---o0o---
[2]
I. Những Trước Tác Chính Yếu
I.1
Tịnh Độ Thật
“Giáo
Hạnh Chứng Văn Loại”
Tác phẩm
“Ngự Bổn Điển”
còn gọi là “Giáo Hành Chứng Văn Loại” cũng gọi là
“Giáo Hành Tín Chứng”. Năm Nguyên Nhân nguyên niên
Ngài được 52 tuổi bắt đầu biên soạn tác phẩm nầy. Điều chắc chắn tác phẩm
được biên soạn ở tại Kanto vì sau khi Ngài trở về, dù tuổi đã 63 nhưng
Ngài nhuận văn lại thật gọn gàng lưu loát, có lẽ đến năm Ngài 74, 75 tuổi,
tác phẩm nầy hoàn thành một cách tuyệt hảo. Ngay cả, mãi về sau vẫn còn
gọt dũa lại những chỗ khác cho tinh tế hơn và kéo dài cho đến năm 80 tuổi.
Thế nhưng, ngày nay duy nhất chỉ còn lại có một bản, chính tay Ngài chép
thờ tại chùa Đông Bổn Nguyện.
Đúng ra, nữa đời còn lại của mình, Thân Loan tư duy thật kỹ về Niềm Tín và
Hạnh Nguyện biên soạn tác phẩm nầy. Nói như thế không ngoa chút nào!
Trong đó,
giáo nghĩa của Tịnh Độ Chơn Tông trình bày bốn pháp hồi hướng bằng hai
loại văn; một loại văn đặc biệt và một thể loại bình giảng để làm rõ nghĩa
thêm. Hơn nữa, trong đó, bổn nguyện và cứu độ cuả Phật A Di Đà được biểu
hiện qua giáo lý hồi hướng. Có hai loại hình thức hồi hướng đó là: Vãng
Tướng hồi hướng và Hoàn Tướng hồi hướng.
Vãng Tướng
nghĩa là để được thoát ra cảnh giới mê muội vãng sanh về Tịnh Độ, tất cả
chúng ta phải hành bốn pháp Giáo, Hạnh, Tín, Chứng. Còn Hoàn Tướng nghĩa
là một khi khởi tâm đại bi, liễu đạt trí tuệ, giác ngộ viên mãn, dù đang
Tịnh Độ, thấy sự khổ não của con người, phát nguyện trở lại cứu độ chúng
sanh. Có thể nói rằng đó là kết quả huân tập đầy đủ lòng từ sau khi chứng
quả. Vì vậy, dù vãng tướng của chúng ta hay hoàn tướng của Bồ Tát ở cõi
Tịnh Độ cũng xuất phát từ nguyện lực của Đức Phật A Di Đà mà thị hiện lên.
Việc căn bản nhất là chúng ta phải hồi hướng đến bổn nguyện lực của Như
Lai qua hai tướng được chia ra rõ ràng.
Như
“Giáo Hạnh Chứng Văn
Loại” cho biết, bổn nguyện của
Đức Phật A Di Đà là khuyến tấn chúng sanh mau giác ngộ ra khỏi sanh tử mê
lầm. Trước tiên, đức Thế Tôn giảng bổn nguyện của Phật A Di Đà đối với
chúng sanh trong mười phương ở trong kinh
“Đại
Thừa Vô Lượng Thọ” về
sau “Giáo
Văn Loại” bình giảng
giáo lý ấy rõ hơn và hướng dẫn pháp môn niệm danh hiệu
“Nam Mô A Di Đà
Phật” và thực hành một cách
chân thật về việc nầy. Tiếp theo
“Hành Văn Loại”
bình giải thêm và lý giải rằng kẻ phàm phu chỉ niệm Phật nơi miệng, nhưng
những kẻ ấy dù không thực hành vẫn được Đức Phật A Di Đà tiếp dẫn hóa độ.
Điều nầy minh chứng hạnh nguyện cao cả và ý nghĩa của Như Lai.
Không nghi
ngờ gì nữa về hạnh nguyện của Như Lai, cho nên có tín thọ chân thật mới có
được lợi lạc.
“Tín Văn Loại”
cũng có dạy rằng tín tâm từ Như Lai mà phát sinh cho nên phải có tâm hồi
hướng về bản thể, Phật tâm, Đại Bồ Đề Tâm. Hơn nữa đây cũng chính là nhơn
giác ngộ và điều nầy hiển bày giáo lý Tịnh Độ qua: Tín, Tâm, Chứng và
Nhơn. Đồng thời ai đặt niềm tin vào bổn nguyện mà niệm Phật mỗi khi ngồi
xuống, liền được ánh sáng quang minh của Đức Phật A Di Đà đến tiếp dẫn,
liên tục hộ trì, sẽ được thành Phật từ thân thể phàm phu nầy và làm bạn
với các bực Thánh. Vị trí ấy gọi là
“Chánh Định Tụ”.
Ai đạt được
“Chánh Định Tụ”
sau khi mạng chung trong đời nầy, liền được Đức Phật A Di Đà tiếp dẫn về
cảnh giới giác ngộ, được vãng sanh về cõi Tịnh Độ chơn thật (báo độ), rốt
ráo thành Phật gọi là vãng tướng chứng quả. Những bậc Thánh hoàn toàn giác
ngộ ấy thấy những kẻ phàm phu còn mê mờ như chúng ta liền khởi tâm đại bi
để cứu độ gọi là hoàn tướng chứng quả. Điều nầy được ghi rõ trong
“Chứng Văn Loại”.
Hơn nữa cả
hai vãng tướng và hoàn tướng đều phát xuất từ tâm Như Lai chân thật và trở
về với thế giới Tịnh Độ ghi rõ trong tác phẩm
“Chơn Phật Độ Văn
Loại”. Giáo lý Phật đà rất chân
thật rõ ràng nhưng khi truyền trao qua nhiều thế hệ; không sao tránh khỏi
là chỗ dựa của các ngoại đạo tà giáo. Cũng vì ngoại đạo tà giáo ấy cho nên
các bậc Tổ Đức mới giảng dạy lý chân thật và dùng những phương tiện có
tính cách giáo dục để hóa độ bằng
“Thánh Đạo Môn, Yếu
Môn và Chơn Môn”. Ý nghĩa đó
chính là quyển
“Hoá Thân Độ Văn
Loại”.
Tác phẩm
“Giáo Hạnh Chứng Văn
Loại” gồm có Giáo, Hạnh, Tín,
Chứng, Chơn Phật Độ, Phương Tiện Hóa Thân Độ gồm 6 quyển phân tích rất rõ
ràng về quan điểm Phật giáo và Ngoại đạo tà giáo để hiển bày Thánh Điển.
Phương tiện để hướng dẫn con người bỏ tà về chánh quả là việc làm vô tiền
khoáng hậu cho nên sự lập giáo của Tịnh Độ Chơn Tông là xây dựng nền tảng
căn bản cho Thánh Điển.
Tác phẩm
“Hành Văn Loại”
và tác phẩm cuối cùng
“Chứng Tín Niệm Phật
Kệ” có 60 hàng gồm 120 bài kệ.
Nửa phần trước là Thế Tôn tán dương
“Kinh Đại Thừa Vô
Lượng Thọ” và giáo pháp căn bản
thiết yếu. Nửa phần sau là bổn nguyện Đức Phật A Di Đà được minh chứng qua
ba nước có ảnh hưởng truyền thống: Ấn Độ, Trung Quốc, Nhựt Bổn
và bảy vị Tổ: Long Thọ, Thế Thân, Đàm Loan, Đạo Xước, Thiện Đạo, Nguyên
Tín, Nguyên Không giảng giải và liễu ngộ pháp môn Tịnh Độ.
Tác phẩm
“Giáo Hạnh Chứng Văn
Loại” tóm lược tất cả giáo lý
Tịnh Độ Chơn Tông, những điều cương yếu và những bài thơ tán thán, ca tụng
về giáo nghĩa Tịnh Độ thâm sâu.
Tác phẩm
“Giáo Hạnh Chứng Văn
Loại” gọi là
“Quảng Văn Loại”
có 6 quyển, còn tác phẩm
“Tịnh Độ Văn Loại Tụ
Sao” nầy chỉ có một quyển mà
thôi, cho nên gọi là
“Lược Văn Loại”
nhưng lại là tác phẩm quan trọng. Thật ra nội dung cũng giống như tác phẩm
“Chơn Phật Độ Văn
Loại” và “Hóa Thân Độ Văn Loại”
được tóm lược nhiều phần lại. Tuy nhiên những câu văn được dẫn chứng trong
đây lại là những câu văn hay và rất quan trọng. Bổn nguyện hồi hướng với
hai tướng: vãng tướng và hoàn tướng được trình bày đơn giản nhưng rõ ràng
vẫn nội dung là Giáo, Hạnh, Tín, Chứng. Tác phẩm
“Chánh Tín Niệm Phật
Kệ” giống như với
“Niệm Phật Chánh Tín
Kệ” đã tường thuật ở trên.
Tác phẩm
“Tín Văn Loại”
có 31 câu hỏi đáp giống như những đoạn hỏi đáp đã được trình bày.
Tín tâm của
bổn nguyện là sự phát nguyện bằng ba trạng thái tâm Chí tâm, Tín nhạo và
Dục sanh
(tâm chí thành, tâm
thích thú và tâm ưa muốn). Nếu
không nghi ngờ nơi bổn nguyện, mà tín thọ một lòng để trở về với ba trạng
thái tâm tức là nhứt tâm. Đó chính là pháp nghĩa, có những điểm rõ ràng
giống nội dung của
“Giáo Hạnh Chứng Văn
Loại”.
Tác phẩm nầy
được hình thành trước hoặc sau để bình giải về
“Giáo Hạnh Chứng Văn
Loại”. Thật ra, cần có một thời
gian khá dài để viết về
“Giáo Hạnh Chứng Văn
Loại” sau đó thêm bớt, trau
chuốt để đi đến chỗ được hoàn hảo. Còn tác phẩm nầy chỉ lược thuật về đại
cương mà thôi.
Tác phẩm đầu
xác định rõ vị trí của Phật Giáo là Chơn Tông và cũng giải thích việc dạy
riêng ấy gọi là
“nhị song tứ trọng”.
Đây là sự phân chia thành bốn loại: Thụ Siêu (giải thoát thẳng đứng); Thụ
Xuất (ra khỏi thẳng đứng); Hoành Siêu (siêu thoát hàng ngang) và Hoành
Xuất (ra khỏi hàng ngang). Những ai dùng tự lực để tỏ ngộ, hoàn thành mục
đích của Thánh Đạo, thành Phật ngay bằng thân nầy giống như mở cánh cửa
giác ngộ được gọi là tu pháp môn Thụ Siêu (giải thoát ngay). Còn phải trải
qua nhiều kiếp tu hành và sau đó mới trở thành bậc Thánh, gọi là tu pháp
môn Thụ Xuất (ra khỏi ngay). Thực tế Thụ Siêu là pháp môn, theo lý luận,
có khả năng chóng thành Phật. Nhưng trên thực tế phải trải qua hằng nhiều
kiếp tu hành mới được.
Vãng sanh về
cõi Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà và mục tiêu thành Phật là pháp môn Tịnh
Độ. Nhưng ở trong ấy chỉ có lòng tin về bổn nguyện tha lực để được vãng
sanh về báo độ chơn thật. Ngồi đó và trở thành Phật mau chóng gọi là pháp
môn Hoành Siêu (siêu thoát ngang). Có con đường thành Phật và có phương
tiện hoá độ nhưng không được vãng sanh nếu không có tha lực. Tự lực chính
là pháp môn Hoành Xuất (ra khỏi ngang). Trong bốn loại Phật đạo nầy, Tịnh
Độ Chơn Tông chính là pháp môn Hoành Siêu. Đây chính là ước nguyện thành
Phật đối với những kẻ phàm phu còn nhiều phiền não và cũng là việc tối cao
duy nhất của Phật giáo. Đó cũng là một sự luận chứng cho việc giải thoát.
Tác phẩm sau dẫn dụ về
“Quán kinh Sớ” và “Tam Tâm Thích” của Thiện Đạo. Ở
đó giải thích một cách rõ ràng rằng người ta có thể khảo sát về Tín tâm và
hành nghiệp của Tịnh Độ Chơn Tông một cách tinh tế rõ ràng.
Thật sự, tác
phẩm nầy được viết vào năm nào không rõ. Vì khi nghe giảng, các đệ tử
không ghi chú rõ ràng ngày tháng.
Trong tác
phẩm
“Tịnh Độ Luận”,
Thế Thân giảng về lễ bái, tán thán, phát nguyện, quán sát và hồi hướng.
Thân Loan biên soạn về các pháp tự lợi và lợi tha của Ngũ Niệm Môn để được
năm công đức:
Cận Môn, Đại Hội
Chúng Môn, Trạch Môn, Ốc Môn và Viên Lâm Du Hý Địa Môn
bằng thơ kệ để tán thán 74 hạnh chủ yếu. Ngũ Niệm Môn là giải rõ con đường
Bồ Tát đạo, nguyện sanh về Tịnh Độ tự lợi và lợi tha, thế nhưng với Thân
Loan, đây chỉ là
“nguyện lực thành
tựu về Ngũ Niệm”. Khi Bồ Tát
Pháp Tạng thành tựu pháp tu niệm danh hiệu
“Nam
mô A Di Đà Phật” chúng
ta cũng được tự lợi và lợi tha với các đức hạnh ấy. Ngũ Niệm Môn và Ngũ
Công Đức Môn là hai cửa nhập (tự lợi), xuất (lợi tha) gọi là nhị môn. Đức
tính ấy được tán thán qua những câu kệ trong
“Nhập
Xuất Nhị Môn Kệ”. Thế
nhưng không phải chỉ có vậy mà còn kèm theo giải thích lời dạy của Thế
Thân và giải nghĩa của Đàm Loan, Đạo Xước và Thiện Đạo, những người kế
thừa về sau tiếp tục giải thích để tán dương công đức nầy. Thật sự không
rõ tác phẩm được tường thuật và trước tác vào năm nào nhưng có thể đoán
chắc rằng vào năm Thân Loan vào tuổi 83.
Hòa tán có
nghĩa là hòa ngữ (tiếng nói thuộc về dân tộc Nhật Bản) là những lời thơ ca
tán dương công đức Chư Phật. Đặc biệt vào giữa thời kỳ Bình An (Heian) đến
thời Kiêm Thương (Kamakura) lưu hành 75 loại, gồm 4 câu một khổ. Kim Dạng
(Imango) là những khổ thơ dùng để tán dương công đức chư Phật, trong đó
Hòa Tán của Thân Loan là một.
Hơn nữa, Hòa
Tán của Thân Loan gọi là
“Lời Ca Tụng Dịu
Dàng”. Ngày xưa hầu hết kinh
điển đều viết bằng Hán Văn. Chư vị Tổ Sư bình giải thích ra lối văn nhẹ
nhàng dễ hiểu. Sự thật, Hòa tán của Thân Loan chắc chắn cũng phải nương
vào văn phong của những câu kinh được giải thích ấy.
Hòa Tán của
Thân Loan hơn 500 khổ thơ, trong đó có
“Tịnh Độ Hòa Tán”,
“Cao Tăng Hòa Tán”, “Chánh Tượng Mạt Hòa Tán”
và đặc biệt có
“Tam Thiếp Hòa Tán”.
Trong tu tập hằng ngày, hàng đệ tử của Chơn Tông đều dùng đến những loại
nầy. Ngoài ra, còn có gần 200 khổ thơ Hòa Tán khác dùng để ca ngợi về công
đức của Thánh Đức Thái Tử. “Tịnh
Độ Hòa Tán” rất hay,
“Tán
A Di Đà Phật Kệ” của
Đàm Loan cũng gọi là “Tán
A Di Đà Phật Kệ Hòa Tán”.
Ba bộ kinh Tịnh Độ được soạn thành hòa tán; đó là
“Đại
Kinh Tán”, “Quán
Kinh Tán” và
“A
Di Đà Kinh Tán”. Những
Kinh Điển tán thán Đức Phật A Di Đà như
“Chư
Kinh Hòa Tán, Hiện Thế Lợi Ích Hòa Tán”,
“Thế
Chí Hòa Tán” v.v…, đều
được tóm gọn lại trong những lời ca tụng ấy.
“Cao
Tăng Truyện” chính là
những pháp nghi của Tịnh Độ Chơn Tông được truyền qua từ Ấn Độ, Trung
Quốc, Nhật Bản bởi các vị tổ sư như Long Thọ, Thế Thân, Đàm Loan, Đạo
Xước, Thiện Đạo, Nguyên Tín, Nguyên Không với nội dung tán dương công đức
chư Tổ. Ngoài ra, phần sau của “Chánh
Tín Niệm Phật Kệ” tán
dương ca ngợi rộng rãi bằng lối hòa tán nầy.
“Chánh,
Tượng”, “Mạt
Hòa Tán”
khi đức Thế Tôn còn tại thế chia Phật Pháp ra làm ba thời kỳ đó là:
Chánh pháp, Tượng
pháp và
Mạt pháp.
Thời kỳ nầy là thời kỳ Mạt pháp rất hiếm có người tu được chứng quả. Sống
trong thời kỳ nầy, chúng ta là những kẻ phàm phu chỉ được cứu độ qua bổn
nguyện của Đức Phật A Di Đà mà thôi. Bổn nguyện cứu độ ấy là niềm vui được
thân nầy. Vì cảm niệm ân đức cao dày và lòng từ bi vô hạn của Như Lai; tôn
kính ân đức chư vị Tổ Sư Tịnh Độ, Ngài đã sáng tác hòa tán để ngưỡng vọng
và tán dương.
Nếu còn nghi
ngờ về bổn nguyện, có “Giới
Nghi Tán”.
Tác phẩm có 11 khổ tán thán và ngưỡng vọng Thánh Đức Thái Tử gọi là
“Hoàng
Thái Tử Thánh Đức Phụng Tán”.
Tất cả điều ngu muội của tự thân và suy đồi của các giới trong Phật Giáo
được biểu hiện một cách bi thảm trong
“Ngu
Ngốc Bi Thán Thuật Hoài”.
Trong bản Hòa Tán về Thánh Đức Thái Tử còn thấy sót lại, còn thêm vào
“Thiện
Quang Tự Hòa Tán” nữa.
Tất cả những hòa tán bên trên được gọi là
“Chánh
Tượng Pháp Hòa Tán”.
Ngoài ra, vào năm Văn Minh
thứ 5 Liên Như cho khắc bảng hòa tán
“Văn
Minh Bản” và cuối cùng
là “Tự
Nhiên Pháp Nhĩ” những
lời dạy được gọp chung vào thành hai loại hòa tán.
Trong
“Tam
Thiếp Hòa Tán” gồm
“Tịnh
Độ Hòa Tán” và
“Cao
Tăng Hòa Tán” là những
tác phẩm viết nháp lúc Thân Loan 76 tuổi; nhưng bản
“Chánh
Tượng Mạt Hòa Tán” được
hình thành vào năm Ngài 85 tuổi theo thứ tự thời gian.
(1
quyển)
Tác phẩm
cũng còn gọi là “Ba
Kinh Vãng Sanh Văn Loại”
có hai bản lược giảng rộng. Bản giảng rộng có bản đính chánh, tăng thêm
của phần giản lược bớt. Còn Ba Kinh Vãng Sanh gồm có:
Đại Kinh Vãng Sanh,
Quán Kinh Vãng Sanh và
A Di Đà Kinh Vãng
Sanh.
Đại Kinh Vãng Sanh
chính là làm hiển bày pháp nghi của sự chân thật.
Quán Kinh Vãng Sanh
và
A Di Đà Kinh Vãng
Sanh là hai bản kinh hiển thị
những pháp môn phương tiện.
“Đại
Kinh”
chính là “Đại
Vô Lượng Thọ Kinh”. Đây
gọi là Kinh Chân Thật, vì lẽ Đức Thích Tôn giải thích rõ ràng lời thệ
nguyện thứ 18 cứu độ chúng sanh, đặc biệt trong đó có bổn nguyện chân thật
của Đức Phật A Di Đà. Kinh chân thật nầy thuộc về Giáo, nội dung vượt lên
khỏi tư duy của con người, một khi đã tin và niệm danh hiệu Phật A Di Đà
tức thời được thành Phật, chắc chắn đạt được ngôi vị Chánh Định Tụ, cuối
cùng vãng sanh Tịnh Độ chơn thật và sẽ hoàn thành giác ngộ như Đức Phật A
Di Đà. Cũng gọi là
Nan Tư Nghì Vãng Sanh,
bởi vì vượt lên trên trí hiểu biết bình thường và sự suy nghĩ bình thường
của con người. Thế cho nên gọi là
Đại Kinh Vãng Sanh.
Nói rõ hơn, đây chính là hai tướng hồi hướng thuộc bổn nguyện lực gồm vãng
tướng hồi hướng và hoàn tướng hồi hướng. Nội dung của vãng tướng hồi hướng
là Hạnh, Tín, Chứng như đã được giải thích đơn giản rõ ràng rồi.
Quán Kinh
chính là bộ kinh gồm hai phương diện của
“Ẩn Ảnh”
và
“Hiển Thuyết”
giống như Đại Kinh về pháp nghi chân thật.
“Ẩn”
có nghĩa là ẩn hình không nói ra. Còn
“Hiển”
có nghĩa là phơi bày rõ ràng. Khi tâm yên ổn quán niệm về Như Lai thì gọi
là định thiện. Khi tâm tán loạn cần phải dừng những việc xấu ác lại để
được thiện chính là hiển bày nguyên nhơn vãng sanh của tán loạn thiện. Đức
Thích Ca Như Lai giải thích rất rõ điều nầy nơi lời nguyện thứ 19, có tính
cách giáo dục cho những ai chưa thuần thục và chấp trước vào tự lực của
mình. Cả những hành giả tu hành về tán loạn thiện và định thiện bằng sự tự
lực khi lâm chung vẫn được chư Bồ Tát đến nghinh tiếp và nương tựa phương
tiện hóa độ của Phật mà vãng sanh. Phương tiện hóa độ vãng sanh nầy cũng
có thể nói là vãng sanh dưới gốc cây Sa La Song Thọ, nơi hai cây Sa La,
chỗ mà Đức Thích Tôn nhập diệt lúc Ngài 80 tuổi. Kinh nầy cũng có thể nói
là
“Quán Kinh Vãng
Sanh”. Ở cõi Tịnh Độ cũng thế,
Đức Phật A Di Đà vì phương tiện hóa độ để phù hợp với căn cơ trình độ
những kẻ chưa thành thục phải hóa hiện ra hóa thân Phật, chẳng phải là Đức
Vô Lượng Thọ Phật khi nhập diệt. Điều nầy giống như Đức Thế Tôn nhập diệt
để hóa độ. Sự nhập diệt của Ngài như ta thấy là sự vãng sanh mà sự vãng
sanh ấy xảy ra nơi Sa La Song Thọ.
Cả
Kinh A Di Đà
lẫn
Quán Kinh
đều giống nhau chỗ ẩn và hiển. Ẩn hình có nghĩa là chư Phật tán thán việc
niệm Phật vãng sanh nhờ vào tha lực. Đây là điều dạy có tính cách bí mật.
Còn hiển có nghĩa là dùng tự lực để niệm Phật. Hẳn nhiên, còn nhiều nghi
vấn về tự lực niệm Phật và tha lực của bổn nguyện nhưng chính mình cứ nổ
lực tu hành qua pháp xưng danh hiệu, qua việc tích chứa công đức và qua
công đức niệm Phật, Như Lai sẽ đến cứu độ. Đây gọi là sự niệm Phật với tâm
nghi ngờ.
Lại nữa với
những ai tinh thần được tập trung và tâm không loạn động, phút lâm chung
vẫn tiếp tục xưng niệm danh hiệu, chắc chắc được tiếp dẫn vãng sanh về
Tịnh Độ theo công đức tu tập dày mỏng qua niềm tin và hạnh niệm Phật. Thế
nhưng cõi Tịnh Độ hiện bày trước mắt không phải là cõi Tịnh Độ chơn thật,
mà chính đó là hóa thành và thai cung được biểu hiện qua hóa độ. Kẻ vãng
sanh qua phương tiện hóa độ chính họ mong muốn Đức Như Lai trợ giúp giáo
hóa; vì chính họ không có khả năng tự lực. Thân Loan gọi sự vãng sanh bằng
phương tiện hóa độ nầy là
“Nan Tư Vãng Sanh”
và cũng gọi là
“A Di Đà Kinh Vãng
Sanh”. Khi gặp pháp chơn thật
và
Nam mô A Di Đà Phật
là dựa vào tâm bổn nguyện ấy và chính tự lực xưng niệm của kẻ kia được
vãng sanh nên gọi là
Nan Tư Nghì Vãng
Sanh và ở đây chữ
“Nghì”
được lược bớt đi.
Giáo lý chân
thật của Tịnh Độ Chân Tông và giáo lý phương tiện hóa độ được trình bày
lại một cách dễ hiểu qua
“Giáo Hạnh Chứng Văn
Loại” gồm năm quyển phía trước.
Đồng thời “Đại
Kinh Vãng Sanh” cũng
được tóm tắt nội dung trong tác phẩm
“Hóa
Thân Độ Văn Loại” cũng
như được giải thích rõ ràng ở các kinh
“Quán
Kinh Vãng Sanh” và
“A
Di Đà Kinh Vãng Sanh”.
(2
quyển)
“Tôn Hiệu Chơn Tượng Minh Văn”
là bình giảng rộng hơn của hai tác phẩm
“Tôn Hiệu”
cũng có nghĩa là
“Danh Hiệu”.
“Chơn Tượng”
giải thích những bức tượng của chư vị Tổ sư vẽ bằng mực và
“Minh Văn”
là những bài viết bên trên hay bên dưới những bức họa trong đó có những
bài văn và kinh luận nhằm để tán thán ca ngợi chư vị Tổ sư, như dưới các
bức họa của Long Thọ và Thế Thân.
“Tôn
Hiệu Chơn Tượng Minh Văn”
là những lời giải thích một cách đơn giản dễ
hiểu tập trung những lời văn ca tụng ở dưới những bức họa ấy.
“Tôn
Hiệu”
cũng được hiểu là chính Thân Loan nói trong
“Ngu
Ngốc Thân Loan Kính Tín Tôn Hiệu”
Bản thân Thân Loan kính tín bổn tôn và tôn xưng bổn tôn ấy nên viết
“Danh
Hiệu Bổn Tôn”. Thân
Loan tự tay mình viết danh hiệu bổn tôn gồm 10 chữ đó là
“Quy Mệnh Tận Thập
Phương Vô Ngại Quang Như Lai”
và 8 chữ:
“Nam Mô Bất Khả Tư
Nghì Quang Phật” hoặc 6 chữ:
“Nam Mô A Di Đà
Phật” vẫn còn tồn tại cho đến
ngày nay. Thế nhưng ở đây còn thấy được thêm về những chú thích của minh
văn nữa. Chắc rằng 10 chữ đuợc truyền lại ở chùa Chuyên Tu thuộc Bổn Sơn
Takada minh chứng cho điều ấy. Thế nhưng chân tượng lại chỉ cho cái gì đó
thật ra không ai rõ, hoặc giả trong đó có thể hiểu là những bài viết hoặc
bức họa thuộc Quang Minh Bổn Tôn chăng? Thế nhưng có một đoạn chú thích ở
“Hòa Triều Ngu Ngốc Thích Thân Loan Chánh Tín Kệ
Văn” và
“Chánh Tín Kệ”
cũng có thể là bức vẽ vào lúc Ngài đã 83 tuổi gọi là
“An Thành Ngự Tượng”
hình nầy có thể thuộc về hệ thống ấy.
Tác phẩm nầy
tóm lược còn một quyển và bản lớn có hai quyển được tăng thêm và bản lược
không còn nữa như
“Thủ Lăng Nghiêm
Kinh” và
“Thập Trụ Tỳ Bà Sa
Luận” cùng với
“Tịnh Độ Luận”
và những bài văn lễ tán dương công đức Thánh Đức Thái Tử. Hiện còn đúng
dấu tích là bản lược lúc Ngài 83 tuổi, giống như chân tích của bản lớn vào
năm Ngài 86 tuổi.
Với Thân
Loan - Văn ý gồm hai tác phẩm “Niệm Đa Niệm Văn Ý” và
“Duy Tín Sao Văn Ý”. Quyển đầu giải thích những thể tài trong
quyển
“Nhứt Niệm Đa Niệm
Phân Biệt Sự” của Loan Khoan và
quyển sau là
“Duy Tín Sao”
của Thánh Giác. Vì hai tác phẩm nầy dùng ý văn để bình chú những quyển
trên nên gọi là “Văn Ý”.
Thân Loan,
học trò của Pháp Nhiên cho nên đặc biệt đối với hai tác giả trên, rất tôn
kính vì chân ý của Pháp Nhiên được truyền trì lại. Những thư từ sách vở
của hai vị nầy được những học trò đệ tử giữ gìn rất trang trọng. Đương
thời “Nhứt Niệm Đa Niệm”
được bàn luận rất sôi nổi. Hơn nữa có sự phê bình rất cao về tín tâm của
bổn nguyện cũng như phương pháp tiếp nhận pháp môn niệm Phật được những
môn đệ ở Kanto viết rất rõ trong
“Nhứt Niệm Đa Niệm Phân Biệt Sự”.
Trong đó, cũng có trích dẫn những lời văn chú thích của các kinh và được
thêm vào trong tác phẩm nầy.
Thế nhưng,
khi xem nội dung nửa phía trước của
“Nhứt Niệm, Đa Niệm”
cũng không khác mấy với sự quyết định vãng sanh với một niệm được chứng
minh qua 14 chữ. Đặc biệt, Pháp Nhiên hay Long Khoan chẳng những không
buông bỏ niềm tin của một niệm mà còn tin mạnh hơn nữa. Họ giải thích rõ
ràng hơn về quan điểm “Hiện Sanh Chánh Định Tụ” mà tư tưởng
và vị trí của Thân Loan được biết rõ tại điểm quan trọng nầy. Nửa phần sau
của “Đa Niệm” cũng nói về đa niệm vãng sanh, chẳng sai biệt
tí nào. Với việc nầy, lấy ra 8 chữ để chứng minh. Như vậy từ Thân Loan, sự
truyền thừa về những pháp nghĩa của việc chuyên tu niệm Phật dầu là
“Nhứt Niệm Vãng Sanh” có phủ định về đa niệm vãng sanh và ngược
lại đa niệm vãng sanh cũng có phủ định nhứt niệm vãng sanh; nhưng đó là
điều chẳng phải đáng nói mà nhứt đa (một hay nhiều) cũng mang được bổn
nguyện của kẻ tín tâm niệm Phật và việc nầy Pháp Nhiên đã kết luận nơi “Niệm
Phật Vãng Sanh” rồi.
Bản viết tay
nguyên thỉ của Thân Loan là bản còn giữ lại được nơi Đông Bản Nguyện Tự
(Higashi Honganji). Đó chính là lúc 85 tuổi vào năm Khang Nguyên
thứ II viết ra. Thế nhưng đến năm Kiến Trường thứ 8 dưới hình của Tánh Tín
(Thiện Loan nghĩa tuyệt trạng)
đã được viết ra. Đây chính là được viết trước đó, phải rõ như vậy. Đối với
sách nầy “Nhứt Niệm Đa Niệm Chứng Văn” là tựa sách được viết
vào thời Thất Đinh và tên gọi nầy chỉ có một quyển mà thôi.
Một trong
những cao đệ thuộc hàng đệ tử lớn của Pháp Nhiên là Thánh Giác (Seikaku),
người trích dẫn và chú thích những bản kinh trọng yếu trong “Duy Tín
Sao”. Khi Thân Loan còn ở Kanto, Thánh Giác trực tiếp viết quyển
“Duy Tín Sao” nầy và gởi cho Thân Loan. Thỉnh thoảng các môn
đệ ở Kanto cũng đọc và viết trả lời lại. Thực sự, các môn đệ của Thân Loan
đọc rất nhiều lần và thuộc làu tác phẩm nầy. Bởi vì “Thán Dị Sao”
những lá thơ họ viết đều có phần nào ảnh hưởng tác phẩm nầy.
Về chú thích
- đầu tiên nói về tựa đề “Duy Tín Sao”. Vì đây là một tác
phẩm nhằm giải thích tỉ mỉ những câu văn đã được trích dẫn, mà những trích
dẫn ấy là những câu văn trong “Ngũ Hội Pháp Sự Tán” của Pháp
Chiếu (Hotsusho), “Văn Pháp Sự Tán” của Thiện Đạo và kinh
văn của ba tâm thuộc “Quán Kinh”. “Tán Thiện Nghĩa” của
Thiện Đạo. Có những câu văn chú thích thật chân thành như trích dẫn văn
của Từ Mẫn (Jimin) trong “Ngũ Hội Pháp Sự Tán”. Văn nguyện
thứ 18 trong “Đại Kinh”; văn thuộc về phi quyền phi thật
trong “Pháp Hoa Kinh”. Còn lấy từ cách hành văn của
“Quán Kinh” tiếp tục giải thích để trở thành “Duy Tín Sao”.
Chính Thân Loan thấy biết rõ ràng trong “Tôn Hiệu Chơn Tượng Minh
Văn” và “Nhứt niệm Đa Niệm Văn Ý”. Có thể đây là
những Thánh giáo quan trọng thuộc về tư tưởng tín ngưỡng của Thân Loan khi
tuổi về già.
Hiện còn bút
tích được lưu giữ tại chùa Chuyên Tu thuộc Bổn Sơn Takada cho biết vào
ngày 11 tháng giêng năm Khang Nguyên thứ 2 và cùng năm ấy ngày 27 tháng
giêng, Thân Loan đã 85 tuổi mới viết sách nầy. Thế nhưng năm Kiến Trường
thứ 2, lúc ở tuổi 78, bản chánh được viết rồi và đó chính là bản viết tay
cũ nhất. Việc tuyển thuật được ghi lại như trên.
(1
quyển)
Thân Loan
những năm về già ở Kanto được các môn đệ các nơi thu thập những pháp ngữ
và những thư từ liên quan đến đời sống gom thành nhiều loại cho đến mãi
một thời gian sau khi Ngài mất việc gom góp, biên tập ấy vẫn tiếp tục.
Trong đó gồm có “Thân Loan Thánh
Nhơn Ngự Tiêu Tức Tập”
18 hạng mục. Bản của Thiện Tánh (Zensho) về
“Ngự Tiêu Tức Tập”
6 hạng mục.
“Huyết Mạch Văn Tập”
5 hạng mục. “Hiển Trí Thượng
Nhơn Thơ Tả Tiêu Tức”
2 hạng mục. “Mạt Đăng Sao”
22 hạng mục v.v… Đó là những tác phẩm chính. Gần đây đã công bố những lá
thư viết tay của Thân Loan và những bản cũ nhất như “Nguyên Điển Bản
Thánh Điển” (tức Tịnh Độ Chơn Tông Thánh Điển Nguyên Điển Bản) gồm
43 hạng mục để góp vào “Thân Loan Thánh Nhơn Ngự Tiêu Tức”
mà đã thu nhập và biên tập thêm vào. Dĩ nhiên ở đây cũng giống như bản
“Chú thích Bản Thánh Điển”.
Qua phần
Tiêu Tức và Pháp Ngữ ấy những môn đệ ở Kanto cho thấy về những trạng huống
và những hình ảnh nổi trôi ghi rõ những hành động và tín tâm của Thân Loan
khi tuổi đời xế bóng. Đối với sự kiện Thiện Loan, trong môn đệ của họ nổi
loạn như thế nào và ý nghĩa của việc xử phạt bằng cách Thân Loan dứt tình
cha con với Thiện Loan, khổ sở biết bao. Những điều nầy được làm sáng tỏ
qua thơ văn viết lại về đời sống của Thân Loan. Ngoài ra lúc 86 tuổi, qua
ngôn ngữ trí tuệ ở tại Hạ Dã Cao Điền (Shimotsuke) nói pháp trong
“Tự Nhiên Pháp Nhĩ” và đây cũng là những lời dạy gần gũi sâu xa
nhất đối với Tịnh Độ Chơn Tông.
(1
quyển)
Một năm sau
kể từ khi Thân Loan viên tịch, Huệ Tín, người bạn đời của Ngài, nhận được
tất cả 8 lá thơ từ Giác Tín, người con gái út và biên tập tập sách nầy
trong vòng 6 năm, kể từ năm Hoằng Trường
thứ 3 cho đến năm Văn Vĩnh
thứ 5. Ngoài ra, Huệ Tín cũng soạn hai lá “Hộ Trạng” và
“Đại Kinh” bằng lối đọc theo âm Nhật Bản (Hiragana), mà trong
“Nguyên Điển Bản Thánh Điển” có lược qua. Nói chung tất cả
đều còn giữ lại bản chính tại chùa Tây Bổn Nguyện (Nishi Honganji).
Năm Kiến
Trường thứ 6, 7 Thánh Nhơn 82, 83 tuổi, Huệ Tín cũng đã già, bà giã từ
Kyoto lui về Việt Hậu (Etsugo) sống chung với bốn người con gái. Cuối
cùng, bà mất tại nhà của Tiểu Hắc (Oguro), người con gái. Bà được cấp đất
đai để ở nhưng con cháu còn lại chẳng được nuôi dưỡng nên người.
Trong thư,
Giác Tín báo cho bà biết thân phụ Thân Loan đã vãng sanh. Những ngày sau
đó, bà bắt đầu biên soạn từng phần cuộc đời bà. Đầu tiên, bà xác chứng đời
Thân Loan thật là ý nghĩa.
Thứ nhứt,
khi ở tại Tỷ Duệ Sơn và lúc ra khỏi Lục Giác Đường tham học, Thân Loan
mộng thấy Pháp Nhiên nên Thân Loan hồi tâm. Đây gọi là điểm chính nổi bật
về niềm tín của Thân Loan.
Thứ hai, lúc
ở tại Thường Lục, bà thường mộng thấy Pháp Nhiên là hóa thân của Bồ Tát
Đại Thế Chí và Thân Loan là hóa thân của Bồ Tát Quan Âm và giữ kín giấc
mộng vì tin rằng Thân Loan chính là hóa thân của Bồ Tát Quan Âm, về sau,
bà có cho con gái biết.
Thứ ba, vào
năm Khoán Hỉ
thứ 3 Thân Loan 59 tuổi bị bịnh vì 17 năm trước, vào năm Kiến Bảo
thứ II lúc 42 tuổi ở tại Thượng Dã Quốc Tá Quán (Kozuke Kuni Sanuki), Ngài
có phát nguyện đọc tụng 1000 bộ của ba bộ kinh, nhưng chỉ trong 4 đến 5
ngày sau nghĩ lại và dừng nghỉ.
Hẳn nhiên,
trong đó bà cũng ghi lại tại sao Thân Loan ngừng việc đọc tụng kinh điển;
tại sao rời Thường Lục về Kanto; ai mời ngài v.v..
Ngoài ra,
qua cuộc đời Huệ Tín, chúng ta thấy bà chính là người niệm Phật rất thâm
tín và đồng thời qua ngòi bút của bà, chúng ta biết rõ cả mẹ lẫn con gái
đều trải qua cuộc đời tình ái thật đẹp.
“Thán
Dị Sao” do Duy Nhiên (Yuien), một trong
những đệ tử biên soạn tại Thường Lục thuộc Hà Hòa Điền. Sau khi Thân Loan
mất, có nhiều dị nghị phát sanh ở trong hàng đệ tử. Để trấn tỉnh và an tâm
họ, Duy Nhiên biên soạn thán nầy. Đây là những pháp ngữ soạn ra để nói rõ
niềm tin về tha lực của Thân Loan, ngõ hầu giúp kẻ hậu học lấy làm kim chỉ
nam, như được tường thuật nơi lời nói đầu.
Bản văn chính chia ra 18 điều.
Nửa phần trước có 10 điều ghi lại những pháp ngữ (lời giáo huấn) của Thân
Loan. Nửa phần sau là những đoạn ngắn có 8 điều còn lại, trích ra những
phê phán và dị nghị của người đương thời. Những lời giáo huấn của Thân
Loan ở nửa phần trước là tiêu chuẩn song nửa phần sau là những lời than
thở dị nghị và phê phán mà thôi. Song phần nửa sau cũng có ghi lại pháp
ngữ của Thân Loan.
Tóm lại:
“Niềm tín của Thân Loan cũng là niềm tin của Pháp Nhiên. Tuy hai nhưng
là một”. Đồ chúng của Pháp Nhiên bàn luận xôn xao về tín tâm giống
hay khác. Nhưng cuối cùng đi đến hai việc rất tâm đắc đó là: tín ngưỡng
phụng trì Thánh Giáo và kính ngưỡng của Thân Loan. Theo tôi nghĩ (tác giả
Kakehashi) cả hai giống nhau không khác tí nào đó là từ bi chân thành và
cứu độ chân thật. Hầu như cả hai đều tràn đầy tâm đại bi trong bổn nguyện
và chí thành chí kính niệm Phật. Bản văn nầy được viết xong với những bản
phụ khác vào thời kỳ pháp nạn điên đảo dưới thời Thừa Nguyên.