Có và Không
Thích Như Điển
Phật
lịch 2544 - 2000
Trung Tâm Văn Hóa Xã Hội Phật Giáo Việt Nam
tại
Cộng Hòa Liên Bang Đức Xuất Bản
---o0o---
LỜI VÀO SÁCH
Tác
phẩm thứ 29 nầy được bắt đầu viết vào lúc 7 giờ 30 phút sáng ngày 7 tháng
6 năm 2000, nhằm ngày mồng 6 tháng 5 năm Canh Thìn. Hôm nay trời không đẹp
lắm, vì có nhiều cụm mây đen đang phủ kín đó đây phía bên ngoài. Tuy nhiên
sau thời công phu khuya như thường lệ cùng với Đại chúng đã ngồi thiền và
trì tụng thần chú Thủ Lăng Nghiêm xong, tôi cảm thấy như mình có một sức
gia trì mãnh liệt nơi chư Phật và chư vị Bồ Tát; nên sau khi trở lại thư
phòng, liền chế trà để uống và bắt đầu viết tác phẩm nầy.
Tác phẩm nầy được
viết xong ngày nào, tôi chưa rõ; nhưng bao giờ cũng thế, tôi cố gắng hoàn
thành trong mùa an cư kiết hạ. Vì lẽ những ngày tháng còn lại trong năm
khó mà hoàn chỉnh được một tác phẩm. Nhìn lịch thì thấy mùa an cư đã trôi
qua 20 ngày rồi. Nghĩa là tôi chỉ còn lại 70 ngày nữa thôi và trong 70
ngày đó cũng còn lắm công chuyện để phải giải quyết nữa. Mỗi ngày trung
bình nếu viết được từ 1 đến 3 tiếng đồng hồ và mỗi tiếng viết tay chừng 4
đến 5 trang thì số lượng không ít cho một quyển sách. Có nhiều vị bảo rằng
tôi nên dồn hết tâm lực để viết một tác phẩm thật có giá trị để lại cho
đời; nhưng trong khả năng giới hạn của mình và hoàn cảnh cho phép, tôi chỉ
làm những gì trong khuôn khổ có được mà thôi. Những tác phẩm có tính cách
nghiên cứu sâu sắc hơn, có lẽ phải dành cho thời gian sau nầy khi tôi có
thì giờ nhập thất, không bận bịu với mọi chuyện bên ngoài. Còn bây giờ
thật khó có được một cơ hội như thế.
Ai trong chúng ta khi đã cưu mang một đứa con tinh thần mà
không mong được mọi người đón nhận một cách nồng nhiệt; nhưng kết quả của
một tác phẩm có nhiều cách nhận xét khác nhau tùy theo người đọc sách
thuộc thành phần nào, khó mà kết luận được. Mỗi năm có những tạp chí, tổ
chức ở Mỹ, Đức, Pháp v.v... đều có tổ chức bình chọn những tác phẩm văn
học hay và những tác phẩm bán chạy nhất. Đó cũng là kết quả của một việc
làm đáng hoan nghinh; nhưng văn chương thì luôn luôn có chỗ đứng của nó.
Ngoài ra ngôn ngữ của Phật Giáo mang vào đời không phải dễ, nhất là chuyển
đạt những tư tưởng về tánh không, trung đạo đến với mọi người, không phải
là một chuyện dễ thực hiện. Tuy nhiên cũng có một vài cảm tưởng vui vui,
khi nghe thiên hạ trích một câu nào đó trong tác phẩm của mình để bình
chú, hoặc giả có nhiều bài thơ được nhiều người học thuộc lòng để ngâm
vịnh. Như thế, ít ra cũng có một cái gì đó còn sót lại nơi tâm khảm của
mọi người. Có thể nói đó là một chút thành công của người viết rồi.
Mới đây có nhiều người gọi điện thoại về chùa bảo rằng:
"Con thấy Thầy trên truyền hình đang ngoắc con đó". Tôi giựt mình hỏi lại:
"Trong bối cảnh nào?". Được đáp: "Lúc khai mạc Hội Chợ Thế Giới EXPO tại
Hannover". Đây là kết quả của truyền thông, của tin học. Tin tức đến với
mọi người thật nhanh và những nhà làm phim làm báo không để lỡ một cơ hội
nào để truyền đạt đến với mọi người, kể cả hai phương diện hay lẫn dở. Hôm
đó, có lẽ là ngày 31.5.2000 chúng tôi đã đi tham dự lễ khai mạc và khánh
thành chùa Bhutan tại khu Messegelảnde. Ngồi hàng đầu danh dự có 6 vị từ
trái kể qua như sau: Vị Đại Sư người Bhutan, Viện Chủ một tu viện lớn tại
Paris, Ông Đại Sứ Bhutan tại Thụy Sĩ. Kế đó là ông Bộ Trưởng Ngoại Giao
Bhutan. Bên trái ông là ông Bergmann Đại diện cho tổ chức EXPO; tiếp theo
là tôi và bên trái tôi là vị Chủ Tịch các Hiệp Hội giúp đỡ cho các nước
đến tham dự EXPO. Đây là một sự hãnh diện mà cũng là niềm tự hào của Dân
Tộc và Đạo Pháp Việt Nam. Tuy chúng ta đang sống tỵ nạn tại xứ người;
nhưng với lòng từ bi với giáo lý vị tha của Đức Phật, đem ra đối đãi với
tha nhân; nên kết quả là thế đó.
Kế đó vào tối ngày 06.6.2000 tại chánh điện chùa Viên Giác
có vị Đại Sư Khenpo Chödrak Rinpoche là Thầy của Ngài Kamapa ở Ấn Độ giảng
Bát Nhã cho người Đức nghe. Có nhiều người đến gần tôi nói bằng tiếng Hoa,
tiếng Đức và tiếng Anh rằng: "Tôi đã thấy Thầy trên báo Hannoversche
Allgemeine vào ngày 3.6.2000, lần này rõ lắm và đặc biệt lắm...". Nguyên
là có một nữ ký giả người Đức tại Hannover, bà ta muốn biết rõ về Phật
Giáo và cách tọa thiền như thế nào cũng như đời sống của một Tăng Sĩ ra
sao. Do vậy mà tôi đã trả lời tỉ mỉ cho bà ta và bà ta đã viết rất hay;
đồng thời cũng có phỏng vấn Giáo sư Baummann đang dạy tại Đại Học Bremen
cũng như Hannover và một vài vị Phật Tử khác nữa. Lần nầy nhân EXPO và
ngày cuối tuần, mà báo Hannoversche Allgemeine đã đăng cả 3 trang lớn A3
như thế, chắc có ít nhất cũng trên vài trăm ngàn người đọc. Họ đọc để hiểu
và để biết ít nhiều về Phật Giáo. Do vậy mà một người Đức đã đến tham dự
khóa giảng kinh Bát Nhã bằng tiếng Tây Tạng dịch ra tiếng Đức do Ngài
Rinpoche, đã bảo với tôi rằng: Càng ngày người ta càng biết chùa nhiều
hơn.
Đúng thật vậy, thêm vào đó có tờ Ursache und Mitwirkung
xuất bản vào tháng 5 năm 2000 tại Áo, một quốc gia mà Phật Giáo được công
nhận là một tôn giáo (offenliches Recht) như những tôn giáo khác từ năm
1982 và mới đây tại Ý vào tháng 3 năm 2000, Phật Giáo cũng đã được công
nhận như vậy. Giáo sư Riedl sinh trưởng tại Hannover trước đệ nhị thế
chiến, sau đó di cư sang Áo và dạy học ở Đại Học cũng như làm Chủ Nhiệm tờ
báo nầy, đã về lại thăm quê hương cũ và không ngần ngại cho đi một tựa đề
lớn trên tờ báo nầy là: "Hannover, thành phố của Chùa Viện" - mà thật thế
- ngoài chùa Viên Giác ra, tại đây còn chùa Bhutan, chùa Népal, chùa Thái
Lan, chùa Lào, chùa Cam-Bốt, chùa Tích Lan v.v... nhưng sau tháng 10 năm
2000 thì các chùa nầy phải thiên di đi nơi khác, trả lại khoảng trống
không gian nầy cho Messegelảnde của Hannover để làm những triển lãm khác
trong tương lai. Cuộc sống là thế - luôn luôn đổi thay, đâu có gì tồn tại
mãi với thời gian - ngoại trừ chân lý !
Trong số báo tháng 5 năm 2000 nầy, Giáo sư Riedl cũng đã
phỏng vấn tôi và với tựa đề đăng trên báo như sau: "Không là thời trang,
mà là một chất liệu dưỡng sinh" (nicht Mode, sondern Medikament). Đúng
vậy, khi người Âu Mỹ tin theo Đạo Phật, hay tìm đến với Đạo Phật vì nhiều
lý do khác nhau; nhưng lý do quan trọng vẫn là giải quyết những nội kết
chất chồng nơi con người của họ. Ví dụ chuyện gia đình, chuyện xã hội,
chuyện tâm lý v.v... do vậy mà họ nghĩ rằng Thiền học sẽ giúp họ lấy lại
thế quân bình; nên họ đã theo Đạo Phật. Từ đó có nhiều vị Thiền Sư đến từ
Á Châu đã chiều theo thị hiếu nầy mà bày ra những phương pháp thiền mới,
để giúp người Tây phương thoát hiểm. Hiển nhiên là tốt rồi; nhưng Đạo Phật
không dừng ở đó. Điều căn bản của người theo Phật Giáo là phải thoát ly
sanh tử luân hồi, phải ra ngoài sự đối đãi của tam giới, chứ không phải
chỉ xoa dịu, gỡ rối nội kết là đủ. Nếu ai dừng lại ở đó thì chơn lý của
Đạo Phật còn xa lắm mới hiểu nổi.
Ngày nay tại Đức nầy nói riêng, tại Âu Châu hoặc Mỹ Châu
nói chung, hiểu Đạo Phật như thế và hiểu Tăng Già trong ấy gồm có cả cư sĩ
Phật Tử tại gia nên đã có lắm người miệng thì nói xuất gia; nhưng tâm và
thân vẫn còn ở tại gia. Cũng trong tờ Ursache & Mitwirkung nầy đã tường
thuật về một cộng đồng Tăng sĩ của Áo sống chung giữa nam và nữ với một
đời sống dễ dãi như vậy. Thích thì đọc kinh, ăn uống và không thích thì
tạo nên sự ái nhiễm giữa nam nữ và cuối cùng thì sinh con đẻ cái, để trên
mình họ vẫn còn tưởng tượng họ vẫn là một người tu. Một người tu phải là
một người độc thân và sống không gia đình (Hauslosigkeit). Nếu vẫn còn gia
đình và sống một đời sống không độc lập về ái nhiễm thì không thể gọi là
Tăng sĩ được.
Đức Phật đã chia ra đệ tử của Ngài có hai hạng: Một là
xuất gia, sống không có gia đình, thực hiện giới luật trang nghiêm, do vậy
người tại gia mới có nơi chốn tin tưởng mà quy y và đảnh lễ. Còn người tại
gia thì có gia đình, có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Không thể có một đoàn thể
lấp lửng giữa người xuất gia và tại gia được. Trường hợp những Tăng sĩ
Nhật Bản lại khác. Trước đây họ vẫn có đời sống độc thân; nhưng kể từ năm
1868 khi vua Minh Trị (Meiji) duy tân đất nước Nhật Bản, họ bị bắt buộc
phải sống như thế, và khuynh hướng có gia đình nầy cho đến ngày hôm nay
vẫn không giảm mà lúc nào cũng tăng lên và kết cuộc là chùa viện chỉ để
cha truyền con nối mà thôi.
Tôi cũng chẳng biết là Đạo Phật của Âu Châu rồi đây sẽ ra
sao, nhất là sau khi các vị khai sáng ra nền đạo tại đây quá vãng. Nếu
không có những giới luật buộc ràng và không có những vị Thầy theo truyền
thống cũ, thì một mai đây, Đạo Phật sẽ biến thể như thế nào? Đành rằng
Phật Giáo phải thích nghi với phong tục, tập quán và nhất là thời đại;
nhưng cái cuối cùng của sự đổi mới thì chẳng có. Vì lẽ nếu không có cái cũ
thì sẽ không có cái mới được.
Ngày nay Phật Giáo đã có mặt khắp năm châu bốn bể, đi đâu
cũng được nghe tuyên dương đến giáo lý của Phật Đà. Cho đến nay, dẫu có
người khó tính mấy đi chăng nữa, vẫn chưa có ai chống đối một cách mãnh
liệt. Vì họ biết rằng Phật Giáo là một tôn giáo có lòng từ bi vô lượng,
chối bỏ bạo lực và hận thù, lấy tình thương và trí tuệ làm phương châm
trong khi thực hành Đạo. Do vậy mà ai ai cũng mến chuộng. Có nhiều Chính
trị gia nổi tiếng; những Tài tử, Ca sĩ số một; những Cầu thủ đá banh;
những Giáo sư, Bác sĩ v.v... hầu như rất nhiều người đã, đương và sẽ hướng
về Phật Giáo một cách nhiệt tình. Bằng chứng là mỗi buổi giảng của những
vị Đại Sư danh tiếng như thế thường thường thì chánh điện và nhà giảng
chật ních, mà phải thành thật thú nhận rằng tri thức của người Đức rất
cao. Vì đa phần là dân chuyên nghiệp và dân tốt nghiệp Đại Học nghiên cứu
về Phật học. Do vậy, ở những buổi lễ hội chúng ta cũng có thể quan sát tỏ
tường hơn. Ví dụ ở những dân tộc còn kém văn minh thì chú trọng về hình
thức ăn uống. Còn người Đức họ ăn món ăn tinh thần nhiều hơn là những món
ăn bình thường. Họ chỉ ăn bánh mì đen là chính. Còn tủ sách gia đình của
họ về Tôn Giáo cũng khư Khoa Học Kỹ Thuật v.v... tốn rất nhiều tiền; nhưng
họ không tiếc khi mua một quyển sách đắt giá trị. Trong khi đó đa phần
người Việt Nam thì chưa được như thế.
Người Việt chúng ta theo Đạo Phật cũng giống như một vài
nước Á Châu khác, chỉ có tính cách truyền thống mà thôi. Vì lẽ cha mẹ, ông
bà theo Đạo Phật; nên con cháu cứ thế mà theo; nhưng người Âu Mỹ thì khác,
phải sáng tạo và có lòng tin vững chãi khi theo một tôn giáo mình đã chọn.
Cũng có thể vì Phật Giáo là một tôn giáo mới đối với họ. Không biết rồi
1.000 năm sau hay 2.000 năm sau nữa Phật Giáo tại Âu Mỹ nầy chắc cũng
không khác gì Phật Giaó tại Á Châu mấy đâu. Biết đâu lúc ấy sẽ xuất hiện
một tôn giáo mới. Tôn giáo ấy sẽ phổ cập và nhanh hơn gấp năm, gấp mười
lần hệ thống tin học ngày hôm nay nữa.
Kể từ năm 1984 đến nay đã hơn 15 năm như thế, chúng tôi đã
an cư kiết hạ tại chùa Viên Giác nầy và mỗi năm 3 tháng đều có lễ lạy kinh
Ngũ Bách Danh, kinh Vạn Phật, kinh Pháp Hoa, kinh Đại Bát Niết Bàn. Mỗi
năm trung bình 15 đến 17 ngàn lạy và suốt trong vòng 15 năm ấy độ chừng
250.000 lạy mà cá nhân tôi cũng như Tăng chúng và Phật Tử chùa Viên Giác
đã hành trì. Đây là một công đức rất lớn, khó thể nghĩ bàn. Việc nầy đã
đến tai nhiều người, trong đó có Hòa Thượng Thích Huyền Quang, Xử Lý
Thường Vụ Viện Tăng Thống. Mới đây, nhân việc cứu trợ nạn lụt miền Trung,
Ngài đã nói vào băng Vidéo và tán dương công đức của chư Tăng và Phật Tử
Việt Nam tại Đức đã hành trì pháp môn tu học cao cả phước đức như thế ngay
như ở quê nhà cũng ít có ai hành trì được. Ngài cũng đã nói về một quyển
sách nhan đề là "Sống và Chết" do tôi viết hiện đang ở nơi
thư phòng của Ngài và Ngài cũng đã bổ túc thêm cho những điều tế nhị sâu
sắc, rằng Vua Khang Hy (có nơi nói Minh Thần Tông), vốn là một Tăng sĩ của
nước Việt chúng ta; nhưng sau đó đầu thai qua Trung Quốc làm vua, để rồi
cuối đời của vị vua nầy đã than vãn với một bài thơ đại ý như sau:
"Thân của Trẫm đây vốn là một Tăng sĩ
Sống và đến từ nước An Nam
Tuy bên trên thân khoác áo cẩm bào
Nhưng tâm thức và nội tâm luôn luôn khoác áo Tăng sĩ"
Cũng có lần nhà vua
bảo rằng: Cuộc sống của một vị vua không bằng nửa ngày an lạc của một
người tu. Điều ấy đúng. Bởi vì xưa nay đã có không biết bao nhiêu người bỏ
ngôi vua để đi tu, chứ ít ai bỏ chuyện tu hành của mình để đi làm vua cả.
Đối với người không hiểu đạo thì: tài, sắc, danh, thực,
thùy là quan trọng, là đối tượng cần phải chiếm đoạt, chiến thắng. Đó
không ngoài tiền bạc, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, ngủ kỹ v.v... Nhưng
những loại như thế Đức Phật và chư vị Bồ Tát đã xa rời từ lâu và nhiều vị
vua triều Lý như Lý Huệ Tông hay triều Trần như Trần Thái Tông và Trần
Nhân Tông của Việt Nam đã thể hiện được điều đó. Nay thì vua Khang Hy của
Trung Quốc và có lẽ vua Chu Nguyên Chương sáng lập ra triều nhà Minh cũng
thế, xem ngai vàng quyền quý không bằng đời sống an lạc nửa ngày của một
người Tăng Sĩ. Điều ấy có lẽ rất đúng, không sai tí nào. Vì đã có nhiều
ông vua đã nói và có nhiều ông vua đã làm; nhưng đồng thời cũng có lắm
người đang hì hục để bước vào con đường danh lợi ấy. Quả thật là một cái
vòng luẩn quẩn.
Đức Đạt Lai Lạt Ma, Ngài cũng thường hay nói: "Sự an
lạc người ta không thể mua ngoài siêu thị được". Câu nói tuy đơn giản,
dễ làm người ta mắc cười; nhưng ý vị thì rất thâm trầm. Muốn làm sao để
được sự an lạc đó, chúng ta không thể trả bằng tiền. Nếu làm được, thì các
vua chúa đã làm rồi. Do vậy, là Tăng sĩ hay Cư sĩ bất luận là ai cũng có
thể tạo cho mình một sự yên tĩnh của tâm hồn được. Nếu mình muốn có. Điều
ấy chẳng khó mà cũng chẳng đơn giản chút nào. Nếu người có tâm, thì mọi
việc đều thành tựu. Còn người không hạ thủ công phu thì dầu sống lâu đi
chăng nữa, cũng vô tích sự đối với đời.
Tu là gọt rửa, là cởi bỏ, là tự chiến đấu với chính mình,
tự thoát ra khỏi ràng buộc thường tình của nhân thế. Đó là việc tự biết
làm chủ mình và tự biết mình phải đối đầu với sanh tử, với khổ đau, với
nội tâm như thế nào rồi. Nếu người tu theo Phật Giáo mà không hiểu được
rốt ráo về những vấn đề nầy thì không hiểu gì về Đạo Phật - một chút an
lạc cũng không có, đừng nói gì nửa ngày an lạc như vua Khang Hy đã nói bên
trên.
Hòa Thượng Huyền Quang, Hòa Thượng Quảng Độ, Thượng Tọa
Tuệ Sỹ v.v... là những chiến sĩ áo nâu đã đương và sẽ chiến đấu với bạo
lực, với nhà tù, với tham vọng. Cái chết đối với quý Ngài không quan
trọng. Họ chỉ sợ nhân sinh khổ sở; nên đã hy sinh tánh mạng của mình, vào
tù ra khám, mà tâm của những vị nầy vẫn an nhiên tự tại, giải thoát vô
cùng. Vì họ đã liễu đạo. Còn những người dùng quyền uy để dọa nạt, dùng
súng ống để hăm he, dùng tiền tài để uy hiếp v.v... chắc chắn rằng họ sẽ
không bao giờ thành công. Vì lâu nay lẽ phải và sức mạnh không nhất thiết
phải nằm nơi người có ưu thế. Ví dụ như Thánh Gandhi, chỉ một mình với hai
bàn tay không và một khối óc cho dân tộc Ấn Độ và cuối cùng Ngài đã giành
lại độc lập từ thực dân Anh. Rồi đây Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng thế - với
lòng từ bi và trí tuệ vô lượng ấy; với tâm an lạc của Ngài sẽ chuyển động
thế giới và thời cuộc để rồi đất nước của người Tây Tạng phải trả lại cho
người Tây Tạng. Chỉ đơn giản có thế thôi.
Tất cả trong chúng ta, ai ai cũng có cái xấu và cái tốt.
Nếu chúng ta nhìn thật mặt mũi của cái xấu và gạn lọc trong thân tâm của
mình thì cái xấu kia sẽ không còn hiện hữu nữa. Chúng tiêu dần như những
bóng mây đen che mờ mặt trời hoặc mặt trăng vậy thôi. Trí tuệ chúng ta vốn
có sẵn; nhưng bị vô minh, phiền não, chấp trước, tham đắm, ái nhiễm v.v...
nên đã không còn cơ hội để tỉnh thức. Nếu mỗi người trong chúng ta đều can
đảm nhận lãnh trách nhiệm soi sáng tự tâm ấy về phần mình thì chắc chắn
thế giới nầy bớt đao binh và con người sống một cuộc sống hạnh phúc hơn.
EXPO nguyên chữ bằng tiếng Pháp, có nghĩa là triển lãm.
Nói cho đủ là Exposition. Từ nầy được thông dụng
khắp nơi trên thế giới. Năm nay từ ngày 1 tháng 6 đến 31.10 năm 2000 nầy
theo dự tính có khoảng 40 triệu người đến thăm Hội Chợ Triển Lãm nầy. Đây
là hội chợ đầu tiên tại nước Đức kể từ khi có triển lãm thế giới gần 100
năm nay. Cứ 4 năm có một lần và nhiều quốc gia đăng cai sẽ được tuyển ra
một hoặc hai như trường hợp Nhựt và Đại Hàn trong 4 năm sau đó. Kỳ nầy tại
Hannover có 155 nước tham dự và 18 đoàn thể độc lập cộng tác. Trên thế
giới ngày nay có gần 200 quốc gia, mà đã có hơn hai phần ba tham gia tổ
chức Hội Chợ như thế cũng đã thành công rồi. Vì lẽ nước Đức là nước giàu
có, có thể bao thầu giúp đỡ cho các nước nghèo. Nên nhiều nước nghèo mới
có cơ hội đến tham gia hội chợ. Trong Halle 26, rộng mênh mông, cỡ mấy
chiếc máy bay phản lực 747 đậu cũng còn thừa chỗ, chính phủ Đức đã tài trợ
cho các nước Đông Nam Á Châu, mỗi nước một triệu Đức Mã, trong đó có Việt
Nam. Nhưng so ra nước Việt Nam không xử dụng đồng tiền tài trợ ấy một cách
xứng đáng như Lào và Cam-Bốt là những người đàn em của mình. Văn hóa của
các nước Đông Nam Á Châu đều lấy Phật Giáo làm tiêu biểu, trong khi đó
Việt Nam vô hình chung đã lấy Nho Giáo làm tiêu biểu. Mặc dầu Phật Giáo đã
có mặt lâu đời hơn Nho Giáo tại Việt Nam. Nơi hội chợ, Việt Nam trưng bày
một tòa nhà Văn Miếu cổ ở Hà Nội. Đây là nơi thờ những bia mà quý vị đã
đậu Tiến Sĩ, chọn ra làm quan văn từ triều nhà Lý (1010-1222); nhưng triều
đại nầy nếu không có Phật Giáo thì Việt Nam của chúng ta cũng sẽ không có
độc lập từ phương Bắc và cũng chẳng có trường dạy học 3 Tôn giáo chính, là
Phật, Nho, Lão để quý vị Tiến Sĩ nầy thành đạt như vậy. Hà Nội đã chẳng đề
cao một biểu tượng nào của Phật Giáo cả. Có lẽ họ quên đi sự đóng góp tích
cực của Phật Giáo vào lúc bấy giờ chăng ?
Ở giữa khu triển lãm của Việt Nam có làm cung điện Huế,
tượng trưng cho thế quyền đời nhà Nguyễn từ chúa Nguyễn Hoàng lập quốc tại
Phú Xuân năm 1600 cho đến hết đời Bảo Đại (1954) hơn 350 năm lịch sử. Kể
ra cũng là một triều đại lâu dài với 9 vị Chúa và 13 vị Vua liên tục kế vị
trong lịch sử Việt Nam cũng lấy Nho giáo để cai dân trị nước, còn Phật
Giáo chỉ giữ vai trò tinh thần mà thôi. Vào đến miền Nam thì biểu tượng là
chợ Bến Thành; nơi những người Việt đầu tiên đến đây 300 năm về trước. Như
vậy một chiều dài lịch sử của Việt Nam trải dài từ Hồ Động Đình bên Trung
Quốc 4.000 năm về trước và đàn chim Việt đã di chuyển về phương Nam, gần
4.000 năm sau để có một diện tích đất đai gần bằng nước Đức và dân số cũng
như thế; nhưng khổ đau và nghèo đói chắc chưa có nước nào trên thế giới đã
gặp phải như Việt Nam? Mặc dầu người Việt Nam hiếu hòa; nhưng chiến tranh
và thù hận đã làm cho con người Việt Nam cứ mãi hận thù nhau. Vì vậy đất
nước khó mà phát triển mạnh, nếu không dùng tình thương để xóa bỏ những dị
biệt về tư tưởng cũng như chánh kiến đã vì lý do nầy hay lý do khác mà tồn
tại từ bấy lâu nay.
Ủy Ban Tổ Chức Triển Lãm EXPO dự định khoảng 260.000 người
mỗi ngày vào thăm; nhưng kết quả của những ngày đầu khai hội là 150.000
người rồi còn 70.000 người và những ngày sau thì tăng lên chút đỉnh, không
biết tháng 7, tháng 8 là những tháng nghỉ hè có đông không thì chưa rõ. Có
lẽ khi viết lời kết của quyển sách nầy chúng tôi sẽ trình bày cặn kẽ để
quý vị ở xa có thể theo dõi kỹ càng hơn. Khi Hannover được chọn làm địa
điểm triển lãm thì đã có không biết bao nhiêu người vui. Vì có thêm công
ăn chuyện làm; thành phố mở mang thêm; nhưng đồng thời cũng có lắm kẻ
buồn. Vì họ nghĩ sẽ không tốt đẹp cho một thành phố vốn yên tĩnh tại miền
Bắc nầy. Do vậy mà ngày khai mạc cũng đã có gần 20.000 người đi biểu tình
phản đối. Riêng tôi thì tán đồng quan điểm của chính phủ. Vì lẽ có như thế
nước Đức mới nở mày, nở mặt với thế giới và địa phương Hannover khắp năm
châu bốn bể đều hướng về. Phi trường được mở rộng, đường sá tân trang, nhà
cửa mới mẻ v.v... chừng ấy thứ đã làm cho bộ mặt của thành phố nầy thay
đổi rồi; nhưng sau khi triển lãm 5 tháng xong thì những tòa nhà nầy dùng
để làm gì thì chẳng ai biết được; những khách sạn có lẽ sẽ trống chỗ nhiều
hơn, vì ít khách đến. Cũng giống như ngôi chùa Bhutan, Népal và các nước
khác phải dỡ đi nơi khác. Chính phủ của các quốc gia nầy không muốn các
chùa nầy trở thành những viện bảo tàng, mà họ muốn được chính phủ Đức hoặc
các tổ chức Phật Giáo xử dụng; nhưng một điều cũng oái oăm là không được
bán. Vì chính phủ Đức đã tài trợ mỗi nơi một triệu rưỡi Đức Mã rồi. Chẳng
biết sau đó sẽ ra sao? Thôi hãy chờ xem.
Trong khu triển lãm rộng rãi nầy có 45 nước xây dựng riêng
biệt những tòa nhà hoặc chùa chiền, nhà thờ để giới thiệu văn hóa riêng
của nước mình và sau khi triển lãm xong, những tòa nhà nầy cũng phải dỡ đi
nơi khác. Có như thế mới thấy sự thành hoại của một sự việc không cần chờ
một thời gian dài trong 5, 10 năm hay lâu hơn nữa, mà có thể chỉ trong 5
tháng, hoặc có lúc chỉ mấy ngày, mấy giờ, mấy phút và mấy giây thôi. Ví dụ
như thiên tai và động đất thì khỏi nói. Quả đất nầy đã hình thành hằng mấy
tỷ năm; nhưng một trận cuồng phong, một cơn động đất lớn, một đại hồng
thủy v.v... tất cả đều tiêu tán. Vì vậy cho nên Đức Phật đã vẫn thường hay
nhắc đến vô thường, khổ, không và vô ngã là vậy.
Quyển sách nầy được thành tựu là nhờ nhiều yếu tố khác
nhau. Ví dụ trong mùa an cư, tôi có nhiều thì giờ hơn để tập trung tư
tưởng mà viết. Trong khi đó các cô, các chú, các anh em công quả trong
chùa đều bận rộn suốt ngày chỉ vì việc chung, mà tôi có được bữa cơm đã
được dọn sẵn thì phải hiểu rằng đã có bao nhiêu người đã phải lặt rau, nấu
canh, cho vào bát; rồi bưng lên, dọn ra. Sau khi ăn xong lại phải rửa, lau
chén, cất dọn v.v... chừng ấy thời gian của mọi người cho những công việc
như thế không phải là ít, mà mình đã thọ dụng. Do vậy mà tôi đã mang ơn
tất cả là thế. Nếu có công đức nào trong tác phẩm nầy, tôi xin hướng về
những người làm những công việc không tên ấy mà san sẻ bớt.
Từ khâu thông dịch đến khâu đánh máy và in ấn, xếp vào
thành sách, cắt cho gọn gàng v.v... đã trải qua không biết bao nhiêu là
khổ công và mồ hôi nước mắt và điều cuối, nếu không có sự giúp đỡ của Bộ
Nội Vụ Cộng Hòa Liên Bang Đức đặc trách về vấn đề văn hóa và truyền thông
giúp đỡ, chắc chắn rằng tác phẩm nầy cũng khó mà xuất bản được. Ơn đức nầy
tôi xin ghi khắc mãi trong lòng.
Tôi chọn đề tài CÓ và KHÔNG của lần nầy để viết lên
tác phẩm thứ 29 cũng có nhiều lý do của nó; nhưng lý do chính vẫn là để
cho mọi người hiểu rõ lý vô thường sanh sanh diệt diệt của vạn hữu mà cố
gắng tu hành; cũng như nhận chân ra được đâu là chơn đế và đâu là thế đế.
Đâu là khổ đau và đâu là an vui tịch diệt v.v... Một tác phẩm mà làm cho
mọi người hiểu hết mọi lý nhân duyên của cuộc đời và vạn hữu thì thật là
khó; nhưng mỗi một tác phẩm chỉ đóng góp một vài khía cạnh để hội tụ đủ
mọi nhân duyên thì tôi cũng mong rằng đây là một tác phẩm nhỏ để góp phần
vào những cái siêu việt của vũ trụ qua nhãn quan của Phật Giáo mà thôi.
Cuộc đời cứ thế mà lặng lẽ trôi qua, mới trẻ đó đã trưởng
thành. Mới thanh niên đó đã lão niên, rồi trở thành người trăm năm thiên
cổ. Thời gian không đợi chờ ai cả, có thể 100 năm; nhưng cũng có thể 50
năm hoặc ít hơn như thế nữa. Điều khác nhau chỉ là ở sự hiểu biết và tận
dụng thời gian để làm một cái gì đó hữu ích cho đời mà thôi.
Xin chắp tay nguyện cầu cho thế giới nầy và nhân loại sống
trên quả địa cầu nầy hay ở những hành tinh khác luôn luôn dùng tình thương
và trí tuệ để đối đãi với nhau. Có như thế, dầu sống trong cuộc sống hữu
hạn nầy; nhưng nhiều kiếp sống như thế trong thế giới nầy sẽ tạo nên một
cuộc sống vô cùng ở những thế giới cao siêu khác. Xin cảm ơn tất cả mọi
người và mọi loài. Cầu nguyện cho tất cả sớm chứng vào trí tuệ của Như
Lai.
Tại thư phòng Chùa Viên Giác
Mùa An Cư
Kiết Hạ năm Canh Thìn
Phật lịch
2544
Tác giả THÍCH
NHƯ ĐIỂN
---o0o---
Mục Lục
|
Chương I
|
Chương II
|
Chương III
Chương
IV
|
Chương V
|
Chương VI
|
Chương VII