Có và Không
Thích Như Điển
Phật
lịch 2544 - 2000
Trung Tâm Văn Hóa Xã Hội Phật Giáo Việt Nam
tại
Cộng Hòa Liên Bang Đức Xuất Bản
---o0o---
Chương I
Có và Không theo quan niệm về tình yêu và
ái nhiễm
Nói về tình yêu thì xưa nay đã có rất nhiều sách vở đã đề
cập đến rồi; nhưng ở đây tôi chỉ muốn phân tích rõ ràng bản chất của sự
việc qua cái nhìn của Phật Giáo để từ đó chúng ta hiểu rõ hơn về sự hiện
hữu của tình yêu.
Tình yêu nó vô hình; nhưng nó đã làm xao xuyến không biết
bao nhiêu con tim non dại, lẫn những kẻ trưởng thành và những người sắp
chầu thiên cổ. Ngày xưa khi còn học Trung Học, tôi có học một bài thơ tình
của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu rất hay, nhan đề là "Chữ Tình" như sau:
"Cái tình là cái chi chi
Dẫu chi chi cũng chi chi với
tình
Đa tình là dở
Đã mắc vào đố gỡ cho ra
Khéo quấy người một giấc
thiên ma
Trói buộc kẻ hào
hoa biết mấy
Đã gọi người nằm thiên cổ
dậy
Lại đưa hồn mộng ngủ canh đi
Cực kỳ thay những lúc phân
kỳ
. . . . ."
Kinh nghiệm như Tản Đà mà còn không định nghĩa được chữ
tình, mà ông cho là cái chi chi. Nhưng dẫu sao đi nữa cũng phải đáp ứng
với cái tình đó. Cũng tình yêu đó đã làm cho người chết ngàn năm vẫn còn
có thể ngồi dậy để nghe tiếp những chuyện tình còn dang dở ở những kiếp xa
xưa nào đó và cái tình nầy cũng đã làm cho con người túy sanh mộng tử, mờ
mờ mịt mịt, không biết lối nào mà ra được. Vì vậy chuyện luân hồi sanh tử,
con đường trần ai khập khuỷu cũng đã có lắm kẻ bước vào rồi trở ra. Trở ra
rồi lại vào. Đúng là cái chi chi rồi. Nhưng tại sao thế ? Nơi đây tôi sẽ
phân tích nhiều thứ tình yêu và ái nhiễm khác nhau để chúng ta có thể nhìn
rõ bộ mặt thật của nó.
1. Tình yêu nam nữ
Tôi sẽ không đi sâu về vấn đề nầy; nhưng qua những hiện
tượng yêu rồi bỏ, thương rồi ghét của nhiều người, chúng ta thử phân tích
đó là gì ? Khi còn nhỏ người ta chưa phát hiện ra thứ tình nầy; nhưng khi
lớn lên, tình yêu nầy tự nhiên nảy nở. Người con trai thương người con gái
và ngược lại người con gái cũng không thể thiếu người con trai. Những năm
tháng đầu của việc thương yêu nhau, cả hai người đều nhìn cái gì cũng đẹp
hết. Vì tất cả đều hướng về những đam mê của mỗi bên, do vậy mà cái gì
cũng tốt cũng hay hết. Dẫu có lỗi, có quấy xảy ra trong thời gian thương
yêu nhau nầy đi nữa người ta cũng dễ tha thứ cho nhau và quên đi rất lẹ.
Vì người đàn ông, con trai bao giờ cũng muốn chiếm hữu đối tượng của người
mình thương, mình yêu đó. Ngược lại người con gái, đàn bà luôn luôn muốn
nương tựa, cậy nhờ. Do vậy mà hai bên lại hợp ý và hợp tình với nhau. Từ
thương yêu sinh ra ái nhiễm và từ ái nhiễm sẽ đi đến chỗ mê mờ không xa
mấy. Khi ái dục đã phát khởi thì con tim si mê đã làm chủ mình rồi. Lý trí
sẽ đi chơi chỗ khác. Do vậy mà khi ta thương thì tâm ta không có thù hận ở
trong đó; nhưng khi tâm ta ghét ai thì hoàn toàn không có một hình ảnh tốt
đẹp của lúc ban đầu. Do vậy ca dao Việt Nam mới có câu:
"Thương nhau thương cả đường
đi
Ghét nhau ghét cả tông ti họ
hàng"
Đây là cái tâm chấp
trước về tình yêu. Khi thương nhau thì cái gì cũng được; nhưng khi ghét
nhau rồi, thì những hình ảnh cũ đã nằm sâu trong A Lợi Da Thức (Thức chứa
đựng) sẽ qua sự chấp trước của Thức A Mạt Na (Thức chấp ngã) mà tạo nên
thương ghét, hay thiên đường, địa ngục cũng từ đó mà phát sanh. Dĩ nhiên
nó không có cái bắt đầu nhứt định và cũng không có cái chấm dứt sau cùng.
Tất cả đều hòa lẫn vào nhau để tồn tại, vì nhân duyên hội tụ kết lại mà
thành.
Tôi quan sát cuộc
đời, mặc dầu trong hiện tại không nhập cuộc với cuộc đời nầy và tôi đã
thấy như sau. Có nhiều cặp trai gái rất xứng đôi vừa lứa, yêu nhau say
đắm. Những ngày đầu tặng cho nhau những bông hồng thật tươi, thật đẹp. Họ
đã có những nụ cười mãn nguyện, đã có những giờ giấc ngồi bên nhau thâu
đêm suốt sáng, đã có nhiều lời hứa hẹn lấy đá vá trời và cũng không quên
gọi nhau bằng những tiếng anh anh em em ngọt lịm, tưởng như không bao giờ
gián đoạn. Tất cả những gì tốt đẹp đều đem ra phơi bày trang trải nơi tấm
lòng của mỗi người. Nhiều người nhìn thấy thế cho là hạnh phúc. Nhưng
chẳng bao lâu sau, nhất là khi đã sinh con đẻ cái, làm ăn khó khăn, gặp
hoạn nạn chất chồng v.v... thì những bông hồng tươi ngày xưa tặng nhau
không còn nữa, mà thay vào đó là những nguýt, háy, nói những lời nặng nề
với nhau cho hả cơn giận. Vì đối phương không thể hiện những gì mà mình
muốn. Những lời ngọt ngào anh anh em em ngày nào, bây giờ chỉ còn là ông
nầy, bà kia, mầy tao, mi tớ v.v... Tại sao cũng mới ngày nào đó, cũng chỉ
có hai người thôi, nói chỉ toàn là những lời trăng hoa, ong bướm; rồi bây
giờ lại ra thể thống như vậy ? Tại sao và vì ai nên nỗi ấy? Lúc bấy giờ
thì ai cũng phải hết và lỗi thì đổ cho đối phương. Tại ông đó, tại bà đó,
tại vì... v.v... hết lý do nầy đến lý do khác để phân trần; nhưng kết cuộc
rồi cũng chẳng ra thể thống nào hết.
Cũng như thế ấy, khi
ta mới mua một chiếc xe về, trong những tuần lễ đầu ta hứng thú, vui vẻ,
yêu đời và luôn luôn lau chùi sạch sẽ; nhưng việc nầy không lâu, ta lại
quên đi để đi tìm một niềm vui khác, hoặc giả ta tự cho phép ta quên để đi
tìm một đối tượng khác. Do vậy mà cái thương, cái yêu, cái khổ, cái ghét
v.v... nó không có cái cuối cùng, luôn luôn thay đổi, luôn luôn tìm đối
tượng để gởi trao, chào mời. Hợp thì vui, không thì khổ. Như vậy thực
tướng của tình yêu ta thấy có đó, mà trái lại nó cũng là không và từ chỗ
không nầy nó biến thành có và có lại trở thành không. Cứ mãi mãi như thế
luẩn quẩn trong vòng luân hồi sanh tử là vậy. Vì thế nên Ngài Nagarjuna
(Long Thọ) Tổ Sư của học thuyết tánh không đã mô tả về tình yêu và ái
nhiễm như những cơn ngứa ngáy vậy. Càng gãi thì càng ngứa. Không có cái đã
ngứa để ta tự dừng lại. Ngoại trừ chính ta tự làm chủ mình. Trên thực tế
thì khó ai mà dừng lại ở những lúc ái nhiễm được đáp ứng; nhưng sau đó và
trước đó, là những khoảng trống không vô tận, không còn một mảy may gì nữa
cả.
Trong Đại Trí Độ
Luận, quyển thứ 42, Ngài Long Thọ cũng đã có nhiều ví dụ rất hay về chúng
sanh và chư Phật. Ngài ví chúng sanh cũng giống như những con ruồi và ví
những bậc giác ngộ như những đóa hoa sen. Con ruồi thì ưa đậu nơi phân dơ.
Tuy hoa sen có đó; nhưng nó đâu có màn tới. Vì sao vậy? Vì trí tuệ của con
ruồi thấp kém, chỉ chấp nhận bãi phân là đối tượng của mình. Chúng sanh
trong cõi luân hồi cũng đều như vậy thôi. Chỉ ham mê nơi ái dục, tình yêu
và ái nhiễm nơi thể xác; nên mới chọn Ta Bà chứ không thích Tịnh Độ hoặc
các cảnh giới giải thoát khác. Mặc dầu ai thấy bông sen cũng đều cho là
đẹp - giống như thế giới của chư Phật và Bồ Tát vậy; nhưng đâu phải chúng
sanh nào cũng ưa thích giác ngộ. Vì lẽ tâm thức còn hạ liệt, trí tuệ chưa
vun bồi, dẫu cho có bắt bỏ vào cảnh giới của hoa sen đi nữa, thì con ruồi
kia vẫn chọn đống phân như thường. Điều ấy nó không khó hiểu mấy, vì lẽ
chúng sanh chỉ thuận theo những gì mình ưa thích, mà chính những sự ưa
thích ấy dẫn mình vào cõi đọa lạc; nhưng mấy ai hay biết bao giờ.
Đó là cõi người; chứ
cõi chư Thiên và các cõi trời khác trong 33 từng trời cũng chỉ chừng ấy
việc thôi. Có thế giới cao thượng hơn thì yêu nhau bằng tâm thức chứ không
bằng thể xác; nhưng đồng thời cũng có những thế giới lạc hậu, dơ bẩn ở cõi
địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh v.v... chúng vẫn yêu đương nhau và tiếp tục
sinh ra những chúng sanh như thế để kế thừa. Một sanh ra hai, hai sanh ra
bốn và cứ thế mà tiếp tục nhân lên thôi. Không bao giờ có sự dừng nghỉ cả.
Ví dụ chúng ta nhìn thấy con heo, con bò, con ngựa, con sư tử, con tằm,
con rùa v.v... chúng làm tình với nhau cũng chỉ vì chúng ái nhiễm với
nhau. Chọn con nầy và bỏ con khác, chỉ vì những tia quang phổ yêu đương
của 2 con không hòa nhau. Nhưng sự hòa nhau nầy không lâu, chúng sẽ sinh
ra ghét gỏng, bỏ bê. Sinh con ra không nuôi, giận hờn, theo con khác
v.v... Con người cũng như thế. Tuy con người có văn minh đó; nhưng nếu chư
Thiên ở cõi trời cao hơn chúng ta thì nhìn con người cũng như con vật vậy
thôi. Ngược lại con vật nhìn chúng ta có lẽ chúng trọng vọng và nể sợ lắm
giống như chúng ta nhìn chư Thiên vậy thôi. Rồi kế tiếp nữa, chư Thiên ở
cõi trên và trên nữa sẽ nhìn xuống chư Thiên ở cõi dưới về vấn đề tình yêu
và ái nhiễm thì vẫn thấp hèn vậy thôi. Cứ thế mà mãi lên đến tận những vị
A La Hán, Thanh Văn, Bích Chi Phật, Bồ Tát và Phật thì quả là một đoạn
đường sanh tử rất xa vời. Phải là vô lượng kiếp, vô lượng kiếp số chúng ta
mới tới được. Tuy nhiên nếu tâm chúng sanh luôn luôn huân tập những chủng
tử lành, thì Tịnh Độ cũng không xa mấy với cõi Ta Bà đầy não phiền ai lụy
nầy.
Bồ Tát và Phật đã ra
khỏi vòng luân hồi sanh tử; nên không còn yêu riêng ai. Chỉ lấy chúng sanh
làm đối tượng để mình cứu độ mà thôi. Vì vậy trong kinh có câu:
"Ái bất nhiễm bất sanh Ta Bà
Niệm bất nhất bất sanh Tịnh
Độ"
là vậy, nghĩa là: nếu
người nào ái dục không còn nhiễm ô thì không sanh ở thế giới Ta Bà nầy
nữa. Cũng thế ấy, người niệm Phật không chuyên tinh thì không thể nào vãng
sanh về Tịnh Độ được.
Phật thì không thương
riêng ai mà cũng chẳng ghét riêng ai. Vì nơi tâm Phật và chư vị Bồ Tát đều
có bình đẳng tánh. Ai đáng độ thì Phật đã độ và sẽ được độ. Ai đáng giáo
hóa thì Phật giáo hóa, không từ nan một sự khó nhọc nào, nếu chúng sanh
cần đến Ngài; nhưng vì lẽ chúng sanh còn cách Phật quá xa nên mới sinh ra
những sự cố chấp vào hình tướng như thế.
Như vậy loại tình yêu
nam nữ nầy không có gì là chắc thật cả. Nó chỉ là mộng ảo; nhưng vì con
người mê nên mới khởi tâm lên như thế; đến khi ngộ rồi thì mọi thứ đối đãi
về ái nhiễm nầy là những thứ đáng ghê sợ. Vì đã sa ngã vào con đường nầy
rồi, rất khó có cơ hội để được thoát ra. Mà đã được thoát ra rồi; nhưng
thân tâm không chánh niệm thì cũng dễ sa vào con đường tội lỗi nữa, để lúc
nào cũng phải bị luân hồi sanh tử. Vì chính tâm thức của mình đã chọn
nghiệp cho mình, chứ chẳng ai có thể làm cho mình tốt hơn hoặc xấu hơn cả.
Do vậy mà có thể nói rằng những hành vi của chúng ta sẽ tạo nên nghiệp lực
và chính nghiệp nầy đã dẫn dắt chúng sanh luôn luôn triền miên trong cảnh
khổ. Chỉ có những người vượt qua được lưới ái, thì mới mong gần gũi được
cảnh giới giác ngộ giải thoát mà thôi.
2. Tình yêu đồng loại
Trong mỗi người của
chúng ta có nhiều thứ tình cảm khác nhau đan lẫn vào nhau trong tâm thức
để tồn tại. Có người nặng về tình yêu nầy mà nhẹ tình yêu kia. Có người
hầu như hoàn toàn không có, lãnh đạm trước mọi hoàn cảnh đổi thay của nhân
thế. Con người mang toàn một khối lượng vật chất, nào thịt nào da, nào
xương nào tủy, nào tim nào phổi và vô số tế bào để tồn tại cùng với cái
tánh biết đó. Ngày nay khoa học luận cứ rằng mọi hành động của con người
đều do não bộ điều khiển. Ngày xưa Trung Quốc bảo rằng do quả tim điều
khiển. Còn đạo Phật thì sao? Nói về Phật học thì bao la vi diệu, khó diễn
tả hết được; nhưng chúng ta có thể hiểu rằng: Cái nầy tồn tại nhờ cái kia.
Nếu cái nầy thay đổi thì cái kia phải biến thể. Cái nầy tồn tại là vì đầy
đủ nhân duyên. Cái nào mạnh hơn, sẽ lấn áp cái yếu thế hơn. Ví dụ trong
mỗi con người, kể cả nam lẫn nữ đều có tánh mạnh và tánh yếu. Tánh mạnh ví
dụ như sự can cường, không khuất phục vũ lực, luôn luôn ở thế tấn công
v.v... Tánh yếu ví dụ như nước mắt, sự phục tùng quyền lực, luôn luôn dừng
bước khi có vật cản trở v.v... bất luận là nam hay nữ. Nếu ai trong chúng
ta có tánh nào mạnh hơn, chúng sẽ biểu lộ lên hành động của chúng ta rõ
ràng hơn. Ví dụ có những người đang mang thân hình là nam tử; nhưng tình
cảm và hành động luôn luôn biểu lộ của phái nữ. Vì sao vậy? Vì tánh cách
của nữ rõ ràng hơn nơi người nam ấy. Ngược lại cũng có lắm người mang thân
nữ nhơn; nhưng hành động của họ hoàn toàn nam tính. Vì lẽ những hành động
mạnh thể hiện ở họ rõ ràng hơn. Do vậy ta có thể hiểu rằng trong người nam
có sự hiện hữu của người nữ và trong người nữ có sự hiện hữu của người
nam. Nếu đem vấn đề luân hồi sanh tử của Đạo Phật để giải thích thì không
có gì khó khăn cả. Sở dĩ có nhiều người mang thân hình nam nhi; nhưng luôn
luôn được cấu tạo tư tưởng của phái yếu. Điều đó chứng tỏ rằng người ấy
mới từ phái nữ đầu thai lên làm người nam, hoặc giả người nam ấy chuẩn bị
trở thành người nữ trong kiếp sắp đến. Ngược lại cũng có lắm người nữ mà
hình tướng và tư tưởng của họ biểu trưng cho người nam một cách rõ rệt. Vì
họ kiếp trước mới là người nam và kiếp nầy biến thành người nữ, cho nên
hình dáng của họ vẫn còn phảng phất của một đấng nam nhi. Cũng có thể hiểu
họ là những người kiếp trước luôn luôn muốn mình trở thành người nam; nên
thân nầy họ nhận thân người nữ để sẽ được toại nguyện như những gì đã mong
cầu ở thuở xa xưa cũng nên và họ chắc chắn sẽ làm thân nam ở kiếp sau.
Điều ấy cũng dễ hiểu thôi. Vì lẽ, cái gì mình mong muốn, đợi chờ, cái ấy
sớm muộn gì cũng sẽ đến dầu xấu hay tốt do kết quả về nghiệp lực và hành
vi tư tưởng của mình còn sót lại. Ví dụ một người luôn luôn để ý đến sự
yêu đương thì trước sau họ cũng được hoặc bị yêu. Vì lẽ tư tưởng họ luôn
luôn dán chặt vào đó; nhưng kết quả của sự yêu đương ra sao thì do nhân
duyên và hành động của họ định đoạt vậy. Một người luôn luôn hướng đến
chuyện học hành nghiên cứu thì kết quả là công danh sự nghiệp, nhiều người
quên luôn chuyện tình yêu nam nữ nữa. Ở trên đời nầy không nhất thiết mọi
người đều phải bước qua lỗ kim của sanh tử luân hồi; nếu người ấy muốn
chối từ khổ đau và chọn con đường giải thoát cho chính mình.
Một người khác luôn
hướng tư tưởng và hành động của mình về nẻo thiện, về giáo lý giác ngộ, về
Tây Phương Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà thì trước sau gì người ấy cũng
thành tựu dầu chậm hay mau. Ví dụ chúng ta có mục đích phải đi La Mã chẳng
hạn. Khi mục đích đã được đặt ra rồi thì chúng ta chọn phương tiện để đi,
cũng giống như chọn pháp môn để tu vậy. Người đi máy bay, người đi tàu
lửa, người đi xe máy, kẻ đi xe đạp, người đi tàu thủy và cũng có kẻ đi bộ
nữa. Nhưng cuối cùng rồi cũng sẽ đến La Mã và trên đoạn đường đó ta dừng
nghỉ không biết bao nhiêu lần cũng giống như con đường luân hồi sanh tử
của ta thôi, ta đã tạo nghiệp gì khi đi trên con đường ấy, chắc chắn ta
phải trả và ta sẽ hưởng vậy.
Mỗi người trong chúng
ta có một quê hương để mà nhớ nghĩ đến, cũng có nhiều bà con thân thuộc để
mà tưởng nhớ về. Mọi người sẽ tự nhắc nhở cho mình, mình là người gì, sinh
ra từ đâu v.v...
3. Tình yêu Quê Hương
và Tổ Quốc
Mỗi người đều có một
nơi sinh ra; nhưng việc trưởng thành và chết đi, không nhất thiết ở tại
quê hương của mình. Do vậy có nhiều người đã xa quê cha đất tổ để đi lập
nghiệp bốn phương trời và thế hệ thứ nhất, thứ nhì họ vẫn còn luôn luôn
hướng về nơi chôn nhau cắt rún của họ. Nhưng bắt đầu từ thế hệ thứ 3, thứ
4 trở đi thì cái tình cảm quê cha đất tổ không còn mặn nồng như những thế
hệ trước nữa. Nếu cứ mỗi 20 năm là một thế hệ thì không gian và thời gian
cứ như thế mà cách ly dần. Đa phần con người đều hướng về tương lai và chỉ
một phần rất nhỏ lo hoài vọng về quá khứ. Vì tương lai bao giờ cũng mở
rộng và mới mẻ, có nhiều hy vọng. Còn quá khứ là những gì đã trôi qua, cũ
kỹ, xa xôi... nên không nhất thiết phải hướng về. Chỉ trừ những người có
tâm hồn hoài cổ mà thôi.
Quê hương là gì,
người ta không thể định nghĩa được, cũng giống như tình yêu; nhưng thiếu
tình nghĩa của quê hương thì người ta cảm thấy thiếu thốn khó chịu. Con
người luôn luôn chuyên vào những cái gì bị trói buộc; nên khổ tâm cũng
không ít, khi bị thiếu thốn; nhưng ngược lại cứ đối diện với cái khổ đau
của quê hương hoài, thì người ta cũng sinh ra sầu muộn.
Ở vào những năm đầu
thế kỷ 20, Đức Huỳnh Phú Sổ, Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo đã đi làm Phật sự,
chữa bịnh, cho thuốc, giảng giáo lý v.v... với một tâm niệm thiết tha là
cứu người và cứu đời ra khỏi chốn trầm luân khổ ải và cũng đã có nhiều
người thương Ngài, ngay cả đến việc yêu riêng Ngài: nhưng Ngài đã đối lại
với những tình yêu ấy bằng bài thơ như sau:
Tôi có tình yêu
rất mặn nồng
Yêu đời yêu đạo
lẫn non sông
Tình yêu chan
chứa trong hoàn vũ
Chẳng phải yêu
riêng khách má hồng
Nếu khách má
hồng muốn được yêu
Thì trong tâm
trí phải xoay chiều
Quay về phụng
sự cho nhân loại
Sẽ gặp tình
chung trong khối yêu.
Tình yêu nó cao
thượng như thế, không nhất thiết chỉ là tình yêu nam nữ với nhau. Người ta
cũng có thể yêu văn chương, âm nhạc, hội họa, triết học v.v... và nhiều
khi người ta còn có thể biến những thứ tình yêu vị kỷ đó trở thành những
loại tình yêu cao thượng như bài thơ bên trên biểu trưng cho tình thương
cứu đời mến đạo của Đức Huỳnh Giáo Chủ vậy.
---o0o---
Mục Lục |
Chương I
|
Chương II
|
Chương III
Chương
IV
|
Chương V
|
Chương VI
|
Chương VII