VỀ VỞ HÁT NHÂN GIAN
TRƯƠNG NGAO ÐÒI NỢ PHẬT
Dương Như Tâm
---
o0o
---
Gần đây, trong lĩnh vực nghệ thuật sân khấu (NTSK), đã thấy xuất hiện vở
hát “Trương Ngao đòi nợ Phật” (TNÐNP) dưới nhiều thể loại: hát bội – cải
lương – kịch nói và chèo. Mỗi một thể loại cũng là mỗi một soạn giả đạo
diễn riêng biệt và để phù hợp với từng thể loại đó TNÐNP cũng dẻo mềm theo
bàn tay nắn bóp của đạo diễn và soạn giả. Từ đó, khi các TNÐNP này ra đời
đã không ít gây thắc mắc về phía người xem do nội dung không thống nhất,
và đã lạm dụng quyền hư cấu từ một kịch bản cổ một cách tắc trách. Không
cần tranh luân, ngay tựa đề vở diễn cũng đủ nói lên sự có mặt của Phật
giáo, và như thế những méo mó sai lệch như vừa nêu, hầu như tất cả mọi hệ
quả xấu Phật giáo đều phải hứng chịu từ phía người xem, chưa nói đến những
phân tích theo dạng lý luận – phê bình sân khấu mang hơi hướng thiên kiến,
một chiều nếu không muốn nói là áp đặt Phật giáo những tư tưởng xấu xa
nhất!
Một cách khách quan, sự ra đời ào ạt những vở TNÐNP gần đây là một tín
hiệu dáng mừng cho vốn cổ dân tộc, cho NTSK và cho cả Phật giáo khi nó đã
có đôi chút khái lược, lướt qua những cái nhìn méo mó về Phật giáo. Tuy
chưa thể gọi là trong sáng hoàn toàn so với kịch bản cổ. Ðây chính là chi
tiết cơ sở để chúng tôi thực hiện bài viết này bằng suy tư vr một người
yêu quý vốn cổ dân tộc, và đặc biết sự thôi thúc của một Phật tử. Vì vậy
xin được hiểu cho rằng những kiến giải phân tích nơi bài viết này không
nuôi tham vọng làm công việc cải chính hoặc tày đình hơn là lý luận – phê
bình sân khấu.
XÁC ÐỊNH THỂ LOẠI TNÐNP
Tuy
chưa được tham cứu nhiều tài liệu, nhưng trong một số ít có được đều khẳng
định rằng TNÐNP là loại tuồng hài, được thoát sinh từ thể tuồng vè cổ sơ.
Như vậy đủ kết luận, đã là vè tất nhiên sở hữu tác giả là dân gian. qua
nhiều giai đoạn phát triển và hình thành hoàn chỉnh, do đó nó còn được gọi
là “tuồng dân gian” và tên của vở cổ xưa chỉ vỏn vẹn là “Trương Ngáo”. Tất
nhiên, đây chỉ là hát bội; mà ở bộ môn nghệ thuật độc đáo này còn phân
định ra nhiều thể loại tuồng như tuồng đồ, tuồng pho, tuồng lịch sử, tuồng
dân gian... v.v... như chúng tôi đã có lần phân tích. Vở TNÐNP thuộc dạng
tuồng dân gian; ông bà ta xưa kia chia ra như vậy để tránh và phân biệt
được tuồng nào của ta và tuồng nào của Tàu (Trung Quốc). Từ đây các nhà
nghiên cứu cho rằng thể loại tuồng hài dân gian là dạng cổ sơ của nghệ
thuật hát bội. Nó nói lên điều mà hiện thực xã hội không thể bày giãi dưới
bệ rộng; mang nhiều ẩn ý, phá tung hình thức để đạt điều muốn nói, và để
cùng nhau cười thư thả thâm thúy. Khi hình thành TNÐNP hoàn chỉnh thì NTSK
lại bị tước đoạt khỏi tầng lớp bình dân, vào “trú xứ” nơi cung điện. Tuy
nhiên, dẫu bị tước đoạt nhưng các vở diễn ở cung điện đều vắng bóng các
tuồng hài – nó ở lại với dân gian và tiếp tục sinh sôi ở hội hè – đình
Làng. Các vở cùng loại như “Ngao sò ốc hến”, “Trương Ðồ nhục” (tức hồn
Trương Ba da hàng thịt), “Trần Bồ”, “Ông Trượng Tiên Bửu”, “Ông Ðịa và
Nàng Tiên” (còn gọi là Ðịa Nàng)... v...v... phần lớn nội dung các vở hài
đều có bóng dáng Ðức Phật hay các vị Tăng sĩ. Tính chất hài cho phép dân
gian gởi gắm ước muốn của mình, dẫu đó là một vị Tăng sĩ, cũng có thể tạo
nên tiếng cười – nhưng tiếng cười của chiều sâu tâm khảm chứ không là hình
tượng sân khấu đối kháng mà ở phần dưới đây chúng ta sẽ thấy. Rất tiếc một
vài soạn giả cải lương đã dàn dựng vở TNÐNP theo chiều hướng “bi – hài
kịch” và khá ... nghiêm túc! Khiến người xem và ngay cả diễn viên thể hiện
khó chịu, sống sượng. Nên nhớ cho rằng khi “chuyển thể” TNÐNP từ dạng hài
sang “nghiêm túc” thì các mặt ý nghĩa không còn tác dụng nguyên lý và tất
nhiên những cái nhìn méo mó về Phật giáo buộc phải va chạm ý thức hiện
thực – tức bêu xấu Phật giáo... nghiêm túc(!) đúng nghĩa đen. Dĩ nhiên
trong quá trình hình thành và phát triển vở TNÐNP, không loại trừ khả năng
các tư tưởng xấu lợi dụng tính chất hài”nhuận sắc” thêm thắt yếu tố bôi
đen Phật giáo; nhưng chính trong quá trình đó cũng đã tự sàng lọc và đào
thải cho dù anh có cố gán đặt tư tưởng Khổng – Mạnh vào làm kim chỉ nam
cho lối sống cộng đồng đương thời. Phật giáo không quan trọng điều đó;
nhưng nếu có chăng là sự lặng thinh vô ngôn, minh chứng bằng chính tác
dụng ngược Phật giáo vẫn tồn tại và ngày càng rực sáng – xưa; dù là bôi
đen nhưng chính điều đó minh chứng thực sự có mặt và gần gũi của Phật giáo
trong nếp sống cộng đồng đương thời. Phật giáo không quan trọng điều đó;
nếu có chăng là sự lặng thinh vô ngôn, minh chứng thực sự có mặt và gần
gũi của Phật giáo trong nếp sống cộng đồng, anh không thể quên và bỏ qua
Phật giáo được. Do đó người có chút tư duy Phật học sẽ chẳng lạ lẫm gì khi
anh dẫn vị thầy tu vào phòng thị Hến; lừa gạt Trần Bồ biến thành tên cướp
cạn và toan hãm hại Nguyệt Hạo tam cung... v... v... Nói chung, tất cả
những hình ảnh tệ hại, xấu xa nhất đều đã được gán cho các nhân vật thầy
tu trong các vở hát bội. Ngược lại với những người sơ cơ thì qua đó hình
ảnh các vị thầy tu bị nứt nẻ lung lay và sau cùng các tác hại Phật giáo
đều gánh lấy. Ðây chính là điểm để các tư tưởng xấu xen vào lợi dụng, mượn
chiêu bài để chống phá Phật giáo.
Ơû motip tích cực, hình ảnh các vị Tăng sĩ ở đây là một tấm gương phản
chiếu, nhưng nó không phải là kính vạn hoa để lóa mắt, làm rối tung thị
giác người xem. Vì như đã trình bày, tâm tưởng người dân gian gởi gắm vào
các nhân vật Tăng sĩ có thể là một ông vua, một ông quan cao vọt nào đó mà
bình sinh không ai dám động đến! Ðiều này nói kên được ý ngầm là hình ảnh
Phật – Tăng sĩ từng là Tăng thống, Quốc sư của nhà vua, như thế đã kích
các vị Tăng hóa ra là ... “ý nói”! Hiểu được như vậy mới thấy hết sẹ thông
minh khôn khéo của ông cha ta xưa kia, trước rất xa lời xác định của Karl
Marx (1818 – 1883) “Cái hài là một giai đoạn chót của một hình thái lịch
sử”(1). Ðể bổ sung vào ý nghĩa điều này, sẽ không thừa khi nhắc đến
Bertolr Brecht (1891 – 1958) một bậc thầy của trường phái NTSK gián cách.
Ông đã không ngần ngại vạch rõ quan điểm thể hiện sự phát triển cách mạng
của cuộc sống theo chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa không phải nằm ở
những nhân vật, mà phải bắt đầu ở khán giả, khi họ rời sân khấu (2). Từ
quan điểm đó, ông không ngại phê phấn “Một diễn viên – một khán giả xuất
sắc nhất” được khắc những dòng chữ trang trọng trên mộ chí hai người, lẽ
ra – lời ông nói – người ta phải khắc trên mộ chí họ dòng chữ “Một diễn
viên – một khán giả tồi nhất”. Ðó là vào những năm đầu thập niên 50 khi
ông nghe được giai thoại về vở Bạch Mao nữ của Trung quốc , một khán giả
là một người lính Hồng quân khi xem vở diễn đến đoạn tên địa chủ Hoàng Thế
Nhân ủ thế hà hiếp nông dân và cưởng hiếp cô Thị Nhi, quá bức xúc anh ta
liên móc súng ra bắn chết anh diễn viên đóng vai địa chủ, và như chợt tỉnh
ngộ anh ta lại quay mũi súng lại kết liễu đời mình. Người đời đã tôn vinh
họ từ ý nghĩa đó. Vậy nên B. Brecht phải chăng dùng đến hiện thực – gián
cách như là một phương thuốc thức tỉnh, để khỏi trowre thành người diễn
viên – khán giả xuất sắc nhưng với ông lại là hai kẻ tồi?
THỬ KHÁI QUÁT NỘI DUNG VỞ NTÐNP
Trước mặt người viết kịch bản Trương Ngáo tương đối xưa nhất (NXB
Claude et Cie Impimerie in tại Sài Gòn năm 1904) có tất cả 12 nhân vật
với 17 lớp tuồng (cảnh màn) và chỉ vừa đúng 40 trang sách khổ 20 x 12.
Mụ Tam Bành là loại “việc làm hồ hổn quá chằng tinh, nghề đôi mách lẻo
hơn sóc lá, khéo biết làm nem làm chả, tài hay bán bộ bán thuyền (3).
Mẫu người như vậy ai dám gá nghĩa vợ chồng, mụ ta thừa biết thế nên chọn
anh Trương Ngáo thật khùng, vừa đỡ tiếng nguyền rủa người đời lại được có
người sai vặt, kể cả đánh đòn anh ta. Dù vậy, từ ngày có anh Trương Ngáo
phụ việc buôn bán có phần tương đối, bản thân rổi rảnh, mụ bèn tính chuyện
đú đởn với Lục Tồn (còn gọi là Sáu Tồn) một tay phú hộ trong làng, lâu nay
mụ hay vay nợ, biến con nợ thành người tình hàng ngày qua lại trước mắt
Trương Ngáo. Ðến khi nhận thấy sự có mặt của Trương Ngáo không còn tác
dụng và vì muốn tống khứ đi để hai người rảnh bề quan hệ. Hai người giao
năm quan tiền cho Trương Ngáo đi buôn xa, kỳ thật là để anh chết dần mòn
vì đói hoặc cướp giết do chính bản năng ngu dốt và thật thà csr anh ta,
anh ta ngoan ngoãn “vâng lời dạy lãnh năm quan, xuống chợ Tú Giang
nguyện bố hàng”. Giữa đàng, anh ta thấy có người tấp nập với những quả
hướng về chùa Vạn Linh nhân dịp đúc tượng Phật. Ðược người ta giải thích
công đức cúng đúc tượng, anh ta nghĩ theo lối lãi lời buôn bán, ngày sau
hưởng gấp mười lần, nên không chần chừ “Xachs tiền nọ cúng theo, cho
Phật kia lãnh lấy”. Rồi hý hửng tâm đắc: “Kíp trở về nói lại vợ
hay, sau lên đó đặng đòi Phật trả”. Anh ta trở về nói lại cho mụ vợ
lăng loàn, nhưng vừa thấy Trương Ngáo về với lời lẽ ngu dại mụ ta chửi
mắng thậm tệ kèm theo gậy gộc bổ vào mình chí tử. Sau đó mụ bảo Trương
Ngáo phải đi đòi lại bằng được nếu không thì sẽ bị đòn và bỏ đói. Trương
Ngáo vừa sợ vừa chạy hộc tốc “Mau kịp tới tự trung đòi tiền Phật đem về
trả lại, miễn khỏi đòn nào nại đường xa...”. Ðến nơi, Tăng chúng chùa
Vạn Linh vì nhận thấy vị thí chủ có một không hai lại ăn nói cà khùng nên
đã bảo với Trương Ngáo “Của cúng là của mất, Phật ở đây là Phật đồng –
như anh muốn đòi, ta chỉ cho nơi Tây phương thiệt tích thiệt tông, chớ nơi
am tự là tranh là tượng”. Dĩ nhiên Trương Ngáo lên đường “Kíp thẳng
tới phương Tây, ngõ đòi tiền Phật”. Giữa đường Trương Ngáo qué qua nhà
cô Hà Như Ý, là người “Quê ngụ quận Lữ Châu,.... tuổi ba tám lỡ duyên
trăng gió” và nàng lập ra quán tranh này không phải vì nghèo khó, mà
là “Nơi lều tranh đợi khách hữu tình, cất quán đặng kén duyên tác hiệp”.
Nghe Trương Ngáo nói đi đòi nợ Phật cô cũng nực cười và chỉ nghĩ chuyện ấy
viễn vông nên cô gởi nhắn hỏi Phật sao phận nàng còn cô đơn. Tuy vậy, vốn
tính hiền lương cô vẫn tỏ ra ân cần và giúp đỡ anh ta ngay đúng lúc cạn
tiền. Rồi anh ta tiếp tục cuộc hành trình, và lần này Phật “hiện” ra cho
anh ta gặp thật ngay giữa đường chớ không cần đến Tây phương. Phật hiện ra
với hình tướng y như tượng đồng ở chùa Vạn Linh nên vừa gặp anh ta vừa
tức, vừa mừng lại cũng tỏ ra thành kính. Phật trả anh một đồng, anh ta
giãy nảy. Phật nói “Tiền này tiền Phật tiền Trời, chẳng phải tiền Ma
tiền Quỷ”. Ðó là đồng tiền ước, có thể biến hóa thêm nhiều, Phật còn
ban cho một nhánh cây để khử trừ ma quỷ, soi lẽ thẳng ngay và đặc biệt là
viên thuốc uống vào để có lại trí thông minh. Sau đó Phật đặt tên cho anh
là Hứa Chơn Tâm và tác hợp anh ta với cô Như Ý cũng là một việc không ngờ,
và nhận thấy anh ta đã thoát khỏi dáng vẻ lư láo dại khùng trở nên một
người đàn ông điềm đạm – nhân từ – thông minh, nên cô chẳng ngại ưng tình
chồng vợ. “Quả Thích Ca giáng thế, chơn Bồ- tát độ nhơn, cho hay máy
chước tuần hoàn, mới biết anh linh hiện tại”. Còn nhành cây Phật ban
thì “Cây lá phép Phật thời trồng lại, bến đò xưa còn phải trải qua”.
Từ một đồng tiền vàng, nhành lá thuốc, hai vợ chồng chẳng mấy chốc trở
thành phú hộ không ai sánh bì, chuyên cứu người nghèo, chữa trị bệnh nhân
khổ và thường xuyên mở hội lễ chẩn bần, mướn gánh hát về giúp dân vui
sống.
Với Tam Bành và Lục Tồn, khi đuổi được Trương Ngáo đi và ngỡ đã bỏ xác
trên đường tìm đến Tây phương, kẻ dâm dật người bài bạc đã phải tán gia
bại sản, trở thành phường hát ăn xin để rồi nhân một buổi chẩn bần của vợ
chồng phú hộ Hứa Chân Tâm, bọ họ lại đến để nhận đôi chút phần bó thí và
hát đôi điệu múa bông phục vụ theo lời gia chủ phán “Múa thời có long
có hố, múa sao cho có Phật tiên”. Khi tất cả nhận ra nhau, bọn Tam
Bành dập đầu sám hối xin tha còn Hứa Chơn Tâm dõng dạt “Phật ca dạy gẫm
nên cặn kẽ, thần tuyền soi thấy rõ ràng, cho hay nghiệp báo vinh quang,
mới biết thành năng cảm hoặc”.
HIỂU THẾ NÀO VỀ Ý NGHĨA VỞ TNÐNP?
Sẽ rất khôi hài khi đặt ra câu hỏi như thế so với phần nội dung đã trình
bày trên, nhưng nó vẫn mãi là câu hỏi một khi nhưng đầu óc đen tối cứ cố
tình khuấy đục, đánh lận con đen vào ý nghĩa rất trong sáng, có nghệ
thuật, khoa học của ông cha ta ngày xưa khi cho ra đời vở TNÐNP. Ý nghĩa
đã quá rõ ràng, mang nặng chất nhân bản và hiệu quả cả Nhân – Quả báo ứng,
tắt cả đều nằm ngay trong đường ray dân tộc tính. Vì vậy khỏi cần phải bàn
thêm để phần còn lại bài viết này chúng ta nói lên những điều muốn nói từ
phía tư duy Phật học ở đẳng cấp thấp nhất. Cao hơn, xa hơn là trách nhiệm
của những ai làm công tác văn hóa – văn nghệ Phật giáo sẽ kiến giải và
tất nhiên từ các vị này sẽ ... minh bạch hơn! Tuổi thọ câu hỏi về ý nghĩa
TNÐNP này còn tồn tại bao lâu cũng từ đó thuộc vào các vị làm văn hóa Phật
giáo. Còn ở đây, chúng tôi chỉ là một Phật tử bình lặng – một khán giả yêu
quý bộ môn NTSK dân tộc, chỉ được phép nói đôi điều hạn hữu, chứ nào dám
phê bình NTSK và lạm bàn Phật học. Từ sự bình lặng và yêu quý ấy mà nhiều
thập niên qua người viết đã tích cóp được rất nhiều kiến giải – phê bình,
kể cả truyền miệng và trên mặt trận văn đàn về ý nghĩa vở TNÐNP, mạnh tay
thọc sâu và tư duy Phật học mà ở đây chúng tôi chỉ dám làm công việc tổng
hợp tất cả để tránh nêu cụ thể đích danh từng ý kiến, mặc dù mỗi câu chữ
chấm, phết là nguyên văn, được trích tản mạn.
Không chỉ riêng vở TNÐNP, toàn bộ các vở hát bội hài có liên quan đến Phật
giáo được họ kiến giải với những ý tưởng không tốt đẹp. Thí dụ ở vở
“Trương Ðồ nhục” (tức hồn Trương Ba da hàng thịt) họ nói”Ở đây tiếng
cười năm ngay trong cái thuyết “sát sinh giã tử” của nhà Phật ... Chỉ một
chút lương tri (nguyên văn –DNT) người ta phải tự hỏi: làm nghề mổ lợn
tài giỏi để phục vụ cho đời thì đáng được thưởng chớ sao lại bị tội tử?
Như vậy thì cái luật quả báo, cái thuyết sát sinh giã tử có đúng không?
Nếu cho nó là đúng thì phải hiểu thế nào là sát sinh?... và nếu xem thuyết
đó là tuyệt đối đúng thì còn đâu là lẽ công bằng, là lẽ phải, cán cân công
lý thế là gãy nát đi rồi?...” Những câu hỏi hết sức ngây ngô thế, chứ cái
thuyết nhân quả – quả báo nào phải của nhà Phật “phát minh” mà in thành
kinh Thán buộc thiên hạ chúi đầu – nhắm mắt mà tin. Anh đừng tin, chẳng ai
bắt anh tin và chẳng cos một Diêm vương nào làm công việc phán xử cả. Nó
là quy luật tự nhiên kể cả vũ trụ tuần hoàn; nó vô hình tướng, nó đến và
đi không ai hay biết, nó không có tên gọi. “Thấy được như vậy anh sẽ biết
nhà Phật nào có lên án những tay “mổ lơn giỏi” và người ta ăn thịt lơn (cả
gà, vịt...) bao giờ? Chỉ cần đơn giản thôi; anh không nghĩ ra tất cả giáo
pháp Phật giáo chỉ như một vị bắc sĩ kê đơn thuốc tùy thuộc vào từng chứng
bệnh để giúp cho con bệnh mau lành? Còn nói đến “giáo điều” và “tuyệt
đối”, cả 2 từ này ở Phật giáo hoàn toàn xa lan. Hình như các vị muốn cổ
xúy cho tư tưởng “vật dưỡng nhơn” và “nhơn dưỡng vật” là điều không “công
bằng”, không “công lý” ư? Khi bài này đang viết thì trên VTT3 và HTV đều
đưa tin các nhà hàng phương Tây đang bị lên án khi luộc sống con tôm hùm
còn ngo ngoe và yêu cầu phải chích điện cho nó bất tỉnh trước khi luộc để
cho cái chết đỡ đau đớn hơn! Chỉ một thí dụ về một sinh vật nhỏ ấy thôi ở
các nước không có tín ngưỡng Phật giáo, đủ để ta suy nghĩ. Lại nữa, chừng
như quý vị muốn hô hào “Thượng đế sinh ra các sinh vật là để cho người
ăn”, thì coi chừng các vị quên công lao cực khổ của Charles Darwin
(1809-1882) hằng mấy mươi năm trời lên tiếng đã kích để cho chủ thuyết
tiến hóa được công nhận. Và đây, là những người nghiên cứu – phê bình NTSK
lẽ nào các vị muốn trở nên “những diễn viên – khán giả tồi nhất” mà B.
Brecht đã liệt kê như phần trên chúng tôi đã đề cập? Quý vị phải biết
“thức tỉnh” để kịp nhận ra (gián cách – hiện thực) diễn viên thể hiện và
nhân vật sân khấu. Không riêng gì trẻ con Việt Nam, ngày nay từ tuổi mẫu
giáo đã hiểu thế nào là “ở hiền gặp lành, làm ác gặp ác” khi nghe xong một
chuyện cổ tích. Người ta đâu có đem giáo lý nhà Phật vào làm giáo trình
giảng dạy đâu! Do vậy và các em đã sống có nhận thức nhân bản, tôn trọng
mỗi cành hoa lá cỏ, cảm thấy gần gũi với muôn thú; phải chăng vì vậy nên
các truyện – phim thiếu nhi thời nay các con thú đều được nhân c¸ch hóa
một cách thú vị?
Như vậy, rõ ràng nội dung và ý ngiax ở TBÐNP hoàn toàn không đã kích Phật
giáo mà còn ngược lại. Ngay từ màn đầu, nhân vật ông Ba Lưu đã giáo đầu
với lời lẽ rất “tỉnh táo” không kém phần kính tin: “Muốn đặng thiện
duyên hai chữ, phải lo tác phước ngàn ngày, chùa Vạn Linh từ lập đến nay,
của Tam bảo sắm vô còn thiếu. Vậy thì, ta đem tiền bặc, nhóm thêm bốn đạo,
mua đòng đúc Phật trung tôn, bây giờ ta có tiếng đồn, ngày sau cũng đặng
nhờ chút phước”. Thậm chí hai ông bà còn ân cần đến thợ đúc đồng và bà
con Phật tử “Rước tài công tua khả ân cần, mời bổn đạo ngõ cho hoan
hủ”. Ở đầu màn 5 cũng một Phật tử – cô Ỷ Rạng, nói “Như thiếp nay,
lòng hằng muốn làm nhơn, dạ ghét người tà vạy. Năm ngoái cũng đà thọ phái,
ngày năm xưa cũng có quy y, hằng tướng hai chữ từ bi, lại niệm câu Bồ –
tát”. Cô đã sai đám gia nhân là Thị Liễu, Thị Mai săm sửa lễ vật cùng
ba quan tiền hăm hở đến chùa Vạn Linh cúng Phật. sự hăm hở ấy kèm theo câu
hỏi lạ đời của Trương Ngáo “Các thím đem đồ lên chùa cúng Phật, chửng
biết cúng làm vậy bao giờ Phật trả lại?”, nên hai cô tuy ngạc nhiên
”Chú chẳng phải người điên (ủa sao) nó giống hình như đứa dại” cũng
phải trả lời để vừa anh ta hiểu được: “Ðem đồ đi cúng, (là) lưu tử tôn
hậu thế, hưởng lợi lộc vô cùng, bây giờ cúng có mười đồng, ngay sau trả mà
quá chục, lời tục kêu rằng cúng, ngày sau chẳng khác cho vay, hể là tích
đức ngàn ngày, thời cũng nhờ ơn muôn thuở”. Ðây là mấu chốt sinh ra sự
việc “đi đòi nợ Phật” của Trương Ngáo. Dĩ nhiên việc đó không xảy ra nếu
không có tác động của mụ Tam Bành cộng vào tâm tri bất ổn của chính anh
ta. Dù là người như vậy nhưng anh ta vẫn có được lời than “Cúng Phật mà
mắc tội, cho vay lại phải đòn, nó thiệt là gái khôn cứ ăn hiếp thằng ngáo
dại”. Ðể rồi trên bước đường sợ sệt tìm Phật “đòi nợ”, anh ta vô tình
bật tung cái bản ngã sâu thẳm tâm thức mình “Quán bao gió lọt sương
lồng, dặm hòe thăm thẳm non trùng vơi vơi, ra đi miệng vái Phật trời,
nguyện xin phò hộ cho tôi phen này”. Nếu không quá đáng cũng có thế
gọi đó là Phật tánh, nó không phân biệt và ở nơi ai cũng đều có – ngay cả
với anh “thợ mổ lợn tài giỏi” kia; chỉ tiếc rằng nó chợt đến, chợt đi
theo mỗi sát na. Lnhx lúc ấy chính mình đá là Phật rồi vậy. Ngay như mụ
Bành vẫn có được những giây phút hiếm hoi ấy “Ba mươi đời đứa dại, tám
mươi kiếp thằng ngây Phật! Phật chẳng là ở phương Tây – dầu có cúng đi
chưng nữa, cũng theo thế cúng của người ta. Nhà có dư trăm dư chục, hoặc
người làm tam thiên chấn tế... Ai đi quần chẳng lành còn muốn cầu duyên,
áo thời rách ham bề tác phước...”
Là những người nghiên cứu – phê bình NTSK lại “quá chấp” vào nhân vật,
không bứt ra khỏi ẩn dụ, trở thành một kẻ nô lệ cho chính nhân vật, trách
chi một khán gải bình thường thiên kiến thức thẩm định. Ðể nói hạ bút viết
lên những câu hỏi ngây thơ bằng tất cả những “ánh sáng lương tri” – chưa
nói đến sự hiểu biết Phật giáo ở đẳng cấp thô thiển như sau: “Với một
chút ánh sáng của lương tri, chúng ta cũng đã thấy cúng Phật cũng chỉ là
một kiểu buôn bán, một cách cho vay lãi không hơn không kém”(Sis)! Nếu
từ màn 1 cho đến màn 14 Trương Ngáo ngu đần “xúc xiểm, đòi nợ Phật” và tạo
ra tiếng cười bao nhiêu, thì từ cảnh 15 cho đến hết vở tất cả đều ngược
lại, nhưng giáo lý nhà Phật – cái thuyết nhân quả thì vẫn nguyên trạng, để
anh ta đứng đó làm nền tảng sống đời. Anh ta chẳng thể nào còn tiếp tục
nghi ngờ luật nhân quả vì lúc này anh ta đã hiểu từ nhân đến quả phải có
khoảng cách thời gian. kẻ làm phước sao chưa hết nạn, người tạo ác lại cứ
nhởn nhơ là cách nhìn ở những người chưa tỉnh táo! (Dĩ thời nhi thục –
Biến dị nhi thục – Dị loại nhi thục). Bởi vậy Phật giáo mới gọi là biển
khổ sông mê, người mãi trầm luân lặn nguupj trong đó mà lại tưởng mình
“kiện tướng”. Hứa Chơn Tâm đã lột xác, rũ bỏ tất cả và trả lại cho đời cái
tên Trương Ngáo như nhường tặng lại cho những ai còn khật khùng “ghét”
Phật cỡ ... anh ta trước đó.
Xa hơn, trước các bậc thầy NTSK, thời tại thế, trong cung cách thuyết
giảng, giáo hóa, đức Phật phải dùng đến mười hai cách thực hiện, ngõ hầu
rót được vào tai của từng đối tượng; trong đó cách mang tên “vị tằng hữu”
là cách cuối cùng (thứ 12). Ðó là thần thông biến hóa, là thí dụ cho ưowcs
mơ, là hình twongj kỳ lạ, v.v... cho nên, sẽ đáng mặt thay cho những ai cố
bám víu vào những ẩn dụ qua phương pháp “vị tằng hữu” của đức Phật mà
không vượt qua khỏi nó để thấy ddc điều cao hơn, xa hơn đức Phật muốn
thuyết, khác nào tự mình xếp vào hàng nghe pháp thứ sau cùng ấy vậy.
Hãy xem vở TNÐNP ngày nay – dù ai cái lương – chèo... chúng ta sẽ dễ dàng
nhận ra “tài hư cấu” của các soạn giả chuyển thể, cày nát kịch bản nguyên
mẫu trong sáng của ông bà xưa kia và can thiệp thô bạo vào từng tình huống
lẫn tư tưởng của mỗi nhân vật, trở nên một trò đùa vô vị, khác xa thể cách
tuồng hài của tự nhiên một trò đùa vô vị khác xa thể cách tuồng hài của tự
nhiên bản cổ. Trong khi có thể vâng! Người viết bài này nghĩ như thế – các
vị có những lời “phê bình NTSK” được trích dẫn các phần trên, đã nhiều
chục năm rồi, hôm nay chắc cũng không còn dám mạnh dạn bảo lưu. Chính do
lẽ đó nên chúng tôi lập lại rằng xin mạn phép không nêu đích danh các vị
và trích dẫn ở các sách nào. Cái khoảng cách thời gian giữa nhân và quả đã
có hiệu lực chăng?
Tóm lại, hãy nghe anh Trương Ngáo – tức Pháp danh Hữa Chơn Tâm, khẳng định
tất cả bằng lời ca cuối cùng của kịch bản TNÐNP:
“Phật dạy gẫm nên căn kẽ
Thần truyền soi thấy rõ ràng
Cho nên nghiệp báo vinh quang
Mới biết thành năng cảm hoặc.”
(*) Xin lưu ý giữa tác giả và soạn giả khác nhau. Tác giả là người sáng
tác, tạo ra tác phẩm, còn soạn giả chỉ là người biên soạn sửa đổi chấp bút
– soạn lại.
(1) “La
dernière phase d’une lorme historique, c’est la comédue” – Mác Aênghen về
văn học nghệ thuật. Bản Pháp văn, NXB Khoa học, Xã hội Paris 1954, tr 187.
(2) Theo
Ðặng Anh Ðào - KTTN số 298 ngày 10.11.1998.
(3) Câu chữ
trong ngoặc kép là nguyên văn kịch bản.
--- o0o ---
Vi tính: Nguyên Trang
Trình
bày:
Nhị
Tường
Cập
nhật
ngày:
01-04-2003