năm, đến mùa thu, họ
tìm một nạn nhân, phần nhiều là đàn ông có hình dáng cân
đối, mặt mũi khôi ngô để lấy huyết và thịt dâng cúng
cho nữ thần. Khi bọn cướp này nhận thấy Ngài Huyền Trang
có khuôn mặt tuấn tú, hình dáng oai nghi, chúng nhìn nhau mừng
rỡ. Chúng nói với nhau:
–Chúng ta đã trễ quá thời hạn làm lễ tế
thần, vì chưa tìm được một kẻ hy sinh xứng đáng với nữ
thần. Nhưng bây giờ chúng ta gặp được nhà sư mặt mũi khôi
ngô, thân hình đẹp đẽ này, chúng ta hãy làm lễ tế ngay,
để nữ thần ban phước.
Ngài nghe nói, bình tỉnh trả lời:
–Nếu thân xác của bần tăng này đáp đúng ý
nguyện của các ngươi, để dâng cúng cho nữ thần, bần tăng
thật tình không dám tiếc. Nhưng bần tăng từ phương xa lặn
lội đến đây để chiêm bái các Phật tích, cung thỉnh các
kinh điển và học hỏi giáo lý của đức Thích Ca. Sở nguyện
thiết tha ấy chưa thành, mà nay các ngươi đành tâm giết bần
tăng, thì bần tăng e rằng các ngươi đã không được phúc
mà trái lại còn mang thêm nhiều tai họa.
Những người hành khách quỳ xuống xin bọn cướp
tha chết cho Ngài. Có người lại xin thay mạng cho Ngài. Nhưng
bọn cướp đều từ chối. Tên đầu đảng truyền lệnh cho
bộ hạ vào rừng lấy nước trong và dựng một cái bàn thờ
với đất bùn lấy ở dưới sông lên. Xong xuôi nó truyền
hai tên thân tín rút giáo, lôi Ngài lên bàn thờ để làm lễ
hy sinh ngay. Trong lúc đó sắc mặt Ngài vẫn không đổi, bình
thản như thường. Bọn cướp lấy làm ngạc nhiên và không
khỏi xúc động. Riêng Ngài, thì Ngài thấy giờ phút cuối
cùng sắp đến, nên yêu cầu bọn cướp trì hoãn cho Ngài một
lúc để Ngài cầu nguyện và đừng lôi kéo Ngài như thế. Ngài
bảo:
–Các ngươi hãy để cho bần tăng được nhập
Niết-bàn một cách thanh tịnh và hoan hỷ.
Nói xong, Ngài ngồi kiết già, xưng tán đức Di
Lặc và chư Bồ tát trong mười phương, mong cầu được nhập
vào hàng Thánh chúng để được nghe pháp và giác ngộ hoàn
toàn. Rồi Ngài lại nguyện sau khi giác ngộ sẽ trở về cõi
Ta Bà này khai thị cho bọn cướp, đưa chúng về con đường
chính và làm các việc công đức để chuộc những lỗi lầm.
Cuối cùng, Ngài nguyện sẽ hóa độ toàn thể chúng sanh, và
đưa họ vào cảnh giới an lạc. Nguyện xong, Ngài nhập định
và chú toàn tâm lực vào đức Bồ-tát Di Lặc.
Bỗng Ngài nhận thấy tâm hồn lâng lâng siêu
thoát, như bay bổng đến núi Tu Di, và sau khi lên đến tầng
trời thứ ba, Ngài thấy đức Di Lặc đang ngồi trên tòa sen
rực rỡ và quanh Ngài, chư thiên đang ngồi nghe pháp. Trong khi
tâm hồn Ngài đang phiêu diêu trong cảnh giới thanh tịnh ấy,
Ngài không còn nhận thấy rằng mình đang ngồi trên bàn thờ
tế nữ thần, bên cạnh bọn cướp khát máu đang nóng lòng
chờ đợi cắt da, xẻ thịt mình, và dưới chân Ngài, chung
quanh Ngài, những người đồng hội, đồng thuyền với mình
đang than khóc tiếc thương Ngài.
Bỗng một trận cuồng phong nổi lên, làm cây cối
gẫy ngã, cát bụi tung đầy trời, sóng cuồn cuộn gầm thét
và lật úp ghe thuyền trên sông. Bọn cướp hoảng sợ, hỏi
những kẻ bộ hành cùng đi theo Ngài:
–Nhà sư này ở đâu đến và tên ông ta là
gì?
Một người trong đám hành khách trả lời:
–Ðó là một cao tăng từ Trung Hoa đi sang đây
thỉnh kinh. Nếu các người giết vị sư ấy thì tai họa lớn
lao sẽ đến với các người. Các người thấy chưa, gió bão
đang nổi dậy đó chính là triệu chứng sự giận dữ của
chư thiên trước hành động bạo tàn của các người. Các người
hãy mau hối cải mới được.
Bọn cướp sợ hãi, sụp quỳ xuống bên chân
Ngài, xin tha tội, nhưng Ngài vẫn điềm nhiên tĩnh tọa, không
nhận thấy sự thay đổi đột ngột, kỳ lạ xảy đến chung
quanh Ngài. Một tên cướp xích lại gần, nắm chéo áo Ngài
van xin tha tội, làm Ngài sực tỉnh.
Khi được biết bọn cướp đã hoảng sợ mà đổi
ý, Ngài nhận tin ấy một cách bình tĩnh, không đổi sắc mặt.
Ngài khuyên bọn cướp hãy cải tà quy chánh. Bọn cướp ngoan
ngoãn xin tuân theo. Trận cuồng phong dịu dần rồi tắt hẳn.
*
* *
IX. CHIÊM
BÁI CÁC PHẬT TÍCH
S au khi được toàn
tánh mạng, và thoát khỏi tay bọn cướp hung ác một cách bất
ngờ, Ngài Huyền Trang đi về phía Ðông Bắc là nơi có nhiều
Phật tích quý báu, trong số ấy có 6 đại thánh địa mà mọi
Phật tử, khi sang Ấn Ðộ hành hương, đều ao ước được
đến chiêm bái. Sáu đại thánh địa ấy là: Vườn Lâm Tỳ
Ni, nơi đức Phật giáng sanh; Thành Ca Tỳ La Vệ, nơi trưởng
dưỡng của Ngài khi chưa xuất gia; Bồ đề đạo tràng, nơi
đức Phật thành Ðạo; vườn Nai, nơi Ngài thuyết pháp lần
đầu tiên cho nhóm ông Kiều Trần Như; vườn Trúc Lâm hay Cấp
Cô Ðộc, nơi Ngài nhập Niết-bàn.
Trong cuộc chiêm bái của Pháp sư Huyền Trang, Ngài
không theo thứ tự như đã kể trên, nhưng theo sự thuận tiện
trong cuộc hành trình mà tuần tự chiêm bái những nơi sau đây:
1. Chiêm bái vườn Trúc Lâm hay Cấp Cô Ðộc.
Vườn này có tên là Cấp Cô Ðộc vì do một vị
trưởng giả giàu có, ông Tu Ðạ Na, cúng cho đức Phật để
làm nơi thuyết pháp. Sự tích cúng vườn này cũng là một
điều lý thú nên nhắc lại: Ông Tu Ðạt Na là một người
giàu lòng bố thí, thường cung cấp nuôi dưỡng những mẹ góa,
con côi nghèo khổ, cho nên được người đời tặng cho biệt
hiệu là Cấp Cô Ðộc trưởng giả. Khi Phật đến thuyết pháp
tại thành Vương Xá (Kocala, nay là tỉnh Oude), ông Tu Ðạt Na
xin nguyện cúng cho Ngài một nơi yên tĩnh để làm tịnh xá.
Ông lựa được một chỗ đất rất tốt, đó là rừng Trúc
Lâm. Nhưng rừng này thuộc sở hữu của nhà vua. Ông xin mua lại
bằng cách đem vàng bạc trải trên mặt đất. Nhưng còn một
đám đất vì cây cối rậm rạp ông chưa biết làm thế nào
để trải lên, nên đứng nhìn đám đất với vẻ mặt băn
khoăn. Vua lấy làm lạ, hỏi nguyên nhân, ông Tu Ðạt Na trả
lời:
–Tâu Hoàng thượng, thần được diễm phúc
cúng dường đức Phật một nơi làm tịnh xá, để Ngài thuyết
pháp độ sinh. Thần thấy đó là một công đức lớn vô
cùng. Nhưng nay vì còn một đám đất rậm rạp này, thần chưa
biết phải trải vàng thế nào để mua nốt, nên thần đang
băn khoăn suy nghĩ.
Vua trả lời:
–Nếu sự cúng dường cho đức Phật có một
công đức lớn lao như thế thì ta không bán đám đất còn lại
ấy nữa. Ta sẽ dâng cúng cho đức Phật để làm công đức.
Từ đấy một tịnh xá đồ sộ được dựng lên
ở trong vườn Trúc Lâm, nơi thường trú của đức Phật, sau
ngày thành đạo. Mấy thế kỷ sau ngày nhập diệt của Ngài,
khách hành hương đến chiêm bái ở đây vẫn còn say ngắm những
phong cảnh ngoạn mục nên thơ, nào hồ sen, nào bồn hoa cây cảnh,
nào giảng đường, nào trai phòng ... Nhưng khi Ngài Huyền
Trang đến đây, thì tịnh xá này đã hoang vắng, điêu tàn. Tất
cả cảnh tượng đồ sộ ngày xưa, chỉ còn trơ lại hai cột
trụ đá mà vua A Dục đã truyền dựng lên, mang ở trên đỉnh
một bánh xe Pháp và ở dưới mấy hàng chữ ghi dấu vết một
nơi thánh địa đã có cái vinh dự làm bối cảnh cho bao cuộc
thuyết pháp của đức Phật, mười ba thế kỷ trước.
Vùng Trúc Lâm này, không những chỉ được cái
vinh dự in nhiều nhất những bước chân của đấng Giải thoát,
mà còn mang bao di tích quý báu có liên hệ đến đời Ngài
hay của các vị đại đệ tử.
Chính ở đây, du khách còn được chiêm bái đám
đất trước kia là tu viện của Di mẫu đức Phật và quý vị
Tỳ Kheo Ni đầu tiên của Ni bộ. Mỗi bước Ngài Huyền Trang
dẫm lên vùng này là gặp một kỷ niệm đáng kể: Ở đây
là mộ phần của anh chàng Vô Não (Angulimâla), một tên cướp
theo cuồng đạo, giết người để chặt ngón tay làm chuỗi hạt
đeo ở cổ. Theo đạo ấy, thì hễ ai giết được một trăm
người, lấy một trăm ngón tay làm tràng hạt thì được đắc
đạo. Anh chàng Vô Não chỉ còn thiếu có một ngón tay thì
chuỗi hạt của anh đủ một trăm ngón. Tìm không ra người
để giết, anh toan đem mẹ anh làm vật hy sinh. Ðức Phật biết
được, tự nguyện thay người mẹ để cho chàng Vô Não giết.
Anh ta vung gươm nhảy tới chém đức Phật; đức Phật cứ
lui dần, lui dần, và tên sát nhân khát máu kia không sao đuổi
kịp. Vừa bước lui, vừa thuyết pháp, cuối cùng đức Phật
đã hàng phục được tên cuồng tín kia và cho nhập vào hàng
thánh chúng. Ở nơi kia là mộ phần của nàng con gái mà bọn
ngoại đạo đã âm mưu độn bụng để vu oan cho đức Phật.
Ở một nơi khác là cái bia dựng lên để kỷ niệm nơi đức
Phật đã săn sóc một vị Tỳ kheo già ốm. Một hôm đức Phật
nhận thấy trong một căn nhà hẻo lánh, một vị Tỳ kheo già
ốm đang nằm đợi chết. Phật hỏi duyên cớ, vị Tỳ kheo
trả lời vì mình quá giải đãi, không chịu uống thuốc men
và cũng không ai săn sóc nên mới ra nông nỗi như thế. Ðức
Phật động lòng từ bi, dẫn ông ra khỏi phòng, tự tay quét
dọn giường chiếu, rửa tay và thay áo quần cho vị Tỳ kheo
ấy, rồi đi ra, sau khi đã dạy bảo ông phải luôn luôn tinh
tấn. Bệnh của vị Tỳ kheo ấy tự nhiên lành hẳn.
Bao nhiêu kỷ niệm đã vươn dậy dưới bước
chân của Ðường Pháp sư, và mỗi kỷ niệm là một bài học
vô giá, một biểu hiện của lòng từ bi hay trí tuệ, của
thanh tịnh hay tinh tấn ... Với một tâm hồn phong phú, tín
thành như Ngài Huyền Trang, thì một mảnh tường đổ, một
viên gạch, một hòn sỏi, cho đến một cục đất trong thánh
địa Trúc Lâm đều đáng được ôm vào lòng để nâng niu,
chiêm ngưỡng.
2. Chiêm bái vườn Lâm Tỳ Ni và thành Ca Tỳ La
Vệ.
Sau khi rời khỏi vườn Cấp Cô Ðộc, Ngài Huyền
Trang đi 800 dặm về phía Ðông bắc, đến thành Ca Tỳ La Vệ
(bây giờ thuộc nước Népal), quê hương của đức Phật. Thành
này, khi Ngài Huyền Trang đến chiêm bái, là một nơi hoang địa.
Thành quách, đền đài bị tàn phá, may ra chỉ còn lại những
móng gạch của kinh đô xưa. Cỏ cây hoang dại lan cùng mặt
đất; năm bảy cái chòi tranh che không kín gió những người
dân thưa thớt, nghèo nàn. Vài ba chục vị Tỳ kheo Tiểu thừa
cố gắng gìn giữ một cách bất lực, thảm thương, với sự
hiện diện nghèo nàn của mình, cái huy hoàng rực rỡ ngày xưa
của nơi chôn nhau cắt rún của vị Siêu phàm đã làm vẻ
vang cho nhân loại! Mười ba thế kỷ đã qua rồi, tang thương
đã mấy lần thay đổi, ngài Huyền Trang còn mong gì tìm thấy
lại vang bóng của thời oanh liệt xưa kia? Nhưng cũng may, nhờ
sự sáng suốt nhìn xa của vua A Dục, những trụ đã được
dựng lên khắp nơi để ghi lại cho hậu thế những biến
chuyển đầy ý nghĩa trong đời sống của đức Phật, khi còn
sanh trưởng trên mảnh đất phì nhiêu này.
Ðây, nơi đạo sĩ A Tư Ðà tiên đoán tương lai
huy hoàng của Thái tử Tất Ðạt Ða. Ðây, nơi Ngài đã thi
tài võ nghệ và đã thắng cuộc một cách vẻ vang để kết
hôn với công chúa Da Du, con vua Thiện Giác. Ðây, ba cửa
thành mà Ngài đã gặp người đau, người già, người chết
... Ðây con đường nhỏ Ngài đã phi ngựa Kiền Trắc trong đêm,
trốn ra khỏi hoàng thành để tìm Ðạo. Ðây, cánh đồng ven
rừng mà Ngài đã ngồi tham thiền sau khi thấy cảnh tương tàn
tương sát giữa chúng sanh. Ðây, nơi hội ngộ đầu tiên giữa
Ngài và vua Tịnh Phạn, sau những năm dài Ngài xuất gia và
tìm được Ðạo.
Cách thành Ca Tỳ La Vệ mấy dặm về phía đông
bắc, là vườn Lâm Tỳ Ni, nơi đức Phật đã ra đời trong
khi Hoàng hậu Ma Da đang đi ngoạn cảnh vào buổi tinh sương
ở trong vườn. Cây Vô Ưu mà Hoàng hậu đã với tay lên trong
phút giây thiêng liêng của đức Phật xuất thế, bây giờ cũng
không còn dấu vết nữa, vườn hoa rực rỡ ấy chỉ còn là
một khu rừng hoang vắng tiêu điều! Thật cảnh vô thường
đã quá rõ rệt!
3. Chiêm bái rừng Sa La, nơi đức Phật nhập diệt.
Từ giã thành Ca Tỳ La Vệ, Ngài Huyền Trang đi
về phía đông, qua 500 dặm rừng rậm, đến xứ Câu-thi-na-yết-la
(Kucinagara, bây giờ là Kasi), là nơi đức Phật đã nhập diệt.
Ngài Huyền Trang đến khu rừng Sa La (Cala) nơi đức Phật đã
bảo ông A Nan treo võng cho Ngài nằm nghỉ. Và đó cũng chính
là nơi yên nghỉ cuối cùng của Ngài. Rừng cây, hoa lá của
vùng này đã có diễm phúc nghe những Pháp âm vô cùng quý
giá của Ngài trước khi Ngài nhập diệt, như " ... Này,
các người hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi! Hãy lấy
Pháp của ta làm đuốc, hãy theo Pháp của ta mà tự giải
thoát. Ðừng tìm sự giải thoát ở một kẻ khác! Ðừng tìm
sự giải thoát ở một nơi nào khác" ... Hoặc: "Này
các Tỳ kheo! Các người đừng nghe dục vọng mà quên lời ta
dặn. Mọi vật ở đời không có gì quý giá. Thân thể rồi
sẽ tan rã. Chỉ có Ðạo ta là quý báu. Chỉ có chân lý của
Ðạo ta là bắt di bất dịch!". "Hãy tinh tấn lên để
giải thoát!"
Ngài Huyền Trang đi viếng khắp cả vùng này.
Ðây là nền nhà trong ấy ông Thuần Ðà đã dâng cúng bữa cơm
cuối cùng của đức Phật. Ðây là nơi nhập diệt. Ðây là
nơi làm lễ trà tỳ (hỏa táng). Ðây là nơi các vị quốc vương
Ấn Ðộ chia Xá lợi của Phật ...
Chiêm bái ở đây xong, Ngài Huyền Trang vượt
nhiều rừng núi để đi đến thành Ba La Nại (Bénarès), viếng
vườn Lộc Uyển.
4. Chiêm bái vườn Lộc Uyển.
Lộc-uyển là nơi mà đức Phật đến thuyết pháp
lần đầu tiên, sau khi thành đạo, cho năm người bạn đồng
tu của mình là nhóm ông Kiều Trần Như. Vườn này nằm ở
ngoại ô thành Ba La Nại. Nhóm ông Kiều Trần Như gồm năm tu
sĩ, ban đầu cùng tu với đức Phật, theo phương pháp khổ hạnh.
Ðược ít lâu, nhận thấy phương pháp này không có hiệu quả,
trái lại cứ làm cho thân thể mỗi ngày mỗi gầy yếu, đức
Phật đã rời nhóm ông Kiều Trần Như và phương pháp tu
hành của họ. Ngài trở lại ăn uống như thường, và bị
nhóm ông Kiều Trần Như chế nhạo, khinh rẻ. Sau một thời
gian tu luyện một mình, đức Phật đã thành đạo Chánh đẳng
Chánh giác. Ngài trở về vườn Lộc Uyển và trình bày sự
giác ngộ của mình cho năm người bạn đồng tu là nhóm ông
Kiều Trần Như nghe. Năm người này trở thành năm đệ tử
đầu tiên của ngài. Từ đó Lộc Uyển trở thành một đạo
tràng mà đức Phật Thích Ca thường tới lui thuyết pháp. Vua
A Dục đã dựng lên ở đây một trụ đá chạm trổ rất đẹp
để đánh dấu nơi thuyết pháp đầu tiên của Phật.
Khi Ngài Huyền Trang đến đây, mọi thánh tích của
đức Phật khi còn tại thế đều được giữ nguyên vẹn và
kính cẩn, vì ở đây, đang có một ngàn rưởi vị Tỳ kheo
tu hành trong tịnh xá dựng lên ở vườn Lộc Uyển. Nhờ thế,
Ngài Huyền Trang được chiêm ngưỡng những cái hồ mà đức
Phật đã dùng hoặc để tắm, để giặt, hay để rửa bình
bát ...
5. Chiêm bái Bồ-đề đạo tràng, nơi đức Phật
thành đạo.
Ngài Huyền Trang đi lần về phía Nam, đến xứ
Ma Kiệt Ðà, là một nước phồn thịnh trong thời Phật tại
thế, và là quê hương của vua A Dục. Chính ở kinh đô nước
này, Vương Xá thành, là nơi vị vua anh hùng cái thế ấy đã
triệu tập các vị đại đức tăng già để kiết tập kinh
điển lần thứ ba.
Khi Ngài Huyền Trang đến thành Vương Xá thì
thành này đã sụp đổ điêu tàn. Ngài chỉ còn nhận thấy
những vết tích của những điện các huy hoàng ngày xưa. Và
trong số hàng trăm tịnh xá mà vua A Dục đã dựng lên ở đây,
chỉ còn lại vài ba cái còn đứng vững. Ngài Huyền Trang ở
lại đây bảy ngày, rồi đi về phía Tây, luôn trong sáu ngày
mới đến rừng Bồ đề già là nơi có cây Bồ đề mà đức
Phật đã ngồi tham thiền ở dưới gốc cho đến khi thành đạo.
Chính ở gốc cây này, đức Phật đã phát lời thệ nguyện
lịch sử:
"Nếu không thành đạo thì dù thịt nát xương
tan, ta cũng không rời khỏi gốc Bồ đề này".
Khi Ngài Huyền Trang đến chiêm bái vùng này,
thì sông Ni Liên Thuyền, nơi đức Phật đã tắm rửa trước
khi ngồi xuống gốc cây Bồ đề, vẫn còn trong xanh, cây hai
bên bờ vẫn còn tươi tốt. Riêng về cây Bồ đề lịch sử,
ngài Huyền Trang đã tả: "Thân cây màu trắng ngà, lá
xanh láng mướt, không tàn rụng trong mùa hè cũng như mùa đông.
Chỉ đến ngày kỷ niệm đức Phật nhập Niết-bàn thì lá mới
rụng, nhưng ngày hôm sau lại đâm chồi nảy lộc sum mậu như
trước. Ngày ấy các bậc vua chúa, triều thần và thiện nam
tín nữ đến hành lễ ở đất, họ tưới vào gốc cây sữa
tươi, thắp hương đèn và rải hoa chung quanh. Họ hái lộc rồi
ra về".
Cây Bồ đề này được vua A Dục săn sóc chu đáo
và vô cùng quý trọng. Vua cho xây thành bằng gạch quanh gốc
cây, có trổ nhiều cửa ra vào. Cửa chính hướng về phía
Ðông, nhìn ra sông Ni Liên Thuyền. Cửa phía Nam giáp giới một
cái hồ trồng đầy sen. Phía Tây giáp giới với một dãy đồi
cao. Phía Bắc có một cái tịnh xá rộng lớn, chính giữa có
một pháp tọa, gọi là Kim Cang pháp tọa, vì dù cho trời long
đất lở, thì pháp tọa ấy cũng vững vàng như bàn thạch,
không lay chuyển. Tương truyền chỉ những vị Bồ-tát sắp
chứng được quả vị Phật mới được vào đấy.
Sau khi đứng chiêm ngưỡng cây Bồ đề một hồi
lâu, Ngài Huyền Trang sụp quỳ xuống đất, không ngớt lời
than khóc:
Kính lạy đức Từ phụ, khi Ngài đã chứng quả
Bồ-đề thì con đang còn lặn hụp trong biển khổ si mê; cho
đến nay sau khi Ngài đã nhập Niết bàn trên một ngàn năm rồi,
con cũng vẫn chưa thoát khỏi cảnh sanh tử luân hồi! Thật
quả nghiệp báo của con quá nặng nề, và con vô cùng xấu hổ,
thẹn thùng cho duyên kiếp của con".
Ngài nói xong, nước mắt chan hòa, không sao cầm
lại được. Trong lúc ấy, có trên mấy ngàn tu sĩ vừa ra hạ,
đến vây quanh Ngài Huyền Trang, và đều mũi lòng thương cảm
trước thái độ thành khẩn của Ngài.
Ngài Huyền Trang ở đây 6 ngày, rồi đến lưu học
ở chùa Na Lan Ðà.
Thế là Ngài đã lần lượt chiêm bái xong các
thánh địa chính như ý Ngài mong ước. Về phương diện tình
cảm của một đệ tử thuần thành đối với đức Từ phụ,
như thế là Ngài đã được như nguyện. Bây giờ Ngài còn phải
làm thế nào để được thỏa mãn lý trí trong sự khao khát
tìm cầu học hỏi và sưu tầm kinh điển.
-oOo-
Mục
lục | Phần
1
| Phần
2 |
Phần
3 |
Phần
4
| Phần
5
--- o0o ---
| Mục lục Tác giả |
Tủ sách Phật Học
|
Chân thành
cảm ơn Đạo hữu Bình Anson đã gởi tặng tập sách này
Trình bày : Nhị Tường
Cập nhật ngày:
01-04-2002
|
|