[05]
MÊ TÍN
Khi gặp khó khăn, nhiều
người trong chúng ta tìm đến người khác để nghe lời khuyên của họ. Họ có
thể khuyên chúng ta đi cầu nguyện với một số thần thánh ở một ngôi chùa
hay một chỗ thờ tự nào đó hay tụng một vài câu chú hay thực thi một số
nghi thức và nghi lễ.
Nhưng lời khuyên của Đức
Phật lại khác hẳn. Ngài chẳng bao giờ khuyên ai làm điều gì mà không điều
tra và phân tách các khó khăn để khám phá ra nguyên nhân chính của khó
khăn đó là gì. Cái lo lắng của chúng ta là khi chúng ta gặp khó khăn, do
ngu si chúng ta đau khổ vì sợ hãi, và chính chúng ta tạo ra nỗi sợ hãi vô
cớ, tưởng tượng và nghi ngờ. Sau đó chúng ta tìm lời khuyên ở người khác
để xóa bỏ những tư tưởng ấy đi.
Chẳng hạn, khi người ta
thất bại trong thương trường, họ lại cố gắng sử dụng ma thuật để đạt may
mắn và thắng lợi trong công việc làm ăn. Họ không cố gắng tìm ra sơ sót
hay yếu điểm gì dẫn đến thất bại và không nhận thức được những việc cầu
xin như thế chỉ căn cứ vào niềm tin dị đoan. Một số được gọi là 'thầy bói'
hay chiêm tinh gia lợi dụng cái ngu dốt của các người nhẹ dạ làm cho họ
tin tưởng là những sức mạnh tai họa đứng đằng sau sự không may của họ.
Đức Phật khuyên chúng ta
phát triển sự kiên nhẫn và hiểu biết, không tin vào niềm tin dị đoan, và
tu tập lối sống duy lý, không phí phạm thì giờ và tiền bạc vào những sự
thực hành vô nghĩa và chính mình cố gắng để vượt qua những điều đó một
cách có suy nghĩ.
Thông thường chúng ta
không thể hiểu nguyên nhân gây khó khăn cho chúng ta vì lối suy nghĩ của
chúng ta không sáng suốt do bị che mờ bởi nghi ngờ và ảo tưởng. Do sự
thiếu hiểu biết chánh đáng mà mà không hiểu đúng nguyên nhân của vấn đề,
do đó có cách giải quyết sai lầm. Chúng ta cầu nguyện, dâng lễ vật, và
phát nguyện vì nghĩ rằng sự khổ cực của chúng ta là do sự chi phối của một
lực lượng bên ngoài. Thực ra hầu hết các khó khăn và lo lắng của chúng ta
là do chính chúng ta tạo nên.
Chúng ta không cố gắng
phát triển một đường lối sống đứng đắn qua luân lý và mở mang tinh thần.
Chúng ta nghĩ rằng tôn giáo chỉ để cho chúng ta cầu nguyện và thi hành một
số nghi thức để quét sạch những khó khăn của chúng ta. Nếu chúng ta duy
trì niềm tin như vậy, sao ta có thể tập trung để tăng trưởng kiến thức và
hiểu biết sự việc đúng như bạn chất của nó?
Hầu hết chúng ta không ý
thức được rằng giá trị luân lý là gốc rễ của cây văn minh. Không có những
rễ ấy, lá sẽ phải rụng và bỏ lại cái cây chỉ còn lại gốc cây chết.
Ngày nay, chúng ta phát
triển đời sống theo một phương thức đến nỗi chúng ta không có thì giờ để
dành cho kỷ luật tự giác hay trau dồi nội tâm. Mặc dù chúng ta thừa thãi
để thỏa mãn nhu cầu vật chất như thực phẩm, nhà cửa và quần áo, tất cả
chúng ta lại nghĩ làm sao làm ra nhiều tiền và làm sao hưởng thụ lạc thú
cho dù phạm đến quyền lợi của người khác. Khi chúng ta gặp phải một số khó
khăn, chúng ta bắt đầu càu nhàu, tỏ nóng giận và tạo nhiều xáo trộn hơn
nữa mà không hiểu là không thể vượt qua được khó khăn bằng thái độ như
thế.
LO ÂU
Người ta đã tập trung
nhiều vào dục lạc hơn là vào an lạc và sức khỏe. Một số người lo lắng cho
tương lai mặc dù có dư thừa trong hiện tại. Họ lo lắng về bệnh tật, tuổi
già, chết, tang lễ và cả đến thiên đường hay địa ngục trong kiếp tới. Ngày
ngày họ chứng kiến cái bất trắc của đời họ. Họ chạy đi tìm kiếm thuốc chữa
để chấm dứt những khó khăn của họ. Họ lo lắng khi ho trở thành già cả. Họ
lo lắng không đạt được điều mong muốn. Họ lo lắng khi mất của cải hay
người mà họ thương yêu. Sau đó họ khủng hoảng, rầu buồn, tinh thần đau
đớn, và đau khổ vì xáo trộn tinh thần và cuối cùng những thứ đó biến thành
cái đau thể chất. Qua suốt cuộc đời, họ tiếp tục tìm an lạc và hạnh phúc
cho đến khi chết cũng vẫn chưa tìm ra được giải pháp thực sự.
Vì không hiểu bản chất
thực sự của đời sống, chúng ta cố gắng duy trì cuộc sống sao cho không
phải trải qua thất vọng và thay đổi. Nhưng bản chất của đời sống là thay
đổi. Đời sống là một tập hợp các yếu tố và năng lực lúc nào cũng thay đổi
và chúng ta không bao giờ được thỏa mãn. Đôi khi chúng ta cảm thấy đời
sống không thuận với chúng ta. Khi những yếu tố và năng lực không quân
bình, chúng ta thấy khó chịu, bệnh, đau đớn và nhiều khó khăn khác. Khi
năng lượng tinh thần bị xáo trộn, chúng ta thấy khó khăn tinh thần. Sau đó
những cơ quan và các tuyến cũng thay đổi chức năng của chúng, ảnh hưởng
đến sự tuần hoàn của máu, hóc-môn (hormones), tim và các tế bào óc.
Chúng ta có thể tránh các
khó khăn ấy nếu chúng ta hiểu sự mâu thuẫn trong cơ thể và sống một cuộc
đời thuận theo lực tự nhiên tạo thành cuộc sống vật chất của chúng ta.
ĐƯƠNG ĐẦU VỚI THỰC TẠI
Ngày nay nhiều người sống
một cuộc đời trái tự nhiên mà không biết đến sự nguy hiểm của nó. Những
khó khăn mà chúng ta tạo nên là do thái độ điên dại gây nên bởi lòng bị
cám dỗ. Bình dị làm cuộc sống êm trôi. Nhiều người trong chúng ta nhân
thức và chứng nghiệm như vậy chỉ khi đã về già.
Thí dụ, chúng ta có một
cái hố sâu 100 feet (mỗi foot + 30 cm 48 ) và chúng ta để than đốt ở dưới
đáy. Chúng ta lấy một cái thang và yêu cầu từng người xuống hố. Những
người xuống đầu tiên không phàn nàn chi cả cho đến khi họ xuống sâu chừng
30 đến 40 feet. Qua 50 đến 50 feet, họ cảm thấy sức nóng, họ càng xuống
sâu hơn đến từ 70 đến 80 feet, gần đến than cháy, họ có cảm giác bị phỏng.
Cũng giống như vậy, người trẻ không thấy khổ não măc dù Đức Phật dạy đời
là khổ. Nò cũng giống như khi giải thích nếu chúng ta có nhiều kinh nghiệm
hơn trong cuộc sống, chúng ta sẽ nhìn rõ sụ thật về khổ đau hơn. Ý nghĩa
thực sự của khổ đau là chứng nghiệm tính chất bất toại nguyện trong mọi sự
vật.
TÌNH HÀNG XÓM
Chúng ta hãy xét đến gia
đình chúng ta. Có bao nhiêu gia đình sống trong sự hiểu biết và tinh thần
tương ái? Nơi đây chúng ta nghĩ đến không những gia đình của chúng ta mà
những gia đình sống chung quanh chúng ta. Chúng ta có thể mời cả thế giới
vào phòng chúng ta qua truyền hình nhưng chúng ta không muốn mời người
láng giềng bên cạnh chúng ta vào nhà để nói chuyện thân ái với họ. Chúng
ta không có thì giờ để nhìn tận mặt những người thân trong gia đình nhưng
chúng ta đã bỏ ra nhiều giờ để nhìn những người xa lạ trên màn ảnh truyền
hình. Ngay trong phạm vi gia đình chúng ta không có thì giờ để nhìn tận
mặt những người thân với nụ cười tuy chúng ta cùng sống dưới một mái nhà.
Làm sao ta có thể đoàn kết và có hạnh phúc trong những gia đình như vậy?
Sư kiện đáng buồn này là thái độ cư xử lạ lùng rất thường thấy trong xã
hội hiện đại.
Một số người sao lãng
người thân trong gia đình sau ngày cưới. Đó không phải là cuộc sống thực
sự. Chúng ta nên duy trì một cộng đồng sống bằng cách giúp đỡ lẫn nhau và
bằng cách hỗ trợ tinh thần cho những ai cần đến sự giúp đỡ. Mặc dù con vật
không giúp đỡ lẫn nhau như con người, nhưng con vật sống chung, đôi khi
bảo vệ nhóm chúng hay những con vật nhỏ chống kẻ thù và những con vật còn
non bao giờ cũng theo những con vật già.
Dường như ngày nay chúng
ta sống không phải thực sự là con người. Chúng ta đã đi trệch hướng rất xa
đường lối tự nhiên của đời sống. Do đó tại sao chúng ta phải đương đầu với
nhiều khó khăn và chúng ta cảm thấy cô đơn. Chúng ta phải hiểu rằng có
những khó khăn do tự nhiên và không có cách chi có thể thoát khỏi được.
Cũng có nhiều khó khăn khác do tâm tạo, kết quả của ảo tưởng, vô minh và
vị kỷ của con người.
CHÚNG TA CHỊU TRÁCH NHIỆM
Cả đến những người có học
cũng không sử dụng một các thông thái kiến thức của mình khi họ thực hành
dị đoan dưới danh nghĩa tôn giáo. Hãy cố gắng quét sạch tinh thần yếu đuối
đó bằng cách củng cố tâm trí và phát triển lòng tự tin. Rồi chúng ta có
thể vượt qua nhiều trong những khó khăn và trong hầu hết các trường hợp,
những khó khăn tưởng tượng sẽ dễ dàng biến đi.
Theo một số niềm tin tôn
giáo, có một thượng đế chịu trách nhiệm tất cả những việc tốt lành xẩy ra
cho chúng ta, và nếu có điều gì sai trái là do quỷ thần làm ra. Đối với
chúng ta, đó không phải là một niềm tin có sức thuyết phục.
Hầu hết chúng ta không cố
gắng hiểu tại sao chúng ta không hạnh phúc, và sao chúng ta không thỏa mãn
với đời sống, và ai là người chịu trách nhiệm tình trạng đó. Đức Phật dạy
rằng chúng ta chịu trách nhiệm chính về mỗi hành động của chúng ta dẫn đến
toại nguyện hay bất toại nguyện.
Ngoài tất cả những khó
khăn mà ta chịu trách nhiệm, trực tiếp chịu ảnh hưởng, chúng ta còn tạo ra
những khó khăn chia rẽ nhân loại, tạo ra những vấn đề như kỳ thị chủng
tộc, tôn giáo quá khích, kỳ thị văn hóa và truyền thống, ngôn ngữ, màu da,
độc tôn và tự tôn tự ti bởi nghĩ rằng người theo tôn giáo khác là kẻ thù,
và bị coi là phạm tội khi ủng hộ hoạt động của tôn giáo khác. Họ không bao
giờ nghĩ rằng những tín đồ của bất cứ tôn giáo nào cũng đều cố gắng phục
vụ nhân loại và không làm hại người khác. Những khó khăn như trên đậy đã
gián tiếp góp phần vào cảm nghĩ bất toại nguyện của chúng ta.
MỤC ĐÍCH CỦA TÔN GIÁO
Mục đích của tôn giáo là
hướng dẫn nhân loại, phát triển đoàn kết, một cuộc sống hòa hợp, trau dồi
đức tính và tinh thần thanh tịnh . Thế mà, tôn giáo lại dùng để gây xáo
trộn các tôn giáo khác, phát triển ganh ghét hay thù địch. Ngày nay người
ta không dùng tôn giáo để bảo vệ hòa bình mà để xáo trộn và thù hận người
khác. Sự cao ngạo không lành mạnh này cùng với sự cạnh tranh tôn giáo đã
tạo ra bạo động và đổ máu ở nhiều nơi trên thế giới này,
Đồng thời trong khi trân
trọng tưởng tượng và quan niệm của mình như niềm tin thực sự như là một
phần của văn hóa và truyền thống, một số nhà tôn giáo lại chế diễu văn hóa
và truyền thống tôn giáo khác. Trong niềm tin và phương pháp tu tập mà họ
giới thiệu thực sự là tôn giáo, họ quảng bá tư tưởng ích kỷ mong cầu lợi
dưỡng vật chất, quyền hành chính trị và tự tôn vinh.
CÁCH XỬ THẾ VÀ TẬP TỤC
Cách xử thế có thể định
nghĩa là cách đối xử thích đáng để sống tốt đẹp trong xã hội. Vì nhiều lý
do xác đáng, một số truyền thống được truyền thừa, và chỉ một số người
không đầu óc mới coi là vô giá trị việc tuân theo những luật lệ hướng dẫn
các quan hệ xã hội của chúng ta. Goethe khôn ngoan nói:' Một người thực sự
sống chỉ khi người ấy tìm thấy nguồn vui trong thiện chí của người khác'
Câu phương ngôn cổ xưa 'Cách xử thế tạo nên con người' vẫn còn đúng ngay
cả đến ngày nay.
Những tiêu chuẩn mà chúng
ta coi như cách xử thế tốt đẹp khác biệt ở từng dân tộc và từng cộng đồng.
Chúng ta khám phá thấy những tính chất đặc biệt về cách xử thế và tập tục
thịnh hành tại các xã hội khác khi chúng ta ra nước ngoài. Chúng ta không
nên vội vàng có thành kiến về cách xử thế và tập tục của người khác mà
quyết định cái đó thích hợp hay không thích hợp. Cách xử thế chính nó
chẳng tốt mà cũng chẳng xấu, nhưng khi chúng gây cảm nghĩ xấu cho người
khác, thì có thể coi như cách xử thế xấu.
Chúng ta sống trong một
thế giới luôn thay đổi. Chúng ta không nên mù quáng bám níu vào các truyền
thống, tập tục, cách xử thế, nghi thức và nghi lễ mà cha ông thực hành hay
đã áp dụng theo niềm tin và điều kiện thịnh hành trong thời đại đó. Một số
tập tục và truyền thống truyền thừa từ tổ tiên của chúng ta có thể tốt,
trong khi cũng có một số không hẳn là hữu ích. Chúng ta hãy xét một cách
vô tư xem chúng có thích hợp và xác đáng cho thế giới hiện đại hay không?
Trong cộng đồng Trung Hoa,
họ nhấn mạnh đến việc kế tục truyền thống gia đình và tôn trọng trí tuệ
của người cao tuổi. Thờ cúng tổ tiên có từ rất lâu đời (có từ hai nghìn
năm trước Công Nguyên). Đời sống cần thiết là việc gia đình, bao gồm tụng
niệm và dâng lễ vật trước bàn thờ nhỏ và trong am miếu thờ tổ tiên, với
một hệ thống soạn thảo tỉ mỉ về chôn cất và tang chế, lễ nghi, thăm viếng
mộ phần như dấu hiệu lòng tôn kính sâu xa. Theo đạo đức, đức hạnh trước
nhất là hiếu thảo- một bổn phận phải phục vụ và kính trọng cha mẹ và các
bậc tiền bối không vì sợ hãi hay lợi lạc. Tôn kính như vậy đưa đến kết quả
đoàn kết mạnh mẽ trong gia đình. Đức Khổng Tử rất quan tâm với việc tôn
kính trí tuệ của người cao tuổi. Kính trọng người cao tuổi là một truyền
thống cổ xưa ở Ấn Độ và một số quốc gia.
Mặt khác hạnh kiểm tốt như
tử tế, kiên nhẫn, độ lượng, thành thật và khoan dung cũng không thể diệt
trừ được một số khó khăn vì người xảo quyệt có thể lợi dụng đức tính tốt
của người khác. Cho nên những đức tính tốt phải được thực hành một cách
khôn ngoan.
Những nhân viên phúc lợi
xã hội đang cố gắng quét sạch những khó khăn nhân loại. Nhưng sự đóng góp
của họ chỉ giảm thiểu được một số khó khăn của nhân loại. Một số người
khác cố gắng giải quyết những khó khăn của nhân loại bằng cách phân phát
của cải và lợi tức của quốc gia đồng đều cho dân chúng trong xã hội gọi là
xã hội chủ nghĩa. Dường như phương pháp của họ cũng chẳng mấy hữu hiệu
trong việc giải quyết khó khăn của nhân loại, và đã thất bại ở một số quốc
gia, vì vị kỷ, xảo trá, biếng nhác và nhiều nhược điểm khác có thể làm xáo
trộn tình hình. Giáo dục khoa học hiện đại thực ra đã tạo nhiều khó khăn
hơn là vận động cho hòa bình, hạnh phúc, và an ninh. Chính phủ cố gắng duy
trì hòa bình và trật tự bằng cách trừng phạt những ai không tuân theo luật
pháp. Nhưng trên khắp thế giới, hành động tội lỗi và vô luân lan tràn
nhanh chóng.
Những người kém hiểu biết
tìm đến bùa ngải, ma thuật, thần thông siêu nhiên và bùa chú để vượt qua
các khó khăn. Nhưng không một ai biết họ đã có thể đạt được gì qua niềm
tin và thực hành như vậy.
Một số dùng phương pháp
bạo lực để giải quyết các khó khăn. Một số khác lại giải quyết khó khăn
bằng cách cải thiện đời sống qua viện trợ tài chính.
Một số các nhà chức trách
tôn giáo, mặt khác cố gắng giải quyết các khó khăn bằng cách minh họa quan
niệm thiên đường để cám dỗ, và làm cho sợ hãi bằng cách dọa họ về lửa địa
ngục.
Dù sử dụng phương pháp nào
đi nữa để tránh các khó khăn, họ vẫn càng phải đối đầu với nhiều khó khăn
mới trong đời sống hàng ngày. Nguyên nhân của tình trạng này là do tâm trí
không được huấn luyện, và tham dục vị kỷ hay những điều kiện bất trắc của
thế giới.
Khi chúng ta nghiên cứu
đời sống người nguyên thủy, chúng ta có thể thấy người nguyên thủy, đối
đầu tương đối ít khó khăn. Những khó khăn này hầu hết chỉ là nhu cầu sống.
Nhưng ngày này trong xã hội gọi là văn minh hiện đại, nhiều khó khăn không
phải là chỉ do lòng ham muốn để được tiếp tục sống mà vì chúng ta đi tìm
nhiều dục lạc. Nhiều người cho rằng mục đích của đời họ chỉ để thụ hưởng.
LÀM SAO TA
ĐỐI ĐẦU VỚI CÁC KHÓ KHĂN?
Chúng ta thường tạo các
khó khăn mới trong khi đang giải quyết các khó khăn hiện tại. Nếu những
khó khăn mới không đáng kể, chúng ta cố gắng chịu đựng và làm điều chúng
ta có thể nhẹ bớt buồn đau. Chẳng hạn khi chúng ta bị bệnh loét dạ dày,
chúng ta bị đau, chúng ta đi bác sĩ khám bệnh. Nếu Bác Sĩ nói ta cần phải
được giải phẫu, chúng ta sæn sàng chấp nhận sự việc nếu chúng ta muốn lành
bệnh. Vì chúng ta biết không có một giải pháp khác nữa, chúng ta quyết
định đối đầu với khó khăn mới là sự giải phẫu để trừ cái đau hiện tại. Rồi
chúng ta sæn sàng chịu đựng cái đau và cái khó chịu trong cuộc giải phẫu
nghĩ rằng cuối cùng không còn đau nữa.
Cũng giống như vậy, chúng
ta muốn chấp nhận một số khó khăn hay đau đớn để vượt qua khó khăn to lớn
hiện tại. Do đó, đôi khi chúng ta phải đối đầu với khó khăn với nét mặt
vui tươi. Chúng ta không thể vượt qua các khó khăn hiện hữu mà không phải
đối đầu với các khó khăn mới hay không phải hy sinh môt thứ gì. Nhưng có
môt điều rõ ràng là không thể giải quyết tất cả những khó khăn của chúng
ta vì khó khăn như những làn sóng. Khi làn sóng này tan đi, nó tạo thành
một lực cho làn sóng khác nhô lên. Đôi khi sự có đi có lại cũng giúp giải
quyết khó khăn.
Đức Phật đã chủ trương một
phương pháp có ý nghĩa và thực tiễn trong việc giải quyết các khó khăn.
Ngài không cho ta môt giải pháp vá víu chỗ này chỗ kia đơn giản để thỏa
mãn chúng ta vào lúc ấy. Ngài dạy chúng ta phuơng cách phải đi sâu vào gốc
rễ vấn đề và tìm ra nguyên nhân chính của nó. Phương pháp của Ngài không
phải chỉ để giảm thiểu triệu chứng của khó khăn giống như một số thuốc men
chỉ để loại bỏ triệu chứng bệnh mà không chữa lành bệnh. Nếu một thứ thuốc
hay loại giảm đau công hiệu trong một lúc nào đó, nó bao giờ cũng kèm theo
một hay nhiều tác dụng phụ có hại.
Khi chúng ta bị đau bụng
hay nhức đầu nặng, chúng ta uống thuốc giảm đau. Chúng ta cảm thấy dễ chịu
hơn một lúc, rồi cơn đau trở lại. Thí dụ chúng ta có một vết thương hết
súc đau đớn trên cơ thể. Sau khi thoa đủ mọi thứ thuốc, vết thương lành .
Khi một bác sĩ hay một người nào đó hỏi ' bây giờ bạn cảm thấy thế nào?',
chúng ta trả lời: 'chúng ta cảm thấy dễ chịu hơn nhiều'. Nhưng chúng ta có
thể định nghĩa từ ngữ 'dễ chịu hơn' không? Ta có thể chứng minh cảm nghĩ
dễ chịu hơn như thế nào không? Đây có nghĩa là không còn đau nữa. Về bất
cứ điều gì trên thế giới này, khi chúng ta nói cảm thấy dễ chịu, hay khá
hơn là chỉ nói cho người khác biết không còn khó khăn vào thời điểm đó.
Khi chúng ta nói chúng ta cảm thấy dễ chịu, chúng ta phải hiểu cảm giác dễ
chịu đó không lâu dài vì khi những hiệu quả của thuốc giảm đau không còn
tác dụng nữa thì chúng ta lại bị đau trở lại. Đó là bản chất của đời sống.
Phương pháp của Đức Phật để đạt hạnh phúc vĩnh viễn là nhổ tận gốc rễ khó
khăn chứ không phải chỉ tạm thời kìm nén chúng. Đương nhiên, một số người
nói rằng thật khó khăn thực hành lời Phật dạy, vì nó không làm cho giảm
đau ngay. Đức Phật dạy nguyên nhân khổ đau mọc rễ thâm sâu cho nên chúng
ta phải có các biện pháp mạnh mẽ mới nhổ vĩnh viễn dược chúng để chúng
không bao giờ có thể trở lại được nữa.
Vê câu hỏi làm sao có thể
tận diệt hết được các khó khăn, Đức Phật trả lời:' Khi môt người khôn
ngoan, gìn giữ luân lý (giới), mở mang tâm trí và chánh kiến, một người
hăng hái và khôn ngoan như vậy tự gỡ được rối rắm'. Một người chuyên cần
và hiểu biết, bởi nhận thức được bản chất thực sự của cuộc sống, phát
triển đạo đức và hạnh tự kỷ. Giới có nghĩa là kỷ luật trong ý, lời nói và
hành động theo giới luật. Một người chuyên cần và khôn ngoan, biết cách
phải đối đầu với các khó khăn như thế nào và làm sao để vượt qua chúng.
Nơi đây Đức Phật khuyên chúng ta phải lương thiện, chuyên cần và hành động
khôn ngoan nếu chúng ta muốn giải quyết những khó khăn. Không có một
phương pháp nào khác có thể đem đến giải pháp cuối cùng cho những khó khăn
của chúng ta.
THAM DỤC ÍCH KỶ TẠO NHIỀU THÊM KHÓ KH
ĂN
Hệ thống giáo dục hướng
nghiệp hiện đại đào tạo các học sinh trang bị được nhiều kiến thức học
thuật hơn nhưng cũng phát triển lòng vị kỷ. Hệ thống đó tạo ra người tài
giỏi mà không phát triển tinh thần đạo đức cho họ. Những người như vậy
không quan tâm đến người khác hay đến thế giới miễn là họ được mức lợi lạc
vật chất. Qua xảo quyệt và áp dụng phương pháp khoa học để đạt ham muốn vị
kỷ, chính họ càng ngày càng lo âu.
Con người ích kỷ tham đắm
lạc thú hơn tất cả chúng sinh khác. Họ vui sống cuộc đời trần tục và lạc
thú nhục dục không nghĩ đến phúc lợi của người khác hay sự sống còn của
các loài khác. Họ muốn sống lâu để hưởng khoái lạc. Họ phát triển lòng
tham tài sản mà họ tích lũy và sợ chết vì không muốn ra đi bỏ lại các tài
sản này trong khi các chúng sanh khác không có các tư tưởng ích kỷ như
vậy. Những chúng sanh này chỉ sử dụng ý thức của họ để sinh tồn và sống
một cuộc đời thiên nhiên không làm hại người khác . Có câu nói rằng chỉ
con người mới tích lũy nhiều hơn số lượng thực phẩm mà họ có thể ăn được.
Tất cả những con vật khác chỉ lấy cho đủ để được sống mà thôi. Cái gì
chúng không cần thì chúng không lấy và để cho kẻ khác. Ngày nay, chúng ta
không quan tâm cả đến sự nghỉ ngơi mà say mê đến mức độ chúng ta trở thành
nô lệ cho lòng ham muốn được tự mãn.
NGƯỜI BỆNH SỐNG TRONG HÔN MÊ - CÁI CHẾT KHÔNG
ĐAU ĐỚN (EUTHANASIA)
Có người hỏi Euthanasia
nghĩa là gì? Từ này khởi nguyên từ danh từ ghép của Hy Lạp: eu có
nghĩa là tốt, và thanathox có nghĩa là chết. Ghép lại với nhau từ
này có nghĩa là một cái chết xứng đáng không đau đớn.
Người ta đã bàn luận nhiều
đến việc có nên hợp pháp được chết (cho phép người bệnh được tự tử với sự
giúp đỡ của bác sĩ) là giết người hay giết người để chấm dứt sự đau đớn.
Lập luận của phía ủng hộ hợp pháp nói rằng con người có thể chết trong
vinh dự, phẩm giá và tình thương.
Khi một người trong gia
đình hay một người thân bị bệnh trầm trọng và phát triển các dấu hiệu phức
tạp gây ra sự bất tỉnh khó thay đổi được, người đó sống trong tình trạng
hôn mê, hay bộ não đã chết làm cho gia đình buồn đau và lo âu trong việc
săn sóc và nuôi dưỡng người bệnh- một gánh nặng cho gia đình phải chịu
đựng bằng sự can đảm phi thường và sự kiên cường.
"Người bệnh trong tình
trạng hôn mê" là từ ngữ diễn đạt mới được sử dụng trong y khoa. " Tình
trạng hôn mê" nảy sanh do sự hư hoại nặng nề của bộ não khiến bệnh nhân
không thể động đậy, nói và nuốt. Nhưng bệnh nhân vẫn còn thở và tim vẫn
đập không cần thiết bị trợ giúp. Nếu có cử động thì những cử động cũng chỉ
là do sự phản ứng hơn là hành động do bệnh nhân điều khiển.
Vì kỹ thuật kéo dài đời
sống ngày càng tiến bộ, xã hội bắt buộc phải đương đầu với câu hỏi căn
bản: Bao giờ, đúng lúc nào, đời sống chấm dứt? Trong khi hầu hết ai cũng
đồng ý bộ não không hoạt động tức là chết, trong giới y khoa và công chúng
đã có những tranh cãi về tình trạng hôn mê của bệnh nhân.
Sự chẩn đoán "bệnh nhân
trong tình trạng hôn mê" theo Đại Học Y Khoa Hoàng Gia Anh Quốc là một
bệnh nhân đã ở trong tình trạng này sau 12 tháng. Về thuật ngữ mô tả một
người đau đớn trong điều kiện này, không may từ 'vegetative' lại được lựa
chọn vì con người được sáng tạo khác hẳn cây cỏ hoàn toàn.
Xác thân chết, nhưng có
đời sống sau khi chết. Niềm tin này được cả đến triết lý gia Plato tin
tưởng tuy ông cũng không có tư tưởng gì khám phá ra tôn giáo từ trên hai
nghìn năm qua.
Thêm vào sự không cử động
được và không giao tiếp được với thân quyến trông nom mình, những người
bất hạnh này đau khổ chịu đựng sự đàm tiếu khinh khi vì bị đối xử như cỏ
cây. Và tệ hại hơn nữa, trong một số trường hợp, theo lời yêu cầu của thân
nhân, người bệnh không được tiếp tế chất dinh dưỡng. Người thân cho như
vậy để cho người bệnh chết. Số người khác coi là như vậy để bệnh nhân đói
đến chết.
Chắc chắn, có một bài học
nơi đây cho tất cả chúng ta. Đời sống vô cùng quý giá và không thể bào
chữa được khi lấy đi mạng sống của một người. Đương nhiên, chúng ta có bổn
phận canh chừng và cố gắng làm cho ông ấy hay bà ấy khỏe lại, hay nếu
không thể được thì ít nhất cũng có thể làm cho người bệnh được an ủi chừng
nào tốt chừng nấy.
Có một sự khác biệt hẳn
trên nguyên tắc giữa sự chấm dứt đời sống của một người đồng loại và sự
loại hay giảm thiểu sự đau đớn, để cho người bệnh được an ủi và giữ phẩm
giá đến hơi thở cuối cùng. Đời sống thiêng liêng và ai cũng đáng được kính
trọng.
Có phải một người thực sự
đã chết khi người đó trong tình trạng hôn mê và các cơ quan chính không
còn hoạt động bởi máy móc hay loại gì đó? Kỹ thuật y khoa tiến bộ và những
phương pháp tân tiến trong thế kỷ này đã đưa đến một sự khó xử trong nhiều
trường hợp, săn sóc những bệnh nhân hôn mê bất tỉnh không hồi phục được,
thường được biết là bộ não đã chết.
Trước khi có những tiến
bộ, khi tim và phổi không hoạt động, bộ não cũng chết ngay sau đó. Tương
tự như vậy khi não không hoạt động, tim và phổi cũng không hoạt động ngay
sau.
Trong khi quan điểm y khoa
ít nhiều giải quyết như vậy, hậu quả hợp pháp của những hành động hay
không hành động của bác sĩ trong những trường hợp như vậy thì bác sĩ hành
động hay không hành động trong những trường hợp như thế sẽ phải xét xử thế
nào vẫn còn là vấn đề tranh cãi. Những bác sĩ này có có bị kết án giết
người hay ngộ sát khi tắt máy dưỡng khí trong trường hợp vô vọng không?
Chết không đau đớn, hay
nói một cách thô thiển ' giết để chấm dứt khổ đau', thường được hiểu là
hành động nhân từ chấm dứt đời sống của một người bị bệnh không thể chữa
nổi. Về phương diện pháp lý hay đạo lý hành động đó bị cấm với loài người.
Trong khi luật cho phép bác sĩ ngưng chữa bệnh, bác sĩ không được phép
dùng thuốc giết người hay tiêm thuốc để chấm dứt m?ng sống của bệnh nhân.
Cách giải quyết như vậy cũng bị coi là bất hợp pháp ngay cả khi nó phát
xuất từ ý tưởng nhân đạo muốn chấm dứt sự đau đớn cho người bệnh.
Tất cả những việc làm trên
không có nghĩa là kéo dài sự sống bằng bất cứ giá nào khi nó rõ ràng đã
đến lúc chấm dứt. Cho phép một người chết ngụ ý xác nhận bệnh tình vô
phương cứu chữa và người đó được phép chết bình thường trong an lạc và
phẩm giá. Không được có một hành động cố ý phá hoại mạng sống. Đúng hơn là
không dính líu vào việc chũa trị nữa vì biết sự chữa trị không thể thực
hiện được. Trong khi chúng ta phải kính trọng ước nguyện và quyền được
chết của một người, chúng ta không nên giúp người đó chết hay tự tử.
Xét về luật pháp việc
ngưng máy trợ tim hoạt động có thể phù hợp với nhiệm vụ săn sóc của bác sĩ
không có nghĩa là, vì lý do chính trị bác sĩ có nhiệm vụ cho bệnh nhân môt
mũi tiêm giết người để cho bệnh nhân không còn đau đớn.
Theo luật định một người
chịu trách nhiệm săn sóc một người khác không thể chăm sóc được chính
mình, thí dụ một em bé hay một người yếu ớt, trở thành người chịu trách
nhiệm vì giết người hay ngộ sát vì đãng trí thì cũng giống như trước đây.
Trong khi chúng ta nên hoan nghênh kỹ thuật y khoa và việc sử dụng các máy
móc, như thuốc ' vi diệu', cấy ghép các bộ phận cơ thể, máy lọc máu vân
vân.., chúng ta nên coi chừng tuột xuống dốc vào cái thung lũng chết
"không đau đớn'.
Tháo máy trợ tim sau khi
bộ não đã chết, không phải quá đáng mà nói rằng đó là vấn đề chung của bác
sĩ và người thân nhất của người bệnh sắp chết. Câu hỏi đặt ra là: Có phải
tốt hơn là để cho chết mau trong trường hợp vô vọng bằng cách tháo máy này
với người bệnh không? Một ý nghĩ đến ngay trong tâm trí là: làm sao ta có
thể chắc chắn là tình trạng đó vô vọng? Những điều kỳ diệu vẫn có thể và
xẩy ra, tuy nhiên rất hiếm. Dù đúng hay không, ta chỉ có thể kết luận một
cách an toàn là có nhiều những huyền bí không thể giải thích nổi trên thế
giới này. Đó là một vấn đề đã làm bối rối phương đông từ nhiều năm.
Phật Giáo không ủng hộ cái
'chết không đau đớn' vì hai lý do. Thứ nhất mỗi chúng sanh là kết quả
nghiệp của mình trong quá khứ và bất cứ sự can thiệp nào vào tình trạng
của mình cũng sẽ chỉ là tạm thời làm cho bớt đau đớn mà người đó phải
chịu. Lý do thứ hai kết tội sự ủng hộ nhầm lẫn cho cái chết 'không đau
đớn' liên quan đến người giết và hành động giết. Hành động giết dù bất cứ
động cơ nào thúc đẩy, cũng vẫn liên quan đến việc ngăn chia đời sống với
xác thân một cách chủ ý chống lại sự cấu tạo tự nhiên con người theo năm
yếu tố: năng lượng tinh thần, năng lượng nghiệp, trật tự thời kỳ phôi
thai, trật tự thời gian, và và trật tự hiện tượng thiên nhiên. Cảm nghĩ
biến thành hình thức ác cảm đối với sự đau đớn được mục kích. Người đó che
đậy cảm nghĩ thật sự của mình làm như đó là một hành động tinh thần đáng
ca ngợi, và tự mình bào chữa và cho là hợp với lẽ phải. Nếu người đó hiểu
tâm lý của chính mình hơn, sức mạnh của sự ác độc ngủ ngầm xuất hiện ngay
sau khi phạm hành động giết.
Tuy nhiên không cấm việc
sử dụng thuốc an thần hoặc các biện pháp làm người bệnh giảm đau. Việc làm
cho người bệnh bớt đau đớn bằng bất cứ phương tiện gì, và tạo bầu không
khí lành mạnh để chữa trị đáng được ca ngợi. Tất cả những ai góp phần làm
giảm đau, phục vụ người bệnh cần ý thức rõ rằng công việc của họ không chỉ
là vấn đề học thuật hay nhân từ, mà là liên kết với chân lý, một phương
pháp tâm lý loại trừ ích kỷ, ác cảm, và ảo tưởng.
TỰ TỬ
Tự tử là một hành động cố
ý và tự ý lấy đi mạng sống của chính mình. Tự tử rơi vào hai loại, tục lệ
hay cá nhân. Loại thứ nhất xẩy ra do kết quả của truyền thống và lực của
quan niệm quần chúng. Thí dụ như hara-kiri, tự tử bằng cách mổ bụng bởi
của người Nhật Bản khi bị nhục.
Tự tử cá nhân là loại điển
hình trong thời hiện đại. Lý thuyết thông thường chấp nhận tự tử là kết
quả của sự thất bại không thích ứng đời sống của mình được với những căng
thẳng trong cuộc sống.
Tự tử là môt cách để giải
quyết những loại khó khăn riêng tư- cô đơn, ghét bỏ, ham muốn, trả thù, sợ
hãi, đau đớn thể xác, cảm nghĩ tội lỗi vân vân... Đàn ông tự tử nhiều hơn
đàn bà, và ở mọi lứa tuổi. Tuy nhiên, phụ nữ ít thành công hơn nam giới vì
không biết cách tự tử hay vì sự cảm xúc khác biệt.
Đa số những người tự tử
đều chán nản ngã lòng. Sự tác động cao nhất xẩy ra nơi những người thất
vọng kèm theo một cảm nghĩ đầy vô vọng và mất hẳn sự quan tâm hay hứng thú
trong các hoạt động. Thêm vào, những người già, lẻ loi, ly dị. hay góa, và
nhất là những người ghiền rượu, ma túy, có nguy cơ nhất. Những người không
nhà cửa cũng tự tử nhiều hơn người khác.
Mặt khác, thanh thiếu niên
tự tử là một vấn đề lo ngại. Từ những năm 1950, tỷ lỷ lệ của hạng người
này tăng gấp đôi ở những nam giới đã trưởng thành. Tuy nhiên vì nhiều lý
do, việc này không xẩy ra với phụ nữ.
Một số chuyên viên cảm
thấy thanh thiếu niên tự tử do sự phức tạp và căng thẳng của đời sống hiện
đại. Được biết những chuyện bi thảm trên truyền hình và những tin tức mới
về tự tử làm gia tăng con số thanh thiếu niên tự tử. Thất nghiệp và áp lực
thành đạt cũng là những yếu tố.
Có một số dấu hiệu quan
sát thấy, gồm có rút lui không giao du bè bạn và các hoạt động thường lệ,
không để ý tới dung mạo, thay đổi hẳn trong thói quen ăn ngủ, lạm dụng ma
túy và rượu. Một số thanh thiếu niên biểu lộ ý định của chúng rõ ràng.
Chúng không còn thích những của cải sở hữu hay nói:' Tôi không còn vấn đề
gì nữa cả'. Hành động tự tử thường do sự mất mát tình cảm như đoạn tuyệt
vời người tình hay gia đình ly dị.
Cho nên, khi bạn thấy một
trong những dấu hiệu thay đổi trên về cách cư xử - bạn phải đặc biệt quan
tâm đến- bạn nên lập tức nói chuyện những điểm không hạnh phúc của đứa con
với nó. Chẳng hạn, hỏi nó cụ thể và trực tiếp là nó định làm gì. Mổ sẻ
những điều ấy ra có thể giảm thiểu nỗi lo âu của nó, và nó sẽ cảm thấy nó
được bạn hỗ trợ. Chỉ như vậy rồi bạn mới có thể đi thẳng vào vấn đề hoặc
tìm những nhà chuyên môn giúp đỡ nếu cần thiết.
Tính chất dễ dãi của xã
hội hiện đại ngụ ý khoan hồng dối với cách cư xử sai lệch có thể là một
phần làm gia tăng các hành động tự tử, nhất là tự đầu độc.
Thái độ của xã hội đối với
việc tự tử đã ít nặng nề hơn về đạo đức và hình phạt. Bây giờ người ta đã
sæn sàng hiểu biết hơn là kết tội, nhưng khuynh hướng che giấu các hành
động tự tử vẫn còn.
Hành động tai hại tự tử
gây nên những phản ứng buồn đau và cảm nghĩ tội lỗi về phần những người
cảm thấy có thể ngăn ngừa bằng cách chăm sóc và thương yêu nhiều hơn mà họ
đã làm. Không thỏa mãn được dục vọng và không làm được điều mình muốn là
nguyên nhân những vụ tự tử. Không có tôn giáo nào tha thứ hành động ác độc
này.
Điện thoại hiện nay dùng
làm phương tiện truyền thông giũa những người lẻ loi và thất vọng có ý
nghĩ quyên sinh, và tìm sự hỗ trợ và khuyên nhủ của những người quan tâm
trong xã hội. Cũng giống như những Hội Vô Danh Giúp Đỡ người ghiền rượu,
và những tổ chức tương tự khác, những người tình nguyện phục vụ như cố vấn
đêm ngày và cơ quan của họ sæn sàng giúp đỡ các trường hợp muốn tự tử bất
cứ lúc nào. Bằng chứng cho thấy các loại phục vụ này đã thực sự ngăn ngừa
được các vụ tự tử trên một mức độ rộng lớn.
TINH THẦN KHÔNG QUÂN BÌNH
Tinh thần không quân bình
mà chúng ta coi như nổi điên là một khó khăn to lớn khác. Vi phạm con
đường đạo đức của đời sống, con người xáo trộn an lạc và hạnh phúc của
chính mình và người khác. Rồi mang nhiều việc xẩy ra bên ngoài vào tâm,
thì càng nhiều khổ sở, kích động, sợ hãi và bất an được tạo ra.
Nhiều người phải đau khổ
vì khủng hoảng và suy nhược thần kinh vì không huấn luyện tâm trí để duy
trì sự vừa lòng. Họ chỉ phát triển lòng tham dục về lạc thú nhục dục. Với
họ phát triển có nghĩa là phát triển lòng tham dục.
Kết quả là họ phát triển
sự tranh đua không lành mạnh và bạo động. Cho nên họ đã đảo lộn thế giới
vào một tình trạng hỗn loạn. Sau rồi mọi người kêu gào hòa bình. Người ta
kết tội thượng đế hay ma quỷ đẩy họ vào lầm than. Họ cầu nguyện và van vái
để thoat khỏi những khó khăn do chính họ tạo ra.
Bây giờ chúng ta có thể
hiểu ai là người thực sự tạo khó khăn và ai có thể vượt qua được những khó
khăn ấy. Đức Phật dạy thế giới ở trong chính bạn. Khi bạn tự ghép mình vào
kỷ luật, toàn thế giới sẽ có kỷ luật và hòa bình sẽ được duy trì. Không
cần thiết phải cầu xin hòa bình từ những người khác. Tốt hay xấu, hòa bình
hay bạo động, tất cả hiện hữu do tâm được huấn luyện hay không được huấn
luyện.
ĐỐI ĐẦU VỚI TÌNH TRẠNG CĂNG
THẲNG
Từ căng thẳng mượn từ vật
lý và kỹ thuật xây dựng, có nghĩa đúng là: một lực đủ lớn để bóp méo hay
làm biến dạng. Trong chữa trị bệnh tinh thần, căng thẳng là những phản ứng
thể xác và tinh thần của một cá nhân đối với áp lực của môi trường xung
quanh và ở trong chính mình. Có hai loại bị căng thẳng chính là: bị căng
thẳng vì mất người thân, công việc làm, hay lòng tự trọng phát xuất khi
mức độ hoài vọng của một con người qúa cao; và một loại bị căng thẳng là
do những sự đe dọa đến địa vị, mục tiêu, sức khỏe và an ninh của một cá
nhân. Tình trạng bị căng thẳng trở thành một phần không thể tránh được
trong đời sống, và làm cho người ta luôn luôn bị khích động. Khi nó xẩy
ra, quá sức chịu đựng, gây đau khổ cả về thể chất lẫn tinh thần.
Tình trạng bị căng thẳng
nguyên do một trong những yếu tố gồm có, sự thay đổi, cả tốt lẫn xấu, khó
khăn cá nhân, khó khăn về thể chất, đau yếu vân vân... Nguồn gốc thông
thường là do: cái chết của vợ chồng, hay bạn thân, ly thân, ly dị, khó
khăn về tình dục, thay đổi chỗ ở, con cái bỏ nhà ra đi, mang thai, cầm cố
nhà cửa, bị đuổi việc, thất nghiệp, thay đổi trách nhiệm trong việc làm
hay không hài lòng với chủ nhân.
Mỗi quãng đời của con
người có một tình trạng căng thẳng riêng. Lúc bắt đầu vào đời, đứa trẻ
phải đối đầu trực tiếp với người thân trong gia đình, những đòi hỏi của
nhà trường, phải điều chỉnh cho thích hợp với cá tính của thầy giáo và các
bạn trẻ khác nên có thể bị căng thẳng cũng như những vấn đề trai gái trong
tuổi thanh xuân sau này.
Rồi tiếp đến những căng
thẳng học thuật của những năm tại đại học, và sự lo âu về việc chọn nghề.
Sau đại học hầu hết gặp khó khăn trong những năm đầu sau khi lập gia thất.
Những khó khăn này rất nghiêm trọng và thường dẫn đến sớm ly dị. Những vấn
đề có con cái là gánh nặng cho phụ nữ, trong khi người đàn ông lại nặng về
nghề nghiệp.
Một số bệnh do tình trạng
bị căng thẳng gồm có bệnh lở loét dạ dày, đau bên đầu, phiền muộn, áp
huyết cao, đột quị, và ngất sỉu do tim. Bị căng thẳng liên tục sẽ làm suy
yếu hệ thống miễn nhiễm làm giảm sự hữu hiệu trong việc đối kháng sự nhiễm
trùng. Một số nhà hữu trách cho bị căng thẳng, quá sức và kinh niên có thể
phát thành bệnh ung thư.
Trong thời gian bị căng
thẳng, cơ thể tiết ra tầng đợt chất hóa học ở não, và chất hormones gồm có
cả chất adrenaline và hydrocortisone, những chất này tác động được biết
như phản ứng của sự "chiến đấu hay chạy trốn". Adrenaline làm tăng nhịp
tim và nhịp thở, xác thân sæn sàng chống cự lại với sự đe dọa bên ngoài,
hay không chống nổi. Hydrocortisone giúp chống căng thẳng. Như vậy khi ta
nghe một tin buồn trong điện thoại, phản ứng cúa ta tức khắc bị tác động
bởi chất adrenaline, kế theo bởi sự tiết ra tiết ra chất hydrocortisone
gia tăng .
Chất hormones giúp ta đối
đầu với tình trạng bị căng thẳng trong một thời gian ngắn, tuy nhiên có
thể gây ra khó khăn sức khỏe nếu chúng ta tiếp tục bị lâu dài căng thẳng.
Bị căng thẳng không ngớt làm xác thân tiết ra chất adrenaline và
hydrocortisone thường xuyên, và đồng thời những chất đó trong mạch máu có
thể gây xói mòn. Mức độ adrenaline ở mức độ kéo dài và cao, chẳng hạn,
buộc tim và phổi phải làm việc quá giờ, và giữ áp huyết cao hon mức độ
thường. Trong thời gian này, những sự thay đổi ấy có thể làm thành strokes
(đột quị) hay bệnh tim.
Lo âu là cảm nghĩ sợ sệt,
căng thẳng hay khó chịu khi ta phải đối đầu với nguy hiểm. Chúng ta đều
phải đối đầu với lo âu để thi hành tốt một nhiệm vụ khó khăn, nhưng thái
quá làm ta có thể trở thành bất lực. Rối loạn lo âu gây thành nhóm thông
thường nhất bệnh thần kinh, gồm có ám ảnh sợ hãi, lo sợ bị tấn công, và bị
rối loạn căng thẳng hậu chấn thương. Nhiều người bị ám ảnh sợ hãi như sợ
hãi một vật gì hay một tình trạng đặc biệt nào đó. Ám ảnh lo sợ rất thông
thường, chiếm khoảng 3% dân số.
Ám ảnh sợ được định nghĩa
như ám ảnh, cố chấp, không thực tế, sợ hãi triền miên một đồ vật hay tình
trạng nào đó. Đa số ám ảnh sợ hãi là chứng sợ độ cao, sợ không gian giam
hãm, sợ hãi phải xa gia đình hay ở chỗ đông người, và sợ người lạ. Những
người này có khuynh hướng tránh tình trạng có đông người để khỏi bị bẽ mặt
hay bối rối. Mất ngủ, hay khó ngủ, thường thấy ở nhiều người trong nhiều
hoàn cảnh khác nhau. Trên thực tế, trên 10% người gặp khó khăn về vấn đề
ngủ. Nếu ta phải đối đầu với công việc tạm thời có hạn định thời gian, hay
dưới nhiều áp lực, ta có thể lo lắng cho nên mất ngủ. Cơ thể chúng ta ưa
thích hoạt động theo thường lệ, cho nên những công nhân làm theo ca gặp
khó khăn điều chỉnh giấc ngủ.
Một số người, đặc biệt
những cựu chiến binh, có thể đau đớn từ cái gọi là hậu chấn thương biến cố
trong chiến tranh như những tiếng nổ bởi đạn trái phá và sau các trận
đánh, thường phát triển phản ứng căng thẳng lâu dài. Những triệu chứng
xuất hiện hay gia tăng sau khi chấn thương đã qua từ lâu. Người đó có thể
bị những chứng như ý nghĩ lộn xộn, thấy quá khứ như hiện tại, ký ức hãi
hùng hay những cơn ác mộng. Người đó cũng có thể hết sức cáu kỉnh hay lo
lắng, và rất dễ dàng hoảng hốt. Vào lúc đó người đó hình như co mình lại,
không còn để ý gì đến những điều thường thích truớc đây, cảm thấy lẻ loi
xa những người khác.
Điều tốt nhất có thể đối
trị căng thẳng hay tình trạng căng thẳng trong đời sống hàng ngày hiển
nhiên quan trọng là: ăn uống điều độ, ngủ đủ, vận động hàng ngày, và dành
thời gian giờ vào các việc mà mình thích. Không hút thuốc, uống rượu hay
các chất ma túy khác. Người dễ bị thất bại và tinh thần nhậy cảm căng
thẳng, có thể tìm cách giảm thiểu phản ứng bằng cách học nghỉ ngơi, thiền
định, và học phương pháp thay đổi tính tình.
NĂNG LƯỢNG TINH THẦN PHẢI
ĐƯỢC HUẤN LUYỆN
Năng lượng tinh thần đặc
biệt hay trí tuệ mà con người có được không thể tìm thấy ở những chúng
sanh khác. Tuy nhiên năng lượng tinh thần này hoang dại, phóng túng, nó
cần phải được huấn luyện và kiểm soát mới đem lợi lạc cho chúng ta. Nếu
không, tâm trí sẽ là nguồn gốc chính của những khó khăn. Khi tâm trí được
kiềm giữ đúng qua sự huấn luyện chuyên cần, thì hòa hợp, hiểu biết và hòa
bình sẽ chiếm ưu thế và chúng ta có thể thi hành những hành vi rất lương
hảo không những cho chính chúng ta mà còn cho người khác. Chúng ta hãy lấy
thí dụ về một thác nước lớn. Chúng ta hãy tưởng tượng năng lượng to lớn
phí phạm như nước chảy từ trên hàng ngàn bộ cao trên sườn núi cao. Nhưng
khi con người kiểm soát được năng lượng ấy và biến chúng thành điện, dân
chúng được lợi lạc từ năng lượng ấy. Nhưng nhớ rằng, cả đến khi tâm trí
được huấn luyện, chúng ta áp dụng dù biện pháp ngăn ngừa nào để tránh bất
toại nguyện trong đời sống của chúng ta, luật vũ trụ vô thường vẫn thay
đổi mọi thứ trên thế giới này. Đó là bản chất của cuộc sống. Mọi thứ hiện
hữu đều thay đổi và tan rã theo nhũng điều kiện trần thế. Sự phối hợp của
các yếu tố, năng lượng và sự hiện hữu tạo ra vật mà chúng ta có thể nhìn
thấy, sờ thấy, khiến cho ta ảo giác về sự vững chắc và thường còn. Nguyên
nhân của sự thay đổi là sự ma sát của các yếu tố và năng lượng. Khi một
vật nhìn thấy tan và theo thời gian, đó là sự phân hủy của yếu tố và năng
lượng được hợp thành. Năng lượng không mất, nhưng biến đi chuyển thành
dạng thức khác và tiến trình tiếp tục vô tận. Đó là hiện tượng thiên nhiên
và mỗi vật hợp thành (do duyên hợp) đều được tạo nên bằng cách đó. Không
có lý do gì để chúng ta coi hiện tượng trên là sự tạo ra một chúng sinh
siêu phàm hay đó là kết quả của một tội lỗi nguyên thủy bị trừng phạt.
Người Phật Tử coi đó là một hiện tượng tự nhiên. Nhưng nhiều người coi
tình trạng này là một khó khăn vì những sự thay đổi và vô thường không
thỏa mãn lòng ham muốn một cuộc sống vĩnh cửu. Tính bất toại nguyện của
đời sống bắt đầu khi chúng ta nhận thức được đời sống bất diệt khác ở
thiên đàng hay trong địa ngục, là điều không thể có được.
Năng lực của xác thân
chúng ta cũng là một phần của lực vũ trụ ảnh hưởng đến những yếu tố và
năng lượng trong phạm vi thân thể chúng ta. Một số khó khăn vật chất và
tinh thần cũng do những ảnh hưởng này. Một số lực khác cũng nhiễu loạn đời
sống của chúng ta mà người ta coi đó gây ra bởi ma quỷ. Sợ hãi, tưởng
tượng, nghi ngờ, và dị đoan, lúc nào cũng nuôi dưỡng niềm tin như vậy để
nhiễu loạn tâm trí. Khi tâm trí bị nhiễu loạn, chúng ta phải đau đớn thể
xác.
Tuy nhiên, khi tâm trí
chúng ta được huấn luyện kỹ càng và mở mang qua sự hiểu biết, chúng ta có
thể ngăn ngừa những khó khăn ấy nảy sinh.Cho nên Đức Phật dạy "Tâm là kẻ
tiền phong của tất cả trạng thái thiện và ác, tốt và xấu vì những trạng
thái tâm ấy là do tâm tạo ra'" Thực ra chúng ta đau khổ vì những khó khăn,
những khó khăn này là kết quả của những ảo giác của chúng ta. Bằng cách
theo lời khuyên của Đức Phật, chúng ta có thể đoạn trừ sợ hãi và vô minh.
LÀM THẾ NÀO
ĐỂ ĐỐI ĐẦU VỚI CÁI CHẾT?
Một vấn đề khác mà người
dân phải đối đầu ngày nay làm thế nào khi cái chết đến với người thân của
mình, kể cả cha mẹ. Chúng ta phải hiểu rằng chết xẩy ra tự nhiên, ta càng
thương cha mẹ già của ta bao nhiêu ta lại càng phải hiểu rằng theo sinh
vật học, tế bào trong con người có một đời sống giới hạn. Thời điểm đến
khi những tế bào ấy không thể tự đổi mới được. Khi tuổi già đến mức cùng
cực, những tế bào mất khả năng giữ quân bình tiến trình phá hủy và sửa
chữa, và không giữ cơ thể mạnh khỏe được.
Lịch sử con người chẳng có
gì khác ngoài cách làm sao chạy trốn khỏi cái chết. Nhiều văn hóa khác
nhau đã cố gắng tìm cách chạy trốn khỏi cái chết bằng các đường lối khác
nhau.
Tâm cần một cuộc sống vĩnh
viễn nhưng đời sống lại tạo xác thân vật chất vô thường và ta gọi đó là
đời sống. Sau đó sự bất toại nguyện đó xáo trộn tâm.
Với những người có một
sống lâu và hạnh phúc tương đối, có sự tu tập vững vàng do huấn luyện, cái
chết sắp xẩy đến là một hiện tượng tự nhiên với họ. Khi thời điểm đến,
người sắp chết trở nên điềm tĩnh, từ bỏ thế giới này một cách bình thản,
tin là mình đã sống một cuộc đời không hại ai, đã đóng góp vào sự tiến bộ
cho nhân loại. Nơi có những niềm tin thâm sâu và văn hóa thuần khiết, quan
niệm cái chết không tránh được, là phần tự nhiên của vòng đời được chấp
nhận. Tại những xã hội đó, người ta chấp nhận với triết lý đó là sự không
thể tránh khỏi này và bao giờ cũng đối xử với thái độ đàng hoàng bình
thản.
Loài người là chúng sanh
duy nhất có thể hiểu được một ngày nào đó phải đương đầu với cái chết. Cho
nên tại sao chúng ta không cần thiết phải lo lắng về việc đó. Lo âu về cái
chết không thể ngưng nó lại được, vậy nên tại sao ta không chấp nhận nó
một cách bình tĩnh? Văn hào Shakespeare viết Julius Caesar nói:
' Trong tất cả những kỳ
diệu mà tôi đã nghe và thấy. Đối với tôi dường như rất lạ lùng là con
người sợ hãi (cái chết). Vì cái chết ấy, sự chấm dứt cần thiết, sẽ đến khi
nó phải đến'.
Mặt khác có những người
không mảy may quan tâm khi chấm dứt cuộc đời hay cái gì sẽ xẩy ra sau đó.
Tuy nhiên, một số đông không những lo lắng về những khó khăn hiện hữu mà
còn lo lắng về kiếp sau. Tất cả những chúng sanh khác đều không có cảm
nghĩ đó.
Chúng ta phải hiểu rằng dù
ta áp dụng phương pháp nào để vượt qua những khó khăn, chúng ta không thể
nào được hoàn toàn thỏa mãn trong đời sống cho đến khi tâm ta được huấn
luyện và giảm thiểu ham muốn vị kỷ. Giáo lý của Đức Phật trình bày rõ ràng
để ta hiểu bản chất những khó khăn nhân loại, làm sao khắc phục chúng, và
làm sao đối đầu với cái chết mà không sợ hãi.
Hãy nhớ câu nói giản dị
trong Phật Giáo: ' Đời sống mong manh nhưng cái chết là điều chắc chắn' .
Chết không phải là chấm dứt đời sống. Thực ra, chết chỉ là sự bắt đầu của
đời sống và sanh là sự bắt đầu của cái chết. Mặt trời lặn tại xứ này lại
mọc tại xứ khác. Cho nên sanh và chết tương quan liên hệ lẫn nhau.
Sanh của con người là cái
sanh phiền não. Càng sống lâu bao nhiêu thì lại càng trở nên đần độn bấy
nhiêu. Cay đắng làm sao, người đó sống cho cái mà không bao giờ đạt được.
Cái ham sống trong tương lai khiến người đó không thể sống trong hiện tại
'. (Trang Tử)
Đức Phật nhắc nhở chúng ta
tất cả mọi thứ hiện hữu đều vô thường. Có sanh là có tử; có mọc lên thì có
tàn lụi, có xum họp thì có chia lìa. Làm sao có sanh mà không có tử? Làm
sao có sum họp mà không có chia ly?
Sanh và tử là hai đầu của
cùng một sợi dây. Chúng ta không thể lấy đi cái chết và chỉ để lại cuộc
sống. Đầu tiên con người tranh đấu để tránh cái chết. Sau đó người đó sửa
soạn cho cái chết. Thực ra chúng ta không sống mà vật lộn để sống. Cái đó
gọi là sống.
TÍNH CHẤT THIÊNG LIÊNG CỦA
ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI
NHỮNG LỜI PHẬT DẠY - (KINH
PHÁP CÚ)
Không vì mình, cũng
không vì người mà người trí làm bất cứ điều gì sai trái; không nên cầu
con trai, giàu có, vương quốc bằng việc sai trái; không nên cầu mong
thành công của mình bằng những phương tiện bất chính. Được vậy mới thật
là người đạo đức, trí tuệ và ngay thẳng. - 84
Sống trăm tuổi mà phá
giới buông lung, chẳng bằng sống chỉ một ngày mà trì giới, tu hành. -110
Kẻ ác cho là vui lúc
việc ác chưa chín; đến khi việc ác mang trái, kẻ ác mới nhìn thấy kết
quả tội lỗi. -119
Người thiện cho là
khổ khi việc lành chưa chín; khi việc lành mang trái, người thiện mới
nhìn thấy kết quả tốt. -120
Kẻ làm hại người
không làm hại ai, thanh tịnh và vô tội, tội ác sẽ quay trở lại kẻ ấy như
bụi bay ngược gió. -125
Kẻ muu cầu hạnh phúc
cho mình mà lại dùng gậy gộc phá hoại hạnh phúc người khác, sẽ không
được hạnh phúc. -131
Khi kẻ ngu dại làm
điều sai quấy, kẻ đó không hiểu bản chất của tội lỗi; bởi hành vi của
chính mình kẻ ngu dại đó bị dau khổ giày vò, giống như người bị lửa đốt
. -136
Kẻ lấy gậy gộc hãm
hại người lương thiện không gậy gộc, do hành vi tội lỗi của chính mình
không bao lâu phải chịu một trong những thống khổ sau: thân thể bị đau
đớn, bại hoại, hoặc bị trọng bệnh, tán tâm loạn ý, b? bức bách hay bị
kết trọng tội, hoặc bị quyến thuộc ly tán, tài sản tan nát, hoặc bị lủa
cháy. Ngay khi xác thân bị hủy diệt, con người ngu dại ấy sẽ sanh vào
các cõi đau khổ. -138, 139, 140
Nếu tự biết thương
mình, ta nên bảo vệ mình bằng cách gìn giữ tâm ý. Trong mỗi ba thời,
người trí phải luôn tỉnh thức. -157
Tội lỗi gây ra tự nơi
mình, và cũng tư nơi mình gây ra ô trược. Tự mình không gây tội lỗi, và
cũng tự mình thanh tịnh lấy mình. Thanh tịnh hay không thanh tịnh do
chính nơi mình. Không ai có thể thanh tịnh người khác được. -165
Người nào trước làm
điều tội lỗi, nay biết làm lành, người như vậy là người chiếu sáng thế
gian như vừng trăng ra khỏi mây mù. -173
Sung sướng thay ta
sống không hận thù giữa những người thù hận; giữa những người thù hận,
ta sống không hận thù. -197
Người thắng chuốc thù
oán, kẻ bại sống trong đau khổ. Chẳng màng tới thắng bại, sẽ sống đời
hạnh phúc an vui. -201
Từ ái dục nảy mầm lo
âu, từ ái dục nảy mầm sợ hãi, người xa lìa ái dục không còn lo âu, chẳng
còn sợ hãi. -216
Lấy tình thương thắng
nóng giận. Lấy hiền lương thắng bạo tàn. Lấy bố thí thắng san tham. Lấy
chân thật thắng dối trá. -223
Như rỉ sinh ra từ
sắt, rồi lại trở lại ăn sắt, cũng vậy, hành vi ác của chính người đó sẽ
dẫn người đó vào cõi thống khổ. -240
Không lửa nào bằng
lửa ái dục, không cố chấp nào bằng sân hận, không lưới nào bằng lưới ảo
tưởng, không sông nào bằng sông tham dục. -151
Thấy lỗi người thì
dễ, thấy lỗi mình mới khó. Lỗi người, ta sàng như sàng gạo để phanh
phui, còn lỗi mình, ta cố che giấu như kẻ cờ gian bạc lận che giấu quân
bài. -252
Người sợ cái không
đáng sợ, không sợ cái đáng sợ, cứ ôm tà kiến ấy, địa ngục khó lánh xa.
-317
Lỗi biết rằng lỗi,
không lỗi biết rằng không lỗi. giữ tâm chánh kiến ấy, đường lành thấy
chẳng xa. -319
Nếu không có bạn đồng
hành khôn ngoan sống với bạn, người hiền lương và trí tuệ hãy giống như
vua bỏ nước loạn, nên sống một mình như con voi sống trong rừng voi.
-329
-- Kinh Pháp Cú
---o0o---
Mục Lục
|
01
|
02
|
03
|
04
|
05
---o0o---
Source :
BuddhaSasana Home Page
Cập
nhật: 1-01-2003
Trình
bày: Linh Thoại