Chùa An Dưỡng nhìn từ góc
trái
3. Bới lông
tìm vết
Từ những nguyên do trên ,ta có
thể suy đoán: khoảng mười lăm năm, sau ngày đất Khánh Hòa thuộc về Việt
Nam thế nào cũng có Chùa thờ Phật được xây cất. Tất nhiên Chùa được dựng
bằng tranh nứa mây tre và qui mô không có lấy gì to lớn.
Vậy chùa An Dưỡng thuộc thôn
Thái Thông, xã Vĩnh Thái được tạo lập vào năm nào? Hiện nay chưa biết được
chính xác vì:
_Thứ nhất: Sự kế truyền qua các
đời Sư trụ trì của Chùa không được thống nhất và liên tục .
a/ Không được thống nhất:
Vị Tổ khai sơn của Chùa có pháp
húy (tên trong đạo) là THIỆT PHÚ, đời thứ ba mươi lăm thuộc Thiền phái Lâm
Tế. Thiền phái này được truyền sang Việt Nam bởi các Thiền Sư Trung Hoa,
với dòng kệ truyền pháp:
Tổ định giới
định tôn
Phương quảng
chứng viên thông,
Hành siêu minh
thiệt tế,
Liễu đạt ngộ
chơn không ..v.v..
Nếu sự kế truyền được nhất
thống thì vị kế tiếp Ngài Thiệt Phú phải có pháp húy được bắt đầu bằng chữ
TẾ, tức đời thứ 36 và vị tiếp theo là chữ LIỄU đời thứ 37 và.v.v.. Thế
nhưng những Long vị hiện thờ nơi tổ đường của Chùa, thì vị kế tiếp ngài
THIỆT PHÚ không mang chữ TẾ hay chữ LIỄU, mà là chữ Đại (Đại Quang) và chữ
Đạo (Đạo Thuận). Hai vị này không thuộc về dòng kệ truyền pháp của vị tổ
khai sơn, mà thuộc dòng kệ truyền pháp của tổ THIỆT DIỆU LIỄU QUÁN.
Ngài là vị Thiền Sư Việt Nam
đầu tiên ở Đàng trong xuất ra dòng kệ truyền pháp cho thiền phái của Ngài,
kệ ấy như sau:
Thiệt tế đại đạo
Tánh hải thanh
trừng
Tâm nguyên quảng
nhuận…
Sự kiện trên cho thấy sự kế
thừa qua các đời Sư trụ trì của Chùa, không được nhất thống từ trên xuống
theo thứ tự của một dòng kệ truyền pháp
B/ Không liên tục:
Chỉ riêng đời thứ ba mươi tám,
Chùa có đến ba vị Sư trụ trì thuộc ba dòng kệ truyền pháp khác nhau.
* Một là Ngài Đạo Thuận. Ngài
nầy thuộc dòng kệ truyền pháp của tổ THIỆT DIỆU LIỂU QUÁN
* Hai là Ngài Đạt Phước. Ngài
thuộc dòng kệ truyền pháp của tổ THIỆT PHÚ (tổ khai sơn Chùa An Dưỡng),
nhưng cách tổ THIỆT PHÚ hai đời.
* Ba là Ngài Chương Huấn, Ngài
nầy thuộc dòng kệ truyền pháp của tổ MINH HẢI. Ngài là người khai sơn Chùa
Chúc Thánh, Quảng Nam với dòng kệ truyền pháp:
Minh thiệt pháp
toàn chương
Ấn chơn như thị
đồng
Chúc thánh thọ
thiên cửu vv…
Sang đời Sư trụ trì thứ ba mươi
chín, vị nầy lại thuộc về dòng kệ truyền pháp của tổ THIỆT PHÚ. Ngài có
pháp húy là Ngộ Chí, tự Châu Phê. Đời thứ bốn mươi và bốn mươi mốt không
có. Nhưng có đời thứ bốn mươi hai, đó là Ngài Trừng Minh, tự Hữu Thế, Ngài
thuộc dòng kệ của tổ THIỆT DIỆU LIỂU QUÁN.
Sự trình bày trên, ta thấy các
đời Sư trụ trì của Chùa không được truyền thừa theo một dòng kệ nhất thống
từ trên xuống, mà có đến ba dòng kệ đan xen vào nhau. Điều nầy nói lên các
đời Sư trụ trì của Chùa không được liên tục và thường bị gián đoạn.
Thứ hai:
_Kinh qua những cuộc chiến
tranh giữa nhà Nguyễn Tây Sơn với nhà Nguyễn Gia Miêu, sau đó là cuộc
chiến chống thực dân, đế quốc với hơn một thế kỷ đất nước ngập chìm trong
khói lửa chiến chinh, thử hỏi môﴠngôi Chùa cổ khiêm tốn nằm giữa vùng thôn
quê hẻo lánh, làm sao có thể bảo toàn được những di tích đặc trưng của
mình, khỏi bị những tác động xấu do chiến tranh gây nên.
Từ những nguyên nhân trên khiến
hiện nay ta khó có thể xác định một cách chính xác, là Chùa An Dưỡng được
tạo lập vào khoảng thời gian nào. Tuy nhiên, dù khó khăn nhưng chúng ta
vẫn cố lần theo sách sử cũng như những di vâﴠcủa Chùa để tìm hiểu niên đại
khai sáng của ngôi cổ tự nầy.
Vào năm 1644, người Mãn Châu
đánh đổ nhà Minh của người Hán và lập lên nhà Thanh ở Trung Hoa, từ đó
phát sinh nhiều phong trào "Bài Thanh phục Minh"của người Hán. Nói khác
đi, sau khi nhà Thanh cai trị toàn bộ nước Trung Quốc đã nảy sinh ra nhiều
xung đột giữa hai dân tộc. Người Hán luôn tìm cách chống lại sự thống trị
của người Mãn Châu, và người Mãn Châu cũng nghi kìm mọi cách để trấn áp
sự quật khởi của người Hán, do vậy mới có việc các tướng tá, dân thường và
Tăng lữ người Hán vượt biên sang Việt Nam(Đàng trong) xin làm thường trú
nhân.
Theo "Việt Nam Sử Lược". Thì
năm Kỷ Mùi (1679) , có quan nhà Minh là tổng binh trấn thủ đất Long Môn
(Quảng Tây), là Dương Ngạn Định, phó tướng Hoàng Tiến. Tổng binh Châu Cao,
Châu Lôi và Châu Liêm (Quảng Đông) là Trần Thượng Xuyên, phó tướng Trần An
Bình không chịu làm tôi nhà Thanh, đem 3000 quân cùng 50 chiếc thuyền sang
xin làm dân Việt Nam. Chúa Hiền nhân muốn khai khẩn đất Chân Lạp, bèn cho
vào ở đất Đông Phổ (tức đất Gia Định).
Cũng theo Việt Nam sử lược:
"bấy giờ có người khách Quảng Đông tên là Mạc Cửu, trong khi nhà Thanh
cướp ngôi nhà Minh bên Tàu, bỏ sang ở Chân Lạp, thấy ở phủ Sài Mạc có
nhiều người các nước đến buôn bán, bèn mở sòng đánh bạc, rồi lấy tiền
chiêu mộ những lưu dân lập ra bảy xã, gọi là Hà Tiên. Năm mậu tý (1708)
Mạc Cửu xin về chúa Nguyễn. Chúa phong cho làm chức Tổng binh giữ đất Hà
Tiên".
Trên đây là những tướng tá và
dân thường vì bất phục nhà Thanh chạy sang Việt Nam (Đàng trong) xin tạn.
Còn các vị du Tăng Trung Hoa thì sao?
Theo Việt Nam Phật Giáo sử luận
của Nguyễn Lang thì: Thế kỷ thứ mười bảy ghi nhận sự có mặt của các Thiền
sư Trung Hoa tại Đàng trong:
_Các Thiền sư Viên Cảnh, Viên
Khoan ở Quảng Trị.
_Thiền sư Minh Hoằng khai sơn
Chùa Ấn Tôn, Thuận Hóa.
_Thiền sư Giác Phong khai sơn
Chùa Thiên Thọ, Thuận Hóa.
_ Thiền sư (Minh Hải) Pháp Bảo
khai sơn Chùa Chúc Thánh, Quảng Nam.
_Quốc Sư Hưng Liên, trụ trì
Chùa Tam Thai, Quảng Nam.
_Thiền Sư Minh Hải Phật Bảo,
khai sơn Chùa Thiên Ấn. Quảng Ngãi.
_Thiền sư Tế Viên khai sơn Chùa
Hội Tôn, Phú Yên.
_Thiền sư Nguyên Thiều khai sơn
Chùa Thập Tháp Di Đà ở Bình Định và Chùa Quốc Ân ở Hà Trung, Thuận Hóa.
_Thiền sư Thạch Liêm khai sơn
Chùa Thiền Lâm, Thuận Hóa.
Tất cả đều thuộc phái Thiền Lâm
Tế, chỉ trừ hai vị Hưng Liên và Thạch Liêm thuộc Thiền phái Tào Động.
Vấn đề là Thiền Sư TẾ VIÊN,
Ngài khai sơn Chùa Hội Tôn (tức Chùa Cổ Lâm xã An Thạch ) ở Phú Yên. Ngài
người Trung hoa, không rõ ông sang Đàng trong vào năm nào, và khai sơn
Chùa Hội Tôn được bao lâu, trước khi thiền sư Liểu Quán đến đây làm chú
tiểu lúc lên 12 tuổi (1682)?
Thiền Sư Liểu Quán, húy Thiệt
Diệu, theo Nguyễn Đình Tư trong "Non nước Phú Yên": "Thuở ấy Nguyễn chúa
Minh Vương rất yêu mến đạo đức của Ngài thường mời vào cung đàm đạo, nhưng
Ngài vẫn từ chối không muốn lui tới chốn quyền môn". Còn giáo sư Nguyễn
Lang trong Việt Nam Phật Giáo Sử Luận: "Nếu ở Đàng ngoài Thiền sư Chân
Nguyên được xem là nhân vật then chốt để phục hưng Phật Giáo Đàng ngoài.
thì ở Đàng trong, Thiền sư Liểu Quán được xem là vị Thiền sư lãnh đạo công
việc phục hưng Phật giáo Đàng trong".
Điều cần nhấn mạnh là, trong
khoảng thời gian từ năm 1644 đến năm 1687, đại đa số các Thiền Sư Trung
Hoa sang Việt Nam trong thời kỳ này, các Ngài phần đông đều có pháp húy
được bắt đầu bằng chữ Minh như.
_Thiền sư Minh Hành đến kinh đô
Thăng Long vào năm 1633" (VNPGSL nguyễn Lang).
_Thiền sư Minh Hoằng người khai
sơn Chùa AᮠTôn (Chùa từ Đàm ngày nay), không rõ Ngài sang Đàng trong vào
năm nào.
_Thiền sư Minh Hải Pháp Bảo,
người khai sơn Chùa Chúc Thánh, Quảng Nam. "Tương truyền ông từ Quảng Đông
được Nguyên Thiều mời qua Đại Việt trong thời chúa Nguyễn Phúc Trăn
(1687-1691)".
_Thiền sư Minh Hải Phật Bảo,
người khai sơn Chùa Thiên Aᮬ Quảng Ngãi. Không rõ Ngài sang Việt Nam vào
năm nào.
Đồng thời còn có các thiền sư:
Minh Vật Nhất Trí, Minh Giác Kỳ Phương, Minh Dung Pháp Thống, Minh Trí
Nguyệt Hạnh …Những vị này sang Đàng trong thể theo lời thỉnh mời của Chúa
Nguyễn Phúc Trân, qua trung gian là Ngài Nguyên Thiều (VNPGSL-Mật Thể ).
Điều đáng ý là, trong những Thiền Sư Trung Hoa sang Đại Việt (Đàng trong)
trong thời gian nầy có một vị cũng có Pháp húy bắt đầu bằng chữ MINH, đến
định cư tại Ninh Hòa, Khánh Hòa đó là Thiền Sư Minh Lượng. Không rõ Ngài
sang Đàng trong vào năm nào, chỉ biết Ngài có hai vị đệ tử xuất gia là
Thiệt Địa và Thiệt Phú.
_Thiền Sư Minh Lượng khai sơn
Chùa Bửu Phong ở thôn Phong Aᰬ xã Ninh Bình, huyện Ninh Hòa. Không rõ Ngài
sang Việt Nam là do tạn nhà Thanh (1644-1687), hoặc do Ngài Nguyên Thiều
vâng mệnh chúa Nguyễn mời sang (1687-1691). Sau hai khoảng thời gian trên,
không thấy có sách sử nào ghi chép về việc các Thiền Sư Trung Hoa, du hành
sang Việt Nam có Pháp húy khởi đầu bằng chữ Minh. Hai vị đệ tử xuất gia
của Thiền sư Minh Lượng: Thiệt Địa, Thiệt Phú.
_Ngài Thiệt Địa, người khai sơn
Chùa Kim Sơn ở thôn Ngọc Hội xãVĩnh Ngọc, thành phố Nha Trang.
_Ngài Thiệt Phú, người khai sơn
Chùa An Dưỡng tại Thôn Thái Thông, xã Vĩnh Thái, thành phố Nha Trang.
Nguyên lai hai Ngài THIỆT ĐỊA
và THIỆT PHÚ?
Sở dĩ xác quyết hai Thiền Sư
Thiệt Địa và Thiệt Phú là đệ tử của Thiền sư Minh Lượng là vì:
_ Đến nay (1997), tại Khánh Hòa
nói chung chưa tìm thấy có vị nào có Pháp húy chử MINH ngoài Thiền sư Minh
Lượng như đã nêu.
_ Chỉ có chữ MINH mới truyền
xuống chữ THIỆT. Chẳng hạn:"Hành siêu minh thiệt tế…" hay "Minh thiệt pháp
toàn chương".
_ Hiện nay tại thôn Phú Gia xã
Ninh Trung, huyện Ninh Hòa còn lưu thờ Long vị và Mộ Tháp của Ngài Thiệt
Địa tại Chùa Kim Ấn. Ngài là người khai sơn.
_ Theo đại lão Hòa Thượng Thích
Trí Nghiêm năm nay 89 tuổi (1997) cho biết hai Ngài Thiệt Địa và Thiệt Phú
là đệ tử của Thiền sư Minh Lượng. Cũng theo Hòa Thượng Trí Nghiêm, các
Ngài đều là người Trung Hoa. Cho dù hai Ngài Thiệt Địa và Thiệt Phú là
người Hoa hay người Việt thì hai Ngài vẫn cùng thế hệ với Ngài Thiệt Diệu
Liểu Quán, người Việt Nam.
Quan Âm
Các - Chùa An Dưỡng nhìn từ xa
4. Thử đối chiếu giữa hai ngài THIỆT DIỆU và THIỆT PHÚ
_Ngài Thiệt Diệu người Việt
Nam, sinh năm Mậu Tuất (1670) tại tỉnh Phú Yên, xuất gia với Thiền Sư Tế
VIÊN, người Trung Hoa. Năm 20 tuổi (1690 ) "ông vượt núi băng ngàn ra tận
Thuận Hóa, tìm tới Chùa Thiên Thọ ở núi Hàm Long cầu học với Thiền sư Giác
Phong" (VNPGSL- Nguyễn Lang).
_ Ngài Thiệt Phú không rõ tịch
năm nào? Chỉ biết Ngài sinh năm Ất mùi (1667). Bia ký nơi mộ tháp còn ba
chữ "Lai Ất Mùi". Theo Phật Giáo sinh ra đời là "Lai "và chết là "Khứ ".
_Như vậy tuổi đời của Ngài
Thiệt Phú lớn hơn Ngài Thiệt Diệu ba tuổi (1667–1670). Năm 1690, Ngài
Thiệt Diệu ra Thuận Hóa tầm Sư học đạo, lúc này Ngài đã 20 tuổi.
_Vậy cũng có thể năm 1690 Ngài
Thiệt Phú, cùng Thầy là Thiền sư Minh Lượng sang Việt Nam_ Đàng trong.
Điều này trùng hợp với việc Chúa Nguyễn Phúc Trân nhờ Ngài Nguyên Thiều
sang Trung Hoa, mời các Thiền Sư Trung Hoa qua Việt Nam mở Đại giới đàn
trong thời gian từ 1687 –1691. Và lúc này Ngài Thiệt Phú đã 24 tuổi 1667
–1691.
_Năm 1708, Ngài Thiệt Diệu khai
sơn Chùa Thiền Tông ở núi Thiên Thai, Thuận Hóa, lúc đó Ngài đã 38 tuổi
đời.
_Vậy cũng có thể năm 1708, Ngài
Thiệt Phú khai sơn Chùa An Dưỡng và Ngài đã được 41 tuổi đời (để phân biêﴍ
với tuổi đạo). Đồ𮧠thời năm 1708, đất Khánh Hòa nội thuộc Việt Nam được 55
năm (1653–1708) một thời gian tương đối đủ để người dân Việt xây dựng quê
hương mới của mình về nhiều lĩnh vực, trong đó có Đình, Chùa.
Điều quan trọng hơn cả là, theo
Đại nam Nhất Thống Chí có đoạn ghi :"Chùa Kim Sơn, ở thôn Ngọc Tỏa ( nay
là Ngọc Hội), huyện Vĩnh Xương, xưa gọi là Chùa Kim Sơn, không rõ dựng từ
đời nào, năm Canh Thân (1740), đời Thế Tông Hoàng Đế, sắc cho đổi tên là
Chùa Qui Tôn, lại ban cho biển ngạch. Năm 1740 là năm Cảnh Hưng nguyên
niên. Đàng trong dưới thời Chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765).Vậy tính từ
năm Chùa Kim Sơn do Ngài Thiệt Địa khai sáng đến nay đã tròn 257 năm
(1740-1997); tức là tính từ năm được Chúa Nguyễn ban biển ngạch; nếu tính
vậy là không hợp lý. Bởi chẳng lẽ Chùa vừa cất xong liền được nhà Chúa ban
biển ngạch sao?
Xưa nay một ngôi Chùa được Vua
Chúa, hoặc nhà đương quyền quan tâm ban tặng sắc tứ, biển ngạch hay di
tích lịch sử, ngôi Chùa ấy phải hội đủ một trong các yếu tố sau:
_Chùa mang nặng một dấu ấn lịch
sử về một mốc thời gian nào đó rất quan trọng của đất nước.
_Chùa được xây dựng trên qui mô
lớn và có nét đặc trưng về nghệ thuật kiến trúc.
_Chùa có ảnh hưởng tốt và tọa
lạc một nơi danh thắng.
_Chùa có một, hoặc nhiều bậc
Cao Tăng Đại Đức cư ngụ gây được ảnh hưởng tốt trong dân gian, hoặc có
đóng góp vào việc "An bang tế thế" của nhà đương quyền.
Đại nam Nhất Thống Chí còn cho
biết "…không rõ dựng từ đời nào …".Vậy có thể Chùa Kim Sơn được xây dựng
trước năm 1708, hoặc ít ra là năm 1708, nếu giả thuyết này hợp lý thì sau
32 năm, Chùa được xây dựng mới được Chúa Nguyễn ban cho biển ngạch.Theo
chúng tôi thời gian như vậy là đủ, và không thể ít hơn đối với một dinh
trấn hãy còn "non trẻ" như dinh Thái Khang (Khánh Hòa hiện nay). Nếu năm
1708 là năm Chùa Kim Sơn được khai sáng, tính đến nay đã là 289 năm
(1708_1997), và Chùa An Dưỡng cũng thế.
_Chùa Kim Sơn và Chùa An Dưỡng
do hai Ngài Thiệt Địa và Thiệt Phú sáng lập, có thể có sự khác nhau về
thời gian, nhưng không quá xa.
5. Vị thế chùa An Dưỡng tọa lạc
Chùa An Dưỡng tọa lạc trên một
khu đất cồn bãi. Cách nay 289 năm, khu đất này được bao quanh bởi sông Ngư
Trường và một chi lưu của sông này.
Theo Đại Nam Nhất Thống Chí:
"Sông Phú Lộc ở cách huyện Vĩnh Xương 100 trượng về phía bắc, có ba nguồn:
_ một nguồn từ ngã ba sông Cầu
chảy về phía đông 21 dặm qua thôn Xuân Mỹ.
_ một nguồn từ trong động Mản,
chảy về phía đông nam 28 dặm đến xã Xuân Mỹ thì hợp nhau, rồi chảy về phía
đông bắc 27 dặm, rồi vào sông Phú Lộc, qua phía bắc tỉnh thành, lại chảy
về phía đông 12 dặm, qua xã Phú Xuân, rồi chia thành ba nhánh: một nhánh
chảy về phía Bắc chừng 12 dặm; một nhánh chảy về phía đông nam hơn 10 dặm,
đều đổ ra cửa lớn Cù Huân; một nhánh từ thôn Hội An chảy chuyển sang phía
nam 19 dặm đổ vào cửa bé Cù Huân, tục gọi sông Ngư Trường tức sông nầy.
Sông Ngư Trường hiện nay không còn, chỉ còn từng khúc, từng đoạn chạy từ
tây xuống đông và đông nam, qua các xã Diên An, Vĩnh Trung, Vĩnh Hiệp Vĩnh
Thái và Vĩnh Trường. Cửa Bé Cù Huân hiện nay thuộc về địa phận phường Vĩnh
Trường.
Do đâu Ngài Thiệt Phú
đêhu đất nầy kiến lập Chùa AN DƯỠNG:
Theo Đại Nam Nhất Thống Chí
(ĐNNTC): "Tấn Cửa Bé Cù Huân ở cách huyện Vĩnh Xương 29 dặm về phía đông
nam" (ĐNNTC ghi là phía đông bắc. Theo chúng tôi, ghi như thế không đúng,
vì phía đông bắc huyện Vĩnh Xương không có Tấn Cửa Bé Cù Huân), cửa lạch
rộng 190 trượng, thủy triều lên sâu 6 thước, thủy triều xuống sâu 4 thước.
Ngoài cửa có hòn Lam Nguyên, hòn Tằm, hòn BaLa, hòn Lớn, hòn Môn, các đảo
nầy bao quanh, tàu thuyền tụ tập. Gió Bắc thì tàu đổ phía Nam núi, gió tây
thì đổ phía bắc núi, đều được an ổn. Gần đó có thôn Trường Tây".
Theo đọan văn trên của ĐNNTC,
thì có thể Ngài Thiệt Phú từ Ninh Hòa, theo thương thuyền địa phương để
vào Diên Khánh hóa đạo, thuyền đi vào ngã Cửa Bé Cù Huân theo sông Ngư
Trường tiến lên Diên Khánh. Khi đi ngang qua khu đất nầy (khu đất hiện
chùa An Dưỡng tọa lạc) Ngài phát hiện thấy đây là cuộc đất đắc địa có thể
kiến tạo Chùa để hoằng hóa Phật pháp. Nhân đó Ngài dừng bước vân du để ở
lại đây lập Chùa tu niệm và độ sinh.
Địa thế Chùa AN DƯỠNG:
Xét về mặt phong thủy, Chùa tọa
lạc trên một thế đất, sau lưng có hòn Dữ, hòn Ngang (xã Diên Điền) ở về
hướng tây bắc làm "huyền vũ"(lưng dựa), tiền diện là hướng đông nam, gần
thì có sông Ngư Trường làm "minh đường", xa thì có hòn núi Cấm làm án
phong (núi Cấm thuộc địa phận thôn Thái Thông). Bên hữu có dãy Cửu Khúc
sơn chạy từ núi Bộc Bố (dân gian thường gọi núi Bộc Bố là Suối đổ) theo
hướng đông nam xuống đến núi Giáng Hương, tức "hữu bạch hổ". Bên tả có dãy
núi hòn Thơm (xã Vĩnh ngọc), cũng theo hướng đông nam xuống hòn Sạn, và
dãy núi Cù Lao tạo nên thế "tả thanh long". Theo thuật phong thủy thì đây
là một cuộc đất"đắc địa’.
Tổ khai sơn Chùa AN
DƯỠNG
Như đã trình bày, Ngài Thiệt
Phú là người Trung Hoa, theo thầy là Thiền sư Minh Lượng sang Đàng trong,
định cư tại Ninh Hòa, Khánh Hòa vào khoảng thập niên 1680. Không rõ Ngài
tịch năm nào, vì chữ được khắc nơi mộ tháp của Ngài đã bị hư rất nhiều,
chỉ còn sáu chữ "Pháp danh THIỆT PHÚ giác linh" ở giữa bia và ba chữ "Lai
Ất Mùi" ở bên phải bia. Tức Ngài sinh năm AᴠMùi (1667). Tuy nhiên, có thể
căn cứ vào mộ tháp để suy diễn đôi điều về con người và đạo phong tu hành
của Ngài.Mộ tháp, thường thì hầu hết các vị Sư Tăng khi viên tịch đều được
an táng về hướng tây của Chùa (Tây Qui), Mộ Tháp Ngài Thiệt Phú cũng vậy.
Có điều chúng ta không rõ Tháp của Ngài được xây vào thời gian nào, xây
sau khi Ngài tịch hay về sau mới xây? Nếu tháp được xây ngay sau khi Ngài
tịch, thì ai là người chủ trương? Nếu người chủ trương xây tháp là đệ tử
xuất gia, thì tại sao các Long vị hiện còn thờ nơi Tổ đường không có vị
nào pháp húy chữ TẾ, tức chữ do chính Ngài truyền xuống? hoặc chữ LIỄU,
tức chữ thuộc thế hệ "Cháu" Ngài Thiệt Phú?. Hay cũng có thể Ngài không có
đệ tử xuất gia và Mộ Tháp của Ngài là do các đệ tử tại gia cùng chung xây
Tháp? Tất cả hiện nay vẫn là vấn đề còn tồn nghi. Nhưng, nhìn vào qui mô
to lớn của Tháp, ta có thể đoán được phần nào về người nằm trong Tháp.
Tháp được chia làm hai
phần Nội –Ngoại:
a-Phần Ngoại:
Phần ngoài của Tháp là một bức
tường thành bao quanh Tháp. Tường cao 90cm, dày 40cm theo hướng tây bắc -
đông nam. Chiều dài của tường đo được 4 thước 40cm, chiều ngang là 3m70cm,
mặt tiền có lối vào hai bên lối vào là hai trụ, xây theo kiểu trụ vuông,
cách nhau 1,90 m. Trên mỗi đầu trụ đắp một đóa sen hàm tiếu, cả trụ và búp
sen cao 1,20m. Mặt tiền của mỗi trụ là một "khóm sen cả lá lẫn hoa" –đắp
nổi theo dạng phù điêu. Từ hai trụ kéo giãn ra hai góc, uốn lên lõm xuống
theo dáng cánh sen cách điệu rất uyển chuyển. Tường thành được xây cách Mộ
tháp 38cm.
b-Phần nội:
Tháp gồm có ba tầng, tầng một
cao 1,38m, rộng 2m, bốn mặt đều nhau.Bên dưới chạy nổi hai đường viền.
Tầng hai cao 90cm, rộng 1,20m. Tầng ba cao 70cm, rộng 90cm, có đắp phù
điêu "bát bửu’. Trên cùng là một bông sen Hàm tiếu cao 60cm, đường kính
40cm. Tổng chiều cao của tháp là 2,98m.
Mặt tiền phần nội là một Hương
án, có đắp chân quì cao 20cm, bề ngang 60x40cm, tiếp đó là Bia ký. Bia cao
90cm, rộng 60cm, viền bia đắổi hoa văn chữ vạn. Bia được ẩn sâu vào thân
tháp 5cm. Nội dung bia còn lại những dòng sau: dòng giữa "…Pháp danh Thiệt
Phú Giác Linh" dòng bên phải còn ba chữ "Lai Ất Mùi". Dòng bên trái không
còn chữ . Bên ngoài bia có câu đối chữ nổi còn nguyên vẹn, mỗi vế năm chữ:
"Lạc hồng lai
mãn địa
Hoa khai chẫm
oanh đề"
Tạm dịch:
"Lạc hồng về
chật đất
Hoa nở thắm oanh
kêu".
Cả hai phần nội, ngoại Tháp
không xây bằng gạch hay ghè ống, mà bằng đá núi nhỏ. Chất liệu gồm: cát,
đá núi loại nhỏ và vữa.Theo các Bô lão trong thôn, vửa được tạo thành từ
vôi, mật đường, chất nhờn của cây Bời lời, ba thứ pha lại với nhau rồi
trộn với cát để xây..
II-Đạo phong Ngài Thiệt
Phú:
Hiện chưa tìm thấy có sách sử
nào ghi chép về đạo phong, hành trang và sở học của các đời Sư trụ trì
Chùa An Dưỡng nói chung, và của tổ Thiệt Phú nói riêng. Tuy nhiên, Tháp Mộ
vừa nêu ta có thể nhận xét, Ngài Thiệt Phú là bậc cao Tăng Đại Đức.
Cách nay hơn hai trăm năm chắc
chắn là cư dân thôn Thái Thông hãy còn rất ít, và như vậy sẽ không đủ cả
về nhân lực, tài lực để xây nên một ngôi Mộ tháp với qui mô tương đối to
lớn và đẹp đẽ như trình bày. Để xây dựng một ngôi Mộ tháp như vậy, cần có
sự đóng góp tiền bạc, công sức của Tăng, tín đồ từ nhiều nơi. Ngay như
những Mộ tháp về các đời sau, khi cư dân trong thôn đã đông đúc cũng không
có Mộ tháp nào "bề thế" như Mộ tháp Ngài Thiệt Phú. Điều đó đủ để tin rằng
Ngài Thiệt Phú là một cao Tăng đương thời, Ngài có đủ uy đức nhiếp hóa
được nhiều giới kính mộ và quy y với Ngài. Nếu giả thiết này không đúng,
thì Ngài phải là một người uyên bác về Nho học và Phật học, nhân đó Ngài
dùng sở học, sở tu để cảm hóa các hàng Quan lại, chức sắc trong Phủ ,
Huyện. Chỉ với một trong hai dữ kiện trên mới đủ uy lực thôi thúc lòng tín
ngưỡng của mọi người, khiến họ hoan hỷ hiến cúng sức lực tiền của để tạo
dựng nên một ngôi Mộ Tháp qui mô to đẹp vào bậc nhất thời ấy (có thể nói
như thế ) để tỏ lòng kính ngưỡng của họ đối với Ngài.
Ngay như hiện nay cũng vậy, hầu
hết các bậc chân tu, đạo cao đức trọng, khi quí Ngài viên tịch. Tăng Ni và
Phật tử đều rất hoan hỷ cúng dường tịnh tài để tôn tạo Mộ tháp Quí Ngài
thật trang nghiêm. Dù lúc sinh thời bản thân Quí Ngài không muốn điều đó.
6. NGÀI
CHƯƠNG HUẤN VÀ VIỆC IN KINH ĐẠI KHOA DU GIÀ
Như đã trình bày, Chùa An Dưỡng
có đến ba vị trụ trì đều thuộc đời thứ 38, và cả ba thuộc về ba thiền kệ
(phái ) truyền thừa khác nhau. Không rõ Mộ Tháp của ba vị này được an táng
ở đâu? Hiện nay chùa có khoảng 4 ngôi Mộ tháp: Một của Ngài Thiệt Phú, một
của Ngài Ngộ Chí, một của Ngài Trừng Minh, và một ngôi không rõ vị nào, vì
chữ khắc nơi Bia ký không còn. Đặc biệt là trường hợp Ngài Chương Huấn.
Ngài là người tổ chức in Kinh tại Chùa An Dưỡng, một người làm nên một "kỳ
tích cho Phật Giáo Khánh Hòa", thế nhưng không thấy Long vị của Ngài nơi
Tổ đường. Cũng không nghe ai truyền tụng gì về Ngài.
Ngài Chương Huấn thuộc đời 38
của dòng Thiền Chúc Thánh Quảng Nam. Không rõ Ngài về trụ trì Chùa An
Dưỡng năm nào, sau đó viên tịch tại đâu? Chỉ biết vào năm Minh Mệnh thứ
13, Ngài tổ chức in Kinh "Đại Khoa Du Già "tại Chùa An Dưỡng.
Sự việc là thế này: Năm 1993
nhân có việc đi Diên Khánh, chúng tôi (Thích Tâm Trí) được Thượng Tọa
Thích Như Pháp – trụ trì Chùa Thiên Lộc, xã Diên An trao cho một bản in
photocopy với những hàng chữ Hán:
"Đại Việt Quốc, Diên Khánh phủ,
Vĩnh Xương huyện, Xương Hà tổng, Thái An xã tức hữu :
_An Dưỡng tự húy Chương Huấn ,
tự Tông giáo trụ trì thủ hộ Kinh.
_Thiên Lộc tự, húy thượng Đạo
hạ Nguyên ,Viên Dung Hòa thượng chứng minh
_Long quang tự, húy thượng Liểu
hạ Đạt tự Bảo Hưng đại Sư truyền thọ.
Kệ vân :
Mỗi nhật thần
hôn nghệ chú hương,
Tạ thiên tạ địa
tạ quân vương
Thường kỳ xứ xứ
điền hòa thục,
Đản nguyện gia
gia thọ mệnh trường,
Thánh chúa hiền
thân an xã tắc.
Phụ từ tử thuận
ổn gia nương,
Tứ phương bình
định can qua tức,
Tam chúc toàn
xưng tụng vô cương.
Chư gia đàn Việt
tín …(mất hai chữ ).
Tạm dịch :
Xã thái an, tổng Xương Hà,
huyện Vĩnh Xương, phủ Diên Khánh, nước Đại Việt có: Thích Chương Huân, tự
Tông giáo trụ trì chùa An Dưỡng in ấn bảo hộ kinh.Hòa Thượng Thích Đạo
Nguyên, hiệu Viên Dung, trụ trì chùa Thiên Lộc chứng minh "việc in Kinh".
Đại sư Thích Liểu Đạt, tự Bảo
Hưng, tọa chủ chùa Long Quang phát hành kinh.
Kệ rằng :
Ngày ngày sớm
chiều năng đốt hương,
Tạ ơn trời đất,
tạ ơn Vua
Thường mong nơi
nơi, ruộng đồng tươi tốt được mùa
Nguyện cầu nhà
nhà mọi người được trường thọ,
Và đấng Minh
quân, tôi hiền trị yên xã tắc
Bậc làm cha thì
hiền, làm con thì thuận.
Khiến những bậc
Cha Mẹ được an lòng.
Bốn phương thiên
hạ thái bình, không có chiến tranh.
Ba là cầu chúc
những điều trên mãi mãi lâu bền
Các nhà Đàn Việt
tín (cúng)
Thượng Tọa Như Pháp cho biết
bản photocopy nầy được trích từ một quyển Kinh hiện do Thầy Như Thông lưu
giữ. Thời gian sau, chúng tôi đến Tịnh thất Thầy Như Thông xin được xem
quyển Kinh. Xem xong, chúng tôi ngỏ ý muốn thỉnh quyển Kinh về lại Chùa để
làm "Gia bảo", và Thầy Như Thông hoan hỷ đồng ý. Quả là "châu về hợp phố".
Đây là Kinh thuộc Mật Giáo,
Kinh được dùng vào việc cúng chẩn thí âm linh, tên Kinh là "Đại Khoa Du
Già". Cúng thí âm linh có hai khoa nghi, một là"Đại Khoa Du Già", hai la
𦱵ot; Tiểu Khoa Mông Sơn ".
Kinh in trên giấy trắng, loại
tốt, chữ in sắc nét, rõ và đẹp. Khổ giấy 17x27. Kinh có cả thảy chín mươi
ba (93) tờ kép, 186 tờ đơn. ( Ở phần đầu Kinh bị mất một số tờ), mỗi tờ có
tám hàng chữ, mỗi hàng có 18 chữ, và không phải toàn bộ quyển Kinh đều in
một cỡ chữ, có tờ chỉ in vài chữ thuộc về Mật chú, có tờ phần trên in hình
tượng Phật, hình chư vị Sư ngồi chẩn tế và hình ảnh các âm hồn, cô hồn đến
nghe Kinh và lãnh thọ của thí. Phần dưới là những bài thần chú và hướng
dẫn cách kiết âᮬ có tờ in chữ nhỏ lại, đó là phần chú giải những điều quan
yếu trong chánh Kinh. Trang áp chót ghi:
"Minh Mệnh thập tam niên, tuế
thứ nhâm thìn, ngũ nguyệt, sơ tam nhật (Ngày mồng ba tháng năm, năm nhâm
thìn, Minh Mạng thứ mười ba).
Kinh Đại Khoa DU GIÀ
được in tại Chùa AN DƯỠNG.
Có hai nguyên nhân để xác định
là Kinh được in tại Chùa An Dưỡng:
1/ Ở phần giới thiệu, Kinh có
ba chữ "THÁI AN XÃ". Xã Thái An là tên cũ của xã Vĩnh Thái, dưới thời Minh
Mệnh. Chùa Thiên Lộc, Chùa Long Quang không thuộc về xã Thái An. Hàng chữ
được khắc trên quả đại Hồng chung của Chùa An Dưỡng cũng có ba chữ "Thái
An xã".
2/ Ở phần giới thiệu ghi rõ
Ngài Chương Huấn là người "Thủ hộ Kinh", hai chữ "Thủ hộ" có nghĩa là chịu
trách nhiệm ấn loát và gìn giữ Kinh.
Thử phác họa đôi nét về sinh
họat in Kinh tại Chùa An Dưỡng cách nay đúng 164 năm (1833- 1997).
Ngày xưa việc in Kinh hoàn toàn
mang tính thủ công, thủ công thì đòi hỏi nhiều người phải qua nhiều công
đoạn. Chẳng hạn: vào rừng lựa và đốn cây, thường là cây Lòng mức, đem về
cưa xẻ lấy kích cỡ, bào thật nhẵn, hong khô. Tiếp đến là người viết chữ.
Phải là người có "hoa tay" không chỉ để viết chữ thật đẹp, thật đều mà còn
phải biết minh họa bằng hình ảnh, sau đó đến thợ chạm khắc chữ, chạm khắc
cũng là thợ tài hoa, có kinh nghiệm mới đảm trách nổi phần hành nầy. Sau
cùng là in và đóng thành quyển, với bấy nhiêu công đọan, đôi ba mươi người
hoặc đông hơn mới làm xuể. Và có thể người tại địa phương không thể làm
tất cả mọi công đọan, mà𠰨ải mời thêm người am tường công việc từ các địa
phương khác đến cộng tác. Để số người trên tiến hành việc in ấn được đều
đặn, lại phải cần có nhiều người lo việc ẩm thực, tiền nong.vv…Đồng thời
cũng có nhiều vị Sư từ các Chùa trong khu vực thường xuyên lui tới để
chung lo Phật sự quan trọng nầy đến thành công.
Điểm qua đôi nét giúp ta mường
tượng được cảnh sinh hoạt in Kinh tại Chùa An Dưỡng vào thời ấy rất nhộn
nhịp, kẻ đến người lui. Có thể nói, 164 năm về trước, Chùa An Dưỡng là một
xưởng in. Không rõ ngoài việc in Kinh Đại Khoa Du Già, Chùa có còn in thêm
Kinh nào nữa không? Và chắc chắn rằꮧ Ngài Chương Huấn là một bậc cao Tăng
đạo đức, vừa có sở học uyên thâm vừa có uy tín và ảnh hưởng lớn trong giới
Tăng, Tín đồ thời ấy.
7.
Ngài NGỘ CHÍ và công cuộc
Trùng tu Chùa AN DƯỠNG
Ngài húy là Ngộ Chí, Tự Châu
Phê, thuộc đời thứ 39, dòng kệ truyền pháp của Tổ Thiệt Phú. Không rõ Ngài
sinh năm nào, vì văn nơi Bia đều bị hư hoại, chỉ còn ba chữ "Kỷ T
Niên"(1928). Theo những người trong thân tộc, thì Ngài tịch vào ngày 25
tháng 2 năm kỷ tvà thọ trên 80 tuổi.
Ngài có rất nhiều đệ tử xuất
gia, nhưng hiện giờ chỉ biết được hai người: một là Ngài Chơn Dương, được
cử giữ chức trụ trì chùa Kim Sơn ở thôn Ngọc Hội, xãVĩnh ngọc, huyện Vĩnh
Xương, hai là Ngài Chơn Tạo, được cử giữ chức trụ trì Chùa Huê Quang ở
thôn Vĩnh Điềm Trung, xã Vĩnh Hiệp huyện Vĩnh Xương.
Công cuộc trùng tu Chùa
An Dưỡng năm 1893:
Theo các cụ cao niên trong làng
cho biết, xưa kia Chùa tọa lạc cách vị trí hiện nay khoảng 50m, và quay về
hướng đông nam (Chùa hiện nay thuộc hướng chánh nam). Không rõ chùa được
di dời về vị trí hiện nay vào năm nào, chỉ biết năm Thành Thái thứ năm
(1893), Chùa được đại trùng tu. Đó là căn cứ vào hàng chữ khắc nơi cây
Xiên tiền ở gian giữa của Chùa: "Thành Thái ngũ niên tuế thứ quí thập nhị
nguyệt, thập bát nhật tí khắc thượng lương tái tạo" (Thành Thái thứ năm,
ngày 18 tháng 12 năm quí tgiờ tý thượng lương cất lại).
Qui mô tái tạo năm Thành Thái
thứ năm:
a-Nền móng
Nền được xây cao hơn mặt đất 40
cm, bề ngang 8m, bề dài 9,50. Nền được xây bằng đá ong và đá núi loại nhỏ
vừa.
b-Kiểu dáng kiến trúc:
Chùa được kết cấu theo kiểu"ba
gian bốn vì", tức Chùa có ba gian với bốn vì kèo, vách xông thẳng đứng,
không có "chái lai"theo kiểu "căn bát vần". Mỗi vì kèo có sáu trụ, theo
tên gọi của giới thợ mộc là :"cột lòng nhứt, cột lòng nhì và cột con". Nơi
"giao quyên" của mỗi vì kèo là một cối chày được đặt trên một cây trính
–Trính đẻo theo hình võng nằm úp, trính được đặt trên hai đầu trụ lòng
nhứt. Hàng trụ lòng nhứt và lòng nhì đều có hàng Xiên đi qua. Từ trụ lòng
nhì ra đến hàng, cột con là kèo đoạn hay còn gọi là "kèo đấm". Kèo, cột,
xiên, trính tất cả đều là gỗ danh mộc (cam xe, hương mật). Chùa cao 4,50,
mái lợp ngói âm dương, tường vách không xây bằng gạch hoặc ghè ống như
thường thấy ở các đền Miếu cổ, mà xây bằng đá "san hô bánh tráng", san hô
bánh tráng là loại san hô chỉ dày từ 2 đé⮍ 3cm bề rộng không nhất định, có
thể bằng, nhỏ hoặc lớn hơn cái bánh tráng.
Cách đây trên 100 năm, hầu hết
các vùng nông thôn ViệⴠNam chưa có hệ thống giao thông thuận tiện như ngày
nay. Phương tiện vận chuyển vẫn dựa vào Voi, Ngựa, thuyền và sức người là
chính. Tương truyền, Chúa Nguyễn đã cho bốn thớt Voi vận chuyển tấm biển
ngạch từ Kinh Xuân vào phủ Diên Khánh để ban tạꮧ Chùa Kim Sơn. Có thể là
như vậy, vì tấm biển hiện Chùa Kim Sơn còn lưu giữ với kích thước: dài
2,82m, cao 0,79 m và dày 0,08m. Biển bằng gỗ gụ, mặt liền.Với kích thước
trên, phải nhờ sức Voi mới vận chuyển nổi. Biển hiện được treo trước chánh
điện của Chùa.
Như đã trình bày, Chùa An Dưỡng
xưa kia nằm ngay trên lưu vực sông Ngư Trường, do đó việc dùng ghe thuyền
vận chuyển đá san hô từ các ghề𮨠biển về xây Chùa là chuyện có thực. Hiện
nay cách Chùa 50m về hướng bắc có đám ruộng với tên gọi là "Ruộng bến
Sõng", tức nơi đây xưa kia thuyền ghe thường neo đậu. Trước chùa 50m, về
hướng nam, có đám ruộng tên là"ruộng cầu Chùa". Theo các cụ cao niên, cách
nay năm, sáu mươi năm, từ thôn Thái Thông lên thôn Đồng Nhơn phải đi qua
một chiếc cầu nhỏ, cầu bắc ngang khúc sông Ngư Trường còn sót lại và đã bị
bồi lấp cạn dần.
Đúng là:
"Sông kia
rày đã nên đồng
Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai".
Người xưa đã xây vách Chùa bằng
đá san hô bánh tráng với đất gò mối. Đất này được các con mối "tinh luyện"
nên rất nhuyễn, rất dẻo.Vách được xây rất dày 0.45m. (Cuối năm 1975 khi
chúng tôi về nhận trụ trì, vách đã bị phình ra lõm vô nên năm 1978 phải
phá bỏ để xây lại).
Ngoài chánh điện, Chùa còn có
các công trình phụ như: nhà đông, nhà tây, hậu liêu, và nhà trù.
Nhà đông là nhà được cất ở phía
đông của Chùa, nhà này dùng để tiếp khách thạⰯ phương Phật tử .
Nhà tây là nhà nằm ở phía tây
của Chùa. Nhà tây dùng vào việc thờ Tổ và tiếp khách Tăng.
Tất cả các công trình trên đều
được trùng tu tôn tạo vào thời Ngài Ngộ Chí trụ trì.
8. NGÀI
TRỪNG MINH VÀ TINH THẦN YÊU NƯỚC KHÁNG PHÁP
Ngài húy là Trừng Minh, tự Hữu
Thế, đời thứ 42, thuộc dòng kệ truyền thừa của Tổ Liễu Quán Thiệt Diệu.
Ngài sinh năm Tân mão (1891),
tịch ngày 17 tháng 12 năm Quý sửu (1973), thọ 82 tuổi. Không rõ Ngài trụ
trì vào năm nào, nhưng trong cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc, Ngài
là một người yêu nước cuồng nhiệt, nếu không nghe không thấy thì khó ai có
thể tưởng tượng nổi những việc làm hy hữu của Ngài. Năm 1971. Chúng tôi
được Ngài kể lại cho nghe, một trong những việc làm quả cảm hiếm có với
một nhà Sư. Đó là việc Ngài mắc võng cưa đà cầ Đầu thôn Thái Thông có một
cây cầu gọi là cầu Dài, cầu do người Pháp làm để họ hành quân chận đánh
Việt Minh ở mật khu Đồng bò với chủ đích là cưa đứt tất cả các cây đà cầu
để "xe hơi của mấy thằng Tây trong đồn Thủy Tú chạy ra sụp xuống cho toi
mạng", nhưng việc chưa thành. Ngài bị lính Pháp phát hiện và bắt đánh cho
một trận nhừ tử. Sau đó chúng dẫn Ngài lên Huyện Vĩnh Xương ở Phú Vinh
giam và tiếp tục tra tấn.Việc nầy tất cả các Bô lão trong làng đều xác
nhận là có thực. Ngoài ra, nhà Sư Trừng Minh còn đứng ra vận động dân
trong làng góp gạo, mắm, heo, gà, thuốc men cho lực lượng kháng chiến. Có
lần, cả năm mẫu ruộng, Chùa gặt hái lên được bao nhiêu, Ngài hiến tất cho
kháng chiến nuôi quân.
Chùa An Dưỡng dưới thời Ngài
Trừng Minh trụ trì là một cơ sở kháng chiến quan trọng vào bậc nhất nhì
của huyện Vĩnh Xương và thị xã Nha Trang. Chùa vừa là nơi tiếp tế lương
thực, vừa là nơi hội họp, vừa là nơi cứu thương đồng thời, Chùa cũng là
nơi tiếp đón và dung chứa các vị Lãnh đạo kháng chiến từ miền Bắc vào hoạt
động.
9.Từ Khí, Pháp Khí
-
Từ
Khí:
Từ khí cổ của Chùa xin liệt
kê ra đây một vài thứ tiêu biểu.
Chùa có ba khám thờ, tuy chạm
khắc không cầu kỳ tinh xảo, nhưng cũng trang nhã. Đó là khám thờ Phật,
khám thờ Tổ, và khám thờ Quan Thánh.
_ Khám thờ Phật; khám cao
3,4m; chiều ngang 2,4m; chiều sâu 1,2m. Khám sơn màu vàng đỏ, phần trên
cùng là diềm nhô ra vẽ hình trang trí Lưỡng Long Chầu Nguyệt, dưới diềm
khắc sáu chữ "Bát Nhã Ba La Mật Đa", hai bên hông là cặp câu đối, phần
trên khắc chạm nổi hình chữ Thọ theo kiểu cách điệu hình tròn và hai bên
viền câu đối là hoa văn chữ vạn chạm nổi từ trên xuống. Câu đối có nội
dung:
"Kinh thinh
Phật hiệu hoán hồi khổ hải mộng"
"Triêu chung mộ cổ cảnh tỉnh ái hà danh"
Tạm dịch:
Tiếng kinh
hiệu Phật vẫy gọi người mê rời bể khổ.
Sớm chuông chiều, trống thức tỉnh khách danh nơi sông ái.
Bên trong khám có 3 bệ thờ,
mỗi bệ cao cách nhau 0,1m, bệ trên cùng thờ tượng Phật Thích Ca Mâu Ni,
tượng đất cao 0,65m; bệ tầng giữa thờ chư vị Bồ Tát, gồm các tượng đồng,
gỗ và đất, tượng đa số là tượng ngồi, cao từ 0,2 – 0,3m. Các tượng nhỏ
hơn, cao từ 0,1 đến 0,15 m thì thờ ở kệ dưới cùng. Có cả thảy 24 tượng.
Hiện nay vì lý do an ninh, số tượng cổ này được "an trí " ở nơi cẩn mật
để ngừa bị đánh cắp.
B/
Pháp khí:
Pháp khí cổ của chùa có mấy
báu vật như: Bảo Chúng, Hồng Chung và kinh Đại Khoa Du Già.
_ Bảo chúng:
Bảo Chúng có chiều cao 0,28m,
đường kính 0,2m, phần trên don lại còn 0,18m, trên cùng đúc hình con Lao
hai đầu, dùng làm quai treo. Con Lao cao 0,12m, phần dưới cùng của Bảo
Chúng được trang trí hoa văn cành lá cách điệu ôm tròn, toàn thân Bảo
Chúng được chia làm 8 mảng nhỏ, phần trên 4 mảng nhỏ hơn 4 mảng phần
dưới, mỗi mảng xếp cách nhau theo thế chữ Công bởi các đường chỉ đúc
nổi.
Không rõ Bảo Chúng của Chùa
được chế tác vào niên đại nào, vì không có sự ghi chú nào trên thân nó,
cũng không rõ do biến cố nào đã vùi lấp nó dưới bờ vực sông Ngư Trường
ước chừng 0,8m. Vào năm 1963 người dân địa phương đào lấy đất làm nền
nhà thì phát hiện ra Bảo Chúng; Theo các Bô lão trong làng thì nơi Bảo
Chúng bị vùi lấp, là hướng chính điện của Chùa thời xa xưa khi mới được
thiết lập.
Bảo Chúng có hai công dụng:
Một là dùng vào các khóa lễ như: Công phu khuya, chiều vv… Hai là dùng
làm hiệu lệnh cho các sinh hoạt tu học trong Chùa như tọa thiền, báo
thức, học kinh, tảo và ngọ thực, chỉ tịnh vv… Điều này cho thấy Chùa An
Dưỡng vào thời xa xưa ấy Tăng chúng tu học tại Chùa có lẽ rất đông.
- Đại Hồng Chung:
Đại Hồng Chung cao 0,7m,
đường kính 0,49m chưa kể phần loe ra ở miệng, trên đỉnh đúc hình con Lao
có hai đầu ngậm ngọc dùng làm quai treo, quai treo cao 0,14m, dài 0,41m.
Thân Hồng Chung được chia làm 4 mảng, mỗi mảng được phân cách bởi 5
đường chỉ song song, đúc chỉ nổi, mỗi mảng tượng trưng cho mỗi mùa Xuân,
Hạ, Thu, Đông.
- Ở mảng mùa Xuân có
câu chúc:
"Phật nhật
Tăng huy pháp luân thường chuyển.
Hoàng đồ cũng
cố đế đạo hà xương"
Tạm dịch:
Ánh sáng của Phật ngày thêm
sáng tỏ, bánh xe chánh pháp luôn chuyển vận.
Cơ đồ nhà Vua bền vững. Đạo
của bậc đế Vương được tỏa khắp.
- Văn ở mảng mùa Hạ:
"Diên Khánh phủ, Hà Bạc Cuộc,
Thái An xã.
An Dưỡng Tự (ba chữ lớn ở
giữa)
Bổn xã bổn đạo thập phương
đồng chuyên chúng đẳng"
Dịch nghĩa:
"Chùa AN Dưỡng, Xã Thái An,
Cuộc Hà Bạc, Phủ Diên Khánh.
Bổn xã và thập phương bổn đạo cùng góp duyên đúc chuông"
- Văn ở mảng mùa Thu:
"Tuế thứ Kỷ
Tiên, thất nguyệt kiết nhật.
Nam Mô Đại Phương Quãng Phật Hoa Nghiêm Kinh
Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát"
Dịch nghĩa:
Ngày lành,
tháng 7, năm Kỷ Tđúc chuông)
Và hai danh hiệu Bồ Tát như trên
- Văn ở mảng mùa
Đông:
"Nguyện thử chung thanh siêu
pháp giới.Thiết vi u ám tất giai văn.Văn trần thanh tịnh chứng viên
thông . Nhất thiết chúng sanh thành chánh giác"
Dịch nghĩa:
"Nguyện tiếng
chuông này siêu khắp pháp giới
Chúng sanh nơi địa ngục tối tăm đều nghe được.
Nghe rồi bụi trần dứt sạch chứng bậc viên thông.
Cầu cho tất cả chúng sanh đều thành chánh giác.
Năm đúc chuông là năm Kỷ
TVậy năm Kỷ Tà năm nào?
Có hai năm Kỷ T#273;áng lưu
ý: một là năm Kỷ T 1749, hai là năm Kỷ t910. Với các lý do sau: Có thể
Hồng chung được đúc vào năm Kỷ t749 bởi năm 1742 chúa Nguyễn Phúc Khoát
(1738-1763) đã đổi phủ Diên Ninh làm phủ Diên Khánh (Đất nước Việt Nam
qua các đời _ Đào Duy Anh). Nếu thời này đã có đơn vị hành chánh là cuộc
và xã. Thời này (1749) chưa có đơn vị hành chánh là huyện và tổng, chỉ
có cuộc và xã, chữ hà là sông, chữ bạc là bến, như Thướng bạc hay "Phong
kiều dạ bạc" chẳng hạn. Như vậy cuộc Hà Bạc là đơn vị hành chánh chỉ
vùng sông bến thuộc khu vực hạ lưu của sông Ngư Trường xưa kia.
_ Hiệu Chùa An Dưỡng: do ngày
xưa ở mỗi làng xã khi xây dựng Chùa, người ta thường lấy một tên chữ của
làng hoặc xã để đặt ghép thành tên hiệu chùa, như làng Phú Cấp thì đặt
hiệu chùa là Phú Phong, làng Phú Lộc thì đặt hiệu chùa là Phong Lộc vv…
và xã Thái An nên đặt chùa là An Dưỡng.
Có thể Hồng chung được đúc
vào năm kỷ t810. Năm 1810 là năm Gia Long thứ 9, và đơn vị hành chánh
là cuộc và xã đã có rồi. Nhưng tại sao không ghi niên hiệu của Vua đương
tại vị vào chuông? Ngày trước những việc như xây dựng Đình, Chùa, hoặc
in ấn Kinh sách , đúc chuông vv… người ta đều ghi niên hiệu của Vua
đương tại vị. Đây vẫn còn là nghi vấn!
Hồng Chung không thể đúc vào
năm Kỷ T871, vì năm 1871 thuộc đời Vua Tự Đức (1847-1883), nhưng từ năm
Minh Mệnh thứ 13 đã có đơn vị hành chánh là Huyện, Chùa An Dưỡng thuộc
huyện Vĩnh Xương, nhưng chuông cũng không ghi tên huyện Vĩnh Xương. Hơn
nữa, vào thời này (1871) đơn vị hành chánh là "cuộc" đã bỏ rồi.
_Trống Sấm
Trống Sấm của chùa có chiều
dài 1,3m, đường kính 0,9m, trống "dâm liền" (tức là từ một thân cây to
lớn người ta đục lấy phần ruột bỏ đi). Trống được làm vào năm "Khải Định
Giáp Tý Niên (1923) trọng thu nguyệt Kiết Nhật" đó là dòng chữ được khắc
giữa trống. Hai bên khắc hai dòng chữ "
"Thái Thông Xã đồng tạo, An
Dưỡng Tự trùng tu"
"Thành tín hàm thiên nhất chú
tâm hương thượng đạt? Cổ ba động địa tam thiên thế giới giai văn".
Tạm dịch:
Xã Thái Thông đồng tạo trống trong dịp trùng
tu chùa An Dưỡng vào tháng 8 ngày lành năm Giáp Tý _ Khải Định năm thứ
8.
Thành tín gồm trời, một nén hương lòng thấu
khắp.Trống rền đất chuyển, ba nghìn thế giới đều nghe.
10. Chùa An Dưỡng với công cuộc trùng tu vào những năm 1974
và năm 1985
Sau khi ngài Trừng Minh viên
tịch (1973), bổn đạo trong thôn Thái Thông mời thượng tọa Thích Như ý về
trụ trì, thượng tọa hứa khả nhưng không trực tiếp chăm lo tại chùa, mà cử
đệ tử về quán xuyến mọi việc.
Đến năm 1974, chùa An Dưỡng bị
hư hại nghiêm trọng, nên thượng tọa cùng dân làng Thái Thông tiến hành đại
trùng tu, công việc chỉ mới xây xong phần nền móng với kích thước 12x14m
thì miền Nam Việt Nam được giải phóng.
Cuối năm 1975 khi chúng tôi
(Thích Tâm Trí) được thượng tọa Như ý cử về trụ trì thì chùa đang trong
tình trạng đổ nát trầm trọng, ban đêm cửa chùa không thể đóng được vì bị
hư, nhà đông, nhà tây và nhà trù tất cả đều bị xuống cấp chỉ chờ ngày sụp
xuống là xong.
Trong tình thế tấn thoái lưỡng
nan, phần thì đời sống kinh tế của mọi người vô cùng khó khăn, phần thì dù
có tiền cũng không biết vật liệu xây dựng mua ở đâu, vì "cement, sắt, cây
gỗ là những mặt hàng do nhà nước thống nhất quản lý". Chỉ còn có cách duy
nhất là mua "chui".
Nhưng rồi một liều ba bảy cũng
liều, năm 1985 bổn đạo đa số là các lão ông cùng chúng tôi một mặt lo xin
phép chính quyền, mặt khác lo tháo dở toàn bộ ngôi Chánh Điện, nếu không
sẽ bị đổ lúc nào không biết. Đúng là cái gì đến rồi sẽ đến, đó là niềm vui
khi chúng tôi nhận được sự cho phép của chính quyền, không phải trùng tu
mà cất mới hoàn toàn trên phần móng đã được xây từ năm 1974. Tuy khó khăn
có thừa, nhưng nhờ sự phò trợ của Phật, Tổ cũng như sự cúng dường tịnh tài
của Phật tử xa gần, nên việc xây dựng vẫn từng bước được hoàn thành với
một ngôi chùa kiểu dáng cổ lầu, có mái uốn cong, bên trên nóc có "rồng bay
phượng múa".
Năm 1987 tận dụng cây gỗ của
chùa cũ để phục chế lại ngôi chùa xưa để dùng vào việc thờ tổ và thờ tiên
linh. Năm 1989, cất lại nhà đông và nhà trù, nhưng không cất trên nền cũ
mà cất trên nền mới và xoay theo hướng chánh nam với chùa cũ. Điều cần ghi
nhận là khi đào phá nền nhà đông và sau này (1997) là nhà tây, thì bên
dưới nền độ 25cm lại có một nền nhà, mặt nền có nơi còn bằng phẳng và cả 4
viên đá tán trụ vẫn nằm y nguyên ở 4 vị trí giữa nền. Như vậy lần do chúng
tôi xây dựng lại là lần thứ ba. Năm 1990, xây Vô U Cát kiểu lục giác,
một cột nằm giữa hồ sen với diện tích 14x24 (có ảnh đính kèm). Năm 1996,
xây nhà Tăng. Năm 1997 cất lại nhà Tây.
TT. Thích Tâm Trí , trụ trì Chùa An Dưỡng
hiện nay
Năm 1998 cử hành Đại Lễ Khánh
Thành, đó là thể theo nguyện vọng của bổn đạo trong làng, và công cuộc
trùng tu tôn tạo chùa An Dưỡng đến nay tạm thời ổn định.
Viết tại Thái Thông – mùa Vu Lan
P.L. 2542 - TL. 1998
Tỳ kheo Thích Tâm Trí
Quan Âm Các
11. PHỤ BẢN: DIỄN
VĂN LẠC THÀNH CHÙA AN DƯỠNG
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni
Phật.
Ngưỡng bạch Đại Lão Hòa Thượng
chứng minh
Kính bạch Chư tôn Hòa
Thượng,Thượng tọa,Đại đức, Tăng Ni trong thường trực Ban Trị sự Tỉnh Hội
Phật Giáo Khánh Hòa.
Kính thưa quý cấp chính quyền
và Mặt trận.
Kính bạch Chư Tôn Thượng tọa,
Đại đức Tăng, Ni.
Kính thưa toàn thể quý Nam Nữ
Phật tử xa cũng như gần.
Lịch sử nước ta không tính các
thời khuyết sử, chỉ tính từ thời bị Bắc thuộc lần thứ II (từ năm 40-544
sau Công nguyên) cho đến khi Ngô Quyền đánh đuổi quân đô hộ Nam Hán, dành
lại chủ quyền cho quốc gia dân tộc vào năm 939, thì đã có sự đóng góp
không nhỏ của các Thiền sư Việt Nam vào công cuộc đấu tranh giành độc lập
nầy. Tiếp theo là trải qua các triều: Đinh-Lê-Lý-Trần từ năm 968 đến năm
1400. Trong thời gian hơn 400 năm đó Phật Giáo Việt Nam không những được
các hàng Vua, Quan và tuyệt đại quần chúng hết mực kính ngưỡng, mà trong
hơn 4 thế kỷ đó Phật giáo Việt Nam còn đóng vai trò trọng yếu trong công
cuộc an bang tế thế của các Vương triều nói trên. Nhất là về phương diện
khai hóa nguồn mạch tâm thức cho người dân Việt, chính sự khai hóa nầy là
nhân tố tích cực giúp người dân Việt thời ấy thoát khỏi cái cảm thức bị
Bắc thuộc cứ mãi đè nặng lên tâm tưởng họ. Đồng thời cũng nhờ sự khai hóa
nầy mà người dân Đại Việt xưa đã quật khởi đánh thắng quân xâm lược và
xưng đế hiệu sánh ngang với "Thiên tử" phương Bắc, và mở ra một "Văn hiến
chi bang" mang đậm tính nhân bản của đạo Phật. Có lẽ không phải là đại
ngôn khi cho rằng chính tinh thần nhân bản của đạo Phật từ nghìn xưa đã
hun đúc và hình thành nên một sắc thái, một nhân cách đặc thù của dân tộc
Việt Nam, vừa giàu lòng nhân ái, vừa đầy chất nhân văn và điều đó đã trở
thành nền tảng đạo đức trong nếp sống, nếp suy nghĩ của người dân Việt Nam
xưa cũng như nay.
Kính thưa quí vị
Tinh thần nhân bản của đạo Phật
là xác định một cách công nhiên rằng: Không có một vị Thần linh nào hoặc
một vị Thượng đế nào ở bên ngoài con người, lại có thể ban phát ân sủng và
hạnh phúc cho con người, hoặc trừng phạt và đọa đày con người được cả, mà
chính sự tư duy đúng, hành động đúng và phù hợp với chân thiện mỹ của con
người, thì con người sẽ được hạnh phúc và an lạc, bằng ngược lại thì con
người sẽ bị đau khổ và bất hạnh. Tính nhân bản này của Phật Giáo còn được
sự xác định của đức Phật: Đó là "Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh", và
tinh thần nhân bản nầy của Đạo Phật từ ngàn xưa đã được ông cha ta tiếp
nhận và phát huy, do đó sẽ không có gì khó hiểu khi ở mỗi làng quê Việt
Nam, làng nào cũng lập nên một ngôi Chùa thờ Phật, bởi ngôi Chùa đối với
người dân Việt Nam là biểu tượng của nguồn mạch tâm linh vừa siêu thoát
vừa hiện thực một cách kỳ diệu. Ngoài ra Chùa còn là nơi tiêu biểu cho nền
tảng đạo đức của người Việt Nam chúng ta trong cuộc sống đời thường mỗi
khi về Chùa chiêm bái hay vãng cảnh, thì đó là lúc mọi ưu phiền lo toan
trong cuộc sống tạm thời được lắng lại nhường cho những ý nghĩ thanh thoát
từ hòa sinh khởi.
Kính thưa quý vị
Có lẽ Ông Cha ta xưa đã sớm
nhận ra giá trị đích thực về tính nhân bản này của đạo Phật, do vậy mà
trong quá trình mở nước về phương nam, hễ nơi nào có dân cư thì nơi đó có
Chùa thờ Phật, nơi nào có Chùa thờ Phật, thì nơi ấy đời sống tinh thần và
những giá trị đạo đức, luân lý của người dân được củng cố và phát huy. Do
vậy mà xưa cũng như nay, cứ mỗi khi có một ngôi Chùa nào đó được khởi công
xây dựng hay trùng tu thì liền được sự phát tâm hiến cúng tiền của công
sức của mọi người không phân biệt giàu nghèo, quí tiện hay xa gần và điều
đó đã trở thành truyền thống hướng thiện tốt đẹp trong tâm hồn người Việt
Nam.
Kính thưa quý vị
Chùa An Dưỡng tại thôn Thái
Thông là một ngôi Chùa mà theo sự truy cứu của chúng tôi qua nhiều sử liệu
và những phế tích hiện có, cũng như qua sự truyền khẩu hiện còn trong dân
gian, thì Chùa được khai sơn vào những năm từ 1690 đến năm 1708 do một vị
Thiền sư người Trung Hoa có pháp húy là Thiệt Phú. Ngài sang Đàng Trong
của nước ta vào thời kỳ có rất nhiều vị Thiền sư Trung Hoa du hành sang
Việt Nam và lưu ngụ lại tu hành cho đến khi viên tịch. Bia ký nơi Mộ tháp
của Ngài còn ghi rõ là Ngài sinh năm AᴠMùi (1667). Điểm qua đôi nét để
thấy rằng chùa An Dưỡng là một trong những ngôi Chùa được tạo lập từ xa
xưa trên đất Khánh Hòa. Trước kia Chùa tọa lạc cách vị trí hiện nay về
hướng đông khoảng 50m và không rõ Chùa được di dời về vị trí hiện nay từ
bao giờ, và được trùng tu mấy lần, chỉ biết Chùa được tái tạo vào năm 1893
tức Thành Thái thứ V. Năm 1938 tức Bảo Đại năm thứ 3, Chùa được trùng tu
lần nữa, vào năm 1974 thì Chùa bị hư nát khá nặng nên Thượng Tọa Thích Như
Ý lúc ấy là trụ trì của Chùa, cùng Phật tử địa phương đã xây xong phần nền
móng với dự tính sẽ cất mới lại toàn bộ ngôi Chùa cách phía trước ngôi
Chùa cũ 7m. Năm 1975, miền nam được hoàn toàn giải phóng nên việc xây dựng
tạm thời hoãn lại, đến năm 1985 được sự cho phép của chính quyền các cấp,
sự tán trợ của Ban Trị Sự Hội Phật Giáo Khánh Hòa, nên dù trong hoàn cảnh
còn khó khăn về nhiều mặt, nhưng nhờ sự gia hộ của Đức Phật, nhờ sự phát
tâm cúng dường tịnh tài, công sức của quý Tăng, Ni và Phật tử xa gần nên
công việc xây cất cũng đi đến thành tựu. Điều chúng tôi muốn nhấn mạnh ở
đây là: Vì Phật tử tại địa phương sống bằng nghề nông mà lại là tiểu nông,
nên sự hiến cúng tịnh tài có phần nào hạn chế, nhưng về phương diện công
quả thuộc lao động nặng thì Phật tử tại địa phương sẳn sàng lăn xả vì
Chùa, vì Phật. Với Phật Tử từ các phương xa thì tuy không trực tiếp bưng
gạch, xách hồ, nhưng lại hoan hỷ hiến cúng tịnh tài. Nhờ vào hai nhân tố
quan trọng này mà trong hơn 13 năm qua, tất cả các công trình chính và phụ
của Chùa lần lượt được trùng tu tôn tạo đến nay đều đã hoàn thành trong
một bề thế trang nghiêm vững chắc như quý vị đang tận mắt nhìn thấy.
Kính thưa quý vị
Trong kinh luận Phật giáo có
một câu Pháp ngữ:
"Pháp bất cô
khởi trượng cảnh phương sanh
Đạo bất hư
hành ngộ duyên tức ứng"
Tạm dịch:
Các pháp trong Vũ trụ không có
pháp nào độc lập sinh khởi, mà các pháp phải tương duyên với nhau mới sinh
khởi được. Cũng thế, sự tu hành cũng không phải là sự hư dối, không tưởng,
mà sự tu hành sẽ được ứng nghiệm khi gặp cảnh ngộ thích nghi và tối cần.
Trích dẫn câu pháp ngữ trên, ý chúng tôi muốn nói lên sự mầu nhiệm của đạo
pháp thật là bất khả tư nghì, mà suốt thời gian qua bản thân chúng tôi đã
cảm nghiệm được. Giờ đây trong không khí trang nghiêm và trọng thể nầy,
cộng với sự vui mừng khôn xiết trong ngày lễ khánh thành, trước sự chứng
minh của chư Tôn Hòa Thượng trong Ban Trị Sự Tỉnh Hội Phật Giáo Khánh Hòa,
trước sự quan tâm và ưu ái của chính quyền, mặt trận các cấp đã về dự lễ
hôm nay, trước sự hiện diện tương đối đầy đủ của Chư Tôn Hòa Thượng, Đại
Đức, Tăng Ni, cùng toàn thể quí nam nữ Phật tử xa gần xin cho phép tôi
thay mặt Tăng chúng của bổn tự và toàn thể Phật tử của Chùa An Dưỡng tại
địa phương thôn Thái Thông nầy, xin chân thành bày tỏ lòng tri ân sâu xa
nhất của chúng tôi đến với quí liệt vị. Chúng tôi xin tâm thành khắc ghi
những sự giúp đỡ vô giá của quí Ban Trị Sự Tỉnh, của quý cấp chính quyền
và Mặt trận, của Chư tôn Đại Đức, Tăng Ni và của quý Nam nữ Phật tử xa
gần. Trong hơn 13 năm qua liệt quý vị đã tạo mọi thuận duyên cả về vật
chất lẫn tinh thần để giúp đỡ chúng tôi hoàn thành công việc trùng tu tôn
tạo. Chúng tôi xin hồi hướng công đức vô lượng nầy của chư liệt vị lên Đức
Phật chứng minh, nguyện cầu Ngài gia hộ quí vị luôn được an lạc thường
trụ. Chúng tôi cũng không quên tán thán công đức của hai vị Phật tử đã quá
cố, đó là Đạo hữu Trương Văn Lưỡng và Đạo hữu Trần Thảo thường gọi là ông
Tư Véc-ni (Ver nis = sơn dầu). Hai Đạo hữu đã quá cố này không chỉ giúp
chúng tôi công sức tiền của mà còn chia sẻ với chúng tôi về những âu lo
trăn trở trong thời gian xây dựng Chùa.
Trước khi dứt lời, tôi long
trọng tuyên bố chánh thức cử hành Đại lễ lạc Thành Chùa An Dưỡng. Xin chân
thành cám ơn và kính chúc quý vị vạn an.
Nam mô Hoan Hỉ Tạng Bồ
Tát Ma Ha Tát.
12. Tài
liệu tham khảo
1. Việt Nam Sử lược của Trần Trọng Kim
2. Việt Nam Phật Giáo sử lược của HT. Thích Mật Thể
3. Việt Nam Phật Giáo sử luận của Giáo sư Nguyễn Lang
4. Đại Nam Thống Nhất Chí. Bản dịch của Viện KHXH - Hà Nội
5. Đất nước Việt Nam qua các đời của Đào Duy Anh
6. Xứ Trầm Hương của Quách Tấn
7. Non nước Khánh Hòa của Nguyễn Đình Tư
8. Lịch sử Phật Giáo Việt Nam. Lê Mạnh Thát
9. Thiền Sư Việt Nam của HT. Thích Thanh Từ