MỸ
THUẬT PHẬT GIÁO
Kiêm
Đạt
(ĐH Đông
Phương – California – USA)
11.
ÂM NHẠC PHẬT GIÁO
Trong những cách nhìn khác nhau đã phác thảo những dòng âm nhạc Phật Giáo
Việt Nam.Từ trong kinh điển, giáo lý, tông phái Phật Giáo, đã có
những khác biệt về âm nhạc, qua từng giai đoạn khác nhau. Ngay từ khi
đức Phật tại thế, tăng chúng tu tập rất tinh chuyên trong từng thời
khắc: từ việc trì tụng, khất thực, nghe pháp hay giáo hoá quần sanh,
phần lớn thì giờ dùng để tọa Thiền.
Trong thời đó, âm nhạc chỉ được nói đến trong cư sĩ tại gia, trong quần
chúng quamột số lễ hội mang tính bản địa. Còn về nếp sống của Tăng giới,
thì âm nhạc không được nhắc đến, được xem là không mấy thích dụng.
Nếu thang âm, điệu thức không thích nghi, dễ gợi lên những tình cảm bi
lụy, khuấy động, vọng niệm. Như thế dễ gây những chướng ngại cho sự
thăng hoa của tâm linh siêu thoát. Mỗi khi tăng đoàn hội tụ để huân
tập giáo lý của đức Phật, chư tăng chỉ tụng theo ngữ điệu bình thường.
Không có nhạc cụ đi theo, cũng không có lối tán, tụng như ngày nay. Đó
chỉ là những "nhã âm", như trong Kinh Di Đà: "Bạch hạc, Khổng
tước, Oanh Vũ... Ca Lăng Tần Đà, cọng mạng chi điểu, thị chư chúng
điểu, trú dạ lục thời, xuất hoà nhã âm".
Trong bộ kinh "Tỳ Ni Mẫu" có kể lại chuyện một Tỳ kheo nọ rất say mê âm
nhạc, cũng thường hay tấu những khúc nhạc du dương khi tụng những lời
Phật dạy, mà nhiều người không dám. Khi nghe được chuyện nầy, đức
Phật liều quở trách và không cho vị ấy sử dụng âm nhạc nữa...
Những chuyện tương tự không hiếm. Như thế, âm nhạc không chỉ gây nhiễu
loạn tâm hồn người, mà ngay cả đức Ma ha Ca Diếp cũng bất giác "rung
chân, rung thân", nhịp theo từng âm điệu, khi nghe 500 vị tiên nhân
đang vui đùa ca múa. Nhưng đối với hàng cư sĩ tại gia, sự cấm đoán
nầy không được đề ra. Đức Phật cho phép họ được ca múa, gãy đàn, thổi
sáo. Miễn là những âm thanh, âm điệu nầy để tỏ lòng thành kính, tán thán
công đức, cúng dường Tam Bảo. Điều khó khăn là ai có thể sáng tác được
những thể điệu đó.
Tại miền Bắc Ấn Độ trong thời đó, Phật tử trong lễ hội thường ca hát,
diễn xướng điệu "Raga" (Cung kính). Theo các nhà âm nhạc học thì đây là
một làn điệu êm ái, nhẹ nhàng. Nội dung thường tán thán công đức vô
lượng chư Phật. Từ đó âm nhạc PG cũng hình thành. Đức Phật cũng thường
dạy các đệ tử của ngài về nguy hại của sự tham dục, luyến ái. Đó là
nguyên nhân của sinh tử luân hồi.
Chưa diệt tham ái, vẫn phải chìm đắm trong đau khổ. Ngài thường dạy
đệ tử xuất gia: Phải nhiếp tâm tu trì, không đắm chìm thế gian pháp.
Thay vì tìm kiếm niềm vui trong âm nhạc, nên tìm về an lạc trong thể
tánh thanh tịnh. Cảnh trí Thiền thanh hóa tâm niệm. Thành thử hầu hết
giới luật của những người xuất gia, nam cũng như nữ, kể cả những ngày
Bát Quan Trai của người Phật tử đều ghi điều răn cấm các giới tử không
được biểu diễn nhạc hay nghe nhạc.
Điều nầy ghi rõ trong Phạm Võng Bồ Tát Giới: "Không được đi xem hát,
nghe nhạc, chơi cờ, đánh bạc..." Nhiều kinh điển khác về Luật Tạng
cũng đề cập đến điều cấm nầy. Điều nầy cho thấy: Ngay cả hàng Bồ tát
mới phát tâm cũng cần phải giữ cấm giới về âm nhạc (xướng lên hay thưởng
thức). Còn đối với các bậc Bồ tát thượng thừa trở lên thì âm nhạc là
một trong những phương tiện cần thiết để độ pháp quần sanh.
Trong "Căn Bản Tạp sự" có nói: "Đức Phật vì muốn độ nhạc thần Càn Thát
Bá Vương Thiện Ái, đã lên trời tấu đàn không hầu lưu ly ngàn dây". Những
dẫn giải trên đây cho thấy: Âm nhạc cũng là phương tiện giáo hoá
trong trường hợp người sử dụng phải có căn bản tu tập và giải thoát cao
thâm. Trong một số trường hợp, âm nhạc cũng có thể sử dụng để có thể dẫn
dắt về chánh pháp. Sau khi đức Phật nhập diệt, qua những lần kết tập kinh
điển, Phật Giáo phân chia Đại Thừa và Tiểu Thừa, thì con đường hoằng pháp
có những thay đổi lớn. Đại Thừa phát triển mạnh, đã tạo nên một sinh
khí trong việc truyền đạo; đồng thời một sự thay đổi lớn lao trong
tư tưởng triết học và nhận thức quan mới trong Phật Giáo đồ.
Với tinh thần nhập thế tích cực, hũu hiệu. Tinh thần nhập tế đó đã
khai triển nhiều hình thức truyền đạo trong đó có cả âm nhạc. Cho đến
khi Phật Giáo truyền bá sang Trung Hoa, thì âm nhạc Phật Giáo gặp được
đất ươm trồng thích hợp.
Trong nền văn học dân gian Trung Hoa, Kinh Thi vốn được phát triển. Mặc
dù Khổng Tử thường răn dạy: "Thi tam bách thiên, nhất ngôn dĩ tế chi:
Tư vô tà" (Kinh Thi có 300 chương, một lời bao trùm lên tất cả: suy
nghĩ không tà vạy).
Âm nhạc Phật Giáo cũng trong xu thế đó. Theo nhà nhạc học nổi tiếng Tế
Văn Đình (Trung Quốc văn hoá ngôn) thì "âm nhạc Phật Giáo Trung Quốc
đã khai sinh cách đây 1,600 năm". Đời Đường có nhạc khúc Lăng Tiêu,
đời Tống có nhạc khúa Điệp Luyến Hoa, đều là những ca khúc Phật Giáo
lừng danh trong quảng đại quần chúng.Kinh điển Đại Thừa cũng từng
viết về ảnh hưởng âm nhạc (chân chính).
Trong bộ "Đại Trí Độ Luận" có dẫn lời của ngài Long Thọ"Bồ Tát muốn
thanh tịnh cõi Phật thì phải dùng âm nhạc hay; muốn cho chúng sanh trong
quốc độ nghe được nhạc hay thì tâm của họ sẽ được như nhuyễn. Khi tâm
đã nhu nhuyễn thì việc hoá độ cũng dễ dàng. Như vậy, nên hãy dùng
âm nhạc để cúng dường chư Phật".
Thành thử, trong mỗi chuỗi lý luận liên hợp, Đại Thừa Phật Giáo đã nhấn
mạnh đến hai điều: một là phải có "nhạc hay"; hai là ảnh hưởng âm nhạc
Phật Giáo trong công cuộc giáo hóa không nhỏ. Nhiều kinh sách cũng đã
khai triển lý luận đó. Trong kinh A Di Đà, có nhiều đoạn viết về "cảnh
giới nhiều âm sắc vốn dĩ thanh hóa cuộc sống". Nhà nghiên cứu nhạc Phật,
tiến sĩ Cao Nhã Lợi cho rằng "Quan niệm của Phật Giáo Đại Thừa trong
việc sử dụng "âm nhạc hay" trong truyền bá rất phóng khoáng. Thay vì
trốn tránh âm nhạc một cáchtiêu cực, thì hãy sử dụng chúng một cách
tích cực, cởi mở hơn".
Do quan niệm đó, âm nhạc Phật Giáo Trung Hoa phát triển nhanh, có giá trị
và được trình tấu sâu rộng, trong nghi lễ cũng như trong diễn xướng đại
chúng. Bộ sưu tập nhạc Phật Giáo Trung Quốc trong 13 thế kỷ nay lên
đến 50 quyển. Tuy nhiên, trong sáng tác cũng như trong thể hiện, nhạc
Phật Giáo được phân chia làm hai thể loại:
Loại thứ nhất là nhạc lễ dùng trong cúng tế; loại thứ hai là nhạc Phật
Giáo trong truyền bá dân gian. Về lễ nhạc Phật Giáo Việt Nam cũng được
khuôn định rõ rệt. Theo nghiên cứu của Trần Văn Khê thì: Nhạc Phật Giáo
Việt Nam (loại lễ nhạc) bắt nguồn từ âm nhạc dân tộc, mang hơi điệu
nhạc dân gian, nhạc thính phòng, nhạc sân khấu và nhạc lễ trong cung
đình.
Cũng trong thiên nghiên cứu trên thì cách "tán", "tụng" trong lễ nhạc
Phật Giáo được phân chia ra làm 3 trường phái khác nhau: Về Phật Giáo
Bắc Tông, hay Đại Thừa gồm Ấn Độ, Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản và
Việt Nam, kinh văn tiếng Phạn để nguyên tiếng Phạn (Sanskrit), phiên âm
ra tiếng Trung Quốc đọc theo cách phát âm của Trung Quốc, thì gần giống
âm tiếng Phạn, nhưng khi đọc chữ phiên âm theo cách đọc của mỗi nước
Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam thì rất xa âm của tiếng Phạn (chẳng hạn
như bài chú Vãn Sanh: Nam mô A di đa bà dạ...)
Có khi tiếng Phạn dịch ra tiếngTrung Quốc, viết lại bằng chữ Hán, như
"A Di Đà kinh", "Bát Nhã Tâm Kinh". Về Phật Giáo Nam Tông, hay Tiểu
Thừa gồm các nước Sri Lanka, Thái Lan, Kampuchia, Lào: kinh chép bằng
tiếng Pali, đọc theo âm Pali, không dịch ra tiếng mỗi nước. Mật Tông ở
Tây Tạng, Mông Cổ kim gồm những "mật ngôn" đọc theo một giọng thâm
trầm. Mặc dù đạo Phật thành lập tại Ấn Độ, mặc dù một số kinh sách được
chuyển từ Trung Quốc sang Việt Nam, tuy nhiên nét nhạc trong những
bài tụng, bài tán trong lễ nhạc Việt Nam không chịu ảnh hưởng của Ấn
Ðộ hay Trung Quốc.
Ngoài ra, nét nhạc của những bài tụng, bài tán cũng thay đổi theo từng
miền, từng vùng khác nhau. Giọng tụng tác miền Bắc khác với giọng tụng
tán của miền Trung hay miền Nam, mặc dù cùng một thứ chữ. Thang âm và
điệu thức của những bài tụng bài tán rất gần với thang âm, điệu thức của
những bài hát ru, những điệu dân ca trong từng vùng.
Các nước Đông Á đều có tụng và tán. "Tụng" là đọc lớn, lớn hơn cả loại
"đọc" và "niệm". "Tán" là ca ngợi, khen tặng. Tiếng "tán" có thể lớn hơn
tiếng "tụng". Thang âm của một bài tụng có thể là tam cung, tứ cung,
ngũ cung. Thang âm của bài tán đều là ngũ cung. Trong bài tụng, nhịp
đều trường canh, mỗi chữ trùng với tiếng mõ; trong bài tán, nhịp phức
tạp hơn. Chữ quan trọng trong câu kinh, kệ thường được xướng theo nhịp
ngoại. Tang, mõ đánh theo chu kỳ. Trống đánh theo đối điểm
(contrepoint). Tán có 3 loại: tán rơi, tán xắp, tán trạo. Mỗi loại tán
theo chu kỳ khác nhau.
Trong lễ nhạc Phật Giáo VN, ngoài 2 lối tụng và tán như đã nói, lại
còn có: lối niệm, lối đọc, lối hô, lối bạch, lối xướng, lối thỉnh,
niệm Phật, niệm hương, đọc sớ, hộ kệ, tụng kinh, xướng danh hiệu Phật,
thỉnh kinh... Mỗi loại đều có thang âm, điệu thức khác nhau. Nhịp
chuông trống cũng khác.
Những lễ thường không có nhạc;chỉ những lễ lớn, khí nhạc mới được dùng
đến.Mở đầu của buổi lễ thì gióng lên chuông trống Bát Nhã. Về sau,
chuông trống đánh theo số chữ trong bài Kệ. Khi đánh theo Bát Nhã Hội thì
đánh 3 lần, 3 tiếng trống, 1 tiếng chuông. Khi đánh theo Thỉnh Phật
Thượng Đường thì 4 tiếng trống, 1 tiếng chuông. Khi đánh theo Đại
Chúng Đồng Văn thì 4 tiếng trống, 1 tiếng chuông. Khi đánh theo Bát Nhã
Âm thì 3 tiếng trống, 1 tiếng chuông. Khi đánh theo Phổ Nguyện Pháp Giới
thì 4 tiếng trống, 1 tiếng chuông. Khi đánh theo Đẳng Hữu Tình thì 3
tiếng trống, 1 tiếng chuông.Khi đánh theo Nhập Bát Nhã thì 3 tiếng trống,
1 tiếng chuông. Khiđánh theo Ba La Mật Môn thì 4 tiếng trống, 1 tiếng
chuông. Đến phần cuối cùng thì gióng lên một hồi chiêng trống.
Xem như vậy, thang âm, điệu thức và nét nhạc trong âm nhạc Phật Giáo
Việt Nam rất phong phú và tế nhị. Hiện nay, trong cách tụngtán đã có xu
hướng tiến dần đến giản dị hoá. Nhạc Phật Giáo củacác nước Nhật Bản,
Trung Quốc, Triều Tiên được truyền tụng trong các chùa và ghi chép
thành sách, phổ biến sâu rộng, để tránh những sai sót.
Tại Việt Nam, chưa có tài liệu in ấn về những cách tụng, cách tán từng
thể loại khác nhau. Thậm chí cả nhạc trình diễn Phật Giáo cũng vậy.
Trong việc hội nhập Phật Giáo tại các nước Tây Phương hiện nay, âm nhạc
là phương tiện rất hữu hiệu. Nhiều nước đã tiến hành khả quan. Chẳng
hạn như các buổi tổ chức trình diễn nhạc Phật Giáo của Phật Quang Sơn
(Đài Loan). Những buổi biểu diễn âm nhạc của Phật Quang Sơn cũng như
nhạc giao hưởng của những tổ chức Phật Giáo Đài Loan đã thu hút đông
đảo khán thính giả ái mộ. Họ cũng cho phát hành những cuốn Album về
nhạc Phật Giáo như "Chú Đại Bi" và "Lục Độ Mẫu Tâm Chú".
Phong cách biểu diễn trên sân khấu lớn không thua kém gì những buổi
biểu diễn của các danh ca khác. Những chương trình trình diễn như vậy
đang được tổ chức ở cácnước Á Châu và trong tương lai sẽ sang Hoa Kỳ,
Châu Âu. Tuy nhiên, nhiều vị cao tăng Đài Loan tỏ ra lo ngại cách
truyền bá nầy. Họ nghĩ đến xu hướng "thế tục hoá" của âm nhạc Phật
Giáo như thế có gây nguy hại chăng? Trong khi đó, nhiều vị lãnh đạo
khác lại muốn cách truyền đạo mang một tinh thần cởi mở, phóng khoáng
hơn, không nên quá thiên về tình cảm tôn giáo.
Điều căn
bản là có thể mang lại cho khán giả tâm thần an lạc, thanh thản là được.
Có nhiều nhạc sĩ hưởng ứng chương trình nầy. Giới trẻ phương Tây ít đến
chùa hành lễ, tuy nhiên họ lại thích phong cách trình diễn nhạc PG mới
mẻ, gần gủi, linh hoạt. Do tác dụng nầy, các nhạc sĩ sáng tác thể điệu
PG lại càng thận trọng hơn. Họ cũng cần nghĩ đến những ảnh hưởng nguy
hại của những sáng tác phẩm thiếu văn hóa, kích thích quá lố, biểu diễn
sỗ sàng, tuyên truyền hạ cấp. Như thế đã không tác dụng gì, lại còn
mang ảnh hưởng xấu. Suy nghĩ nầy hiện đang là đề tài thảo luận, tham
bác.