NIỆM
PHẬT VÔ
TƯỚNG
(Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm
Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí)
Nguyên
tác Hoa văn của Tiêu Bình Thật cư sĩ
Cư sĩ Hạnh Cơ dịch ra Việt văn
NIỆM
PHẬT VÔ TƯỚNG (VÔ TƯỚNG NIỆM PHẬT)
Nguyên tác Hoa văn của Tiêu Bình Thật cư sĩ (Đài-loan)
Cư sĩ Hạnh Cơ dịch, giới thiệu, chú thích bổ túc, đánh máy,và
trình bày trang sách
Nữ cư sĩ Tịnh Kiên đọc và sửa chữa bản thảo
Chương Một.
DẪN NHẬP
Pháp
môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí bắt nguồn từ chương
“Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông” trong Kinh Đại Phật
Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng
Nghiêm, gọi tắt là Kinh Lăng Nghiêm. Đây là quyển kinh mà các
hành giả học thiền tu định cần phải đọc. Trong kinh, 25 vị Bồ-tát đều tự
trình bày phương pháp tu hành của mình, sau đó là lời bình luận của đức
Bồ-tát Văn Thù Sư Lị, cho rằng, đối với chúng sinh ở thế giới này thì
pháp môn Nhĩ Căn Viên Thông của Bồ-tát Quán Thế Âm là thù thắng
hơn hết.
Cho đến
ngày nay, cách cái thời gian của thánh nhân[11]
đã xa, mà hình thái xã hội cũng dần dà thay đổi, cách thức sinh hoạt lắm
sự phiền toái; muốn tìm lại nếp sinh hoạt an nhàn thanh tĩnh của xã hội
nông nghiệp ngày xưa thật khó có thể được. Vì vậy, con người trong thời
đại này, nếu muốn tu tập pháp môn Nhĩ Căn Viên Thông, mỗi ngày nhiều lắm
cũng chỉ được một, hai giờ mà thôi. Ngoại trừ người khéo tu tĩnh quán,
có thể tìm kiếm nhiều pháp môn phương tiện thiện xảo để giúp sức, nếu
không thì không dễ thành công.
Theo
những nhận xét về pháp môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ-tát Đại
Thế Chí trong kinh Lăng Nghiêm, thì đó là pháp môn chỉ đứng sau
pháp môn Nhĩ Căn Viên Thông của Bồ-tát Quán Thế Âm. Kẻ hậu học này cho
rằng, đó là pháp môn thích hợp nhất cho con người bận rộn thời nay; mà
pháp môn Niệm Phật này, gần đây cũng đã được nhiều người quảng bá, rất
nhiều vị đại đức trong giáo giới viết bài trình bày, hoặc phát hành băng
ghi âm.
Kẻ hậu
học này lấy thiền làm tông chỉ, buổi đầu dò dẫm nhiều năm mà không vào
được. Bởi vì phải chấp hành nghiệp vụ quá bận rộn, mà tâm thức bị tán
loạn. Tuy nhiên, mỗi ngày cũng bỏ ra chút ít thì giờ để ngồi thiền, tối
đa là một tiếng đồng hồ. Hơi có chút sở đắc, nhưng cũng chỉ là công phu
trong tĩnh, vừa mới rời khỏi bồ đoàn là liền thất niệm; cho nên, ở bên
mé cảnh giới thiền cũng không đụng tới được, nói gì đến chuyện tham
thiền! Cho đến cuối năm 1988, sau khi tu tập được pháp môn Niệm Phật Vô
Tướng này, tôi mới tìm thấy được cái mà trong thiền môn gọi là “cánh
cửa vô môn”. Từ tháng 5 năm 1989, tôi bắt đầu tham thiền dựa vào
công phu niệm Phật viên thông này, mài miệt không nghỉ, ngủ không ngon
giấc, ăn chẳng biết vị; sau 18 tháng ròng rã như thế, mới vào được cửa
thiền!
Người
ta gần đây tham thiền mà không đạt được hiệu quả, đa phần là vì định lực
không đủ, hơn nữa là thiếu công phu trong động. Hãy xin nêu câu thoại
đầu thiền làm ví dụ:
Trong
sách Hư Vân Hòa Thượng Khai Thị Lục có chép: “Thế nào gọi là
thoại đầu? Đầu tức là trước khi chưa nói. Như niệm câu ‘A Di Đà Phật’,
thì trước khi chưa niệm, gọi là ‘thoại đầu’. Gọi là thoại đầu, đó là
khoảng thời gian một niệm chưa sinh khởi. Một niệm vừa sinh khởi thì đã
là ‘thoại vĩ’. Cái khoảng thời gian một niệm chưa sinh khởi ấy, thì gọi
là ‘bất sinh’; không trạo cử, không hôn trầm, không đắm vào tĩnh, không
rơi vào trống không, thì gọi là ‘bất diệt’. Thời thời, khắc khắc, chỉ có
vậy, thật rõ ràng, một niệm bừng sáng chiếu soi trở lại cảnh giới bất
sinh bất diệt ấy, gọi là ‘khán thoại đầu’ hoặc gọi là ‘chiếu cố thoại
đầu’.”
Nói
cách khác, cần phải có cái năng lực an trụ trong khoảng thời gian một
niệm chưa sinh khởi thì mới có khả năng khán thoại đầu. Cũng có thể nói,
cần phải có năng lực nhìn thấy đầu trước của câu nói mà mình đã tham
cứu, mới gọi là khán thoại đầu. Nếu niệm miệng hoặc mặc niệm trong tâm,
hoặc dùng tâm thức cân nhắc “Niệm Phật là ai”, đó là “khán thoại
vĩ”; tại vì câu nói “Niệm Phật là ai” đã trở thành quá khứ rồi.
Cho nên hòa thượng Hư Vân[12]
còn nói: “Vì sao người ta trong thời hiện đại, khán thoại đầu thì
nhiều mà ngộ đạo thì chẳng có mấy ai? Đó là bởi vì người thời hiện đại
căn khí không bằng người xưa, lại nữa, các vị học giả đã không hiểu biết
tường tận đối với cái lí lẽ tham thiền khán thoại đầu. Có người cứ hỏi
Đông hỏi Tây, chạy Nam chạy Bắc, kết quả chỉ là ồn ào cho tới già, mà
một câu thoại đầu cũng không minh bạch, chẳng biết thoại đầu là cái gì,
thế thì làm sao mà gọi là khán thoại đầu? Một đời chỉ là chấp trước ngôn
từ danh tướng, để tâm vào thoại vĩ mà thôi.”
Hành
giả nếu có khả năng khán thoại đầu thì tức là có khả năng tham thiền;
nếu chưa có khả năng thì hãy nhanh chóng tăng cường định lực, tu học
công phu trong động, khiến cho tự mình có đầy đủ năng lực khán thoại đầu
trong sinh hoạt thường ngày, rồi đến tham thiền; như thế là đạo nghiệp
có thể tăng tiến nhanh chóng.
Công án
và thoại đầu là hai mà một, cần có công phu “một niệm không sinh” mới
đạt được. Cho nên hòa thượng Hư Vân lại nói: “Tổ sư Đạt Ma và Lục Tổ
khai thị học chúng, câu nói khẩn yếu nhất là ‘Ngăn chận các duyên, một
niệm không sinh’. Ngăn chận các duyên cũng tức là buông bỏ vạn duyên;
cho nên hai câu ‘Vạn duyên buông bỏ, một niệm không sinh’, đích thực là
điều kiện tiên quyết của người tham thiền. Nếu không thực tập được hai
câu nói đó thì việc tham thiền không những là không thành công, mà còn
có thể nói là việc nhập môn cũng không có khả năng.”
Ngài
còn nói tiếp: “Chư vị thiền đức từ các đời Đường, Tống trở về trước,
phần nhiều chỉ do một lời nửa câu liền ngộ đạo. Sự truyền thọ giữa thầy
trò chỉ là dùng tâm ấn tâm, hoàn toàn không có một thật pháp[13]
nào. Những cuộc tham vấn thù đáp thường ngày cũng chỉ là tùy phương tiện
mở trói, theo bệnh cho thuốc mà thôi. Từ đời Tống về sau, căn khí con
người hẹp hòi thấp kém, giảng rồi cũng không thực hành được, ví như nói
‘Buông bỏ tất cả, thiện ác đều không làm.’, nhưng hoàn toàn không buông
bỏ được, không suy nghĩ thiện thì suy nghĩ ác. Đến giờ phút này, chư vị
tổ sư bất đắc dĩ mới phải sử dụng biện pháp ‘lấy độc trị độc’, dạy cho
người học tham công án.”
Ngài
lại nói: “Công án của cổ nhân nhiều lắm, người sau chuyên nói là khán
thoại đầu; kì thật, đó chỉ là một. Thoại (lời nói) từ tâm sinh khởi, tâm
là đầu của thoại; niệm là từ tâm sinh khởi, tâm là đầu của niệm. Vạn
pháp đều từ tâm sinh khởi, tâm là đầu của vạn pháp. Sự thật, thoại đầu
tức là niệm đầu; đầu trước của niệm tức là tâm. Nói rõ ra, trước khi một
niệm chưa sinh tức là thoại đầu.”
Do
những lời khai thị của hòa thượng Hư Vân vừa nêu trên, chúng ta biết
rằng, tham thoại đầu, hay tham công án, cần phải có đầy đủ cái công phu
một niệm không sinh thì mới gọi được là tham thiền. Nhưng cái một
niệm không sinh này là đối với chung mọi người mà nói, còn đối với người
thực sự có loại công phu đó, thì nên hiểu là “một niệm nối nhau không
dứt”.
Cửa
thiền là cửa vô môn, chủ trương dứt tuyệt ngôn ngữ, diệt hết tâm hành[14].
Nếu trong mỗi niệm mỗi niệm mà không xa rời ngôn ngữ văn tự, cùng những
suy nghĩ tính toán của tâm thức, thì làm sao có thể liễu ngộ? Cho dù có
may mắn được sự chỉ dạy tận tình của bậc tôn sư chứng ngộ mà được khai
ngộ, thì cũng rất ít người giữ được lâu dài, chẳng qua chỉ được mươi
phút, vài giờ, hay cùng lắm là vài ngày, là đâu lại hoàn đó. Do đâu nên
nỗi? Là do định lực thiếu kém, mà cũng do không có đủ cái công phu trong
động.
Đối với
người tu Tịnh Độ mà nói, thì cái công phu trong động cũng trọng yếu như
vậy. Hiện nay, người tu pháp môn Tịnh Độ rất nhiều. Bất luận là trì chú,
trì danh, hay tu mười sáu phép quán[15],
nếu thiếu công phu trong động thì sẽ không thành tựu dễ dàng.
Một hôm
tình cờ gặp một vị Bồ-tát[16]
tu pháp môn niệm Phật trì danh đã mười mấy năm, khi vị ấy hỏi: “Ông
có chắc chắn được vãng sinh về tịnh độ Cực-lạc hay không?” thì mặt
tôi xìu xuống, không dám trả lời, tợ hồ mọi người đều có hi vọng, nhưng
tất cả đều không nắm chắc. Số người chắc chắn có lòng tự tin, thử hỏi
được bao nhiêu? Trong kinh có ghi rõ: “Khi tôi thành Phật, chúng sinh
trong mười phương nghe được danh hiệu của tôi, dốc lòng tin vui, có được
căn lành một lòng hồi hướng, phát nguyện vãng sinh về nước tôi, nếu cho
đến mười niệm mà không được vãng sinh thì tôi không ở ngôi Chánh-giác –
ngoại trừ những người phạm tội ngũ nghịch, phỉ báng chánh pháp.”
Kinh lại nói: “Nếu một ngày, hai ngày, ...... cho đến bảy ngày, thọ
trì thánh hiệu A Di Đà Phật, một lòng không tán loạn, thì khi lâm chung
tâm không bị điên đảo, liền được vãng sinh về tịnh độ Cực-lạc của đức
Phật A Di Đà.” Tôi tự xét lại khi mình niệm Phật, có thể chỉ trong
mười niệm mà đạt đến chỗ dốc lòng tin vui, có được căn lành một lòng hồi
hướng, phát nguyện vãng sinh, hoặc tu tập được công phu nhất tâm bất
loạn chăng? Lúc bình thường còn không thể được, huống chi là lúc lâm
chung – là lúc bao đau khổ dồn dập bức bách! Do đó mà lòng tôi ngập
ngừng lo nghĩ, không muốn sống nữa!
Người
niệm Phật như thế, mà người trì chú, tu quán cũng như thế, cái nguyên do
căn bản là thiếu định lực. Ba tạng mười hai bộ[17],
tất cả những lời Phật dạy là Kinh, chủ yếu là dạy người tu định (Luật
là các giới điều Phật chế; Luận là các vị Bồ-tát nói về tuệ).
Những việc như thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng thuyết, không việc
nào là không dạy người tu định. Thế mới biết, định lực rất là trọng yếu.
Người có đầy đủ định lực, muốn nhiếp phục sáu căn, liên tục tịnh niệm,
hoàn toàn không phải là việc khó, thì sợ gì không được vãng sinh! Nhưng
hai loại công phu trong động và công phu trong tĩnh này phải tu như thế
nào? Theo kinh nghiệm của kẻ hậu học này, pháp môn Niệm Phật Viên Thông
của Bồ-tát Đại Thế Chí là phương pháp tốt nhất.
Ngoài
ra, niệm Phật phải từ hữu tướng mà đến vô tướng, do quyền nghi mà vào
thật tướng[18].
Cho nên người niệm Phật cần nên biết rằng, niệm Phật có ba loại:
1. Niệm
hóa thân[19]
Phật: tức niệm Phật trì danh được ghi trong kinh Phật Thuyết A Di Đà.
Nếu thành tựu được pháp trì danh niệm Phật tam muội[20],
sẽ có cảm ứng được thấy hóa thân của đức Phật A Di Đà.
2. Niệm
báo thân[21]
Phật: tức pháp tu 16 phép quán tưởng được ghi trong kinh Quán
Vô Lượng Thọ Phật. Nếu thành tựu được pháp quán tưởng niệm Phật
tam muội, liền được thấy báo thân với tướng tốt trang nghiêm của đức
Phật A Di Đà.
3. Niệm
pháp thân[22]
Phật: tức phép “nhớ Phật niệm Phật”, là pháp môn niệm Phật vô
tướng được nói tới trong chương “Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên
Thông”. Nếu do “nhớ Phật niệm Phật, không nhờ phương tiện mà tâm
tự sáng” mà tu tập thành công pháp môn niệm Phật vô tướng, chỉ phát
tâm chí thành, tâm tin sâu sắc, tâm phát nguyện hồi hướng, chắc chắn
được sinh về cõi Thật-báo trang-nghiêm độ, ở bậc Thượng-phẩm
thượng-sinh. Nếu người chưa thấy tánh, chỉ mới hiểu được nghĩa lí kinh
điển đại thừa, mà đối với đệ nhất nghĩa[23]
tâm không kinh động, hồi hướng vãng sinh, sẽ được sinh về cõi Thật-báo
trang-nghiêm độ, ở bậc Thượng-phẩm trung-sinh. Người tuy chưa thấy tánh,
cũng không hiểu giáo pháp đệ nhất nghĩa, chỉ không hủy báng đại thừa,
tin sâu nhân quả, phát đạo tâm vô thượng, cũng có thể được sinh về cõi
Thật-báo trang-nghiêm độ, ở bậc Thượng-phẩm hạ- sinh. (Xin xem
chú thích số 1 của tác giả ở cuối sách.)
Nhưng
thời gian tu hành của người Thượng- phẩm hạ-sinh ở thế giới Cực-lạc vô
cùng lâu dài, mà cảnh giới cư trú cũng rất xa xôi đối với cảnh giới của
người Thượng-phẩm thượng-sinh và Thượng-phẩm trung-sinh, xin chư vị hành
giả hãy tự suy xét.
Cho nên
người niệm Phật cầu vãng sinh về thế giới Cực-lạc ở phương Tây, nếu
không có được pháp môn thù thắng nào, thì nên chân thành niệm Phật trì
danh. Nếu may mắn được nghe một phương pháp nào tốt hơn phương pháp niệm
Phật trì danh, thì nên cầu phương pháp thù thắng để được Thượng-phẩm
thượng-sinh; đừng lấy Thượng-phẩm hạ-sinh hoặc Trung, Hạ-phẩm vãng sinh
mà cho là đủ. Tâm rộng lớn thì cái thấy cũng rộng lớn. Điều gọi là
“niệm lớn thấy được Phật lớn”, hoàn toàn không phải là niệm Phật to
tiếng vậy.
Lại
nữa, niệm pháp thân Phật, không phải chỉ có một phương pháp niệm Phật
viên thông của Bồ-tát Đại Thế Chí. Còn có nhiều phương pháp cũng thuộc
về niệm pháp thân Phật, đều là pháp môn niệm Phật vô tướng. Vì khuôn khổ
hạn hẹp của cuốn sách này, chỉ xin trích từ Kinh Tạng Phật giáo, ghi ra
đây một đoạn kinh văn ngắn (Tạng Đại Chánh, “Kinh Tập Bộ”, quyển 2)
làm ví dụ, để có thể thấy được phần nào:
“Này
Xá Lị Phất! Thế nào gọi là niệm Phật? Thấy không có cái gì có, gọi là
niệm Phật. Xá Lị Phất! Chư Phật vô lượng, không thể nghĩ bàn, không thể
tính toán, do ý nghĩa đó, thấy không có cái gì có, gọi là niệm Phật, gọi
một cách chân thật là không phân biệt. Chư Phật không có phân biệt, cho
nên nói ‘niệm không phân biệt tức là niệm Phật’.
“Lại
nữa, thấy thật tướng của các pháp, gọi là thấy Phật. Cái gì là thật
tướng các pháp? Đó là các pháp đều không, rốt ráo không có cái gì có.
Đem cái pháp rốt ráo không, không có cái gì có đó mà niệm Phật; ở trong
cái pháp như thế thì một niệm mảy may cũng không thể nắm bắt, cho nên
gọi là niệm Phật.
“Xá
Lị Phất! Không thể lấy sắc mà niệm Phật, vì sao? Tham sắc thì giữ lấy
tướng, tham vị là thức. Không hình không sắc, không duyên không tánh,
gọi là niệm Phật. Vì vậy phải biết: không có phân biệt, không giữ không
bỏ, đó là chân thật niệm Phật.
“Niệm Phật là phá bỏ tất cả giác quán[24] về thiện và bất thiện, không giác không quán, vắng lặng không tư tưởng,
gọi là niệm Phật. Vì sao? Không nên dùng giác quán để nhớ nghĩ chư Phật.
Không giác không quán gọi là thanh tịnh niệm Phật.
“Khi
ông niệm Phật, đừng giữ một tư tưởng mảy may nào, đừng có hí luận, đừng
khởi niệm phân biệt. Vì sao? Vì các pháp đều không, không có thể tánh,
không thể niệm một tướng. Cái gọi là vô tướng, là chân thật niệm Phật.”
Những
điều trích lục trên đều là cảnh giới niệm Phật thật tướng. Nếu người
Phật tử tỏ ngộ tâm tánh, thấy Phật không có thân căn tướng mạo, không có
một tướng nào có thể nắm bắt, mà tùy thuận chúng sinh trì danh niệm
Phật, thì có thể nói câu: “Một câu niệm Phật bao hàm tất cả sự lí.”
Nếu chưa thấy tánh mà cứ luôn luôn nói câu “Một câu niệm Phật bao hàm
tất cả sự lí”, thì đó là vọng ngữ. Vì sao? Vì sự và lí của việc niệm
Phật, cả hai đều chưa hiểu biết rõ ràng. Pháp môn niệm Phật vô tướng
được đề cập trong sách này chỉ là dùng pháp quyền nghi thiện xảo để giúp
hành giả đi từ hữu tướng mà đến vô tướng; đến như một số hành giả có căn
lành, trí tuệ, lại gặp được nhân duyên, mà một buổi sớm mai nào đó chứng
nhập được cảnh giới niệm Phật thật tướng; sự kiện đó cũng có thể xảy ra
lắm!