Tịnh Độ
HT. Thích Trí Quảng
Trong kinh điển Nguyên thủy, Đức Phật nói về thế
giới Niết bàn, nhưng chuyển sang kinh điển Đại thừa, cảnh giới Niết bàn
được triển khai thành các mô hình Tịnh độ như Tây phương Tịnh độ của
Đức Phật Di Đà, Đông phương Tịnh độ của Đức Phật Dược Sư, Tịnh độ của
Duy Ma, Tịnh độ của Pháp Hoa, v.v...
Tịnh là trong sạch và độ là đất, nhưng không phải mặt đất này. Trong
kinh Tâm Địa Quán, Đức Phật Thích Ca dạy về tâm địa, lấy mảnh đất
tâm của chúng ta làm đối tượng quán sát, tu hành. Người tu thường ví
mình là người làm vườn khai thác mảnh vườn tâm của chính mình. Bắt đầu
công việc canh tác mảnh vườn tâm, chúng ta nhận thấy rõ tâm mình ô uế,
nên phải nỗ lực dọn dẹp cho sạch mảnh đất tâm đầy cỏ dại và đuổi hết
những rắn rít ẩn núp trong ấy. Có cỏ dại là có rắn rít, hai thứ này
thường hợp tác với nhau. Nói cách khác, nội chướng và ngoại ma luôn gắn
liền với nhau. Thực tế cho thấy người thích uống rượu, hay thích cờ bạc,
tự động có bạn rượu, bạn cờ bạc tìm đến rủ rê. Còn lòng tham, mới bị
người mua chuộc, còn bực tức thì dễ bị người kích động. Nếu tâm chúng ta
vắng lặng, đã dọn sạch cỏ dại, rắn rít đâu còn chỗ nương náu.
Năm 1963, với sự bồng bột của tuổi trẻ, tôi đã tham gia phong trào tranh
đấu của Phật giáo, lúc ấy tự động có nhiều người chống chế độ tìm gặp
tôi để kích động, mới xuống đường. Vì lòng mình nghĩ như vậy, họ mới tác
động được. Nhưng khi tâm tôi đã nguội lạnh sau tám năm tu học ở Nhật trở
về, cỏ dại đã dọn sạch, nên rắn rít phải bỏ đi, nghĩa là tôi không muốn
đi theo con đường ấy, cho nên người khác không xúi giục được.
Trên bước đường thật tu, từng bước chân niệm Phật, chúng ta đi lần vào
Tịnh độ. Dẹp được một phần phiền não, một phần Tịnh độ hiện ra, hay ta
khai thác mảnh vườn tâm, dọn dẹp cỏ dại đến đâu thì đem gieo giống Bồ đề
đến đó. Còn bỏ mặc, để đất trống thì cỏ dại sẽ mọc rất nhanh, ở không sẽ
sanh chuyện. Vì vậy, người tu Tịnh độ thường tinh tấn, ngày đêm sáu thời
niệm Phật, tụng kinh, không cho phép có thì giờ chơi hay ngủ. Tụng kinh
hai tiếng, nghỉ một chút, lại tụng tiếp. Riêng tôi, đã trải qua nhiều
năm thể nghiệm pháp này, tâm mới sạch, Bồ đề mới lớn mạnh, tâm trí mới
chứa được pháp Phật.
Phải gấp rút trồng Bồ đề bằng cách tụng kinh, niệm Phật, sám hối, tham
thiền. Và tâm Bồ đề của chúng ta vững mạnh thì ác xấu bên ngoài không
tìm đến hoặc không tác hại được. Tâm nguội lạnh và người không tác động
được là biết tâm mình đã sạch; được như vậy, chúng ta đi lần vào thế
giới nội tâm của chính mình, đó là Tịnh độ của tâm, hay Tịnh độ theo
Duy Ma.
Duy Ma nghĩa là tịnh tâm và tâm thanh tịnh thì thế giới thanh tịnh hiện
ra. Tất nhiên thế giới thanh tịnh này là thế giới nội tâm, không phải
thế giới bên ngoài. Nhưng muốn tâm thanh tịnh, phải hàng phục bốn loại
ma là ngũ ấm ma, phiền não ma, thiên ma, tử ma.
Riêng với người tu Thiền, nếu thể nghiệm được tâm không sinh, không
diệt, chứng quả Vô sanh, tức đạt đến trạng thái tâm hoàn toàn như như
bất động, gọi là tâm chân như. Sống với tâm chân như, hoàn cảnh bên
ngoài không thể tác động, thiên ma không quấy nhiễu được, nên đối với
sinh tử, hành giả cũng không bận tâm, là tử ma không có và tất cả vui
buồn vinh nhục của cuộc đời không thể tác hại, phá được phiền não ma.
Khi ba thứ ma: phiền não ma, thiên ma, tử ma bị trừ khử, ngũ uẩn trở
thành thanh tịnh, thì cũng chấm dứt ngũ ấm ma.
Ngũ uẩn thân ô nhiễm là chúng sinh trầm luân trong thế giới sinh diệt.
Ngũ uẩn thanh tịnh thì sanh thân là Pháp thân, hay đã chuyển đổi thân
sinh diệt thành không sinh diệt theo Duy Ma.
Thật vậy, ngũ uẩn thân gồm sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức
uẩn. Thức uẩn là sự hiểu biết của chúng ta có được do xúc chạm, thấy,
nghe, suy nghĩ, gọi là vọng thức. Thí dụ, muốn biết một người nào đó,
trước hết chúng ta quan sát hình dáng bên ngoài của họ, kế đến, muốn
biết rõ hơn, phải tìm hiểu xem họ xuất thân từ trường lớp nào, làm việc
ra sao, nghe người khác nhận xét về khả năng, về tánh nết của họ, về gia
đình họ và cuối cùng chúng ta tổng hợp tất cả những dữ kiện này để biết
họ như thế nào. Đó là cái biết bằng vọng thức theo thế gian.
Theo Phật, chúng ta không sử dụng cái biết theo vọng, nhưng biết bằng
trực giác. Chúng ta không thể tin tưởng vào bề ngoài giả tạo của họ,
không nghe họ nói để không mắc lừa người khẩu Phật tâm xà. Thể nghiệm
pháp Phật, tập biết theo Phật, chúng ta tập chuyển đổi vọng thành chân
bằng cách xả bỏ tiền ngũ thức, nghĩa là không sử dụng năm thứ biết do
mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm và thân xúc chạm, cho đến chuyển
đổi Mạt na thức và A lại da thức trở thành bạch tịnh thức. Trải qua quá
trình thực chứng như vậy, hiểu biết theo vọng đã lắng yên, là vọng thức
đã xả, thì tâm được thanh tịnh, hiểu biết sáng suốt, không suy nghĩ,
tính toán mà vẫn biết chính xác, gọi là trực giác.
Riêng tôi, thường tập quán sát việc hay người bằng trực giác trước, xem
có tin được không và sau đó kiểm chứng lại bằng tri thức, bằng kinh
nghiệm, bằng sách vở, bằng cách tìm hiểu, v.v… Và đem so những dữ kiện
thu thập được với trực giác ban đầu của chúng ta có, sẽ biết được mức độ
chính xác của trực giác chúng ta ra sao. Tập cách biết như vậy, lần lần
chúng ta phát huy được trực giác, gọi là tuệ giác.
Trước khi tu, sử dụng vọng thức là cái biết sai lầm dẫn đến vô số khổ
đau, nên cái biết ấy được mệnh danh là vọng tưởng điên đảo. Vì nhận chân
được bản chất của vọng thức là phiền não, người tu lấy trí huệ làm sinh
mạng, không còn bị vọng thức chi phối, tác hại, nghĩa là đã chuyển được
thức uẩn thành trí huệ, tức chuyển đổi một phần ngũ uẩn thân thành giải
thoát tri kiến Pháp thân.
Thức uẩn đã dọn sạch, kế đến là hành uẩn. Hành uẩn là những tính toán
hơn thiệt, nói chung, những suy nghĩ, đối phó trong tâm trí của chúng ta
khi chưa tu. Nay đã có được giải thoát tri kiến là thấy biết đúng đắn,
nên không còn lo lắng, sợ hãi, tính toan, đối phó. Tâm hoàn toàn thanh
thản, hành uẩn theo đó tự diệt. Khi quán 12 nhân duyên, vô minh diệt thì
hành diệt là nghĩa này. Vô minh diệt, tức sai lầm không có thì hành uẩn
cũng diệt, lo sợ, buồn phiền tiêu tan; vì đã thấy rõ mọi việc từ nhân
đến quả. Nếu chúng ta tính toán thì người cũng biết tính, nhưng chúng ta
thanh thản, nhớ lời Phật dạy mọi việc đủ nhân duyên, sẽ tự động đến.
Xuân đến thì hoa mới nở, quả chín mới dùng được. Bồ tát lo tu nhân tốt,
quả tốt tự thành, không phải lo sợ. Nói cụ thể, suốt cuộc đời chúng ta
lo phục vụ Phật pháp, không gây phiền hà, đương nhiên được tín nhiệm.
Còn lo chiếm cảm tình của người, nhưng phạm nhiều lỗi lầm, chắc chắn tâm
cũng đầy lo sợ, không yên.
Không làm sai trái, tâm được thanh thản, hiện ra tướng ung dung tự tại,
là giải thoát Pháp thân của Hiền Thánh. Chúng ta kính lễ tam thừa tứ quả
giải thoát Tăng là nghĩa này. Các ngài đã diệt hành uẩn, mới hiện tướng
giải thoát. Trên bước đường tu, chúng ta thực tập pháp kinh hành, Thiền
hành hàng ngày sẽ giúp cho việc chuyển đổi hành uẩn trở thành Giải thoát
Pháp thân. Còn người tất bật, lo lắng, sợ hãi, có tướng đi như bị ma
đuổi.
Ngoài ra, trong cuộc sống, mọi việc được chúng ta quyết định bằng suy
nghĩ, tính toán thuộc về tưởng uẩn. Theo Phật, tưởng uẩn không thể đúng
đắn hoàn toàn, vì bị điều kiện hóa bởi nhiều thứ. Tu hành, phá bỏ tưởng
uẩn để có được trực giác cho chúng ta thấy biết chính xác, không qua suy
tính, là Huệ Pháp thân.
Ngoài thức uẩn, hành uẩn và tưởng uẩn, chúng ta còn có thọ uẩn, tức hiểu
biết do tiếp xúc, đọc sách, nói chung là do sáu căn : mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân, ý, tiếp xúc với sáu trần : sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
Từ đó tạo ra vô số tội lỗi, điên đảo đáng sợ. Vì thế, những người mới tu
thường ở núi rừng, ít có người lui tới, để bớt thấy nghe thì không bị sự
tác động làm cho tham và sân nổi lên. Điều này dễ nhận ra, hễ thấy nghe
điều vừa ý là tâm ưa thích, tham đắm khởi lên liền; trái lại, thấy nghe
việc không bằng lòng thì tâm ganh ghét, bực bội có ngay.
Vì thế, người tu phá bỏ thọ uẩn bằng cách không cho sáu giác quan tiếp
xúc bên ngoài thông qua pháp tu nội quán, hoặc quán tưởng Phật pháp, tức
hướng nội. Nếu không, sử dụng pháp hướng ngoại là mượn cảnh núi rừng,
hình ảnh, tranh tượng để trụ tâm tu hành, gọi là thê tâm An Dưỡng hương.
Dù ta ở Ta bà, nhưng không nghe nên không thấy chướng tai, không thấy
nên không gai mắt. Vì đã đặt tâm ở thế giới Cực Lạc, nghe được pháp,
nghe tiếng gió thổi, nhạc trời, suối reo làm cho người nghe ưa thích
niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Còn ở Ta bà, người nói chúng ta nghe là
bị nhức óc, buồn phiền. Ở Tịnh độ Tây phương của Phật Di Đà, nghe Bồ tát
dạy, cảm thấy mát lòng, nghe A la hán luận đạo, chúng ta có được huệ
giải, nghe tiếng chim hót, tiếng lá cây xào xạc cũng phát tâm tu.
Đó là những cách tu chuyển ngũ uẩn xoay trở về nội giới, hay hướng về
Tịnh độ. Trải qua nhiều năm hướng nội và hướng tâm về cảnh Tịnh độ, tâm
tôi sáng tỏ; hướng về kinh điển giúp tôi có hiểu biết rộng lớn. Hướng
đến bên ngoài, chỉ nhận thêm nhiều phiền toái mà thôi. Tâm an trụ pháp
Phật, cuộc sống của chúng ta theo đó được yên ổn, định tĩnh. Được như
vậy là đã chuyển thọ uẩn thành tâm an định, thành tựu Định Pháp thân.
Có được bốn phần Pháp thân, từ Giải thoát tri kiến Pháp thân, Giải thoát
Pháp thân, Huệ Pháp thân và Định Pháp thân, thì sắc thân tứ đại tự động
là Phật thân. Thật vậy, thân bên ngoài chúng ta biến chuyển theo sự tác
động của nội tâm bên trong. Thực tế chúng ta thấy người giải thoát thì
có tướng giải thoát, người buồn phiền tất nhiên hiện tướng héo hon;
không thể khác.
Hành giả Pháp Hoa đúng nghĩa thì thân như hoa sen, tâm như ngọc ma ni,
nghĩa là họ đã thành tựu định, huệ, giải thoát và giải thoát tri kiến
Pháp thân, làm lợi ích cho nhiều người. Ai xúc phạm đến người này, tự
chuốc họa vào thân; vì họ tiêu biểu cho Phật. Nói đơn giản, những người
tốt trên cuộc đời được nhiều người kính trọng mà chống đối họ thì tự
mang họa. Đừng hiểu lầm ý này và nghĩ rằng mình tụng kinh Pháp Hoa, ai
đụng tới mình sẽ bị tai họa.
Theo tinh thần kinh Duy Ma và Pháp Hoa, chuyển đổi ngũ uẩn sanh thân
thành ngũ phần Pháp thân là sự chuyển đổi từ tâm mà thân thay đổi theo;
vì khi phiền não bị loại bỏ rồi, bệnh tật cũng tự tiêu tan. Người chất
chứa nhiều nỗi uất hận, phiền muộn trong lòng, mắc bệnh trầm uất là tất
yếu. Tâm yên ổn, thân trở thành khỏe mạnh và thân có được 32 tướng tốt
cũng phát xuất từ tâm thanh tịnh tuyệt đối. Nếu có thân hiện đời xấu xí,
do túc nghiệp đời trước mà thành, thì trải qua quá trình tu hành, chúng
ta chuyển hóa lần ngũ uẩn sanh thân như trên đã nói, cũng sẽ phần nào
được thân tốt đẹp trong đời này và đời sau cũng tốt hơn nữa.
Và khi sanh thân đã chuyển đổi thành Pháp thân, Ta bà liền trở thành
Tịnh độ. Thật vậy, vì tâm và thân tốt đẹp hoàn toàn, kinh Pháp Hoa diễn
tả tâm họ là Thiền, thân làm giống Phật, giảng pháp chân thật, khai thị
nhứt thừa, được Phật xoa đầu và trao y bát … Người đó ở nơi nào thì nơi
đó cũng biến thành an lành, nghĩa là Tịnh độ hiện ra theo sự hiện hữu
thanh tịnh của họ. Nói dễ hiểu, chúng ta tu hành, phá được một phần vô
minh, phiền não, sẽ chứng được một phần Pháp thân. Ta giúp đỡ một người
thăng hoa, họ sẽ trở thành pháp hữu của ta và sẽ lần sống chết với ta,
thì họ chính là một phần Pháp thân của ta. Nhưng nếu vô minh nổi dậy,
làm cho người buồn phiền, họ sẽ xa lánh ta, là biến Pháp thân thành
phiền não. Phật dạy rằng Ngài tự tại giải thoát trong cảnh khổ đau của
chúng sinh, còn chúng sinh lại khổ đau triền phược trong cảnh giải thoát
của Phật. Giải thoát và khổ đau như hai mặt của một bàn tay, chỉ khác
nhau ở thân khẩu ý do trí tuệ chỉ đạo hay do vô minh sai khiến. Ý này là
đỉnh cao của Pháp Hoa khó thâm nhập được. Phật cũng khẳng định rằng tinh
ba Pháp Hoa khó hiểu, khó vào. Làm sao chuyển đổi được người xấu thành
người tốt, chuyển cảnh ô nhiễm của Ta bà thành cảnh Tịnh độ là điều
không đơn giản chút nào.
Vì sự khó khăn vô cùng này, Đức Phật mới mở cánh cửa phương tiện để giới
thiệu cho chúng ta Tịnh độ Tây phương của Phật Di Đà. Đức Phật Thích Ca
dạy rằng cách đây mười muôn ức thế giới có Phật A Di Đà đang giáo hóa ở
cõi Tịnh độ Tây phương, ở đó chỉ toàn là bậc thượng thiện nhân và nhân
dân không hề biết khổ não, chỉ hưởng niềm vui cùng tột nên gọi là Cực
Lạc.
Sự thật đức Phật vẫn hằng hữu, không mất, nhưng chúng sinh với đôi mắt
nghiệp, chỉ thấy Phật nhập diệt, không thấy Phật bất tử thì làm sao tu.
Phật chỉ vắng bóng trên cuộc đời, không còn sắc thân. Nếu Phật lưu lại
mãi trên thế gian này, ngài e ngại những đứa con mất bản tâm sẽ ỷ lại
vào ngài, không lo tu. Thực tế Phật tại thế, người ta kính Phật trọng
Tăng, người lười biếng núp bóng Phật để hưởng thụ. Vì vậy, Phật nhập
diệt, hay diệt Hóa thành để họ cảm thấy bơ vơ, nỗ lực tu hành, mới thấy
được Phật hằng hữu là Phật Báo thân và Phật Pháp thân. Ý này tôi nhận
thấy rõ, năm 1963, tu sĩ bị bắt bớ tù đày, nên ít người muốn đi tu.
Nhưng năm 1964, số người thọ giới một lần hơn 500 người tại Việt Nam
Quốc tự; vì lúc đó tu hành được hưởng nhiều quyền lợi, như không phải đi
lính, không tốn tiền học phí, v.v… Và đến năm 1975, thầy tu hoàn tục rất
nhiều, vì ở chùa khổ.
Trong hoàn cảnh gian khổ, những người tốt tự phấn đấu, vượt khó, đi lên
được; nhưng cũng có những người bỏ tu. Vì tâm đại từ bi thương xót tất
cả chúng sinh, đức Phật mới mở cánh cửa phương tiện. Đối với người dở,
không thể tự lo, Phật khuyến khích họ nỗ lực vượt qua 500 do tuần đường
hiểm sẽ đến cõi Tịnh độ của Phật Di Đà hoàn toàn tốt đẹp, có ao thất
bảo, có hàng cây bảy báu …. Ở Ta bà tu hành, một đồng Phật cũng không
cho giữ, nhưng ở Cực Lạc của Phật Di Đà toàn là vàng bạc, châu báu, cái
gì tốt nhất đều có, đời sống an vui cùng cực. Phật đã giới thiệu một mô
hình Tịnh độ toàn mỹ toàn bích cho người hướng tâm đến. Kinh Pháp Hoa
gọi đó là Bảo sở, nhờ hướng tâm đến mục tiêu đó mà mọi người cố gắng tu,
vượt đường hiểm sinh tử.
Có thể nói kinh Di Đà là biến thể của kinh Pháp Hoa, cũng có tên là Phật
Sở Hộ Niệm kinh giống như Pháp Hoa. Chỉ khác nhau ở điểm, kinh Pháp Hoa
triển khai pháp chân thật, còn kinh Di Đà triển khai pháp phương tiện.
Đức Phật Thích Ca vì những người yếu kém, cần nương tựa mới tu được,
Ngài mở ra phương tiện môn. Đối với họ, có thầy, có bạn, có chùa mới tu
được. Còn theo Pháp Hoa, ở ngoài đồng trống, ở gò mã, hay ở ngã tư
đường, cũng tu được. Nhưng thử nghĩ có mấy người làm được như kinh Pháp
Hoa dạy. Vì vậy, phải dùng phương tiện và thế giới Cực Lạc là phương
tiện Thánh cư độ của Phật Di Dà, giống như Phật Thích Ca dùng phương
tiện thị hiện ở Ta bà vậy.
Kinh Di Đà nhằm gợi ý, đưa ra thế giới lý tưởng để chúng ta phấn đấu tu
hành. Từ đây qua Tây phương, hoặc qua Bảo sở quá dài xa, phải đi suốt
500 do tuần đường hiểm. Vì thế, nhiều người muốn đi tắt cho nhanh. Ở Ta
bà ô nhiễm phiền não, nhưng chúng ta trụ tâm, không phiền não, liền có
Tịnh độ; đó là con đường đi tắt. Nhưng mười người đi theo đường tắt này
thì có đến chín người bị chết, vì là đường hiểm sinh tử mà.
Cụ thể hóa cho dễ hiểu, như xưa kia người Trung Hoa sang An Độ cầu
pháp, nhưng đắc pháp, trở về được thì không có mấy người. Trên đường đi,
phải trải qua biết bao nhiêu là sa mạc hiểm nguy. Vì thế, tu hành theo
con đường tắt cũng được, nhưng với điều kiện phải có bản lĩnh, có trí
tuệ, có phước đức, mới vượt được sinh tử. Đó chính là pháp tu Thiền,
nhưng người đắc Thiền, thành Tổ, thành Phật rất hiếm. Con đường khó khăn
vô cùng này được thể hiện trong truyện Tây Du Ký, Tam Tạng đi thỉnh kinh
ở Đông độ, phải có ngựa thần, có Tề Thiên, Bát Giới, Sa Tăng với nhiều
phép thần thông bảo vệ, phải có chiếc y nạm châu báu của Bồ tát Quan Am
cho để giữ gìn mạng sống, mặc vào không bị lửa đốt cháy, thì mới đem
kinh về được.
Vì vậy, nếu thiếu những điều kiện tối cần thiết, phải đi xa hơn, là đi
sang Tây phương Cực Lạc. Tuy xa, nhưng tương đối an toàn hơn, không phải
là đường hiểm sinh tử. Chỉ cần hướng tâm về đức Phật Di Đà, lắng nghe
pháp âm của Phật và Bồ tát ở đó là đến được. Đường xa, nhưng đặc biệt là
đi bằng tâm, nên đi rất nhanh, không phải đi bằng thân. Cho nên Phật
khuyên chúng ta phải gá tâm vào Cực Lạc thì chỉ một niệm tâm là đến Cực
Lạc liền.
Tôi đã áp dụng pháp này, thân ở đây, nhưng tâm gắn vào cõi Tịnh độ. Từng
bước chân đi niệm Phật, tâm nghĩ đến Phật, hình dung ra Phật hiện hữu
trước mặt, thì có cảm giác đang sống trong Cực Lạc, trần duyên quên hết,
đối với Ta bà không còn bận tâm nữa. Mọi việc thuận nghịch, khổ vui đều
ở ngoài ta. Thể nghiệm được một phần nhỏ pháp này ở Ta bà sẽ hiện ra cho
chúng ta một tiểu Tịnh độ là nhân gian Tịnh độ thành hình. Vì thế, sống
trong cảnh tranh chấp, dầu sôi lửa bỏng, họ vẫn an lành. Còn để tâm ở
cảnh ô trược, chắc chắn phiền não bao vây, không tu được.
Tóm lại, tâm chúng ta an trụ trong cảnh thanh tịnh của Cực Lạc thì thế
giới này cũng thanh tịnh, an vui theo. Tuy cách xa mười muôn ức Phật
độ, nhưng trong khảy móng tay liền sang đến Tịnh độ và trong khảy móng
tay là hội nhập lại Ta bà độ chúng sinh. Tâm đặt ở Cực Lạc, học cách suy
nghĩ, cách sống của Phật, Bồ tát, La hán, Thánh chúng Liên Trì hải hội,
tâm chúng ta sáng tỏ theo sự giáo dưỡng của các Ngài. Tâm quay trở về Ta
bà, làm nơi nương tựa an ổn, giải thoát cho mọi người thăng hoa đạo đức
và tri thức.
Ngoài thức uẩn, hành uẩn và tưởng uẩn, chúng ta còn có thọ uẩn, tức hiểu
biết do tiếp xúc, đọc sách, nói chung là do sáu căn: mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân, ý, tiếp xúc với sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
Từ đó tạo ra vô số tội lỗi, điên đảo đáng sợ. Vì thế, những người mới tu
thường ở núi rừng, ít có người lui tới, để bớt thấy nghe thì không bị sự
tác động làm cho tham và sân nổi lên. Điều này dễ nhận ra, hễ thấy nghe
điều vừa ý là tâm ưa thích, tham đắm khởi lên liền; trái lại, thấy nghe
việc không bằng lòng thì tâm ganh ghét, bực bội có ngay.
Vì thế, người tu phá bỏ thọ uẩn bằng cách không cho sáu giác quan tiếp
xúc bên ngoài thông qua pháp tu nội quán, hoặc quán tưởng Phật pháp, tức
hướng nội. Nếu không, sử dụng pháp hướng ngoại là mượn cảnh núi rừng,
hình ảnh, tranh tượng để trụ tâm tu hành, gọi là thê tâm An Dưỡng hương.
Dù ta ở Ta bà, nhưng không nghe nên không thấy chướng tai, không thấy
nên không gai mắt. Vì đã đặt tâm ở thế giới Cực Lạc, nghe được pháp,
nghe tiếng gió thổi, nhạc trời, suối reo làm cho người nghe ưa thích
niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Còn ở Ta bà, người nói chúng ta nghe là
bị nhức óc, buồn phiền. Ở Tịnh độ Tây phương của Phật Di Đà, nghe Bồ tát
dạy, cảm thấy mát lòng, nghe A la hán luận đạo, chúng ta có được huệ
giải, nghe tiếng chim hót, tiếng lá cây xào xạc cũng phát tâm tu.
Đó là những cách tu chuyển ngũ uẩn xoay trở về nội giới, hay hướng về
Tịnh độ. Trải qua nhiều năm hướng nội và hướng tâm về cảnh Tịnh độ, tâm
tôi sáng tỏ; hướng về kinh điển giúp tôi có hiểu biết rộng lớn. Hướng
đến bên ngoài, chỉ nhận thêm nhiều phiền toái mà thôi. Tâm an trụ pháp
Phật, cuộc sống của chúng ta theo đó được yên ổn, định tĩnh. Được như
vậy là đã chuyển thọ uẩn thành tâm an định, thành tựu Định Pháp thân.
Có được bốn phần Pháp thân, từ Giải thoát tri kiến Pháp thân, Giải thoát
Pháp thân, Huệ Pháp thân và Định Pháp thân, thì sắc thân tứ đại tự động
là Phật thân. Thật vậy, thân bên ngoài chúng ta biến chuyển theo sự tác
động của nội tâm bên trong. Thực tế chúng ta thấy người giải thoát thì
có tướng giải thoát, người buồn phiền tất nhiên hiện tướng héo hon;
không thể khác.
Hành giả Pháp Hoa đúng nghĩa thì thân như hoa sen, tâm như ngọc ma ni,
nghĩa là họ đã thành tựu định, huệ, giải thoát và giải thoát tri kiến
Pháp thân, làm lợi ích cho nhiều người. Ai xúc phạm đến người này, tự
chuốc họa vào thân; vì họ tiêu biểu cho Phật. Nói đơn giản, những người
tốt trên cuộc đời được nhiều người kính trọng mà chống đối họ thì tự
mang họa. Đừng hiểu lầm ý này và nghĩ rằng mình tụng kinh Pháp Hoa,
ai đụng tới mình sẽ bị tai họa.
Theo tinh thần kinh Duy Ma và Pháp Hoa, chuyển đổi ngũ uẩn
sanh thân thành ngũ phần Pháp thân là sự chuyển đổi từ tâm mà thân thay
đổi theo; vì khi phiền não bị loại bỏ rồi, bệnh tật cũng tự tiêu tan.
Người chất chứa nhiều nỗi uất hận, phiền muộn trong lòng, mắc bệnh trầm
uất là tất yếu. Tâm yên ổn, thân trở thành khỏe mạnh và thân có được 32
tướng tốt cũng phát xuất từ tâm thanh tịnh tuyệt đối. Nếu có thân hiện
đời xấu xí, do túc nghiệp đời trước mà thành, thì trải qua quá trình tu
hành, chúng ta chuyển hóa lần ngũ uẩn sanh thân như trên đã nói, cũng sẽ
phần nào được thân tốt đẹp trong đời này và đời sau cũng tốt hơn nữa.
Và khi sanh thân đã chuyển đổi thành Pháp thân, Ta bà liền trở thành
Tịnh độ. Thật vậy, vì tâm và thân tốt đẹp hoàn toàn, kinh Pháp Hoa
diễn tả tâm họ là Thiền, thân làm giống Phật, giảng pháp chân thật, khai
thị nhứt thừa, được Phật xoa đầu và trao y bát … Người đó ở nơi nào thì
nơi đó cũng biến thành an lành, nghĩa là Tịnh độ hiện ra theo sự hiện
hữu thanh tịnh của họ. Nói dễ hiểu, chúng ta tu hành, phá được một phần
vô minh, phiền não, sẽ chứng được một phần Pháp thân. Ta giúp đỡ một
người thăng hoa, họ sẽ trở thành pháp hữu của ta và sẽ lần sống chết với
ta, thì họ chính là một phần Pháp thân của ta. Nhưng nếu vô minh nổi
dậy, làm cho người buồn phiền, họ sẽ xa lánh ta, là biến Pháp thân thành
phiền não. Phật dạy rằng Ngài tự tại giải thoát trong cảnh khổ đau của
chúng sinh, còn chúng sinh lại khổ đau triền phược trong cảnh giải thoát
của Phật. Giải thoát và khổ đau như hai mặt của một bàn tay, chỉ khác
nhau ở thân khẩu ý do trí tuệ chỉ đạo hay do vô minh sai khiến. Ý này là
đỉnh cao của Pháp Hoa khó thâm nhập được. Phật cũng khẳng định
rằng tinh ba Pháp Hoa khó hiểu, khó vào. Làm sao chuyển đổi được
người xấu thành người tốt, chuyển cảnh ô nhiễm của Ta bà thành cảnh Tịnh
độ là điều không đơn giản chút nào.
Vì sự khó khăn vô cùng này, Đức Phật mới mở cánh cửa phương tiện để giới
thiệu cho chúng ta Tịnh độ Tây phương của Phật Di Đà. Đức Phật Thích Ca
dạy rằng cách đây mười muôn ức thế giới có Phật A Di Đà đang giáo hóa ở
cõi Tịnh độ Tây phương, ở đó chỉ toàn là bậc thượng thiện nhân và nhân
dân không hề biết khổ não, chỉ hưởng niềm vui cùng tột nên gọi là Cực
Lạc.
Sự thật Đức Phật vẫn hằng hữu, không mất, nhưng chúng sinh với đôi mắt
nghiệp, chỉ thấy Phật nhập diệt, không thấy Phật bất tử thì làm sao tu.
Phật chỉ vắng bóng trên cuộc đời, không còn sắc thân. Nếu Phật lưu lại
mãi trên thế gian này, Ngài e ngại những đứa con mất bản tâm sẽ ỷ lại
vào Ngài, không lo tu. Thực tế Phật tại thế, người ta kính Phật trọng
Tăng, người lười biếng núp bóng Phật để hưởng thụ. Vì vậy, Phật nhập
diệt, hay diệt Hóa thành để họ cảm thấy bơ vơ, nỗ lực tu hành, mới thấy
được Phật hằng hữu là Phật Báo thân và Phật Pháp thân. Ý này tôi nhận
thấy rõ, năm 1963, tu sĩ bị bắt bớ tù đày, nên ít người muốn đi tu.
Nhưng năm 1964, số người thọ giới một lần hơn 500 người tại Việt Nam
Quốc tự; vì lúc đó tu hành được hưởng nhiều quyền lợi, như không phải đi
lính, không tốn tiền học phí, v.v… Và đến năm 1975, thầy tu hoàn tục rất
nhiều, vì ở chùa khổ.
Trong hoàn cảnh gian khổ, những người tốt tự phấn đấu, vượt khó, đi lên
được; nhưng cũng có những người bỏ tu. Vì tâm đại từ bi thương xót tất
cả chúng sinh, Đức Phật mới mở cánh cửa phương tiện. Đối với người dở,
không thể tự lo, Phật khuyến khích họ nỗ lực vượt qua 500 do tuần đường
hiểm sẽ đến cõi Tịnh độ của Phật Di Đà hoàn toàn tốt đẹp, có ao thất
bảo, có hàng cây bảy báu... Ở Ta bà tu hành, một đồng Phật cũng không
cho giữ, nhưng ở Cực Lạc của Phật Di Đà toàn là vàng bạc, châu báu, cái
gì tốt nhất đều có, đời sống an vui cùng cực. Phật đã giới thiệu một mô
hình Tịnh độ toàn mỹ toàn bích cho người hướng tâm đến. Kinh Pháp Hoa
gọi đó là Bảo sở, nhờ hướng tâm đến mục tiêu đó mà mọi người cố gắng tu,
vượt đường hiểm sinh tử.
Có thể nói kinh Di Đà là biến thể của kinh Pháp Hoa, cũng
có tên là Phật Sở Hộ Niệm kinh giống như Pháp Hoa. Chỉ
khác nhau ở điểm, kinh Pháp Hoa triển khai pháp chân thật, còn
kinh Di Đà triển khai pháp phương tiện. Đức Phật Thích Ca vì
những người yếu kém, cần nương tựa mới tu được, Ngài mở ra phương tiện
môn. Đối với họ, có thầy, có bạn, có chùa mới tu được. Còn theo Pháp
Hoa, ở ngoài đồng trống, ở gò mả, hay ở ngã tư đường, cũng tu được.
Nhưng thử nghĩ có mấy người làm được như kinh Pháp Hoa dạy. Vì
vậy, phải dùng phương tiện và thế giới Cực Lạc là phương tiện Thánh cư
độ của Phật Di Dà, giống như Phật Thích Ca dùng phương tiện thị hiện ở
Ta bà vậy.
Kinh Di Đà nhằm gợi ý, đưa ra thế giới lý tưởng để chúng ta phấn
đấu tu hành. Từ đây qua Tây phương, hoặc qua Bảo sở quá dài xa, phải đi
suốt 500 do tuần đường hiểm. Vì thế, nhiều người muốn đi tắt cho nhanh.
Ở Ta bà ô nhiễm phiền não, nhưng chúng ta trụ tâm, không phiền não, liền
có Tịnh độ; đó là con đường đi tắt. Nhưng mười người đi theo đường tắt
này thì có đến chín người bị chết, vì đây là đường hiểm sinh tử.
Cụ thể hóa cho dễ hiểu, như xưa kia người Trung Hoa sang Ấn Độ cầu
pháp, nhưng đắc pháp, trở về được thì không có mấy người. Trên đường đi,
phải trải qua biết bao nhiêu là sa mạc hiểm nguy. Vì thế, tu hành theo
con đường tắt cũng được, nhưng với điều kiện phải có bản lĩnh, có trí
tuệ, có phước đức, mới vượt được sinh tử. Đó chính là pháp tu Thiền,
nhưng người đắc Thiền, thành Tổ, thành Phật rất hiếm. Con đường khó khăn
vô cùng này được thể hiện trong truyện Tây du ky, Tam Tạng đi
thỉnh kinh ở Đông Độ, phải có ngựa thần, có Tề Thiên, Bát Giới, Sa Tăng
với nhiều phép thần thông bảo vệ, phải có chiếc y nạm châu báu của Bồ
tát Quan Âm cho để giữ gìn mạng sống, mặc vào không bị lửa đốt cháy, thì
mới đem kinh về được.
Vì vậy, nếu thiếu những điều kiện tối cần thiết, phải đi xa hơn, là đi
sang Tây phương Cực Lạc. Tuy xa, nhưng tương đối an toàn hơn, không phải
là đường hiểm sinh tử. Chỉ cần hướng tâm về Đức Phật Di Đà, lắng nghe
pháp âm của Phật và Bồ tát ở đó là đến được. Đường xa, nhưng đặc biệt là
đi bằng tâm, nên đi rất nhanh, không phải đi bằng thân. Cho nên Phật
khuyên chúng ta phải gá tâm vào Cực Lạc thì chỉ một niệm tâm là đến Cực
Lạc liền.
Tôi đã áp dụng pháp này, thân ở đây, nhưng tâm gắn vào cõi Tịnh độ. Từng
bước chân đi niệm Phật, tâm nghĩ đến Phật, hình dung ra Phật hiện hữu
trước mặt, thì có cảm giác đang sống trong Cực Lạc, trần duyên quên hết,
đối với Ta bà không còn bận tâm nữa. Mọi việc thuận nghịch, khổ vui đều
ở ngoài ta. Thể nghiệm được một phần nhỏ pháp này ở Ta bà sẽ hiện ra cho
chúng ta một tiểu Tịnh độ là nhân gian Tịnh độ thành hình. Vì thế, sống
trong cảnh tranh chấp, dầu sôi lửa bỏng, họ vẫn an lành. Còn để tâm ở
cảnh ô trược, chắc chắn phiền não bao vây, không tu được.
Tóm lại, tâm chúng ta an trụ trong cảnh thanh tịnh của Cực Lạc thì thế
giới này cũng thanh tịnh, an vui theo. Tuy cách xa mười muôn ức Phật độ,
nhưng trong khảy móng tay liền sang đến Tịnh độ và trong khảy móng tay
là hội nhập lại Ta bà độ chúng sinh. Tâm đặt ở Cực Lạc, học cách suy
nghĩ, cách sống của Phật, Bồ tát, La hán, Thánh chúng Liên Trì hải hội,
tâm chúng ta sáng tỏ theo sự giáo dưỡng của các Ngài. Tâm quay trở về Ta
bà, làm nơi nương tựa an ổn, giải thoát cho mọi người thăng hoa đạo đức
và tri thức.