Chúng ta biết: Chánh báo như thế nào thì y báo như
thế đó. Y báo là quả, chánh báo là nhân, vì thế các pháp hiện hữu trong vũ trụ
bao la vô tận này đều bị luật nhân quả chi phối.
Chánh báo cõi Ta Bà: Là một phàm phu đầy dẫy nghiệp
chướng, tham, sân, si, cho nên mới chiêu cảm y báo ở cõi Ta Bà đầy vô vàn đau
khổ. Con người ai cũng có nhiều tham vọng, lòng tham vọng ấy bám víu vào sự
vật mà ta nắm được, chúng ta cứ ngỡ nó chắc chắn là của mình, rồi cố công gìn
giữ, nhưng thực ra tất cả đều thay đổi. Ai cũng nghĩ thân người sẽ sống lâu
bền, nhưng đâu ngờ rằng thân này như bông hoa sớm nở tối tàn. Lời thề sắt son
nguyện không bao giờ thay đổi, nhưng họ nào biết tâm hồn thay đổi từng sát-na.
Chúng ta cứ ngỡ rằng sông biển, núi non sẽ tồn tại mãi muôn đời, nhưng rõ ràng
biển thẳm hóa cồn dâu, non mòn bể cạn. Như thế, cuộc đời quả thật không có cái
gì tồn tại mãi mãi. Thân vô thường, tâm vô thường, hoàn cảnh vô thường.
Như thế nào là thân vô thường: Thân luôn luôn biến
đổi, từ trẻ đến già, từ già đến chết. Có một số người tuổi trẻ, họ nhìn đời
luôn luôn tươi đẹp. Họ nghĩ: Thân tôi còn tráng niên chưa già, nếu có già chết
cũng còn lâu lắm! Họ đâu ngờ rằng trong thân họ, các tế bào đã sống chết từng
phút từng giây, khoa học rõ ràng đã chứng minh điều đó. Ai cũng tưởng thân này
sẽ tồn tại với thời gian, nhưng chỉ một luồng gió độc, một cái nọc rắn, một
hơi thở ra không thở vào là mất mạng. Sống ngày nay đâu chắc được sống đến
ngày mai. Nhìn những mộ bia trong nghĩa trang hay trên bàn vong, ta thấy biết
bao người còn trẻ tuổi hơn ta mà đã hóa ra người thiên cổ. Ấy thế mà chúng ta
vẫn luôn bám víu nó, ôm giữ nó như ôm giữ một cái bóng, nắm bắt một làn hương.
Do đó, cổ đức có câu “Đừng đợi đến tuổi già mới niệm Phật, thiếu nhi mồ trẻ đã
qua đời”.
- Tâm vô thường: Trong thân con người, tế bào thay
đổi trong từng phút từng giây, thì tâm niệm của chúng ta cũng luôn luôn thay
đổi. Tâm vốn năng động, vô cùng vi tế, vì thế sự thay đổi của nó nhanh gấp vạn
lần đối với thân. Tâm chúng ta thay đổi theo hoàn cảnh, từng tích tắc, mới vui
rồi buồn, mới thương rồi ghét, rong ruổi như vượn chuyền cây, từng sát-na sinh
diệt như một dòng suối, giọt nước trước không phải là giọt nước sau, vì luân
chuyển quá nhanh nên ta tưởng là một. Cái ngã ở phút trước không phải cái ngã
ở phút này, mà ta cứ mãi mãi chấp thường để tạo ra vô vàn tội ác.
- Hoàn cảnh vô thường: Tất cả vạn vật hiện hữu trên
vũ trụ này, đều bị chi phối bởi định luật vô thường, theo quy luật “Thành,
trụ, hoại, không” hoặc “Sinh, trụ dị, diệt”. Biển cả hóa cồn dâu, vật đổi sao
dời, núi sông cũng có cái già cái trẻ, đất cũng có chỗ lở chỗ bồi. Trong cuộc
đời có biết bao hoàn cảnh giàu nghèo, vinh nhục. Trong lịch sử có biết bao
thời gian thăng trầm, có triều đại nào thạnh mãi không suy, có người nào trong
vinh không nhục. Nhưng hoàn cảnh vốn vô thường, ai cũng có thể suy nghiệm để
biết được, nhưng vì chúng ta cứ bám víu theo đuổi tự bày ra lắm chuyện nhọc
nhằn cho cuộc đời.
Như thế, thân vô thường, tâm vô thường, hoàn cảnh
vô thường, không có cái gì thực, không có gì bền chắc, sao ta cứ mê lầm say
đắm không tìm kế thoát thân!
- Đời là bể khổ: Trong Khế Kinh dạy: “Nước mắt
chúng sinh nhiều hơn nước biển”. Thực thế! Cõi đời là cõi khổ chẳng có chút
vui, nếu có chăng chỉ là trạng thái thay đổi, như người khát uống nước mặn,
càng uống càng khát, cổ và họng càng thêm đắng chát.
Khổ nguyên Phạn ngữ là Duhkha, có nghĩa là những
việc làm bức bách và rối loạn thân tâm, gây cho mọi người những việc không vừa
lòng đều gọi là khổ. Căn bản khổ của cõi đời tạm tóm lược trong ba khổ và tám
khổ.
Ba khổ là khổ khổ, hoại khổ và hành khổ.
Khổ khổ: Bản thân đã khổ mà hoàn cảnh chung quanh
lại chồng chất thêm bao cái khổ khác, như thân đã mỏng manh mà còn gánh chịu
bao hoàn cảnh phũ phàng nên gọi là khổ khổ.
Hoại khổ: Vạn vật trong vũ trụ đều bị luật thành,
trụ, hoại, không chi phối, hễ có sinh thì có diệt, cứng rắn như sắt đá, to lớn
như trăng sao, nhỏ nhen yếu ớt như thân người đều bị thời gian hủy diệt tất
cả. Ta hoàn toàn bất lực không cách gì chống chọi được nên gọi là hoại khổ.
Hành khổ: Về phương diện vật chất, ta bị hoàn cảnh
thời gian chi phối. Về tinh thần ta vẫn không tự chủ, không phút nào yên ổn,
tự do, tâm hồn ta luôn luôn bị dục vọng thúc đẩy, lôi kéo, dao động như vượn
chuyền cành, rong ruổi như ngựa không cương. Nhận xét sâu xa hơn, ta sẽ thấy
tâm hồn ta còn giận, thương, ghét, ưa thích thứ này thứ nọ, đều là do tiềm
thức chi phối sai sử vô cùng mãnh liệt. Tóm lại, thân ta đã khổ lại chồng thêm
hoàn cảnh vô thường khổ và tâm ta cũng bị chi phối bởi những ý tưởng dục vọng
từ tiềm thức và luôn luôn chịu mệnh lệnh của chúng, không chút tự do yên ổn
thân tâm, nên gọi là hành khổ.
Tám khổ: Đây là những điều khổ mà ta phải chịu hằng
ngày như:Sinh ra phải chịu khổ (sinh), già khổ (lão), bệnh khổ (bệnh), chết
khổ (tử), thương yêu mà chia lìa là khổ (ái biệt ly), oán ghét mà luôn gặp gỡ
là khổ (oán tắng hội), năm ấm xung đột khổ (ngũ ấm xí thạnh). Các khổ trên cần
có chút nhận xét trong xã hội ta có thể thấy rõ, duy có khổ cuối cùng là năm
ấm xung đột. Năm ấm cũng gọi là năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) là năm
thứ chứa nhóm tích tụ thành thân căn tứ đại của con người là đất, nước, gió,
lửa và không. Các chất này luôn luôn xung đột, mâu thuẫn, nên dễ bị luật vô
thường chi phối, thân thể còn bị lục dục, thất tình làm khổ lụy và bị vọng
thức chấp trước điên đảo nên sinh ra rất nhiều khổ não.
Luân hồi khổ: Tất cả chúng sinh tùy theo sự tạo
nghiệp mà hết kiếp này sang kiếp khác, sống chết xoay quanh trong sáu cõi:
Trời, người, A-tu-la, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Cõi trời tuy vui hơn cõi
người nhưng vẫn còn tướng ngũ suy (các mũ hoa khô héo, y phục dơ bẩn, nách
chảy mồ hôi, thân thể xú uế, không thích chỗ mình ngồi), nghĩa là vẫn theo
nghiệp đầu thai. Cõi A-tu-la khổ về tranh đua. Cõi súc sinh khổ vì mang kéo
nặng nề, hoặc bị banh da xẻ thịt và ăn nuốt lẫn nhau. Ngạ quỷ bị đói khát ép
ngặt, hình phạt đủ điều. Cõi địa ngục thì cột lửa, dầu sôi, khổ không thể kể
xiết. Chúng sinh trong sáu nẻo bị nghiệp thức lôi kéo xuống lên, xoay quanh
theo bánh xe luân hồi, không có đầu mối, chịu khổ vô cùng, nên gọi là luân hồi
khổ.
Trên đây là nói về y báo và chánh báo của cõi Ta
Bà.
Chánh báo của cõi Cực Lạc: Phật A Di Đà trang
nghiêm thanh tịnh cho nên mới chiêu cảm cảnh giới, sự tướng chung quanh cũng
trang nghiêm thanh tịnh theo.
Trong Kinh Vô Lượng Thọ dạy: Trong thời Đức Phật
Thế Tự Tại Vương, có Tỳ kheo tên là Pháp Tạng phát thệ nguyện lớn quyết tâm
trang nghiêm Tịnh Độ. Đức Phật Thế Tự Tại Vương đã vì Tỳ kheo Pháp Tạng mà
rộng nói phương pháp tu hành để trang nghiêm Tịnh Độ và Ngài cũng rộng nói hai
trăm mười ức quốc độ của chư Phật, từ những quốc độ vi diệu đến những quốc độ
thô sơ, đồng thời Ngài cũng hiện rõ cho Tỳ kheo Pháp Tạng được thấy. Do đó,
ngài Pháp Tạng phát khởi đại nguyện cao tột trong tâm tịch tịnh, đủ năm kiếp
luôn nhớ nghĩ giữ gìn công hạnh trang nghiêm thanh tịnh quốc độ. Sau đó, Tỳ
kheo Pháp Tạng phát 48 nguyện lớn và trải qua vô số kiếp thực hành, cảnh giới
đã được trang nghiêm và Ngài thành Phật đến nay hơn mười kiếp. Trong cõi Cực
Lạc, tất cả cảnh giới, thân tâm đều chơn thường khác hẳn với cảnh giới thân
tâm vô thường ở coi Ta Bà này.
- Thân chơn thường: Nhân dân cõi Cực Lạc, thân bằng
kim cương, từ hoa sen báu sinh ra, da màu huỳnh kim. Tất cả đều đủ 32 tướng
hảo của bậc đại nhân, đồng xinh đẹp như nhau. Người dân ở nước Cực Lạc không
có sinh già bệnh chết, thân kim cương không bao giờ hoại, số thọ mạng chỉ tính
đếm bằng vô lượng mà thôi.
- Tâm chơn thường: Người ở thế giới Cực Lạc đều là
bậc trí tuệ sáng suốt, biện tài vô ngại lúc nghĩ tưởng thuần là đạo đức, nên
lời nói ra đều đúng Chánh pháp. Mỗi người đều yêu kính nhau, không tham, không
sân, không si, các căn tịch tịnh không phóng dật, luôn ở trạng thái chơn
thường. Mọi người đều đủ thần thông, chứng tỏ tâm họ luôn ở trong đại định.
- Hoàn cảnh chơn thường: Cõi Cực Lạc là kết tinh
của công đức trang nghiêm mà Pháp Tạng Tỳ kheo đã gây trồng trong thời gian vô
lượng kiếp. Vì thế, cõi Cực Lạc là do các chất báu họp lại mà thành, không bao
giờ hư hoại, như bảo địa, bảo thọ, bảo trì, bảo lâu, bảo tòa…
- Bảo địa: Toàn cõi Cực Lạc, đất bằng lưu ly trong
suốt, dưới có tràng kim cang nâng đỡ. Tám góc tràng, mỗi góc có trăm thứ bảo
châu. Mỗi bảo châu phóng nghìn tia sáng. Mỗi tia sáng có 84.000 màu chói đất
lưu ly sáng như nghìn ức mặt trời. Mặt đất lưu ly bằng phẳng có dây vàng ròng
cùng thất bảo giăng phân khu vực và đường sá. Mỗi dây phóng tia sáng trăm màu
kết thành đài ánh sáng, giữa đài có vô số nhạc khí trỗi lên pháp khổ, không,
vô thường, vô ngã.
- Bảo thọ: Trên bảo địa có vô số cây chiên đàn
hương, vô số cây kiết tường, mỗi cây cao tám nghìn do-tuần. Bông trái đều là
chất thất bảo. Có cây thuần chất báu, có cây xen lẫn các chất báu. Tất cả Phật
sự đều hiện rõ bóng trong cây và cả mười phương thế giới đều hiện rõ trong cây
như hiện trong gương sáng.
- Bảo trì: Cực Lạc thế giới nơi nơi đều có ao tắm.
Thành ao bằng thất bảo, đáy trải cát kim cương nhiều màu. Ao rộng trăm nghìn
do-tuần xem như biển cả. Mỗi ao có 60 ức hoa sen thất bảo. Mỗi bông tròn lớn
12 do-tuần đủ các màu đẹp, màu nào chiếu ánh sáng nấy, nước ao là nước tám
công đức (lóng sạch, trong mát, ngon ngọt, nhẹ mềm, nhuận trơn, hòa nhã vui
vẻ, trừ đói khát bệnh hoạn, thân thể khỏe mạnh). Nước chảy tạo thành tiếng
pháp, diễn nói về khổ, không, vô thường, vô ngã.
- Bảo lâu: Bốn phía ao báu có vô số cung điện nhiều
tầng đều do bảy chất báu xây dựng. Tất cả giảng đường, tinh xá, lầu các của
Phật A Di Đà, chúng Bồ Tát và nhân dân đều quý hơn trăm nghìn lần cung điện
của Tự Tại Thiên vương ở cõi Ta Bà. Bốn phía đền đài đều trang nghiêm với
nhiều tràng hoa và vô lượng nhạc khí đều hòa reo tiếng pháp.
- Bảo tọa: Thế giới Cực Lạc, Đức Phật A Di Đà, chư
Bồ Tát cùng nhân dân đều ngồi trên tòa sen báu. Tòa sen ấy do vô lượng chất
báu họp thành, màu sắc đẹp lạ, quang minh chói sáng. Tòa sen có 84 nghìn cánh,
mỗi cánh có 84 nghìn lằn gân, phóng ra 84 nghìn tia sáng. Xen vào mỗi cánh sen
có năm trăm ức hạt châu Ma ni, mỗi hạt châu phóng nghìn tia sáng. Đài sen bằng
chất Thích Ca Lăng Già Bảo, trang nghiêm với tám muôn thứ ngọc kim cương, hiện
thành Phật sự ở các nơi trong cõi Cực Lạc. Hoàn cảnh ở nước Cực Lạc hoàn toàn
xây dựng bằng những chất báu chơn thường.
- Cõi Cực Lạc thuần vui: Thuần vui là một thứ vui
an lạc tự nhiên, không phải vui vì một trạng thái thay đổi hay một sự chấp
nhận bằng lòng. Nhân dân cõi Cực Lạc không có tất cả sự khổ, chỉ thuần hưởng
sự vui thanh tịnh, vì cõi Cực Lạc không có ba khổ, tám khổ, luân hồi khổ.
- Không có ba khổ: Chúng sinh cõi Ta Bà bản thân đã
mong manh, chứa đầy sự khổ lại cộng thêm hoàn cảnh khổ. Trái lại, nhân dân cõi
Cực Lạc thân kim cương bất hoại, liên hoa hóa sinh, ở trong thế giới Cực Lạc
nhiều thắng duyên, cuộc sống hoàn toàn thường lạc. Chúng sinh cõi Ta Bà đều
chịu chi phối bởi định luật thành, trụ, hoại, không; chúng sinh hoàn toàn bất
lực trước định luật vô thường của vũ trụ. Trái lại, cõi Cực Lạc do công đức
của Phật A Di Đà tạo nên, các bảo thọ, bảo trì, bảo lâu, bảo tòa đều do các
chất báu hợp lại mà thành, không bao giờ hư hoại, hoàn cảnh vũ trụ luôn luôn
chơn thường.
- Không có tám khổ: Chúng sinh cõi Ta Bà phải chịu
tám khổ: Sinh, già, bệnh, chết, yêu chia lìa, cầu không được, gặp kẻ thù
nghịch, thân tâm đòi hỏi phóng túng, trái lại, nơi thế giới Cực Lạc, người từ
hoa sen sinh ra nên không có khổ về sinh. Thân bền chắc như kim cương, luôn
luôn khương kiện, trẻ đẹp nên không có khổ vì già. Thọ mạng vô lượng, vô biên
A-tăng-kỳ kiếp mãi đến bổ xứ thành Phật nên không khổ vì chết. Không cha mẹ vợ
con nên không khổ vì thương yêu bị chia lìa. Các thượng thiện nhân đều ở chung
nên không có khổ phải gặp kẻ thù. Ăn mặc tự nhiên, muốn gì được nấy nên không
có khổ vì cầu không được. Không có thân kiến và tâm luôn luôn thanh tịnh ở
trong chánh định tu tập nên không có khổ vì thân tâm đòi hỏi phóng túng.
- Không có khổ luân hồi: Người cõi Ta Bà luôn tạo
ác nghiệp nên mãi lẩn quẩn trong ba nẻo sáu đường, không có ngày ra khỏi. Trái
lại, nhân dân trong cõi Cực Lạc, sinh từ hoa sen, thân kim cương bất hoại,
thoát hẳn sinh tử, chứng vị bất thối, lần lên Phật quả.
Tóm lại, thế giới Cực Lạc là nơi thanh tịnh trang
nghiêm chỉ thuần có vui mà không khổ.
- So sánh điểm hơn kém giữa hai cõi:
Cõi Ta Bà có mười điều chướng nạn:
· Trong đời không có Phật, Ngài thị tịch đã lâu.
· Thiện tri thức rất khó gặp.
· Chánh pháp khó gặp.
· Ngoại đạo thường khuấy phá.
· Thân người mong manh như hoa sớm nở tối tàn.
· Ác đạo vây quanh.
· Đường luân hồi hiểm trở.
· Nghiệp thân thọ dụng buộc ràng.
· Hoàn cảnh chi phối khó vào chánh định.
· Khó chứng đạo Vô thượng Bồ-đề.
Cõi Cực Lạc có mười điều thù thắng:
· Phật A Di Đà hiện đương nói pháp.
· Bạn là những Bồ Tát bất thối.
· Cảnh vật diễn pháp mầu.
· Chư Phật thường hộ niệm.
· Tuổi thọ vô lượng.
· Không có ác đạo.
· Thoát ly hẳn luân hồi.
· Thọ dụng tự nhiên.
· Được vào chánh định tụ.
· Một đời thành Phật.
Qua sự so sánh y báo và chánh báo giữa hai cõi,
tất nhiên ai cũng chọn cõi Cực Lạc. Chúng ta đã trót sinh ra trong cõi đời
này ai lại không biết có thân là khổ. Dù có vui đi nữa cũng chỉ là cái vui
tạm thời trong chốc lát, mà cái khổ cứ đeo đuổi theo luôn, như hai bánh xe
lăn theo chân con bò. Đó là sự thực, là nỗi khổ đau mà không ai tránh
khỏi. Đã biết được khổ, dĩ nhiên chúng ta cần tìm chỗ vui cho an lạc tâm
hồn. Cảnh vui không đâu yên ổn bằng cõi Cực Lạc. Trong thời kỳ tu nhân,
Đức Phật A Di Đà vì lòng từ bi quá thiết đối với chúng sinh trong cõi khổ
ở khắp mười phương. Ngài muốn tất cả chúng sinh vĩnh viễn trong sự an vui
hoàn toàn và bảo đảm chắc chắn trên đường đi đến Phật quả, nên Ngài nhất
tạo ra một thế giới vô cùng trang nghiêm, thanh tịnh, thuần vui không khổ,
để làm gia hương cho tất cả chúng sinh trong mười phương.
Qua bài học nêu trên, nếu chúng ta cảm thấy cõi
đời này là vô thường huyễn mộng, toàn khổ, không vui, muốn có cuộc sống
thực sự an lạc, thoát ngoài vòng sinh tử luân hồi, chỉ có cách duy nhất là
phải sinh về cõi Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà.
QUY HƯỚNG TỊNH ĐỘ
Nay là thời mạt pháp, chính là lúc Pháp môn
Tịnh độ đang cần hơn bao giờ hết cho nhân loại. Vì vậy, chúng ta nên tuân
thủ nhiều hơn đối với Pháp môn Tịnh độ. Như ngài Thiên Như Thiền sư đã
dạy: “Mạt pháp chi hậu chư kinh diệt tận, chỉ lưu A Di Đà Phật tứ tự cứu
độ chúng sinh, kỳ bất tín giả, ưng đọa địa ngục”, nghĩa là: Đời mạt pháp
về sau, các kinh sách đều diệt hết, chỉ còn lưu lại bốn chữ A Di Đà Phật
để cứu độ chúng sinh, nếu kẻ nào không tin, tức sẽ bị đọa địa ngục”.
Ngẫu Ích Trí Húc Đại sư khi viết quyển “A Di Đà
Kinh Yếu Giải” đã phải lên tiếng than rằng: “Đời mạt pháp ức vạn người tu
hành ít có người đắc đạo. Chỉ còn nhờ pháp niệm Phật mới được độ thoát.
Than ôi! Nay chính là đời mạt pháp rồi mà bỏ pháp môn niệm Phật này thì
còn pháp môn nào tu học được nữa!”.
Tế Tỉnh Đại sư (Triệt Ngộ) Liên tông thập nhị
Tổ thường dạy rằng: “Ngài Vĩnh Minh Diên Thọ nguyên là bậc “tông tượng”
trong chốn Thiền môn mà còn quy tâm về Tịnh độ thay, huống chi nay là thời
kỳ mạt pháp, chúng ta lại càng phải nên tuân theo hơn nữa”.
Các vị Thiền sư còn phải lên tiếng nói rằng:
“Nếu như chúng tôi khi mới xuất gia mà có túc căn sớm với Pháp môn Tịnh
độ, thì chúng tôi không phải mất công, tốn sức chuyển pháp môn tu như thế
này đâu”.
Chúng ta thấy, các vị Thiền sư còn quy tâm về
Pháp môn Tịnh độ một cách dứt khoát, thì phải nói pháp môn niệm Phật là
pháp môn vi diệu, bất khả tư nghì.
Hôm nay, thật là hữu duyên cho chúng ta sớm gặp
được Pháp môn Tịnh độ ngay từ ban đầu, theo như chúng tôi nghĩ, chắc có lẽ
từ vô lượng kiếp chúng ta đã từng gieo nhân niệm Phật, chính nhân niệm
Phật này mà chúng ta có được quả niệm Phật hôm nay.
Nhờ nhân duyên lành đó, chúng ta được chư Phật,
chư Bồ Tát, chư Tổ trao tặng pháp môn này, chứ đâu phải dễ. Đây là một
pháp môn mà các ngài đã thực hành và đã chứng đắc.
Vậy chúng ta đi theo pháp môn tu của các ngài
chỉ dạy thì chúng ta cũng giống như các ngài không hai không khác.
Chúng ta đã có duyên với Pháp môn Tịnh độ, thì
chúng ta không sợ lạc đường, nếu nói lạc đường thì chư Tổ lạc đường trước.
Ví dụ, nếu như pháp môn niệm Phật này không có ai tu theo mà ta tu một
mình thì ta mới sợ lạc đường, huống hồ chư Tổ, nhiều vị tu theo pháp môn
này, thì chắc chắn chúng ta không sợ lạc đường, chúng ta phải có lập
trường và tin chắc như vậy, không có một ý nào mà hoài nghi cả.
Trong Kinh Niệm Phật Ba La Mật, Đức Phật dạy:
“Trong quá khứ vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp nhẫn lại đến nay, mười
phương chư Phật chỉ dùng pháp môn niệm Phật để cứu vớt hết thảy chúng
sinh”.
Trong hiện tại cũng có vô lượng vô biên hằng hà
sa số chư Phật cũng đang thuyết giảng giáo nghĩa này. Đức Phật còn nói
thêm trong đời vị lai, tất cả mười phương chư Phật muốn cứu vớt chúng sinh
thì không ngoài pháp môn niệm Phật này. Vì vậy, Như Lai bảo rằng: Pháp môn
niệm Phật là vua trong tất cả các pháp”.
Chư Phật, chư Tổ, chư Bồ Tát luôn khen ngợi,
tán thán, ra sức xiển dương Pháp môn Tịnh độ mà chúng ta không tin hay
sao. Ví như có một người nào đó bị trúng đạn vào chân, thì chúng ta cũng
cảm thấy họ đau như thế nào, khi chúng ta bắt gặp một người nào đó rạng rỡ
nở nụ cười trên môi thì chúng ta cũng cảm thấy được họ hạnh phúc, họ vui
như thế nào, huống hồ, biết bao nhiêu danh hạnh, biết bao nhiêu tấm gương
sáng niệm Phật được vãng sinh. Tổ Tổ tương truyền cho đến bây giờ thì
chúng ta cũng cảm thấy được pháp môn niệm Phật vi diệu, thù thắng, tuyệt
vời như thế nào rồi.
Không phải chúng tôi theo Tịnh độ mà chúng tôi
tự đề xướng, tự đưa pháp môn của mình lên tận trời cao đâu, mà phải hiểu
như thế này, hôm nay, chúng tôi chỉ là người phụ họa thêm thôi, chỉ là
người biết cầm bút để ghi lại những lời chư Phật, chư Tổ chỉ dạy mà thôi,
chớ chúng tôi không bao giờ có ý bảo thủ, tự lập một pháp môn riêng cho
mình đâu, đây là điều mà chúng tôi tối kỵ nhất.
Chúng tôi xiển dương ca ngợi pháp môn Tịnh độ
là đều y cứ vào sử sách, chớ không bao giờ nói một cách suông, như chúng
ta đã từng biết đạo Phật không chỉ nói lý thuyết suông không, mà còn phải
đòi hỏi hành nữa, cho nên có câu “Học đạo chưa phải là đắc đạo. Hành đạo
mới gọi là đắc đạo”. Đúng vậy, những điều chúng tôi nói đều y cứ vào sử
sách chứ không bao giờ tự nói, để cho quý vị có được tín tâm đối với pháp
môn này, chúng tôi xin giới thiệu một số sách nói về Pháp môn Tịnh độ. Đó
là: Kinh A Di Đà, Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Niệm
Phật Ba La Mật, Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình
Đẳng Giác, Niệm Phật Thập Yếu, Những chuyện vãng sinh lưu xá lợi v.v…
Đã là một hành giả tu theo Pháp môn Tịnh độ thì
chúng ta nên cần tìm đọc những cuốn sách Tịnh độ, có như vậy mới giúp cho
tín tâm của chúng ta vững chắc thêm. Ngoài những cuốn sách Tịnh độ trên,
chúng ta nên tìm đọc ngay cuốn “Liên Tông Thập Tam Tổ”, đây là một cuốn
sách gối đầu, nói rất rõ ràng về phương pháp tu và những công hạnh đẹp của
13 vị Tổ sư của Pháp môn Tịnh độ.
Để chúng ta có niềm tin sâu, nguyện thiết, hành
chuyên, đối với Pháp môn Tịnh độ, chúng tôi xin dẫn chứng một vị Tổ trong
Liên tông thập tam Tổ cho quý vị biết: đó là Sơ Tổ Huệ Viễn, trong 10 năm
ròng rã niệm Phật, ngài đã thấy Phật A Di Đà xoa đầu ngài ba lần. Khi lâm
chung ngài biết được ngày giờ ra đi, an nhiên thị tịch một cách tự tại. Từ
Sơ Tổ Huệ Viễn lần đến vị Tổ thứ 13 là Ấn Quang Đại sư đều niệm Phật, khi
lâm chung các ngài đều biết ngày giờ ra đi một cách tự tại.
Thật phải nói, pháp môn niệm Phật là pháp môn
thù thắng. Như vậy thử hỏi Pháp môn Tịnh độ có phải dành riêng cho những
người thấp hèn, bất học tu không?
Chúng tôi xin mạnh dạn trả lời thật là không
phải chỉ dành riêng cho những kẻ thấp hèn mà còn cho đến các vị đại sĩ
Pháp thân Bồ Tát, chư Tổ cũng đều tu theo.
Thế mà nay, chúng tôi vẫn còn nghe văng vẳng
bên tai pháp môn niệm Phật chỉ dành cho những kẻ không học, những kẻ ngu
phu ngu phụ, những người đầu làng cuối xóm tu theo thôi, còn những bậc có
học, thượng căn ai mà tu theo làm gì!
Hôm nay, chúng tôi viết đề tài này là thiết tha
kêu gọi những ai mà đã có ý chê bai hủy báng Pháp môn Tịnh độ thì nên lập
tâm sám hối, chớ không thì chúng ta tự hủy báng chư Phật, chư Bồ Tát, chư
Tổ đấy, thật là tội nặng đáng đọa vào tam đồ.
Cho nên Ấn Quang Đại sư đã phải lên tiếng cảnh
cáo người đời rằng: “Pháp môn niệm Phật cao thâm huyền diệu mà vẫn có
nhiều kẻ còn dám khinh chê cho là chỉ có những người già nua, tuổi tác yếu
đuối, dốt nát mới theo Pháp môn Tịnh độ thì quả là họ đã dám coi thường,
khinh chê cả các vị đại Bồ Tát như Di Lặc, Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Thế Âm,
Đại Thế Chí, Mã Minh, Long Thọ rồi vậy”.
Đối với quý vị nào mà đã phạm vào thiển ý chê
bai, hủy báng Pháp môn Tịnh độ, thì quý vị không nên run sợ gì cả. Như
chúng ta thường nghe Đức Phật dạy:
Có hai hạng người mạnh:
1.- Hạng người có lỗi mà biết sám hối.
2.- Hạng người không tạo lỗi.
Vậy quý vị cứ y theo lời Phật dạy thì sẽ trở
thành người tốt mà thôi.
Ngài Trí Húc Đại sư, lừng danh trong chốn Thiền
môn thuở xưa, đã lên tiếng trước hàng đệ tử: “Khi mới xuất gia, tôi tập
ngồi thiền, tự phụ đã tu theo đốn pháp dễ ngộ và tỏ ý chê bai Pháp môn
Tịnh độ, cho là tiệm pháp lâu chứng. Khi ấy còn ít tuổi, tôi dám cả gan
nói những điều thiếu suy xét rằng: “Pháp môn Tịnh độ chỉ dành riêng cho
hạng người hạ căn ít học mà thôi. Chẳng dè, nhân bị một cơn ốm nặng, tưởng
khó qua khỏi, tôi mới chịu phát tâm niệm Phật A Di Đà, sau đó khỏi bệnh,
tôi được đọc nhiều sách nói về Tịnh độ, lúc này tôi mới bừng tỉnh, bừng
tỉnh cái gì? Là thấy chư Bồ Tát, chư Tổ đều niệm Phật cầu vãng sinh, kể từ
đây tôi mới nhất tâm niệm Phật A Di Đà cầu vãng sinh Tây phương Cực Lạc,
ngày đêm không ngừng với một sức tinh tiến ít người nào sánh kịp”.
Chúng ta đã thấy tận tường chưa? Ngài Trí Húc
Đại sư là bậc tông tượng trong chốn Thiền môn, khi mới xuất gia theo Thiền
tông, ngài có ý chê bai hủy báng Pháp môn Tịnh độ, nhưng khi bừng tỉnh,
ngài thấy mình có lỗi liền lập tâm sám hối, quy hướng về Pháp môn Tịnh độ
niệm Phật cầu vãng sinh để giải quyết sinh tử.
Chư Phật, chư Tổ vì thương chúng sinh đời mạt
pháp cứ mãi trôi lăn trong vòng sinh tử, với lòng từ bi vô điều kiện, các
ngài đã khuyên chúng ta nên theo Pháp môn Tịnh độ vì dễ tu, dễ chứng như
đi thuyền buồm xuôi dòng, gặp gió thuận, lướt nhẹ trên mặt nước, tiến mau
như mũi tên, còn tu theo các pháp môn khác sẽ gặp nhiều điều khó khăn.
Cho nên trong Liên Tông Thập Tam Tổ, Ấn Quang
Đại sư nói rằng: “Bỏ đường tắt Tây phương, chín giới chúng sinh trên khó
thể viên thành quả giác. Lìa cửa mầu Tịnh độ, mười phương chư Phật, dưới
không toàn độ khắp quần mê. Pháp môn cao cả lợi khắp ba căn nhân đây: Chín
cõi đồng về, mười phương khen ngợi. Phật nguyện rộng sâu không từ một vật
nên được: nghìn kinh đều chỉ, muôn luận tuyên bày”.
Mỗi niệm danh hiệu Phật tức là mỗi niệm thành
Phật, không đợi nhiều kiếp tu chứng, vì nó gồm cả Thiền, Giáo, Luật, Mật,
phổ cập đến các bậc thượng, trung, hạ, như mưa thấm nhuần đủ muôn vật, như
biển cả dung nạp trăm sông, Đại thừa, Tiểu thừa, Đốn giáo, Tiệm giáo, tất
cả tu theo pháp môn này đều được thành tựu Phật quả.
SỰ LỰA CHỌN PHÁP TU
Theo Đạo Xước Thiền sư, trên bước đường tu tập,
ngài đã chia ra hai phương pháp tu:
1.- Thánh giáo môn.
2.- Tịnh độ môn
Như thế nào gọi là Thánh giáo môn? Thánh giáo
môn là tự mình dùng giới, định, huệ, diệt tham, sân, si. Ắt hẳn suốt cả
cuộc đời này, chúng ta tự tu một mình liệu có diệt hết tham, sân, si
không, chắc chắn là không rồi.
Thử hỏi, trong đời mạt pháp này có ai tu mà đạt
được cảnh giới Phi tưởng phi phi tưởng xứ định chưa, thật sự chưa có một
ai đạt được. Nhưng cho dù đạt được đi nữa cũng không diệt hết tham, sân,
si và đây, chúng tôi xin lấy một ví dụ để chứng minh.
Như ông Uất Đầu Lam Phất tu đạt được cảnh giới
cao nhất của cõi trời Vô sắc, đó là Phi tưởng phi phi tưởng xứ định nhưng
cũng chưa làm chủ được phiền não. Là thế này, nhân một buổi ông ta ngồi
thiền tại một gốc cây, trong lúc đang hành thiền, thì có những chú chim
bay nhảy, kêu hót trên cây rộn rã, lúc này, ông ta tỏ ý sân hận với mấy
chú chim, liền bỏ gốc cây đi xuống gần một dòng suối để ngồi thiền. Không
ngờ ông ta tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa, trong lúc ngồi thiền tại dòng suối thì
những chú cá bơi lui bơi lại làm động nước phát ra tiếng ồn, lúc này, ông
ta nổi sân hận hơn lúc trước, liền khởi ý ác là sau này đầu thai làm một
con gì mà ăn hết các loại chim và cá, vì tham sân si này nổi lên, sau khi
chết ông ta đầu thai làm con phi ly (là con chồn biết bay).
Qua câu chuyện này chúng ta thấy rằng: Cho dù
tự lực tu mà đạt được cảnh giới Phi tưởng phi phi tưởng xứ định đi nữa
cũng không bao giờ diệt hết tham sân si, huống hồ chúng ta là chúng sinh
đời mạt pháp, phước mỏng nghiệp dày mà một mình tự lực tu thì chúng ta
không bao giờ giải quyết được sinh tử. Như vậy, theo “Thánh giáo môn” thì
chúng ta không kham nổi.
Vậy, chúng ta tiếp tục phân tích, mổ xẻ phương
pháp thứ hai: “Tịnh độ môn”.
Tịnh độ môn chia ra hai phương pháp: Yếu chỉ
Tịnh độ và tha lực Tịnh độ.
Như thế nào gọi là “yếu chỉ Tịnh độ”? Là tự
mình sách tấn, tu hành để tạo một cõi Tịnh độ ngay trong hiện tại, như vậy
phương pháp này chỉ dùng cho bậc thượng căn mà thôi.
Như thế nào gọi là “tha lực Tịnh độ”? Là mình
nương nơi bản nguyện của Phật A Di Đà để được vãng sinh, phương pháp này
khế hợp với ba căn cơ, hạ căn, trung căn, thượng căn. Tha lực Tịnh độ cũng
giống như đi thuyền qua sông, còn Thánh giáo môn tự lội qua sông. Như vậy,
người mà có thuyền chở qua sông và người tự lội qua sông, thử hỏi trong
hai người cùng đi qua sông, người nào khỏe nhất? Chắc chắn là người có
thuyền chở qua.
Qua sự phân tích, mổ xẻ phương pháp tu trên
đây, chúng ta chọn phương pháp tu nào là hợp nhất? Theo chúng tôi nghĩ,
chắc chắn ai cũng đều đồng ý chọn “Tha lực Tịnh độ”. Tại sao ta chọn
phương pháp này? Là vì hợp với căn cơ của chúng ta, cho nên ta không dại
khờ gì mà chọn “Thánh giáo môn”.
Chúng ta là một hành giả tu theo đạo Phật,
trước khi chọn một việc gì thì phải đầy đủ tam huệ: Văn huệ, tư huệ và tu
huệ.
- Văn huệ: Là mình nghe rõ ràng.
- Tư huệ: Là mình tư duy, suy nghĩ chọn lựa cái
nào đúng cái nào sai một cách rõ ràng.
- Tu huệ: Là mình áp dụng tu hành cái mình đã
chọn lựa tư duy một cách đúng đắên. Như vậy, tam huệ rất quan trọng, nó
cũng giống như nấc thang đầu tiên, hay là chìa khóa để chúng ta bước vào
ngưỡng cửa Phật pháp. Nếu như ban đầu, chúng ta nghe một cách lập chập, tư
duy một cách hời hợt, sai lệch, thì khi chúng ta tu, dễ bị lệch lạc. Ngược
lại, chúng ta nghe một cách rõ ràng, tư duy và áp dụng đúng đắn, thì khi
tu ta cảm thấy an lạc vô cùng, vì vậy, chúng ta phải hết sức cẩn trọng ở
chỗ này.
Đức Phật Thích Ca trọn đời giáo hóa, điều phục
chúng sinh. Ngài đã ban ra tám vạn bốn nghìn pháp môn tu. Nhiều pháp môn
tu như vậy, chúng ta thấy mình hợp căn cơ nào thì theo căn cơ đó, chớ
không nên chê bai một pháp môn nào cả. Là đệ tử Phật chúng ta hết sức để ý
ở chỗ này, không nên có một ý nào hủy báng cả, mà chúng ta phải luôn tán
thán, ca ngợi, pháp môn nào cũng tốt cả, Thiền cũng tốt, Tịnh cũng tốt,
Mật tông cũng tốt. Tại sao chúng ta phải ca ngợi, tán thán như vậy? Là bởi
vì đều là Đức Phật chỉ dạy cả. Nếu chúng ta không khéo lại chê pháp này
hay, pháp kia dở là chúng ta tự chê trách Đức Phật, nếu sơ sẩy một chút
thôi là rơi vào tội hủy báng pháp, tội này rất chi là nặng.
Trong Tứ hoằng thệ nguyện có dạy: “Pháp môn vô
lượng thệ nguyện học”.
Chúng ta hợp căn cơ nào thì theo căn cơ đó. Nếu
chúng ta sốt thì uống liều thuốc sốt, chúng ta cảm thì uống liều thuốc
cảm, chứ không nên điên dại, sốt mà lấy thuốc cảm uống. Như chúng ta thấy,
nước trong bốn biển duy nhất chỉ có một vị mặn. Pháp của Đức Phật dạy vô
lượng chỉ có một vị giải thoát mà thôi. Xin lấy một ví dụ. Chúng ta đi ra
Hà Nội, đâu phải có một đường đi, mà có nhiều đường để đi, chúng ta có thể
đi xe, có thể đi máy bay, có thể đi tàu lửa, có thể đi bộ v.v… đường nào
cũng tới Hà Nội, tuy lâu hay mau mà thôi. Cũng vậy, muốn đạt được quả vị
Phật thì chúng ta cũng có rất nhiều phương pháp tu như là Thiền, Tịnh,
Mật, Giáo v.v… Chúng ta phải hiểu tường tận như vậy, thì mới không mắc kẹt
vào tội chấp pháp, Thiền cũng tốt, Tịnh cũng hay, Mật cũng tuyệt vời.
Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật dạy: “Chánh pháp
ta còn bỏ, huống gì là phi pháp”. Chúng ta muốn qua sông thì cần thuyền,
khi qua sông rồi thì bỏ thuyền lại, cho nên chúng ta phải biết tất cả chỉ
là phương tiện mà thôi. Nếu chấp phương tiện là chúng ta khổ hay nói cách
khác là sự và lý phải viên dung.
SỰ LÝ VIÊN DUNG
Điều căn bản và duy nhất là phải hiểu sự lý cho
rõ ràng, luôn luôn thực hành không gián đoạn thì chắc chắn không sai. Sự
không ngại gì lý, lý không ngại gì sự, hai phạm trù này luôn luôn hỗ tương
cho nhau, nếu thiếu một trong hai thì ắt hẳn không có kết quả tốt, cũng
giống như con chim đủ đôi cánh mới bay được, chiếc xe đủ hai bánh mới chạy
được; chúng ta hiểu như vậy thì không bao giờ thiên lệch về một bên nào
cả.
Đôi khi chúng ta cứ nê chấp vào thuật ngữ vô
niệm, lý không để rồi bác bỏ sự tu niệm Phật cầu vãng sinh. Như vậy, dễ
rơi vào tình trạng “chưa bước lên bờ đã vội phá bỏ chiếc bè” tất sẽ không
tránh khỏi bị chết chìm dưới nước. Chúng ta phải biết rằng “Lý tuy đốn ngộ
nhưng sự phải lần lượt tu hành”.
Ví dụ: Điểm đến của chúng ta là Hà Nội, như vậy
lấy cái gì để đến Hà Nội được? Tất nhiên chúng ta phải đi bằng máy bay,
bằng xe… Chúng ta muốn qua bên kia sông thì chúng ta phải cần cái gì đây?
Chắc chắn là chúng ta phải mượn thuyền. Cũng vậy, muốn thấy được bản lai
diện mục thì chúng ta cần phải có ngồi thiền, quán sổ tức, tri vọng, câu
thoại đầu. Muốn đạt đến nhất tâm bất loạn hay niệm Phật tam muội thì cần
phải mượn sự niệm Phật. Như vậy, chúng ta mới hiểu ra rằng: Sự và lý là
một, Thiền và Tịnh là một không hai không khác.
Nhiều khi chúng ta không suy xét kỹ, lấy những
lý cao siêu trong kinh điển ra, để biện luận cho cái hiểu biết của mình.
Như câu “Kỳ tùy tâm tịnh, tức Phật độ tịnh” (nếu tâm mình tịnh, tức là cõi
Phật đó rồi, không cầu đâu xa, rồi lại phủ nhận không có cõi Phật), đây là
sự hiểu biết thật là nông cạn, thật là đáng thương, không chỉ vậy mà còn
gây ra một hoang mang lớn cho số Phật tử tu theo Pháp môn Tịnh độ.
Chúng ta thử xét câu “Kỳ tùy tâm tịnh, tức Phật
độ tịnh” đúng ở cấp độ nào và không đúng ở cấp độ nào?
Đáp: Đúng ở cấp độ khi chúng ta thấy được Phật
tánh.
Không đúng ở cấp độ khi chúng ta chưa thấy được
Phật tánh.
Thử hỏi trong mỗi chúng ta có ai đạt được Phật
tánh chưa? Thật sự mà nói chưa có ai đạt được Phật tánh. Như vậy, khi
chúng ta chưa thấy được Phật tánh, mà chúng ta lấy những lý cao siêu này
để mà biện bạch cho cái hiểu biết của mình thì nó sẽ phản kháng lại cho
chúng ta những điều như sau.
Thứ nhất, chỉ là lời nói viễn vông đầu môi chót
lưỡi.
Thứ hai, không thực tế.
Thứ ba, mâu thuẫn với chính mình (mâu thuẫn là
sao? Là mình chưa đạt được cái lý đó, mà cứ cho là mình đạt được, cũng
giống như nghĩ cơm mà không ăn cơm thì không sao tránh khỏi sự đói bụng,
không chỉ mâu thuẫn với chính mình mà còn mắc vào tội đại vọng ngữ, không
chứng mà nói chứng).
Câu nói: “Kỳ tùy tâm tịnh, tức Phật độ tịnh”
nghe qua tựa hồ như đúng lý, nhưng nếu xét cho kỹ thì lại không hợp, mà
chỉ chuyên về phần lý thuyết ngụy biện. Tại sao? Vì bất kỳ một pháp nào
hiện hữu cũng đều nói lên lý và sự của nó. Nói về lý thì tâm mình tịnh tức
là Tịnh Độ, cũng như nói do tâm chúng sinh uế trược nên mới có thế giới Ta
Bà đau khổ. Chúng ta đã thấy do có tâm phiền não của chúng sinh nên mới có
thế giới uế trược Ta Bà. Vậy thì, khi chúng sinh niệm Phật tâm được thanh
tịnh tức nhiên cũng có cảnh giới Tịnh Độ Cực Lạc mà chúng sinh đó sẽ sinh
về. Thế thì cảnh Cực Lạc là một thế giới thanh tịnh có thật, có Phật A Di
Đà đang thuyết pháp giống như Đức Phật Thích Ca thuyết pháp ở cõi Ta Bà
này. Như vậy, ta niệm Phật cầu vãng sinh về Cực Lạc có gì là không đúng,
có gì là vọng cầu xa xôi. Mong sinh về cảnh tịnh điều đó không hay hơn là
mải mê ở trong cảnh uế sao?
Lại nữa câu nói “Tự tánh là Phật Di Đà, tâm là
cảnh Tịnh Độ”, cũng như bảo chúng sinh ai cũng có Phật tánh và có thể
thành Phật. Nhưng thử hỏi tâm ta đã hoàn toàn thanh tịnh chưa, và thật sự
ta đã thành Phật chưa? Nếu chưa, thì đừng quá cao ngạo, bỏ sự chấp lý, tự
cho tự tánh là Phật A Di Đà, thanh tịnh tâm là Tịnh Độ.
Nhìn một cách thực tế, cõi Ta Bà của chúng ta
có mấy ai phát tâm xuất gia đâu, trong một trăm người thì chỉ có một người
xuất gia.
Chúng ta thử nhìn ra bên ngoài, biết bao nhiêu
điều gây rối cho xã hội như là tham nhũng hối lộ, xì ke, ma túy, sát sinh,
trộm cướp, tà dâm, v.v… có mấy ai chịu quay đầu để nhìn lại chính mình, để
tu tập. Nhìn chung, đại đa số thì chìm đắm trong ngũ dục, lục trần. Với
cách nhìn khách quan như thế này, thì làm sao chúng ta chuyển nổi cõi Ta
Bà này thành Tịnh Độ được. Với câu nói “Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ”
thì quá ư là không đúng với thực tế, chỉ là hư vọng mà thôi.
Chúng ta phải hiểu rõ Tịnh Độ là gì?
Tịnh: Thanh tịnh, trong sạch.
Độ: Cõi, nước.
Như vậy, Tịnh Độ là một cõi thanh tịnh, trong
sạch chứ không phải một cõi uế trược như cõi Ta Bà này.
Tịnh Độ còn có nghĩa là: Tịnh hóa thân tâm,
trang nghiêm quốc độ.
Như vậy, muốn chuyển đổi một cõi đầy uế trược
thành một cõi Tịnh Độ thật sự, thì mỗi chúng sinh trong cõi uế trược đó
đều phải cùng nhau tu tập, cùng nhau tịnh hóa thân tâm, cùng nhau trang
nghiêm quốc độ, thì mới chiêu cảm được cõi Tịnh Độ. Còn ngược lại, thì
không bao giờ có được. Như vậy muốn có cõi Tịnh Độ, thì phải có nhân thanh
tịnh, trong sạch, muốn có được nhân thanh tịnh trong sạch thì chúng ta
phải làm sao? Chúng ta phải nhất tâm niệm Phật nguyện cầu vãng sinh. Cho
nên chúng ta phải biết rằng, nay tâm chưa tịnh, tánh lại chưa phải là Phật
A Di Đà, thì đừng sinh tâm ngã mạn tự cao, chê bai Chánh pháp, chê lời
Phật dạy, chê lời Tổ dạy, lý thuyết ngụy biện chỉ mang thêm tội lỗi vào
thân miệng ý mà trôi lăn trong vòng ác đạo. Không ít người có tâm ngã mạn
tự cao, mắc bệnh không tưởng, nên tự cho mình là kẻ siêu việt vượt hơn các
bậc tiền bối, khinh khi thầy tổ, chê bai lời Phật và Bồ Tát, hủy diệt mất
chánh tín, làm bạn với ma vương, cuối cùng cũng chỉ rơi vào con đường sinh
tử. Liên Trì Tổ sư có dạy “Thời mạt pháp, tín tâm của bậc xuất gia có khi
không bằng hàng nam cư sĩ, và phần nhiều hàng nam cư sĩ tín tâm không bằng
nữ cư sĩ”.
Đúng vậy, chúng ta học cho nhiều, hiểu biết cho
nhiều dễ rơi vào một trong tám nạn, đó là thế trí biện thông, đôi khi
chúng ta lấy mớ hiểu biết của mình để rồi đi thắc mắc điều này, nghi ngờ
điều kia, để chúng ta hiểu được một khái niệm mơ hồ nào đó, về một thế
giới nào đó, chính cái này sẽ trở thành sở tri chướng cho chúng ta. Cái
biết đó sẽ làm cho ta chướng ngại đến niềm tin, đánh mất lòng tin, thật là
nguy hiểm vô cùng.
Tại sao Tổ Liên Trì nói: “Thời mạt pháp tín tâm
của người xuất gia có khi không bằng hạng nữ cư sĩ”? Vì hàng nữ cư sĩ họ
không cần lý thuyết suông, không cần ngụy biện để chứng tỏ ta là người học
rộng hiểu nhiều, mà chỉ tín tâm vào lời Phật Tổ, vào sự tu trì nên đạo
hạnh ngày càng tăng trưởng một cách mau chóng, và sự nghiệp vãng sinh có
phần cao hơn. Chỉ trừ những kẻ phước mỏng tội dày, nghiệp chướng sâu nặng,
mới dễ bị lôi cuốn vào các pháp môn khác bỏ đi pháp môn niệm Phật vi diệu
mà trước đây họ đã từng tu niệm. Vì nghiệp trần quá nặng nên bỏ Phật chạy
theo trần cảnh ma nghiệp, ham vui nhất thời, ưa chuộng danh tiếng, mê theo
lý thuyết mà bỏ đi sự tu, mê cảnh không tưởng bỏ bê giác tánh; ngày tháng
chần chừ, chỉ mang lại cho tâm thần rối loạn, đầu óc ngơ ngơ ngẩn ngẩn,
như người mất trí, Phật Phật ma ma, tâm thần bất định, có khi tâm trí
cuồng loạn, nên sinh tử luân hồi cũng vẫn là con đường mở rộng để đón chờ.
Thương thay! Vì một chút đánh mất tín tâm đối
với pháp môn tu mà muôn đời trầm luân nơi sinh tử đau khổ.
SINH TỬ LÀ VIỆC LỚN
Nỗi thao thức trong mỗi chúng ta là làm sao
giải quyết được sinh tử bởi vì còn sinh tử thì chúng ta cứ mãi trôi lăn
trong vòng luân hồi của lục đạo hết sức khổ sở. Vì sinh tử, chúng ta cứ
mãi vô ra trong bào thai đầy hôi tanh máu mủ, nhơ nhớp của người mẹ, có
khi nằm trong bào thai của con chó, con heo, con cá v.v… cứ mãi quay đi
lộn lại trong vô lượng kiếp như vậy, thật là ghê rợn. Vì sinh tử mà làm
đảo lộn luân thường đạo lý, ví dụ như cha lấy con, con lấy cha, mẹ lấy
con, con lấy mẹ, chị lấy em, cầm dao giết con vật để ăn, không ngờ ta giết
cha mẹ, anh, chị, em, thân bằng quyến thuộc của ta nhiều đời nhiều kiếp mà
không hay không biết.
Vì sinh tử, chúng ta không chỉ làm khổ cho mình
mà còn làm khổ đến cho tất cả mọi người như là làm khổ vợ, khổ chồng, khổ
con, khổ cha mẹ v.v… trong vô lượng kiếp như vậy.
Ôi! Nghĩ đến sinh tử thật là kinh hoàng, mà
chúng ta không giác ngộ tu hành hay sao, chúng ta không gấp rút hay sao,
đợi đến chừng nào đây?
Thật là may mắn thay, chúng ta được làm thân
người, sớm lại được gặp Phật pháp. Đặc biệt, chúng ta lại gặp được Pháp
môn Tịnh độ, nhờ tha lực bản nguyện của Phật A Di Đà mà chúng ta được liễu
sinh thoát tử vãng sinh về thế giới Cực Lạc.
Để cho chúng ta luôn thức tỉnh, tu hành một
cách nghiêm mật, thì chúng ta phải luôn nghĩ đến sự vô thường, sự trống
vắng, ngắn ngủi của kiếp người.
Khi đề cập đến việc được làm thân người, được
gặp Phật pháp là khó hay dễ, thật là khó vô cùng. Như chúng ta thường
nghe: “Nhân thân nan đắc, Phật pháp nan văn”, nghĩa là “Thân người khó
được, Phật pháp khó nghe”.
Thật là khó được gặp mà hôm nay chúng ta đều
gặp được cả.
Chúng tôi thầm nghĩ, chắc có lẽ chúng ta từ vô
lượng kiếp đã từng tu tạo phước đức cho nên hôm nay mới gặp được quả tốt
như thế này, bằng ngược lại thì chúng ta không dễ gì mà gặp được đâu.
Vì vậy, chúng ta phải luôn thường xuyên nghĩ
đến sự vô thường, trống vắng, mỏng manh của cuộc đời mà tinh tấn tu hành,
chứ trong thời gian ngắn ngủi này, chúng ta không chịu tu sửa thì thật
uổng phí cả một kiếp người.
Đức Phật đã dạy: “Mỗi khi chúng ta đánh mất
thân này, thì trăm nghìn muôn kiếp khó mà kiếm lại được”. Cũng giống như
Đức Phật ví con rùa mù hai mắt, sống tận dưới đáy biển, cứ một nghìn năm
khúc gỗ trôi qua biển thì con rùa mù hai mắt nổi lên liền chui vào đúng
bọng cây. Phật mới bảo các vị Tỳ Kheo, các thầy thấy con rùa mù hai mắt
chui được vào bọng cây khó hay là dễ? Các thầy Tỳ Kheo trả lời: Kính bạch
Thế Tôn, thật là khó vô cùng. Cũng vậy, được làm thân người lại là khó gấp
mấy lần con rùa mù hai mắt chui vào bọng cây.
Có vị Tổ dạy rất độc đáo: “Thiên niên thiết thọ
khai hoa dị, nhất thất nhân thân vạn kiếp nan”, nghĩa là: “Nghìn năm cây
sắt nở hoa còn dễ hơn, mỗi khi chúng ta đánh mất thân người thì trăm nghìn
muôn kiếp khó mà kiếm lại được”.
Như chúng ta đã biết, có khi nào cây sắt nở hoa
không? Không bao giờ có chuyện đó, khó như vậy đó, được làm thân người còn
khó hơn cây sắt nở hoa nữa.
Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, có đoạn ghi: “Đức
Phật lấy ít đất để lên móng tay, rồi bảo Ca Diếp Bồ Tát rằng:
- Đất ở mười phương thế giới nhiều hay đất ở
móng tay ta nhiều?.
- Bạch Thế Tôn, đất ở móng tay không thể nào
sánh bằng đất ở mười phương thế giới.
- Đúng thế, này thiện nam tử! Có người đã chết
trở lại được thân người, bỏ thân trong ba đường ác mà được thân người, căn
thân đầy đủ, được sinh nơi trung quốc, có đủ chánh tín, có thể tu tập đạo
hạnh, có thể tu tập chánh đạo, có thể được giải thoát, có thể nhập Niết
bàn, được như trên đây thật là hy hữu, như số lượng đất trên móng tay”.
Qua những dẫn chứng trên, chư Phật, chư Tổ
thường nhắc nhở chúng ta có được thân người thật là khó vô cùng. Khi đã có
rồi thì chúng ta phải biết quý trọng, bảo vệ nó, mượn nó để tu hành, chớ
không nên buông lung, để rồi chúng ta đánh mất nó, trăm nghìn muôn kiếp
khó mà kiếm lại được.
Chúng ta phải luôn thức tỉnh cái chết đến cận
kề bên ta. Thân này thật là mỏng manh, giả hợp, chỉ cần chúng ta hít vào
mà không thở ra thì ta đã qua đời khác rồi, như bông hoa sớm nở tối tàn,
có gì mà vui đâu. Cho nên, vào một hôm, Đức Phật hỏi các vị Tỳ Kheo rằng:
“Mạng người sống trong bao lâu?
- Có vị trả lời là mạng sống con người trong
khoảng vài ngày, bị Đức Phật chê trách, ông chưa hiểu đạo, ông chỉ hiểu
cái da của Phật pháp.
- Có vị trả lời: Mạng sống con người trong
khoảng bữa ăn, bị Đức Phật chê trách, ông mới hiểu được cái xương của Phật
pháp.
- Có vị trả lời: Mạng sống con người trong một
hơi thở. Vị này được Đức Phật ca ngợi và tán thán là ông đã hiểu tận xương
tủy của Phật pháp.
Vì thế Đức Phật thường dạy: “Tất cả vạn vật
hiện hữu trên vũ trụ này đều là giả tạm vô thường, không có gì là bền chắc
đâu, chỉ có tu nhân tích đức mới là cái thật để cho chúng ta mang theo”.
Khổng Tử cũng nói: “Thế thượng vạn ban đô thị
giả, nhân sinh đạo đức quả duy chân”, nghĩa là “Tất cả vạn vật hiện hữu
trên thế gian này đều là vô thường, duy chỉ có đạo đức mới trường tồn vĩnh
cửu”.
Chúng ta thường biết được thân này là vô
thường, là giả tạm, không có cái gì là ta cả, nghĩ như thế chúng ta mới
quên mình tu được, còn ngược lại chúng ta không hay không biết, cứ cho cái
thân này là thường còn, cuộc đời này là đẹp đẽ, chấp cái ta này là thật có
thì quý vị cứ mãi tham đắm bả ngũ dục giả tạm ở thế gian, suốt cả cuộc đời
làm nô lệ cho cái giả, suốt cả cuộc đời làm nô lệ cho ăn, uống, ngủ nghỉ,
mà không hay không biết, thật là khổ đau vô cùng.
Để đối trị lại những dục vọng tham muốn ở đời,
Đức Phật đã chỉ dạy chúng ta trong “Tứ niệm xứ” là phải luôn quán thân này
là bất tịnh, là hôi thối.
Kinh Trung Bộ I có đoạn ghi: “Này các vị Tỳ
Kheo, hãy quán thân này từ gót chân cho đến đỉnh đầu là một bọc da chứa
đựng toàn là những đồ bất tịnh hôi thối như là: tóc, lông, móng, máu, mủ,
đờm, nước miếng, nước tiểu, phân v.v…”
Đức Phật muốn cho chúng ta thấy được thật tướng
của thân thể này, để chúng ta khỏi phải mê lầm về nó. Như quý vị thường
thấy, hằng ngày trong thân thể của chúng ta có chín cái lỗ thường chảy ra
những đồ bất tịnh hôi tanh. Vì thế, các vị Tổ ví chín cái lỗ này chảy ra
những đồ bất tịnh hôi thối gấp mấy lần mùi hôi ở những cống rãnh của thành
phố chảy ra. Chín lỗ đó là gì? Hai tai chảy ra ráy, hai mũi chảy ra nước
mũi, miệng chảy ra nước miếng, hai mắt chảy ra ghèn, đường tiểu tiện chảy
ra nước tiểu, đường đại tiện thải phân.
Khi chúng ta đi ngang qua những cống rãnh ở
thành phố, thì chúng ta cảm thấy thế nào? Thối hay thơm? Thật là thối vô
cùng, các cống rãnh đã thối như thế, chư Tổ ví thường ngày thân thể chúng
ta chảy ra những đồ bất tịnh hôi thối gấp mấy lần mùi hôi ở cống rãnh.
Chúng ta tu hành thì phải thấy được thật tướng
của thân thể này là vô thường, là giả tạm, là bất tịnh. Khi chúng ta nhận
chân được thực tướng rồi, chúng ta không dại gì làm nô lệ cho nó nữa, mà
chúng ta chỉ biết mượn nó làm phương tiện để tu tập. Cho nên chúng ta
không khổ vì nó. Còn ngược lại, đối với những người không nhận chân được
thực tướng của thân thể này là bất tịnh, là vô thường, là giả có, thì
người ta cứ mải mê làm nô lệ cho cái thân này hoài. Cứ cho thân này là có
thật, là trong sạch, người ta cứ vỗ béo, ăn cho ngon, mặc cho đẹp, đánh
phấn son cho cái thân này, chải chuốt cho cái thân này, không ngờ họ đã
đánh phấn son, vỗ béo, chải chuốt cho bọc da hôi thối mà họ không hay
không biết, thật là đáng thương tâm cho họ.
Trong cuốn Sa Di Luật Giải, Đức Phật dạy: “Cái
khổ của con lừa, con lạc đà chở nặng, cái khổ của những kẻ trôi lăn trong
sinh tử luân hồi chưa gọi là khổ. Ngu si không nhận chân được thực tướng,
không biết được hướng đi ấy mới gọi là khổ”.
Tại sao Đức Phật nói cái chở nặng của con lừa,
con lạc đà và những kẻ trôi lăn trong sinh tử chưa gọi là khổ? Là bởi vì
con lừa, con lạc đà và những kẻ trôi lăn trong sinh tử chỉ khổ một đời
thôi, còn đối với những người ngu si không nhận chân được thực tướng,
không biết được hướng đi thì họ sẽ bị trôi lăn mãi mãi trong vòng sinh tử
luân hồi mà không khi nào ra khỏi.
Đạo Phật chúng ta cho thân này là vô thường, là
giả hợp, là bất tịnh, hiểu như vậy có phải một cách yếm thế hay không?
Thưa là không phải. Nhờ chúng ta biết được thân này là vô thường, là bất
tịnh, là giả có cho nên ngày nào còn sống thì ngày đó ta nên sống đẹp và
sống tốt, làm lợi ích cho mọi người.
Chúng ta không nên hiểu một cách yếm thế, cho
thân này là vô thường, là bất tịnh, là giả có rồi chúng ta chán đời, ưng
làm gì thì làm, bỏ bê thân này, chích xì ke, ma túy, quấy phá xã hội.
Những ai mà hiểu như vậy hoàn toàn sai lệch với ý của chư Phật dạy. Chúng
ta là những Phật tử đã hiểu đạo, thì phải luôn tỉnh thức sự sống chết đến
với chúng ta rất mau, cái chết nó không hẹn một ai hết, nó đến với chúng
ta một cách bất đắc kỳ tử.
Có khi nào cái chết đến với chúng ta mà ta hẹn
là cho tôi sống thêm khoảng 5, 6 ngày nữa rồi tôi chết, không bao giờ có
hẹn như vậy được.
Bình nhật thường ngày chúng ta cũng đã từng
chứng kiến biết bao nhiêu là sự chết chóc của mọi người, có người thì chết
trẻ, có người thì chết già v.v…, đã từng chứng kiến như vậy mà tại sao
chúng ta không chịu giác ngộ để sớm tu hành, còn đợi đến chừng nào nữa
đây. Chúng ta nên biết rằng: Mỗi khi đánh mất thân người thì trăm nghìn
muôn kiếp khó mà kiếm lại được. Cho nên chúng ta phải thương mình lo tu
hành đi, đừng có ham gì bả danh lợi giả tạm của thế gian.
Kinh Tạp A Hàm, Đức Phật đưa ra bốn hình ảnh
con ngựa để ví dụ bốn hạng người như sau:
- Con ngựa thứ nhất chỉ thấy bóng roi đã chạy.
- Con ngựa thứ hai, nhịp roi lên lưng mới chạy.
- Con ngựa thứ ba, đánh cho thật đau mới chạy.
- Con ngựa thứ tư, đánh chết bỏ, lúc lắc chớ
không chịu chạy.
Qua hình ảnh bốn con ngựa, Đức Phật chỉ rõ cho
chúng ta thấy được bốn hạng người:
- Hạng người thứ nhất, chỉ nghe tiếng đồn có
người chết là giác ngộ tu ngay.
- Hạng người thứ hai, chỉ chứng kiến một người
chết thôi là giác ngộ tu liền.
- Hạng người thứ ba, đã chứng kiến khoảng 1, 2,
3 người chết, lúc đó mới chịu tu.
- Hạng người thứ tư, tuy đã chứng kiến vô số
người chết mà không hề nhúc nhích, họ cứ cho là cái chết của người ta chớ
đâu phải cái chết của mình.
Qua bốn con ngựa trên, đa số chúng ta rơi vào
con ngựa thứ tư, ít có ai mà rơi vào con ngựa thứ nhất, hai, ba.
Vậy, chúng ta sớm tỉnh giác, thân mạng của
chúng ta vô thường, ngắn ngủi, thật chi là trống vắng không có gì là chắc
đâu.
Cho dù làm vua, làm quan đi nữa, khi chết cũng
để lại đống tro nhơ mà thôi. Như chúng ta đã biết, sống lâu như ông Bành
Tổ là 800 năm, nay đâu còn, giàu sang như Vương Khải, Thạch Sùng rồi cũng
xuôi tay mà thôi.
“Bao bì cốt nhục nung huân huyết
Cưỡng tác kiều yêu cuống hoặc nhân,
Thiên cổ anh hùng giai nhân tận
Bách niên đồng tác nhất khanh trần”
Nghĩa là:
Máu mủ thịt xương một túi nhơ
Tô điểm chi mong gạt tình hờ
Vạn thuở anh hùng giai nhân tận
Trăm năm để lại đống tro nhơ”.
Chúng ta đã hiểu rõ được thật tướng của thân
thể mình rồi. Ngày nào còn sống thì chúng ta phải tinh tấn tu hành ngày
đó, chớ đừng hẹn lần hẹn lữa. Chớ để cơn vô thường đến cướp ta đi thì trăm
nghìn muôn kiếp không có cơ hội để tu.
Ngày xưa các vị Tổ trong lúc tu hành các ngài
thường luôn để ý đến sự vô thường và luôn xem sinh tử là sự đại. Khi một
ngày trôi qua, các vị Tổ thường than rằng: “Ôi! Một ngày đã trôi qua rồi
mà ta chưa làm được gì cả!”. Quý ngài rất quý thời gian tu vô cùng. Để cho
sự tu tập một cách nghiêm mật, các vị Tổ làm một cái hòm nhỏ để bên gối
nằm. Khi nào các ngài cũng liếc mắt nhìn cái hòm, ám chỉ là cái chết kề
cạnh bên ta, chỉ cần sơ suất một chút thôi là ta nhảy vào đó liền. Chính
cái hòm nhỏ này có một tác dụng lớn lao, nhờ nó mà giúp cho các vị Tổ tinh
tấn tu hành một cách nghiêm mật, không bao giờ xao lãng.
Như chúng ta đã biết, trong kinh công phu chiều
có đoạn:
Thị nhật dĩ quá,
Mạng diệc tùy giảm
Như thiểu thủy ngư
Tư hữu hà lạc
Đại chúng đương cần tinh tấn
Như cứu đầu nhiên
Đản niệm vô thường
Thận vật phóng dật.
Nghĩa:
Ôi! Một ngày đã trôi qua rồi,
Mạng sống theo đó mà giảm dần
Như cá ở ao cạn nước
Có gì vui đâu
Đại chúng nên cần tinh tấn
Như cứu lửa cháy trên đầu
Luôn nhớ nghĩ vô thường
Chớ nên phóng dật.
Chúng ta sống cao nhất là khoảng 50 tuổi đến
100 tuổi, đây là số tượng trưng thôi, cũng có người 1 tuổi chết, có người
sống đến 10 tuổi chết, có người sống 20, 30 tuổi… là chết.
Ví dụ tuổi thọ của chúng ta là 50 tuổi, cứ một
ngày trôi qua thì tuổi thọ giảm còn lại 49 tuổi, cứ như thế mà giảm dần,
cho đến khi ta mất mạng. Tục ngữ có câu “Nước chảy đá mòn” cũng giống như
cá ở ao mà cạn nước, như chúng ta đã từng thấy trong các ao hồ, cứ mỗi
ngày mặt trời lên, thì nước trong ao hồ đều bốc hơi, nước cứ mỗi lần bốc
hơi như vậy làm cho nước ở ao hồ cạn dần, thì mạng sống của những con cá ở
trong đó cũng theo đó mà giảm dần.
Qua bài thơ trên đây, cho chúng ta thấy được
mạng sống của kiếp người thật là ngắn ngủi, thật là trống vắng vô cùng. Vì
vậy, chúng ta nên sớm tỉnh ngộ đến sự vô thường, xem sinh tử là việc lớn
mà một lòng siêng năng, tinh tấn, gấp rút tu hành, chớ nên buông lung giải
đãi mà bỏ phí qua một kiếp người thật là oan uổng vô cùng.
Chúng ta phải luôn tỉnh giác, gấp rút tu hành
như hình ảnh cứu lửa cháy trên đầu.
Có khi nào lửa đang cháy trên đầu mà chúng ta
hẹn là hãy đợi tôi một hai phút rồi tôi dập tắt sau. Không bao giờ hẹn
được, lửa vừa cháy là chúng ta nhanh chóng dập tắt liền, còn nếu chậm trễ
một chút thôi thì nó thiêu đốt chúng ta ngay. Cũng vậy, qua hình ảnh này
ngụ ý cho ta thấy được: Nếu chúng ta không chịu gấp rút tu hành thì quỷ vô
thường đến cướp ta ngay. Lúc này, cho dù chúng ta than van, kêu trời kêu
đất, cầu khẩn một cách tha thiết đi nữa thì cũng đã muộn màng lắm rồi. Cổ
đức dạy rằng: “Khuyên niệm Phật than rằng chưa rảnh, quỷ sứ đòi khóc một
khóc hai” hay là “Mạc đãi lão lai phương niệm Phật, cô phần đa thị thiếu
niên nhân”, nghĩa là: “Chớ để tuổi già mới niệm Phật, mồ hoang lắm kẻ tuổi
còn xanh”. Vì vậy, chúng ta nên sớm giác ngộ vô thường mà gấp rút tu hành,
chớ đừng để luống qua một kiếp người thì trăm nghìn muôn kiếp khó mà kiếm
lại được. Chúng ta đã hiểu như thế nào là vô thường, cũng đã thấy rõ được
thật tướng của thân thể mình, thì chúng ta phải sống như thế nào đây, để
chuẩn bị cho ngày ra đi của mình một cách êm đẹp. Phải hiểu rằng, chúng ta
sống hôm nay là để chuẩn bị cho ngày ra đi, chớ ta không nên ham sống mà
bỏ quên đi ngày nhắm mắt xuôi tay, đây là điều tối quan trọng, chúng ta
nên nhớ mãi.
Sống như thế nào để trở thành một người lương
thiện có đạo đức, có tu tập. Trước hết, chúng ta phải nên quy y Tam Bảo.
Theo tư tưởng của Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói:
Muốn sinh về Cực Lạc, phải tu ba phước:
- Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư trưởng, tâm
từ bi không giết hại, tu mười nghiệp lành.
- Thọ trì tam quy, giữ kỹ các giới, không phạm
oai nghi.
- Phát lòng Bồ-đề, tin lý nhân quả, đọc tụng
kinh điển Đại thừa, khuyến tấn người tu hành.
Ba thứ phước này là chánh nhân tịnh nghiệp của
chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai. Đây là nói về dùng phước lực để vãng
sinh.
QUY Y TAM BẢO
Muốn trở thành một người Phật tử trước hết
chúng ta phải quy y Tam Bảo. Cho nên, việc quy y Tam Bảo là việc cần thiết
không thể thiếu được. Như thế nào gọi là quy y Tam Bảo?
Chúng tôi xin giải nghĩa bốn chữ “Quy y Tam
Bảo”.
- Quy: Quay về
- Y: Nương tựa.
- Tam Bảo: Ba ngôi báu Phật, Pháp, Tăng.
Vậy, “Quy y Tam Bảo” là quay về nương tựa với
Phật, Pháp, Tăng.
Tại sao chúng ta phải quy y Phật? Phật là đấng
giác ngộ sáng suốt, là bậc “Thiên nhân chi đạo sư, tứ sinh chi Từ phụ”. Vì
vậy, chúng ta nên quy y Phật.
Tại sao chúng ta phải quy y Pháp? Bởi vì pháp
là chân lý do Đức Phật nói ra, nhờ pháp mà chúng ta có được cuộc sống an
lạc, giải thoát, cho nên chúng ta phải quy y Pháp.
Tại sao phải quy y Tăng? Tăng là hòa hợp, là
trang nghiêm thanh tịnh, chư Tăng là những người thay thế Đức Phật hoằng
truyền Chánh pháp, cho nên chúng ta phải quy y Tăng. Đây là nói về sự quy
y Tam Bảo. Còn lý quy y Tam Bảo là sao? Là chúng ta quy y (nương tựa) tự
tánh Tam Bảo trong ta, trong ta cũng sẵn có đủ Phật, Pháp, Tăng. Nhưng
muốn đạt được tự tánh Tam Bảo, điều cần thiết chúng ta phải quy y sự Tam
Bảo. Tại sao chúng ta cần phải quy y sự Tam Bảo? Là vì thế này, nhờ ông
Phật bằng gỗ, bằng xi măng mà chúng ta lễ lạy, mới đánh thức được ông Phật
bên trong của chúng ta. Nhờ sự quy y Pháp là những lời Đức Phật dạy, qua
những lời dạy đó, giúp chúng ta nhận ra được, hiểu ra được đâu là chánh
đâu là tà, rồi áp dụng tu hành thì lúc đó chúng ta mới thức tỉnh được pháp
tánh trong ta. Sự quy y Tăng, là nhờ hình bóng của chư Tăng hiện tại mà ta
khởi được lòng tôn kính, nhờ sự tôn kính này mới giúp ta thấy được bản thể
thanh tịnh hòa hợp trong ta. Như vậy chúng ta cũng đã hiểu được như thế
nào là sự, lý quy y Tam Bảo.
Khi quy y thì chúng ta lãnh thọ năm giới:
1.- Không sát sinh.
2.- Không trộm cắp.
3.- Không tà dâm.
4.- Không nói dối.
5.- Không uống rượu.
Năm giới này rất quan trọng, không chỉ riêng
người Phật tử thọ trì mà hàng xuất gia cũng lấy năm giới này làm gốc. Muốn
đạt được quả vị Phật thì cũng không ngoài năm giới này.
Năm giới này là nền tảng sống, là chân hạnh
phúc cho chúng ta, nếu chúng ta tu tiến hơn nữa là chúng ta tu thêm thập
thiện: Thân có ba, khẩu có bốn, ý có ba.
Thân có ba: Không sát sinh, không trộm cắp,
không tà dâm.
Khẩu có bốn: Không nói dối, không nói lưỡi đôi
chiều, không nói lời thêu dệt, không nói lời hung ác.
ÝÙ có ba: Không tham, không sân, không si.
Nếu như toàn thế giới ai ai cũng biết giữ năm
giới, tu thập thiện thì ắt hẳn thế giới đó sẽ có tràn đầy hạnh phúc, người
với người sống trong tình đạo, luôn sống trong tình huynh đệ, biết yêu
thương giúp đỡ lẫn nhau, người mạnh thì biết nâng niu người yếu, biết tôn
trọng lẫn nhau, biết kính trên nhường dưới, biết hoan hỷ xả bỏ cho nhau.
Ôi! Nhân quả không sai chạy, “Nếu chúng ta biết gieo nhân lành thì chúng
ta sẽ hưởng quả lành”, đây là một chân lý từ muôn thuở không bao giờ sai
chạy.
Khi Đức Phật còn tại thế, có Bà-la-môn hỏi
Phật: Con đã thọ trì năm giới, tu thập thiện, hằng ngày con luôn sống là
một người hiền lành đạo đức thì sau này con chết con sẽ đi về đâu, xin
Ngài hãy chỉ dạy cho con được rõ.
Đức Phật dạy: Này Bà-la-môn, có một cây nghiêng
về hướng Tây, khi nó ngã, thì nó sẽ ngã về hướng nào?
– Bạch Đức Thế Tôn, tất nhiên nó phải ngã về
hướng nó đã nghiêng.
– Cũng vậy, cả cuộc đời Bà-la-môn biết sống là
một người hiền lương thì sau khi chết sẽ sinh vào một thế giới an lành.
Chúng ta phải biết rằng, theo đạo Phật là phải
tin chắc nhân quả.
Nếu chúng ta gieo hạt ớt thì cho ra quả ớt. Nếu
chúng ta gieo hạt chanh thì sẽ cho ra quả chanh. Chớ không ai mà gieo hạt
ớt cho ra quả chanh bao giờ. Ở hiền thì gặp lành, ở ác thì gặp ác, niệm
Phật thì sẽ thành Phật, chúng ta phải hiểu nhân quả một cách rõ ràng như
vậy thì sự tu hành của chúng ta mới phát triển được.
Trong sách này chúng tôi chỉ đề cập đến giới
thứ nhất “Không sát sinh”.
Khi chúng ta chưa quy y Tam Bảo, chưa thọ trì
năm giới thì chúng ta sát sinh vô tội vạ, gặp con vật nào mà thích ăn là
giết nó chớ không hề có lòng từ gì cả. Chỉ vì món ăn ngon, vì vỗ béo cho
thân thể mình mà mình tàn nhẫn cầm dao cướp mất đi mạng sống của mọi loài.
Thử hỏi quý vị, có ai đó cầm dao cắt cổ mình, mình có biết đau không? Đau
lắm phải không quý vị. Cũng vậy, khi chúng ta cầm dao cắt cổ con vật thì
nó cũng biết đau như chúng ta vậy đó, chúng ta cũng biết ham sống sợ chết,
thì con vật nó cũng vậy, nó cũng biết ham sống sợ chết, tuy hình hài của
nó khác chúng ta, nhưng đời sống tâm thức của nó cũng không khác ta.
Thượng tọa Chơn Thanh có kể một câu chuyện như
sau: Có một anh chàng nọ, nhà ở gần chùa, chuyên làm nghề đồ tể. Mỗi ngày
vào khoảng 4 giờ khuya, chùa đổ chuông, anh đều thức dậy mổ lợn. Một hôm,
chùa không đổ chuông nên anh ngủ luôn tới sáng. Tức giận vì hôm nay không
có thịt để ra chợ, anh lăm lăm cầm dao qua chùa quát tháo inh ỏi, chửi bới
lung tung. Nghe ồn ào, Hòa thượng bước ra ngoài xem sao. Anh ta thấy Hòa
thượng lại càng hung hăng, quơ dao chửi bới, bộ dạng đáng sợ vô cùng: “Tu
hành gì mà ham ngủ, khuya không chịu dậy đổ chuông, làm cho tôi mất một
buổi chợ…”. Với thái độ điềm tĩnh và lời lẽ từ hòa, Hòa thượng ôn tồn giải
thích: “Đêm qua tôi nằm mộng thấy một người đàn bà dẫn theo 12 đứa nhỏ đến
van xin tôi hãy mở lòng từ bi cứu lấy mạng sống của họ, bằng cách khuya
nay đừng đổ chuông”. Nghe Hòa thượng giải thích, anh ta ngạc nhiên và dịu
dần cơn giận. Trở về nhà, ra chuồng lợn coi, thì anh thấy con lợn mà anh
chuẩn bị giết đã đẻ ra 12 con lợn nhỏ. Quá sợ hãi, anh vội vàng qua chùa
xin gặp Hòa thượng kể lại sự tình. Nhân đó, Hòa thượng giảng cho anh nghe
về hậu quả của nghiệp sát sinh. Nghe xong, anh tự thấy tội lỗi tày trời,
gục đầu dưới chân Hòa thượng, cầu xin sám hối, nguyện buông dao, dứt
nghiệp sát, chuyển sang nghề lành để sinh sống.
Trong Kinh Tạp A Hàm nói: “Nếu có người nào
muốn giết hại ta, ta không vui, thì tất nhiên kẻ khác cũng vậy, không vui
cho ta giết hại họ. Tại sao mình muốn mạng sống mình còn mà lại giết hại
mạng sống của kẻ khác? Như vậy là trái ngược, con người cần phải sửa
chữa”.
Đức Phật dạy “Nhất thiết chúng sinh giai hữu
Phật tánh”, nếu chúng ta giết một con vật, là ta tự giết Phật tánh của nó,
tội rất nặng.
Nếu hôm nay chúng ta ăn 1 ký thịt thì mai sau
sẽ phải trả 10 ký thịt, nếu giết người bằng một viên đạn thì sau này sẽ
nhận lãnh bằng một viên đại bác, không bao giờ nằm ngoài luật nhân quả.
Khổng Tử than rằng: “Sinh tiền bất tri thiên
đường lộ, tử hậu nan ly địa ngục môn”, nghĩa là: “Lúc sống mà không biết
làm việc lành, thời sau khi chết khó mà thoát khỏi cửa địa ngục”. Đây là
một chân lý không bao giờ sai chạy được.
Nhất thiết chúng sinh vô
sát nghiệp,
Thập phương hà xứ động đao
binh.
Gia gia, hộ hộ đồng tu
thiện,
Thiên hạ hà sầu bất thái
bình.
Nghĩa là:
Hết thảy chúng sinh không
nghiệp giết,
Mười phương nào có nổi đao
binh.
Mỗi nhà, mỗi chốn đều tu
thiện.
Lo gì thiên hạ chẳng thái
bình.
Bởi vì chúng sinh do vô minh che lấp mà cứ hơn
thua, đố kỵ đâm giết lẫn nhau, chính vì nhân vô minh này khiến cho chúng
sinh cứ mãi trôi lăn trong vòng sinh tử không khi nào ra khỏi. Khi thì đầu
thai thành người, khi thì đầu thai làm con vật, cứ thay nhau đầu thai như
vậy để mà trả vay, vay trả cho nhau không khi nào ngừng nghỉ.
Chúng ta hãy lấy lời Đức Phật dạy mà suy rộng
ra, mỗi ngày chúng ta giết những con cá, con gà, con vịt, con bò v.v…
không ngờ là chúng ta cầm dao giết cha mẹ anh em, con cái của ta nhiều đời
nhiều kiếp mà ta không hay không biết. Nhất là những bữa ăn, những đĩa
thịt, những đĩa cá tràn đầy. Không ngờ những đĩa thịt, đĩa cá đó là thịt
của cha mẹ, anh em, con cái của ta đó. Quý vị thấy kinh hoàng không, tại
sao không ngưng ngay nghiệp sát ư?
Trong Kinh Vu Lan có đoạn ghi: “Ta lễ bái những
bậc tiền bối và ngậm ngùi vì nhớ kiếp xưa. Đống xương hỗn tạp chẳng vừa,
không phân trai gái bỏ bừa khó coi, chắc cũng có ông bà, cha mẹ hoặc thân
ta hoặc kẻ ta sinh, luân hồi sinh tử lộn quanh, lục thân đời trước thi hài
còn đây”.
Phật dạy từ vô lượng kiếp cho đến nay, chúng ta
lang thang mãi trong vòng sinh tử luân hồi bất tận đến nỗi tất cả chúng ta
đều là thân bằng quyến thuộc của nhau, dưới hình thức này hoặc hình thức
khác. Vì thế Phật nói: “Này các Tỳ Kheo, thật khó mà tìm được kẻ nào trong
đời quá khứ chưa từng là cha mẹ, anh em, chị em, con cái của các ngươi”.
Chúng ta là người Phật tử, là con Phật, phải
thấu hiểu lời Phật dạy, không chỉ chúng ta có cha mẹ, anh em, con cái
trong một kiếp này đâu, mà phải hiểu rằng, vì sinh tử luân hồi hiện bây
giờ cha mẹ, anh em, con cái của chúng ta đang ở cảnh giới súc sinh, ngạ
quỷ, A-tu-la, nhân, thiên, nói tóm lại là ở trong lục đạo.
Kinh Phạm Võng, phẩm Bồ Tát giới, Đức Phật dạy:
“Tất cả người nữ là mẹ ta, tất cả người nam là cha ta, mỗi đời ta từ đó
sinh ra, chúng sinh trong lục đạo đều là cha mẹ của ta, nếu ta giết mà ăn
chính là ta giết cha mẹ của chúng ta”.
Chúng ta đã nhiều đời nhiều kiếp có tu rồi, nên
hôm nay chúng ta biết quy y Tam Bảo, gặp được Chánh pháp, nghe được lời
Phật dạy, biết được trong vô lượng kiếp ai ai cũng là thân bằng quyến
thuộc của ta cả. Chúng ta đã hiểu một cách tường tận như thế rồi thì phải
mau mau lập tâm sám hối, ngưng ngay việc sát sinh, bên cạnh đó, chúng ta
phải thường xuyên mua vật phóng sinh để chuộc lại những tội lỗi mà mình đã
tạo từ vô lượng kiếp cho đến bây giờ.
Như vậy, đã quy y Tam Bảo, cũng đã hiểu rõ lời
Phật dạy rồi, thì chúng ta nên phát khởi cái tâm Bồ-đề rộng lớn.
TẠI SAO PHẢI PHÁT TÂM BỒ ĐỀ?
Bởi vì tâm Bồ-đề rất là quan trọng, nó là điều
kiện tốt, là trợ hạnh để giúp cho chánh hạnh của chúng ta được viên mãn.
Chánh hạnh của chúng ta là nhất tâm niệm Phật A Di Đà.
Ví dụ chúng ta muốn cho hạt giống nảy mầm thì
phải cần những duyên bên ngoài, đó là đất, nước, mặt trời, phân v.v… Cũng
vậy, để cho việc niệm Phật dễ đạt được nhất tâm bất loạn thì chúng ta
không thể thiếu trợ hạnh là tâm Bồ-đề. Chỉ có phát khởi được cái tâm Bồ-đề
chúng ta mới bước vào biển thệ nguyện của Như Lai.
Thế nào là phát khởi cái tâm Bồ-đề? Tâm Bồ-đề
có nghĩa là cái tâm cầu tiến, tâm cầu thành Phật, để độ tất cả chúng sinh,
người đại phát tâm Bồ-đề là người đã phát nguyện niệm Phật. Tại sao người
niệm Phật là người đại phát tâm Bồ-đề? Là vì người niệm Phật trước sau gì
cũng thành Phật, khi thành Phật, bản nguyện của chư Phật là độ tất cả
chúng sinh. Như vậy, người phát tâm niệm Phật là người đại phát tâm Bồ-đề.
Luận Vãng Sinh đã nói: “Phát tâm Bồ-đề chính là
phát tâm cầu thành Phật, tâm cầu thành Phật là tâm độ chúng sinh, tâm độ
chúng sinh là tâm nhiếp chúng sinh, sinh về cõi Phật. Người niệm Phật
không chỉ đạt được đại tâm Bồ-đề mà còn thâu nhiếp cả tam nghiệp và lục độ
vạn hạnh.
Như thế nào là thâu nhiếp ba nghiệp (thân,
khẩu, ý)? Khi chúng ta niệm Phật thì ý luôn nhớ nghĩ đến Phật, miệng luôn
niệm Phật, thân hành theo tiếng niệm Phật, như vậy, thì có phải là thâu
nhiếp ba nghiệp thanh tịnh ư? Thật là vi diệu.
Không chỉ vậy, niệm Phật còn đạt được lục độ
vạn hạnh Ba-la-mật. Như chúng ta biết, lục độ vạn hạnh là một công hạnh
đẹp của chư Bồ Tát phát tâm hành Bồ Tát đạo. Như trong kinh nói, có vị đã
trải qua trong hằng sa kiếp để tu pháp lục độ vạn hạnh mà cũng chưa hoàn
toàn công hạnh được. Thế mà nay, chỉ cần nhất tâm niệm Phật, muôn việc
trần tự nhiên dứt bỏ tức là pháp bố thí Ba-la-mật.
- Nhất tâm niệm Phật, các việc ác tự dứt, tức
là đạt được pháp trì giới Ba-la-mật.
- Nhất tâm niệm Phật, lòng được nhu hòa mát
dịu, tức là đạt được pháp nhẫn nhục Ba-la-mật.
- Nhất tâm niệm Phật, vĩnh viễn không bị thối
lui, không bị đọa lạc, tức là đạt được pháp tinh tấn Ba-la-mật.
- Nhất tâm niệm Phật, không sinh các vọng
tưởng, tức là đạt được pháp thiền định Ba-la-mật.
- Nhất tâm niệm Phật, chánh niệm rõ ràng, tức
là đạt được pháp trí tuệ Ba-la-mật.
Suy xét cho cùng tột thì không ra ngoài nhất
tâm niệm Phật mà muôn hạnh được đầy đủ cả. Thật phải nói, lục tự “Nam mô A
Di Đà Phật” là một câu thần chú, một lương dược thần tiên cho chúng sinh
đời mạt pháp. Trong Kinh Đại Bổn, ngài Pháp Tạng có phát nguyện rằng: “Khi
ta thành Phật, chúng hữu tình trong nước ta, nếu không được thần thông tự
tại Ba-la-mật, thì ta không lấy ngôi Chánh giác làm chi”.
Chúng ta muốn bước trên lộ trình hành Bồ Tát
đạo, thì phải thường xuyên kiểm soát tâm mình từng giờ từng phút, chớ để
một ý niệm xấu xa nào ảnh hưởng đến cho mọi người. Đã phát khởi tâm Bồ-đề
thì chúng ta phải phát nguyện rằng, cho con luôn gánh vác những khó khăn,
những khổ đau của mọi người để lấy an lạc hạnh phúc của mình thay vào cái
khổ của mọi người.
Ấn Quang Đại sư khai thị rằng: “Nhẫn việc mà
người không thể nhẫn, làm việc mà người không thể làm, thay thế việc nhọc
cho người, thành tựu việc tốt cho người, lúc ngồi yên lỗi mình thường nhớ,
khi luận bàn chớ nói lỗi người, kính mọi người đều là Bồ Tát, duy chỉ có
mình thiệt là phàm phu”.
Đã phát khởi cái tâm Bồ-đề thì trong mỗi cử chỉ
hành động, lời nói, chúng ta phải luôn đắn đo, cân nhắc cho thật kỹ.
Khi nói chúng ta phải nên lựa lời mà nói, tìm
những lời nói nào mà mang lại hạnh phúc an lạc cho mọi người thì ta nên
nói, còn những lời nói nào mà đem lại sự đau khổ, buồn phiền, tức giận cho
mọi người thì ta không nên nói, còn nếu như khi nói, chúng ta chỉ cần sơ
sẩy, không chịu suy nghĩ một chút thôi, là làm cho người ta phải đau khổ
vì lời nói của mình, thì quá ư là mâu thuẫn với tâm Bồ-đề của mình rồi.
Bởi vì sao mà nói mâu thuẫn? Vì tâm Bồ-đề thường là đem lại lợi ích cho
mình và cho người chứ có bao giờ tâm Bồ-đề đem lại sự khổ đau cho mọi
người đâu, cho nên quý vị phải hiểu rõ ràng về phát khởi cái tâm Bồ-đề.
Đã phát khởi cái tâm Bồ-đề khi làm một việc gì
phục vụ cho mọi người, chúng ta phải luôn luôn hoan hỷ, vui vẻ mà làm, chớ
không nên làm một cách bắt buộc, rồi đùng đùng tức giận, buồn phiền, trách
mắng người ta, vì vậy, để cho chúng ta luôn có cái tâm hoan hỷ, vui vẻ làm
việc phục vụ mọi người, chúng ta thường quán như thế này: Tất cả mọi người
đều là anh em, cha mẹ, thân bằng quyến thuộc của ta nhiều đời nhiều kiếp,
vì thế, khi ta làm một việc gì mà phục vụ cho số đông chính là ta phục vụ
cho cha mẹ, anh em, thân bằng quyến thuộc của ta nhiều đời nhiều kiếp chớ
không có ai khác, chúng ta thường quán hoặc hiểu như vậy thì tôi quả quyết
rằng chúng ta sẽ gặt hái được tâm hoan hỷ vui vẻ, thậm chí làm việc một
cách siêng năng, quên cả thời gian luôn. Những điều này chúng tôi đã hành
và đã thực sự thấy được hoan hỷ vui vẻ khi phục vụ một việc gì cho số đông
người, cho nên chúng tôi mới trình bày.
Đã phát khởi cái tâm Bồ-đề thì chúng ta phải
luôn hạ mình xuống để mà nhẫn nhục những lời cay nghiệt từ bên ngoài ập
đến ta. Tại sao chúng ta phải hạ mình? Chúng ta phải thường quán rằng: À!
Thân thể này là giả tạm, vô thường thì lời nói nó cũng là giả tạm không
thật, nói rồi nó cũng mất thôi, tại sao ta chấp gì cho khổ, dại gì ta chấp
cái giả, tâm của ta dùng để chứa những công hạnh đạo đức, dại gì ta chứa
những cái giả, những cái đau khổ để cho mệt óc ta. Chúng ta thường tư duy,
quán xét như vậy thì ta dễ khiêm hạ và dễ nhẫn nhục vô cùng. Còn đối với
những người không chịu tư duy, quán xét, họ cứ cho cái thân này là thật,
lời nói này là thật, họ cứ chấp cái giả là thật cho nên họ ôm luôn cả một
khối khổ mà họ không hay không biết. Thật là đáng thương vô cùng.
Đức Phật dạy: “Người luôn biết khiêm hạ và nhẫn
nhục là người đại trí tuệ, là đại sức mạnh, chớ không phải là người thấp
hèn”.
Tại sao Đức Phật nói người luôn biết khiêm hạ
và nhẫn nhục là người đại trí tuệ? Là vì thế này, người biết nhẫn nhục thì
họ đã biết trước sự việc đó sẽ đưa đến quả khổ cho nên người ta mới nhẫn
nhục.
Chúng tôi lấy ví dụ cho dễ hiểu. Có hai người
và một đống lửa. Người thứ nhất thấy đống lửa liền chạy thẳng vào, người
thứ hai thấy đống lửa liền tránh xa. Như vậy, trong hai người trên, người
nào khôn và người nào dại? Chắc chắn người thứ nhất là dại, người thứ hai
là khôn. Đúng vậy, qua ví dụ này, người thứ hai nhằm ám chỉ cho người biết
khiêm hạ và nhẫn nhục. Người thứ nhất nhằm ám chỉ cho người không biết
khiêm hạ và nhẫn nhục.
Như người phát tâm Bồ-đề là phải thường xuyên
khiêm hạ và nhẫn nhục, để đem lại lợi ích cho mình, rồi đem lợi ích đó cho
mọi người.
Đức Phật của chúng ta trong vô lượng kiếp vì
cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, Ngài đã phát khởi cái tâm
Bồ-đề hết sức là dũng mãnh, chúng sinh cần gì thì Ngài bố thí cái đó,
chúng sinh cần con mắt thì Ngài cho con mắt, chúng sinh cần máu thì Ngài
cho máu v.v… vì tâm Bồ-đề mà Ngài đã bố thí mắt, tai, mũi, lưỡi, vợ con…
cho chúng sinh. Vì tâm Bồ-đề mà Ngài nguyện gánh vác tất cả những tội lỗi
khổ đau của chúng sinh để thành tựu cái tốt đẹp cho chúng sinh từ vô lượng
kiếp như vậy mà tâm Bồ-đề của Ngài không bao giờ thối chuyển.
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, phẩm Đề Bà Đạt Đa, Đức
Phật nói rằng: “Từ vô lượng kiếp, không có một hạnh khó nào mà Ta không
làm cho đến những việc nhỏ như hạt cải Ta cũng không bỏ, vì cầu quả vị Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác”.
Chúng ta là đệ tử Phật, phải noi theo tấm gương
sáng của Phật, phát khởi cái tâm Bồ-đề giống Phật, có như vậy mới báo đáp
được một phần nào công ơn của chư Phật.
Trên bước đường tu hành, vì phát khởi tâm
Bồ-đề, chúng tôi đã phát mười hạnh nguyện như sau:
1. Con nguyện luôn sống là một người đạo đức
và hiền lành.
2. Con nguyện luôn biết sống kính trên nhường
dưới.
3. Con nguyện khi nói luôn nhớ nghĩ những lời
hay ý đẹp đến với mọi người.
4. Con nguyện luôn thương yêu và tôn kính tất
cả mọi người.
5. Con nguyện luôn biết tất cả mọi người đều
là cha mẹ, anh em, bạn bè của con.
6. Con nguyện luôn hồi hướng những việc thiện
mà con đã tạo được đến cho tất cả mọi người cùng hưởng.
7. Con nguyện luôn biết sống nhẫn nhục và xả
bỏ.
8. Con nguyện luôn siêng năng lấy việc tu học
để báo đáp công ơn cha mẹ và những người đã tận tình quan tâm đến con.
9. Con nguyện luôn biết sống khiêm hạ và nhỏ
bé.
10. Con nguyện luôn nhớ nghĩ niệm danh hiệu
Nam Mô A Di Đà Phật.
Đây là mười điều tâm nguyện mà chúng tôi phải
hằng ghi nhớ suốt đời, bên cạnh đó chúng tôi không sao quên được tứ hoằng
thệ nguyện:
“Chúng sinh vô biên thệ
nguyện độ,
Phiền não vô tận thệ nguyện
đoạn,
Pháp môn vô lượng thệ
nguyện học,
Phật đạo vô thượng thệ
nguyện thành”.
Vậy tâm Bồ-đề là tâm lợi mình, lợi người, trên
cầu thành Phật quả, dưới cứu độ chúng sinh.
Đối với một hành giả tu theo đạo Phật thì trước
hết là phải xem sinh tử là việc lớn, vì sinh tử mà chúng ta phải chịu biết
bao nhiêu sự khổ đau trong lục đạo, không khi nào ra khỏi. Vì vậy, chúng
ta nên xem sinh tử là việc lớn để mà tinh tấn tu hành, còn nếu như chúng
ta tu một cách lai rai, tu cho có lệ, tu một cách lơ mơ, thì suốt cả cuộc
đời chúng ta không bao giờ giải quyết được sinh tử.
Để cho chúng ta niệm Phật dễ đạt được nhất tâm
bất loạn hay niệm Phật tam muội thì chúng ta không thể thiếu được phát
khởi tâm Bồ-đề. Chúng tôi vẫn còn nhớ lời dạy của ngài Tế Tỉnh Đại sư
trong Liên Tông Thập Tam Tổ:
“Thật vì sinh tử
Phát lòng Bồ-đề
Dùng tín nguyện sâu
Trì danh hiệu Phật”
Bài thơ gồm có 16 chữ thôi mà nó bao gồm hết
cương tông của Pháp môn Tịnh độ. Như vậy, chúng ta đã tâm sự với nhau
không ngoài lời dạy của Đại sư Tế Tỉnh.
“Thật vì sinh tử, phát lòng Bồ-đề”, thì chúng
ta đã trao đổi với nhau rất kỹ rồi. Bây giờ, chúng ta hãy bước vào điểm
vàng son của Pháp môn Tịnh độ, đó là “Dùng tín nguyện sâu, trì danh hiệu
Phật”.
TÍN - HẠNH - NGUYỆN
Pháp môn Tịnh độ, niệm Phật cầu vãng sinh Cực
Lạc, cần phải đầy đủ ba điều kiện: Tín, Nguyện, Hạnh”.
Tín là chúng ta phải tin sâu, nguyện là phải
thiết tha, hạnh là phải hành chuyên.
Đối với niềm tin là phải tin ở 6 điều: Tin tự,
tin tha, tin nhân, tin quả, tin sự, tin lý.
1.- Tin tự (tin ở nơi mình): Tức là tin tất cả
đều do ở nơi tâm của mình tạo ra cả “nhất thiết duy tâm tạo”. Vì thế, nếu
mình niệm Phật ắt sẽ được Phật A Di Đà tiếp dẫn không sai.
2.- Tin tha (tin ở nơi người): Tức là tin Phật
Thích Ca không bao giờ nói dối. Phật A Di Đà chẳng thệ nguyện suông. Như
chúng ta thường biết, Đức Phật chế giới răn dạy chúng ta là đừng nói dối
thì làm sao mà Ngài nói dối chúng ta, đây là cái điều không có.
Kinh Dược Sư ghi: “Trăng sao còn có thể rơi,
núi cao còn có thể mòn, biển sâu còn có thể cạn, nhưng lời Đức Phật nói ra
thì trăm nghìn muôn kiếp không sai chạy”.
Kinh Đại Tập có ghi: “Mãnh phong khả thuyết tác
hệ phược, Tu di khả thuyết khẩu xuy động, bất khả thuyết Phật hữu nhị ngữ,
thực ngữ như ngữ cập tịnh ngữ” (có thể bảo: Buộc luồng gió mạnh thổi lung
lay hòn núi Tu Di, nhưng không thể bảo Phật nói trước sau khác nhau, bởi
vì Phật bao giờ cũng nói toàn là sự thật, chân chính và trong sạch). Như
vậy, chúng ta phải tin chắc Pháp môn Tịnh độ do Đức Phật Thích Ca nói ra,
tin chắc 48 lời nguyện của Phật A Di Đà là như đinh đóng cột, cho nên, nếu
như y theo Pháp môn Tịnh độ mà hành trì tất sẽ cảm được Đức Phật A Di Đà
tiếp dẫn sinh về Cực Lạc.
3.- Tin nhân: Tức là tin niệm Phật chính là
nhân vãng sinh, giải thoát.
4.- Tin quả: Tức là tin sự vãng sinh và thành
Phật là kết quả.
5.- Tin sự: Tức là tin cảnh giới Tây phương Cực
Lạc và tất cả các sự tướng ở nơi cõi ấy, đều là có thật.
6.- Tin lý: Tức là tin điều “lý tánh duy tâm”
nghĩa là một tâm của mình bao trùm khắp cả mười phương quốc độ của chư
Phật.
Để phát khởi tín tâm vững chắc đối với Pháp môn
Tịnh độ, chúng tôi xin giới thiệu mười niềm tin trong cuốn “Luận Tịnh Độ
Chỉ Quy”
1.- Tin Phật thuyết pháp.
2.- Tin hàng phàm phu trong cõi mê, thần thức
không bao giờ tiêu diệt.
3.- Tin rằng nếu trong cõi này tu hành không
đắc đạo quả thì không thể tránh khỏi luân hồi.
4.- Tin rằng cho dù sinh lên cõi trời cũng
không tránh khỏi bị đọa lạc (Kinh Niết Bàn, quyển 38, Đức Phật dạy: “Dầu
ai có làm bậc Tứ Thiên Vương, lần lên bậc Tha Hóa Tự Tại Thiên, rồi khi
mạng chung cũng có thể rơi vào loài súc sinh, mang lốt sư tử, cọp, beo,
voi, ngựa v.v…”
5.- Tin rằng chúng sinh đã về thế giới Cực Lạc
thì vĩnh viễn không còn thối chuyển. (Kinh A Di Đà nói rằng: Những người
sinh về đó, đều là A-bệ-bạt-trí, bất thối chuyển, không còn bị rơi rớt
nữa).
6.- Tin rằng chúng sinh phát nguyện sinh về thế
giới Tịnh Độ, thì chắc chắn sẽ vãng sinh.
7.- Tin rằng chỉ cần xưng niệm một danh hiệu
Phật thì sẽ tiêu diệt được trọng tội sinh tử trong 81 kiếp. (Kinh Niệm
Phật Ba La Mật, Đức Phật dạy: “Muốn vãng sinh Cực Lạc chỉ cần xưng niệm
danh hiệu Phật là đủ. Vì danh hiệu chính là biểu tướng của Pháp thân, cho
nên niệm danh hiệu tức là niệm Pháp thân Phật vậy. Vì sao người niệm Phật
khỏi phải kiêm thêm pháp tu nào khác, vì ngay nơi danh hiệu Nam mô A Di Đà
Phật luôn luôn chứa đựng vô lượng vô biên công đức, vô lượng vô biên diệu
dụng, vô lượng vô biên quang minh, tướng hảo, uy lực không thể nghĩ bàn”.
8.- Tin rằng người niệm Phật sẽ được Phật A Di
Đà vận dụng thần thông chiếu sáng nhiếp thủ mà không hề xả bỏ.
(Trong Kinh Thập Vãng Sinh giảng rất rõ rằng:
Không những Phật A Di Đà dùng bản nguyện nhiếp thọ oai lực gia trì, mà
Ngài thật sự từ bi đến cực điểm, còn phái 25 vị Bồ Tát ngày đêm bảo hộ.
Người niệm Phật là người ít có ở thế gian, người niệm Phật được mười
phương tất cả chư Phật khen ngợi, hộ niệm, 25 vị Bồ Tát ngày đêm hộ vệ,
tuyệt không cho đó là lỗi).
9.- Tin rằng người niệm Phật có hằng hà sa chư
Phật trong mười phương dùng thần thông hộ niệm người ấy. (Kinh A Di Đà,
Đức Phật dạy rằng: “Nhữ thị đẳng hằng hà sa số các ư kỳ quốc, xuất quảng
trường thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế giới, thuyết thành
thiệt ngôn, nhữ đẳng chúng sinh đương tín thị xưng tán bất khả tư nghị
công đức, nhất thiết chư Phật sở hộ niệm kinh. Nghĩa là: Còn nhiều Phật
khác như cát sông Hằng, cũng như thế nữa, đều ở nước mình, và đều hiện ra
tướng lưỡi rộng dài, che khắp ba nghìn, đại thiên thế giới, nói lời thành
thật, rằng chúng sinh ngươi, nên tin kinh này, là bản kinh: tán thán công
đức, chẳng xiết nghĩ bàn, và được hết thảy chư Phật hộ niệm).
Khi Đức Phật Thích Ca nói ra pháp môn này, sợ
chúng sinh đời mạt pháp không tin (nan tín chi pháp) pháp khó tin. Cho nên
chư Phật mười phương mới xuất tướng lưỡi rộng dài che khắp tam thiên đại
thiên thế giới để cùng hộ niệm với lời nói của Đức Phật Thích Ca. Các Đức
Phật mười phương nói rằng: Này các chúng sinh ơi! Các ngươi phải tin đi,
những lời Đức Phật Thích Ca nói ra đều là sự thật, các ngươi nên tin chắc
mà y giáo phụng hành, lúc này chúng sinh nghe vậy liền tin. Chúng tôi lấy
ví dụ: Khi tôi nói một điều gì cho một Phật tử, thì vị Phật tử này chưa
chắc tin trọn vẹn lời nói của tôi, Phật tử này còn nghi ngờ rằng: Không
biết ông thầy này nói đúng hay sai, Phật tử này cứ đắn đo hoài, lúc này có
khoảng mười thầy đến nói rằng, này vị Phật tử, Phật tử nên tin lời nói của
thầy đó đi, thầy ấy nói toàn sự thật, không bao giờ nói dối Phật tử đâu,
lúc này người Phật tử mới tin chắc.
Chư Phật xuất tướng lưỡi rộng dài che khắp tam
thiên đại thiên thế giới có nghĩa là gì? Tướng lưỡi rộng dài nhằm chỉ cho
biết là chư Phật mười phương ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai đều là nói
chân thật, không bao giờ nói dối. Chúng ta không nên hiểu sai “tướng lưỡi”
là cái lưỡi bằng xương bằng thịt như của chúng ta đâu.
10.- Tin rằng khi sinh về đó sẽ chứng quả Vô
thượng Bồ-đề.
Triệt Ngộ đại sư có bài kệ:
Nhất cú Di Đà
Chứng tam bất thối
Chỉ thử nhất sinh
Tiên bổ Phật vị
(Một câu Di Đà
Chứng tam bất thối
Chỉ trong một kiếp
Lên ngôi vị Phật)
Trong Kinh A Di Đà dạy: “Những người vãng sinh
về thế giới Cực Lạc đều trở thành A-bệ-bạt-trí. Chữ A-bệ-bạt-trí nguyên
tiếng Phạn đọc là Avaivarti, chữ Hán là dịch bất thối (chẳng lui sụt). Có
ba nghĩa:
- Vị bất thối: Đã dự vào địa vị Tứ Thánh rồi,
chẳng sa đọa xuống địa vị lục phàm nữa.
- Hạnh bất thối: Đã tu hạnh Bồ Tát thường hóa
độ chúng sinh, chẳng sa đọa xuống địa vị Nhị thừa nữa.
- Niệm bất thối: Tâm tâm, niệm niệm, giờ phút
nào cũng như dòng nước chảy vào bể Tát-bà-nhã (bể Nhất thiết trí).
Theo Thiên Thai giáo thì khi tới Đệ nhất trụ
mới đến ngôi vị bất thối, khi chứng Thập hồi hướng mới lên ngôi hạnh bất
thối, và khi chứng ngôi Sơ địa Bồ Tát mới đạt được niệm bất thối.
Theo quan niệm của Phật giáo Đại thừa, thì khi
trừ được tư hoặc và kiến hoặc mới lên ngôi vị bất thối; phá được trần sa
hoặc mới lên ngôi hạnh bất thối; và trừ được vô minh hoặc mới lên ngôi
niệm bất thối. Nghĩa là phải tu a-tăng-kỳ kiếp mới chứng được tam bất
thối, nhưng đối với Pháp môn Tịnh độ, chỉ cần vãng sinh Cực Lạc quốc là
vĩnh viễn không bị thoái chuyển nữa và chắc chắn đạt được quả vị Phật.
Qua mười niềm tin trên đây, chúng ta phải tin
chắc không có một ý nào mà ta không tin. Chỉ có tin thì chúng ta mới đạt
được tất cả, bằng không thì chúng ta sẽ mất tất cả. Vì thế trong Kinh Hoa
Nghiêm nói rằng: “Lòng tin là mẹ đẻ các công đức, lòng tin hay nuôi lớn
căn lành, lòng tin hay tựu quả Bồ-đề của Phật”.
Chúng ta có tin chắc là có cảnh giới Cực Lạc
không? Để trả lời câu hỏi này một cách chính xác, chúng tôi sẽ đưa ra một
vài dẫn chứng, sự kiện để chứng minh.
Trước tiên, chúng tôi xin dẫn chứng Kinh A Di
Đà, Đức Phật dạy: “Xá Lợi Phất! Tùng thị Tây phương quá thập vạn ức Phật
độ, hữu thế giới danh viết Cực Lạc, kỳ độ hữu Phật hiệu A Di Đà, kim hiện
tại thuyết pháp”, nghĩa là: Xá Lợi Phất ơi! Từ đây đi về bên Tây phương
kia trải qua hết mười muôn ức cõi Phật, có một thế giới gọi là Cực Lạc,
cõi ấy có Phật hiệu A Di Đà, hiện đang thuyết pháp.
Qua đoạn kinh trên đây cũng đủ ý cho
ta tin là có cảnh giới Cực Lạc. Tại sao chúng ta tin? Tại vì cảnh giới Cực
Lạc chính Đức Phật Thích Ca nói ra. Ngay tựa kinh cũng đủ cho chúng ta
tin, “Phật Thuyết A Di Đà Kinh” là Phật nói Kinh A Di Đà.
Xin đơn cử một ví dụ: Thời vua Tự Đức, có ông
Nguyễn Trường Tộ qua Pháp để du học. Sau khi trở về nước kể lại những văn
minh của nước Pháp như là: đèn treo ngược không có dầu cũng cháy, xe không
người lái cũng chạy cho vua nghe, thì vua bác bỏ không tin, cho ông Nguyễn
Trường Tộ là nói láo, vua tức giận đòi chém đầu.
Qua câu chuyện này cho ta thấy những lời ông
Nguyễn Trường Tộ nói đều là sự thật, bởi vì ông đã trực tiếp sang Pháp về.
Vì sao vua Tự Đức bác bỏ và không tin những văn minh của nước Pháp? Là vì
vua chưa thấy cho nên không tin, nhưng thật sự là có nước Pháp có những
điều đó. Cũng vậy, Đức Phật của chúng ta cũng đã từng dạo chơi ở cõi Tây
phương Cực Lạc, thấy cõi Cực Lạc rõ rõ ràng ràng, như thấy trái chanh
trong lòng bàn tay. Cho nên, Ngài mới thuật lại cho chúng ta nghe. Vì thế
mà chúng ta phải tin chắc là có cõi Cực Lạc của Phật A Di Đà, một lòng
niệm Phật cầu vãng sinh, thì có lợi vô cùng. Ấn Quang Đại sư đã dạy rằng:
“Nên để ý, đừng đem trí hiểu biết của phàm phu suy độ, nhận lầm rằng: Bao
nhiêu sự mầu lạ không thể nghĩ bàn ở Tây phương đều thuộc về ngụ ngôn để
thí dụ cho tâm pháp, chớ không phải cảnh thật”. Nếu có sự hiểu biết lầm
lạc ấy, tất sẽ mất điều lợi ích vãng sinh Tịnh Độ, mối hại này lớn phải
nên cẩn thận.
Tâm trí của các Đức Phật thật là sáng suốt
không có gì ngăn ngại cả, cũng giống như một hồ nước trong thật trong, khi
ta nhìn vào hồ thì ta sẽ thấy rõ ràng những vật nằm trong đó. Các Đức Phật
mười phương đặc biệt có được Phật nhãn, cho nên khi các Ngài nhìn thì
không có chỗ nào mà các Ngài không thấy cả. Còn con mắt phàm phu của chúng
ta thì chỉ nhìn được xa nhất là 1 cây số thôi, với cách nhìn kém cỏi như
vậy thì làm sao chúng ta thấy được những thế giới hiện đang hiện hữu ở
trong vũ trụ này.
Chúng ta tin có lục đạo (địa ngục, ngạ quỷ, súc
sinh, A-tu-la, nhân, thiên) thì tất nhiên chúng ta phải tin chắc là có cõi
Cực Lạc không sai chạy.
KHOA HỌC BIỆN CHỨNG
Ngày nay, nền khoa học đã phát triển cực nhanh,
các nhà khoa học đã dùng phi thuyền và nhiều phương tiện hiện đại để khám
phá, tìm hiểu vũ trụ. Sau nhiều lần thực nghiệm, họ đã chứng minh rằng
ngoài hành tinh của chúng ta, còn có vô số hành tinh khác nữa, trong đó có
những hành tinh có sự sống.
Nhà Thiên văn học Melvin Berger ước tính rằng:
Vũ trụ có hàng tỷ tinh vân, hàng triệu thiên hà cùng thiên thể đủ loại.
Nếu có người nào diễm phúc ngồi trên một phi thuyền không gian, bay với
vận tốc ánh sáng thì có thể dạo chơi vòng quanh vũ trụ, rồi trở lại về
điểm xuất phát sau một thời gian chừng 200 tỷ tỷ năm!
Thời Phật còn tại thế, bằng thiên nhãn siêu
việt, Ngài nhìn thấy trong một bát nước có tám vạn bốn nghìn vi trùng.
Những người sống cùng thời Đức Phật cho đó là chuyện hoang đường và không
tin. Ngày nay, khoa học tiến bộ, đem lời dạy của Đức Phật xác chứng lại,
thấy đúng vô cùng, trong một bát nước có hàng vạn vi trùng tồn tại. Chúng
ta thấy, các nhà khoa học đã tin như vậy, thì làm sao chúng ta lại không
tin.
Thật may mắn cho đạo Phật của chúng ta, ra đời
gặp được nền khoa học phát triển cực nhanh, nhờ sự phát triển đó, mà đã
chứng minh được những lời Đức Phật dạy là thực tế, không viễn vông.
Ngược lại, nếu nền khoa học không phát triển,
không dùng kính hiển vi nhìn vào nước thấy có vi trùng, không dùng phi
thuyền khám phá vũ trụ, thì những lời Đức Phật dạy trong nước có vi trùng,
trong vũ trụ có vô số tam thiên đại thiên thế giới, chỉ là hư vọng mà
thôi.
Nhưng các nhà khoa học chỉ mới tìm thấy một số
thế giới, còn vô số thế giới khác nữa chưa tìm thấy được.
Trong Kinh A Di Đà, Đức Phật dạy: “Từ đây đi
sang cõi Cực Lạc kia thì phải trải qua mười muôn ức Phật độ, mới đến được
cõi Phật A Di Đà”. Theo như các nhà khoa học tính:
“Ức” ở đây là mười triệu, vậy mười vạn ức,
thành một nghìn nghìn triệu.
Phật độ: là một khu vực của một vị Phật hóa độ,
trong kinh Phật gọi là một tam thiên đại thiên thế giới, danh từ khoa học
gọi là một tỷ thái dương hệ.
Nay hãy nói, thế nào là một Phật độ (hay là một
tam thiên đại thiên thế giới). Ta lấy ngay quả đất của chúng ta đang sống,
quả đất của chúng ta có một hòn núi Tu Di cao nhất, bốn bên Đông, Tây,
Nam, Bắc, mỗi bên là một châu, chung quanh có Thiết Vi bọc lấy, châu nào
cũng cùng chung ở dưới một mặt trời, một mặt trăng soi vào, mỗi châu là
một thiên hạ; quả đất có bốn thiên hạ. Cho nên gọi là “quả tứ thiên hạ”.
Một nghìn quả tứ thiên hạ gọi là một tiểu thiên
thế giới.
Một nghìn tiểu thiên thế giới gọi là một trung
thiên thế giới.
Một nghìn trung thiên thế giới gọi là một đại
thiên thế giới.
Vậy chữ “tam thiên” ở đây có nghĩa là một nhân
với ba lần một nghìn, chứ không phải là ba nghìn. Tức là: 1 x 1000 = 1000
(tiểu thiên); 1000 x 1000 = 1.000.000 (trung thiên); 1.000.000 x 1000 =
1.000.000.000 (đại thiên).
Nay Phật bảo: Phải đi qua mười vạn ức Phật độ,
như thế về phía Tây, đến đấy là thế giới Cực Lạc.
Thế mới biết vũ trụ quanh ta huyền bí chừng nào
và sự hiểu biết của loài người còn rất nông cạn, sao dám phủ nhận điều mà
Phật Thích Ca, đấng giác ngộ hoàn toàn đã trông thấy rõ.
Quả thật, lời nói của Đức Phật cách đây hơn
2500 năm không hề sai chạy. Chính vì chỗ này, các nhà khoa học rất kính
phục Đức Phật, xem Đức Phật là một bậc thầy, là một kết quả, là một đáp số
đúng nhất để họ tham khảo. Vì thế, nhà bác học thiên tài Albert Einstein
đã nói rằng: “Nếu có một tôn giáo nào đáp ứng mọi nhu cầu của khoa học
hiện đại, đó là Phật giáo”.
Hôm nay, sự thành tựu vượt bậc của khoa học
cùng với tư tưởng tiến hóa của nhân loại, đòi hỏi thẩm định lại giá trị
của nhiều tư tưởng triết học xưa nay; và đương nhiên, những triết học mang
tính phi lý lạc hậu, phản khoa học đều phải tự đào thải trước sự phát
triển văn minh của loài người.
Đức Phật đã nhận thấy rằng: Ngài đã làm việc
rất khó, là giới thiệu cảnh Cực Lạc thế giới xa lạ cho người phần đông mắc
chứng đa nghi. Nhưng vì nặng tâm từ, thương chúng sinh phải trôi lăn mãi
trong bể khổ, nên dù biết là việc rất khó nhưng Ngài vẫn cứ làm (Nan tín
chi pháp – Kinh A Di Đà).
Như chúng ta biết khi Đức Phật chứng được quả
vị Bồ-đề, Ngài muốn đem pháp tối thượng thừa để dạy chúng sinh, nhưng khổ
nỗi, chúng sinh đời mạt pháp này đa số là căn tánh chậm lụt, cho nên Ngài
không truyền trao pháp tối thượng thừa được. Ngài tùy theo căn cơ của
chúng sinh, mà thiện xảo phương tiện, phương tiện trì danh niệm Phật
nguyện vãng sinh là một trong những phương tiện dễ tu dễ chứng cho chúng
sinh đời mạt pháp. Chúng ta biết rằng: thuốc không quý tiện, lành bệnh là
hay, pháp không thấp cao, hợp cơ là đúng.
Cho dù pháp tối thượng thừa liễu nghĩa là quý,
nhưng nếu chúng ta truyền trao không đúng thời, không đúng lúc, thì sẽ trở
lại bình thường không quý.
Xin đơn cử một ví dụ: Đứa bé học lớp 1 mà ta
đem trình độ lớp 12 dạy cho nó thì quá ư là sai lệch, chúng ta phải lấy
kiến thức lớp 1 dạy cho nó, có như vậy mới đưa đến lợi lạc cho đứa bé.
Ngược lại chúng ta lấy kiến thức lớp 12 dạy cho đứa bé, đứa bé không hiểu
gì cả, chỉ là vô ích mà thôi. Qua ví dụ này cho ta thấy được, cái quý, cái
tối thượng thừa là ở chỗ phải hợp thời cơ, thực tế, chúng sinh tu được,
học được ấy mới gọi là quý, là tối thượng thừa. Còn nếu chúng ta nói lý
cao siêu mà mọi người không hiểu, không thực tế chỉ là đầu môi chót lưỡi,
viễn vông, vô ích.
Các Đức Phật trong quá khứ, khi thành Phật các
ngài nói toàn là pháp tánh, nhưng đặc biệt riêng Đức Phật Thích Ca chúng
ta nói pháp tánh lẫn pháp tướng. Vì vậy, mà chúng sinh đời mạt pháp có vô
số phương tiện để tu tập, tuy nhiều như vậy nhưng chỉ có một mà thôi, đó
là thành Phật. Phương tiện của Đức Phật dạy cũng giống như một trận mưa
lớn xuống trần gian, tùy theo mọi loài mà nhận lượng nước của mình để nuôi
sống.
Như vậy, qua những dẫn chứng, sự kiện trên đây
đủ chứng minh cho ta thấy được cõi Cực Lạc là có thật. Chúng ta đã có tín
tâm vững chắc rồi thì một lòng chuyên niệm danh hiệu của Ngài, thiết tha
nguyện rằng: Sau khi lâm chung cho con dứt hết mọi phiền não, tận mặt được
thấy Phật A Di Đà và Thánh chúng liền được vãng sinh về thế giới của Ngài.
Chúng ta đã theo pháp môn tha lực Tịnh độ, bên
sự tự lực, nguyện lực của chúng ta, thì ta cần phải nương vào tha lực của
Phật A Di Đà, nhờ tha lực của Phật mà sự vãng sinh của chúng ta dễ dàng
hơn.
Vào thời Đức Phật Thế Tự Tại Vương, có quốc
vương Vô Tránh Niệm xuất gia trở thành Pháp Tạng Tỳ kheo, trên bước đường
tu tập hành Bồ Tát đạo, vì muốn cứu độ hết thảy chúng sinh cho nên Pháp
Tạng Tỳ kheo đã phát ra 48 lời nguyện để cứu độ chúng sinh, và đây xin đọc
lời nguyện thứ 18 của Ngài.
“Giả sử khi tôi thành Phật, nếu có chúng sinh
trong mười phương tin ta, niệm ta, khi lâm chung chỉ nhớ một niệm cho đến
mười niệm, nếu không sinh về nước tôi, tôi thệ không lấy ngôi Chánh giác”.
Căn cứ theo lời nguyện thứ 18, Đức Phật yêu cầu
chúng ta rằng: Chỉ cần chúng ta tin Ngài, niệm Ngài, khi lâm chung chỉ nhớ
một cho đến mười niệm thì chúng ta sẽ được sinh về thế giới của Ngài ngay
tức khắc.
Chư Phật ba đời, quá khứ, hiện tại, vị lai
không có vị Phật nào mà nói dối chúng sinh cả, mỗi khi các Ngài đã phát ra
một lời nguyện nào thì như đinh đóng cột. Đức Phật dạy chúng ta không được
nói dối thì làm sao các Ngài nói dối chúng ta được. Chúng ta phải có lập
trường vững chắc như vậy, thì chúng ta mới thiết tha niệm Ngài, thì công
phu tu tập của chúng ta tinh tấn hơn. Còn ngược lại chúng ta đa nghi,
không biết Phật A Di Đà phát nguyện thật hay không, chúng ta cứ nghi nghi,
ngờ ngờ như vậy, đánh mất đi lòng tin đối với Đức Phật, khi đánh mất đi
lòng tin rồi thì sự công phu tu tập niệm Phật của chúng ta không thiết
tha, không nghiêm mật thì hỏi làm sao cảm ứng đạo giao được với bản nguyện
của Phật A Di Đà.
Chúng ta muốn đi đâu xa, thì cần phải có tư
lương như là tiền tài, vật thực, thuốc men v.v… thì chúng ta mới đi được
chớ. Còn ngược lại chúng ta không có tiền tài, vật thực, thuốc men thì làm
sao chúng ta đi được.
Cũng vậy, nếu chúng ta vãng sinh về thế giới
Cực Lạc của Phật A Di Đà thì chúng ta phải gieo nhân niệm Phật, nhân niệm
Phật chính là tư lương, hành trang cho chúng ta được vãng sinh. Còn bằng
không, thì không bao giờ sinh về thế giới của Ngài được. Cũng giống như
chúng ta muốn qua sông thì cần phải có thuyền, nếu chúng ta bỏ thuyền thì
không bao giờ qua bên kia sông được.
Các Đức Phật trong mười phương thương chúng
sinh như mẹ thương con, mẹ thương con, trông ngóng con mà con không thương
mẹ, không nhớ mẹ thì cái thương cái nhớ của mẹ chỉ là vô ích. Vậy để cho
cái nhớ của mẹ có ích thì người con thường luôn nhớ mẹ, thương mẹ, trông
ngóng về mẹ, nhờ như vậy, giữa mẹ và con mới có luồng điện cảm ứng đạo
giao.
Vậy, để được vãng sinh sau khi lâm chung thì
chúng ta phải thường xuyên tưởng Phật, nhớ Phật, niệm Phật, không gián
đoạn, có như vậy khi bỏ thân này thì Đức Phật A Di Đà sẽ từ bi tiếp dẫn
chúng ta ngay.
Tôi xin lấy một ví dụ: Có hai người bạn chơi
thân với nhau từ nhỏ đến lớn. Nhưng sau này vì hoàn cảnh sống, cho nên hai
người bạn này chia tay nhau, một người ở lại chốn đồng quê, một người đi
vào thành phố. Trải qua thời gian xa cách cũng khá lâu, một hôm, người bạn
ở thành phố nhận được tin người bạn ở đồng quê bệnh nặng sắp chết, lúc này
anh ta hốt hoảng lo lắng, nhớ nghĩ về bạn và nhanh chóng thu xếp công
việc, anh ta về liền.
Qua câu chuyện này cho ta thấy rằng: Nếu hằng
ngày chúng ta thường luôn nhớ nghĩ niệm Phật A Di Đà thì khi chúng ta có
xảy ra sự cố gì như là bệnh hay chết thì Ngài sẽ hiện ra trước mặt tiếp
dẫn ta ngay. Cũng giống như anh bạn ở thành phố nghe bạn mình sắp chết
liền về ngay không chậm trễ.
Khi lâm chung chúng ta nhớ một niệm cho đến
mười niệm, hay nhất tâm bất loạn thì đâu phải dễ. Vậy, để đạt được một
niệm hay mười niệm thì ngay lúc trẻ, chúng ta phải nỗ lực niệm Phật một
cách miên mật, không bao giờ xao lãng, có như vậy, khi lâm chung chúng ta
mới nhớ niệm Phật được.
Từ vô lượng kiếp chúng ta bị trôi lăn mãi trong
vòng sinh tử cho nên tàng thức hay A-lại-da thức của chúng ta cũng chứa
biết bao nhiêu là điều tội lỗi. Để cho tàng thức của chúng ta mỗi ngày
được bào mòn đi, thì chúng ta phải nên siêng năng niệm Phật liên tục không
ngừng nghỉ. Cũng giống như một ly nước đục, muốn cho nó trong, thì chúng
ta phải dùng nguồn nước sạch đổ vào liên tục, có như vậy mới đẩy hết chất
cặn bã, cáu bẩn trong ly nước ra, và để lại cho chúng ta một ly nước tinh
khiết.
Trái lại, nếu chúng ta chỉ giọt một giọt nước
sạch vào ly nước đục thì làm sao làm cho ly nước đục trong sạch được.
Tâm thức của chúng ta cũng giống như ly nước
đục đó vậy. Để cho tâm thức được tẩy trừ sạch hết phiền não tham, sân, si
từ vô lượng kiếp thì chúng ta phải mau mau dùng nguồn nước trong lành “Nam
mô A Di Đà Phật” tưới mãi, tưới mãi vào tâm thức, liên tục không gián đoạn
như vậy, thì mới đẩy hết những tạp nhiễm xấu xa trong tâm thức của chúng
ta ra được. Lúc này chỉ để lại trong tâm thức một câu niệm Nam mô A Di Đà
Phật mà thôi.
Khi chúng ta đã huân tập được câu niệm Phật vào
A-lại-da thức rồi, thì khi lâm chung ta có thể niệm hàng tỷ, hàng tỷ nữa
kìa, còn nhớ một cho đến mười niệm là chuyện nhỏ. Chúng ta phải hiểu rằng
nhớ một niệm cho đến mười niệm là con số tượng trưng thôi. Bằng ngược lại,
chúng ta niệm Phật một cách lơ là không chú tâm, một ngày niệm mười ngày
nghỉ. Hỡi ơi! Làm sao mà tẩy trừ được hoặc nghiệp tham sân si từ vô lượng
kiếp, thì làm sao khi lâm chung chúng ta nhớ niệm Phật được.
PHƯƠNG PHÁP NIỆM PHẬT
Như vậy, chúng ta hành trì Pháp môn Tịnh độ như
thế nào đây? Có nhiều cách:
1.- Quán tưởng niệm Phật
2.- Quán tướng niệm Phật
3.- Quán tượng niệm Phật
4.- Trì danh niệm Phật (mặc niệm hoặc cao thanh
niệm Phật)
5.- Quán sổ tức niệm Phật (nương sáu chữ Nam mô
A Di Đà Phật vào hơi thở vô ra)
6.- Sổ châu niệm Phật (nương câu Nam mô A Di Đà
Phật vào từng hạt chuỗi).
Đối với Pháp môn Tịnh độ, thì có nhiều phương
pháp tu, nhưng chúng tôi chỉ đơn cử sáu phương pháp phổ thông này.
Trong sáu phương pháp niệm Phật trên đây, đa số
chúng ta theo phương pháp trì danh, quán sổ tức, sổ châu v.v… là nhiều
nhất; còn phương pháp quán tưởng, quán tượng, quán tướng niệm Phật thì rất
khó cho bậc hạ căn, ba phương pháp này chỉ dùng cho bậc thượng căn mà
thôi.
Trên bước đường tu tập theo Pháp môn Tịnh độ,
chúng tôi đã chọn phương pháp “Quán sổ tức niệm Phật”. Tại sao chúng tôi
chọn phương pháp này? Là bởi vì, khi phát nguyện tu theo Pháp môn Tịnh độ
thì chúng tôi đã suy nghĩ rằng: “Nếu mình theo pháp môn này thì mình phải
chọn phương pháp nào để trong mọi hoàn cảnh luôn luôn tưởng Phật, nhớ
Phật, niệm Phật”. Đắn đo suy nghĩ mãi, cuối cùng chúng tôi chọn phương
pháp “Quán sổ tức niệm Phật”.
Nhân đây, chúng tôi xin trình bày cặn kẽ phương
pháp này.
Như thế nào gọi là “Quán sổ tức niệm Phật”? Là
chúng ta nương câu Nam mô A Di Đà Phật vào hơi thở ra vô.
Như thế nào gọi là nương câu niệm Nam mô A Di
Đà Phật vào hơi thở ra vô?
Thế này: Khi hít vô nhẹ nhàng và thật dài thì
chúng ta niệm “Nam mô A”, thở ra thật dài và nhẹ nhàng ta niệm “Di Đà
Phật”. Khi hơi thở vô ra cùng câu niệm Phật vừa dứt chúng ta đếm 1, cứ lần
lượt như vậy đếm đến 10, đến 10 rồi thì chúng ta đếm trở lại 1. Trong lúc
ta đang hành trì mà ta đếm từ 1 mà nhảy lên số 5, 6 thì ta phải biết ngay,
ta bị vọng tưởng xen vào. Lúc này ta lập tức bỏ ngay, rồi đếm lại 1. Chúng
ta nên nhớ phải đếm theo thứ tự từ 1 đến 10, đến 10 ta ngưng lại, rồi đếm
lại từ 1 đến 10, cứ mãi như vậy.
Phương pháp này chúng ta phải sắp xếp một thời
gian cố định để mà hành trì. Khi hành trì có thể ngồi kiết già hay bán già
cũng được. Hành trì trải qua thời gian khoảng 2, 3 tháng cho đến một năm,
đã tạo thành thói quen. Khi đã thuần thục rồi, có thể ngồi hay không ngồi
chúng ta cũng vẫn nhớ niệm Phật trong mọi hoàn cảnh.
Trước kia hơi thở nuôi sống chúng ta, nhưng sau
này ta biết gán câu Nam mô A Di Đà Phật vào hơi thở một cách thuần thục,
thì chính câu Nam mô A Di Đà Phật này thay hơi thở nuôi sống ta hằng ngày.
Thật là tuyệt diệu vô cùng.
Dù trong mọi hoàn cảnh nào, nếu hơi thở chúng
ta còn thì câu niệm Phật hằng tuôn chảy. Thậm chí nhiều khi chúng tôi cố
quên đi câu niệm Phật mà không quên được. Tại sao chúng tôi không quên
được? Tại vì chúng tôi đã cột chặt câu Nam mô A Di Đà Phật vào hơi thở vô
ra của mình rồi. Nếu hơi thở còn vô ra thì câu niệm Phật theo đó mà vô ra,
cứ liên tục như vậy không bao giờ gián đoạn. Cũng giống như đã tạo thành
cái nghiệp giữa hơi thở và câu niệm Phật. Chính vì thế mỗi lần hơi thở
rung động thì câu niệm Phật khởi lên.
Khi chúng ta đã gắn câu niệm Phật vào hơi thở
vô ra một cách thuần thục hay đã tạo thành nghiệp. Cho dù chúng ta đi trên
máy bay, đi tàu, đi bộ, đi xe đạp v.v… thì câu niệm Phật hằng tuôn chảy
trong tâm thức của chúng ta.
Cũng giống như một đứa bé ban đầu không biết
hút thuốc, nhưng sau này, vì bạn bè rủ rê hút, cho nên em bé mới tập hút,
cứ mỗi ngày mỗi hút như vậy, thì tạo cho em bé đó nghiệp ghiền, khi mà đã
tạo thành nghiệp ghiền rồi thì em bé này luôn luôn nhớ nghĩ đến thuốc,
không bao giờ bỏ được.
Như vậy, khi chúng ta đã gắn câu niệm Phật vào
hơi thở, tạo thành nghiệp quen, thì ta không bao giờ bỏ được câu niệm
Phật. Cũng giống như đứa bé khi đã ghiền thuốc rồi thì không thể bỏ được
thuốc. Phương pháp này chính chúng tôi đã thực hành nó một cách thuần
thục, cho nên chúng tôi mới dám trình bày.
Vậy, trên bước đường tu tập, chúng ta nên chọn
cho mình một pháp tu thích hợp, chỉ có thích hợp thì nó mới giúp mình dễ
đạt được quả vị mong muốn.
Chúng ta đã có niềm tin sâu đối với Pháp môn
Tịnh độ này rồi, bên cạnh đó chúng ta phải một lòng thiết tha phát nguyện
“cho con sau khi lâm chung được sinh về thế giới của Ngài”. Mình có nguyện
thì mới có tới được và ngược lại chúng ta không nguyện sinh về nước Ngài
thì không bao giờ tới được. Cũng giống như chúng ta muốn đi Hà Nội thì
trước đó chúng ta đã có ý nguyện là sẽ đi Hà Nội, nhờ ý nguyện như vậy
chúng ta mới đi đến Hà Nội được. Cũng vậy, chúng ta muốn sinh sang thế
giới Cực Lạc thì chúng ta phải có ý nguyện cầu sinh về đó.
Chúng ta đã đặt trọn niềm tin rồi, thì chúng ta
phải phát nguyện vãng sinh, nếu chúng ta tin rồi mà không có phát nguyện,
thì niềm tin ấy cũng chỉ là vô ích. Tín, hạnh, nguyện cũng giống như cái
kiềng ba chân nếu thiếu một trong ba cái thì hỏng. Vì thế, Ngẫu Ích Đại sư
là một bậc tôn túc về Tịnh độ đã dạy: “Được vãng sinh cùng chăng toàn do
tín nguyện có hay không, phẩm vị thấp cao đều bởi hành trì sâu hoặc cạn”;
ngài lại bảo: “Nếu không tín nguyện, dù trì niệm câu hồng danh cho đến gió
thổi không vào, mưa sa chẳng lọt, vững chắc như tường đồng vách sắt, cũng
không được vãng sinh”.
Kinh A Di Đà, Đức Thích Tôn của chúng ta cứ mãi
nhắc đi nhắc lại điểm ấy, qua các đoạn văn như sau: “Lại nữa Xá Lợi Phất!
Chúng sinh về cõi nước Cực Lạc đều là hàng A-bệ-bạt-trí. Trong số ấy có
nhiều bậc Nhất sinh bổ xứ số lượng rất đông, không thể dùng toán số tính
biết được, chỉ có thể lấy số không lường không ngằn a-tăng-kỳ để nói mà
thôi.
Xá Lợi Phất! Chúng sinh nghe rồi, phải nên phát
nguyện cầu sinh về cõi kia. Bởi tại sao? Vì được cùng các bậc thượng thiện
nhân như thế đồng họp một chỗ.
Xá Lợi Phất! Ta thấy sự lợi ích đó nên nói lời
này, nếu có chúng sinh nào nghe lời nói đây, phải nên phát nguyện cầu sinh
về quốc độ ấy.
Xá Lợi Phất! Nếu có người đã phát nguyện, đang
phát nguyện, sẽ phát nguyện, muốn sinh về nước Phật A Di Đà, những người
đó hoặc đã sinh, hoặc đang sinh, hoặc sẽ sinh, đều được không thối chuyển
nơi quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam Bồ-đề. Thiện nam tử, thiện nữ nhân, nếu
có lòng tin phải nên phát nguyện cầu sinh về quốc độ ấy”.
Đoạn kinh này, Đức Phật thương chúng sinh như
con đẻ, lúc nào cũng muốn cho chúng sinh sớm được thành Phật, suốt cả cuộc
đời sống vì chúng sinh. Vậy để nhớ đến công ơn cao cả đó, chúng ta phải
làm gì? Chúng ta chỉ cần đăït trọn niềm tin vào lời dạy của chư Phật, phát
tâm Bồ-đề niệm Phật nguyện cầu vãng sinh, đây mới là yếu chỉ tâm nguyện độ
sinh của chư Phật ở cõi Ta Bà này.
Khi sinh về đó rồi thì sung sướng đời đời,
không bao giờ gặp những điều khổ, muốn gì thì có nấy. Muốn ăn thì cơm liền
hiện ra, muốn uống nước thì nước liền hiện ra, muốn có chiếc áo đẹp để mặc
thì áo đẹp liền hiện ra. Ở cõi Cực Lạc chúng ta chỉ cần khởi ý muốn thì có
liền, còn ở cõi Ta Bà của chúng ta đây làm lụng hết sức cực nhọc, nhưng
không được như ý, tại sao chúng ta không nguyện sinh về thế giới Cực Lạc?
Ở cõi Cực Lạc đất đai thì bằng phẳng êm dịu,
khí hậu ôn hòa, thường ngày nghe chim hót ra những điều diệu pháp. Quang
cảnh xung quanh hết sức là trang nghiêm thanh tịnh, có như vậy mới gọi là
Cực Lạc được chớ.
Kinh A Di Đà, Đức Phật dạy: “Xá Lợi Phất, bỉ độ
hà cố danh vi Cực Lạc, kỳ quốc chúng sinh vô hữu chúng khổ, đản thọ chư
lạc, cố danh Cực Lạc” (Xá Lợi Phất ơi! Cõi ấy sao gọi là Cực Lạc, bởi vì
chúng sinh trong cõi ấy không gặp điều khổ mà chỉ hưởng toàn là những điều
vui không à, cho nên mới gọi là Cực Lạc).
Kinh A Di Đà diễn tả rất rõ ràng về y báo và
chánh báo ở cõi Cực Lạc:
Đã sinh về cõi Tây phương
Có ao thất bảo có hương ngũ phần
Lưu ly có đất sáng ngần
Ma ni có nước trong ngần chảy quanh
Thất trân có bảy lớp thành
Bảy hàng cây báu, bảy vòng lưới châu
Có ngân các, có kim lâu
Có chim nói pháp nhiệm mầu dễ nghe
Nghe rồi tỏ đạo Bồ-đề
Bao nhiêu nghiệp chướng hồn mê dứt liền
Đã sinh về chín phẩm sen
Mấy tai cũng sẩy, mấy duyên cũng tròn
Phật như thể mẹ tìm con
Con mà gặp mẹ lại còn lo chi
Lầu vàng đài các thiếu gì
Ăn thì cơm ngọc, mặc thì áo châu
Không ơn, không oán không sầu
Không già không chết có đâu luân hồi.
Kinh A Di Đà diễn tả cõi Cực Lạc hết sức sung
sướng như vậy, tại sao chúng ta còn chần chờ chi nữa, hãy mau mau nhất tâm
niệm Phật cầu vãng sinh.
Chúng ta có hiểu được y báo và chánh báo ở cõi
Cực Lạc như thế nào chưa? Là thế này:
Chánh báo: Đức Phật A Di Đà.
Y báo: Các cảnh giới sự tướng bên ngoài. Chánh
báo như thế nào thì y báo như thế đó.
Đức Phật A Di Đà trang nghiêm thanh tịnh cho
nên mới chiêu cảm được cảnh giới, sự tướng ở cõi Ngài cũng trang nghiêm
thanh tịnh theo.
Chúng ta hãy nhìn kỹ lại y báo và chánh báo của
chúng ta. Chánh báo chúng ta là một phàm phu đầy dẫy nghiệp chướng cho nên
mới chiêu cảm y báo đầy dẫy sự khổ đau, nào là động đất, thiên tai lũ lụt,
nào là xì ke ma túy, đất đai thì gồ ghề, khí hậu ô nhiễm, kẻ cao người
lùn, kẻ điếc người đui, đâm chém lẫn nhau. Như vậy, chúng ta đã hiểu được
như thế nào là y báo và chánh báo rồi.
Một hành giả tu theo Pháp môn Tịnh độ thì phải
phân biệt được một cách rõ ràng về y báo và chánh báo, giữa cõi Cực Lạc và
cõi Ta Bà, có phân biệt một cách tận tường như vậy thì chúng ta mới chán
bỏ được cõi Ta Bà này để một lòng thiết tha niệm Phật cầu vãng sinh, bằng
ngược lại nếu ta không hiểu được sự nhiệm mầu, sự sung sướng ở cõi Cực Lạc
gấp bội lần ở cõi Ta Bà thì lòng phát nguyện vãng sinh của chúng ta rất
chi là yếu ớt. Không hiểu được sự thù thắng ở cõi Cực Lạc thì chúng ta cứ
mãi đắm chìm trong Ta Bà ngũ trược ác thế đầy đau khổ này. Ở trong nhà lửa
đang cháy cứ cho là sung sướng, hay nói rộng hơn là chúng ta đang bị nhốt
trong nhà lửa tam giới. Cho nên Đức Phật diễn tả sự khổ đau của con người
ở cõi Ta Bà như một sự bùng cháy đổ vỡ của toàn thể thế giới: “Toàn thể
thế giới bốc cháy, toàn thể vũ trụ đắm chìm trong khói lửa, toàn thể vũ
trụ làm mồi cho lửa, toàn thể vũ trụ run lập cập” (Kinh Tương Ưng Bộ,
tr.133).
Đặc biệt ở Pháp môn Tịnh độ, niệm Phật được đới
nghiệp vãng sinh, có nghĩa là mình mang cả nghiệp thức đầy dẫy của mình về
bên đó. Ta được đới nghiệp vãng sinh là nhờ tha lực của Phật A Di Đà. Nếu
chúng ta được sinh về thế giới Cực Lạc rồi thì không còn bị đọa lạc, rơi
rớt vào lục đạo nữa. Trong Kinh A Di Đà nói: “Những người sinh về thế giới
Cực Lạc đều là A-bệ-bạt-trí” có nghĩa là bất thối chuyển, không còn lui
sụt nữa, ở đó gặp thắng duyên, ta cứ tu riết, tu riết khi nào đạt đến quả
vị Vô sinh mà thôi.
CÁC MỐI NGHI VỀ TỊNH ĐỘ
Có người hỏi rằng: Kinh thường nói người niệm
Phật đới nghiệp vãng sinh, liền dự vào hàng Thánh chúng, đạt được bất thối
chuyển tâm. Còn mang thân phàm phu, còn nghiệp lực làm sao đạt được bất
thối tâm nơi đạo Bồ-đề?
Đáp: Kinh A Di Đà Phật Thích Ca có dạy: “Cõi
Cực Lạc kia sau khi chúng sinh đã sinh về đều là bậc A-la-hán và Bồ Tát
bất thối chuyển nơi đạo Vô thượng Bồ-đề. Có năm nhân duyên khiến cho chúng
sinh ở cõi kia được tâm bất thối chuyển nơi đạo quả Bồ-đề.
- Do nguyện lực từ bi rộng lớn độ chúng sinh
của Phật A Di Đà.
- Chúng sinh ở nơi cõi kia thường gặp ánh sáng
của chư Phật và Bồ Tát chiếu đến, làm cho tâm Bồ-đề tăng trưởng.
- Cảnh giới Cực Lạc trang nghiêm, ngày ngày có
tiếng chim kêu, nhạc trỗi, gió thổi, những âm thanh này phát ra, nếu có
chúng sinh nghe được liền phát tâm nghĩ nhớ tới Phật, Pháp, Tăng. Cho nên
tâm Bồ-đề không bị thối lui.
- Cõi Cực Lạc toàn là thiện hữu tri thức đồng
tu, luôn giúp đỡ nhau trên bước đường tu học, không có ác hữu tri thức
ngăn cản, ngoài cảnh không có quỷ thần tà ma, ngoại đạo quấy nhiễu, nội
tâm không tham sân si, tình ái phiền não rối loạn, nên tâm Bồ-đề không bị
thối lui.
- Chúng sinh cõi kia thọ mạng lâu dài đồng với
chư Phật, Bồ Tát nên đủ thì giờ tu tập cho đến ngày chứng đạo, không phải
sống chết nhiều phen như chúng sinh nơi Ta Bà, mê mờ trong lúc thọ thai
chuyển thân, quên đi bản nguyện ban đầu, do đó tâm Bồ-đề dễ bị thối lui.
Trái lại chúng sinh ở Cực Lạc luôn tăng trưởng theo thọ mạng.
Vì những nhân duyên thù thắng như thế, nên
chúng sinh ở mười phương thế giới sau khi vãng sinh về cõi kia, bao gồm
những vị đới nghiệp vãng sinh nơi hạ phẩm hạ sinh cũng được liệt vào hàng
Thánh chúng và đạt được tam vị bất thối.
Chỉ cần quay đầu lại quy y với Phật A Di Đà mà
chuyên tâm niệm Phật cầu vãng sinh Cực Lạc để đạt được ba quả vị bất thối
chờ ngày thành Phật, trong khi nếu ở thế giới Ta Bà, muốn đạt được thì
phải trải qua ba đại a-tăng-kỳ kiếp tu tập trong sinh tử. Trái lại, bây
giờ chỉ một lòng nhất tâm niệm Phật trong đời này, thì ta sẽ được vãng
sinh, đạt được tam bất thối và Phật quả nhất định sẽ viên thành.
Không còn thối chuyển, không còn bị đọa lạc thì
chúng ta đã giải quyết được bọn giặc sinh tử rồi đấy. Chúng ta thấy pháp
niệm Phật dễ tu, dễ chứng, dễ giải quyết sinh tử trong một đời mà tại sao
chúng ta không gấp rút niệm Phật ư!
Ấn Quang Đại sư dạy rằng: “Thời mạt pháp, chúng
sinh nghiệp nặng, tâm tạp, nếu ngoài pháp môn niệm Phật mà tu các pháp môn
khác, chỉ gieo được phần trí tuệ, phước đức căn lành thì có, nhưng phần
liễu thoát sinh tử luân hồi trong hiện thế thì không. Tuy có một vài vị
cao đức phi thường, song đó chỉ là những bậc Bồ Tát hiện thế làm mô phạm
cho chúng sinh như Kinh Lăng Nghiêm đã nói, nhưng các vị ấy cũng chỉ là
nương theo trình độ chúng sinh mà thị hiện ngộ đạo chứ không phải chứng
đạo. Pháp môn Tịnh độ thời nay tuy ít người được Tam muội như xưa, nhưng
cũng có thể nương theo nguyện lực của mình và bản nguyện của Phật A Di Đà
mà đới nghiệp vãng sinh về cõi Cực Lạc, từ đây không còn sinh tử luân hồi,
mà lần tu tập cho đến lúc chứng quả Vô sinh”.
Sự thù thắng và phổ cập của Pháp môn Tịnh độ
cho quảng đại quần chúng ngoài sự giới thiệu của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni,
còn có các vị Bồ Tát khuyên bảo mọi người nên nguyện vãng sinh về Tây
phương như Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ, các vị Tổ sư cả Thiền lẫn
Tịnh như Vĩnh Minh, Trí Giả, Triệt Ngộ, Liên Trì, Thiện Đạo, Ngẫu Ích, đều
là những vị Thiền sư nổi tiếng bên Thiền tông, sau khi tham thiền đạt ngộ,
chuyển hướng niệm Phật cầu vãng sinh. Thật phải nói pháp môn niệm Phật là
vua trong tất cả các pháp. Trong Kinh Niệm Phật Ba La Mật phẩm thứ 6, đức
Quán Thế Âm nói rằng: “Trọn đời Đức Phật Thích Ca giáo hóa điều phục chúng
sinh, Ngài đã ban ra tám vạn bốn nghìn pháp môn để cho chúng sinh tu tập,
nhưng trong đó pháp môn niệm Phật là thù thắng đệ nhất”.
Tại sao trong mười phương thế giới đều có cõi
Tịnh Độ, mà sao chư Phật, chư Bồ Tát, chư Tổ chỉ khuyên chúng sinh niệm
Phật để nguyện về cõi Tịnh Độ của Phật A Di Đà mà không khuyên chúng sinh
phát nguyện về cõi Tịnh Độ khác?
Đúng vậy, không chỉ có một cõi Tịnh Độ của Phật
A Di Đà đâu mà trong mười phương đều có cõi Tịnh Độ như là: cõi Tịnh Độ
của Phật Di Lặc ở trời Đâu Suất; ở Đông phương có cõi Tịnh Độ của Phật
Dược Sư v.v… Tuy có nhiều cõi Tịnh Độ nhưng cũng tùy theo cơ cảm nhân
duyên của một chúng sinh có duyên với Đức Phật nào thì nguyện về với Đức
Phật ấy. Chúng ta phải biết rằng một Phật là tất cả Phật, tất cả Phật là
một Phật.
Tại sao lại nói như vậy? Các Đức Phật đồng
chung một thể tánh thanh tịnh, thể tánh thanh tịnh này là bất cấu, bất
tịnh, bất tăng, bất giảm, không cao, không thấp, không dài, không ngắn,
bình đẳng vắng lặng cho nên mới nói là một Phật là tất cả Phật, tất cả
Phật là một Phật là vậy đó. Cũng giống như một mặt trăng in hình bóng vô
số mặt trăng trong các ao hồ, tuy vô số hình bóng mặt trăng trong các ao
hồ nhưng duy nhất chỉ có một mặt trăng mà thôi. Chính vì vậy, chúng ta chỉ
cần niệm một Đức Phật là chúng ta đã niệm tất cả chư Phật rồi. Chúng ta
không cần niệm nhiều Phật, qua sự lập luận trên cho ta thấy được, chư
Phật, chư Bồ Tát, chư Tổ rất khéo léo phương tiện để độ chúng sinh trở về
với Phật tánh chân tâm của mình. Cái việc chư Phật, chư Bồ Tát, chư Tổ
khuyên chúng sinh nguyện về cõi Tịnh Độ của Phật A Di Đà là quá đúng, quá
hay. Tại sao đúng? Là khi chúng ta tập trung vào một đề tài hay chuyên
nhất niệm một Đức Phật, thì chúng ta dễ đạt đến nhất tâm. Còn nếu chúng ta
chọn nhiều đề tài hay là ham niệm nhiều Phật thì chỉ đưa đến cho chúng ta
loạn tưởng tạp niệm, không bao giờ nhất tâm được. Người ta thường nói
rằng: “Một nghề không chín, chín nghề không nên”. Xin đơn cử một ví dụ:
Một cậu học trò luôn nuôi dưỡng cho mình một ý nguyện trong tâm là sau này
cố gắng học để làm bác sĩ, với ý nguyện trung thực trong sáng như thế này,
thì trước sau gì cậu học trò cũng làm bác sĩ. Và ngược lại, nếu cậu học
trò này không chọn cho mình một nghề duy nhất, khi thì chọn bác sĩ, khi
thì mơ tưởng đến kiến trúc v.v… với ý loạn tưởng này, mà cậu học trò không
chọn cho mình một nghề duy nhất, thì chỉ đưa đến nhọc công tốn sức mất
thời gian mà thôi. Chẳng khác gì người bộ hành đứng giữa ngã ba đường,
không biết đường nào để đi. Có nhiều người hiểu như thế này: Niệm một Phật
không đủ, phải niệm nhiều Phật, khi lâm chung Phật này không rước thì có
Phật khác rước, niệm như vậy là tạp niệm không phải là chánh niệm. Vì thế,
mà Đức Phật khuyên chúng ta hãy đặt trọn niềm tin vào Đức Phật A Di Đà,
nhất tâm niệm Ngài, một lòng phát nguyện vãng sinh.
Trong Kinh Tùy Nguyện Vãng Sinh nói rằng: “Bạch
Đức Thế Tôn! Mười phương đều có Tịnh Độ, tại sao Thế Tôn lại riêng khen
ngợi cõi Tây phương Cực Lạc và khuyên chúng sinh nên chuyên niệm Phật A Di
Đà để cầu về cõi ấy?”.
Phật bảo ngài Phổ Quảng: “Chúng sinh ở cõi Nam
Diêm-phù-đề (là cõi nước chúng ta đang ở) phần nhiều tâm trược loạn, vì
thế Ta chỉ tán thán một Tịnh Độ ở Tây phương, khiến các hữu tình chuyên
tâm vào một cảnh, để cho sự vãng sinh được dễ thành tựu, nếu nhớ niệm tất
cả chư Phật, vì niệm cảnh quá rộng, nên tâm mênh mang tán loạn, Tam muội
khó thành, không được vãng sinh”.
Có người đặt câu hỏi như thế này: Đức Phật dạy
tất cả các pháp hữu tướng đều là như huyễn, Ta Bà cũng huyễn, Cực Lạc cũng
huyễn vậy ta cần chi phải niệm Phật để cầu sinh Cực Lạc có ích lợi gì?
Để trả lời câu hỏi này, chúng tôi xin lấy một
ví dụ về “giấc mộng” để làm đáp số.
Giấc mộng thì có mộng ác và mộng lành, trong
giấc mộng ác chúng ta thường mơ thấy ma quỷ đủ loại rất ghê sợ hãi hùng,
đôi khi cũng thấy có người lấy dao rượt chém mình, có khi thấy mình bị rơi
từ núi cao xuống v.v… Những hình ảnh trong giấc mộng ác này luôn làm cho
chúng ta thất kinh, thất hồn, hoang mang, sợ sệt không khi nào mà an tâm
được trong giấc ngủ.
Trong giấc mộng lành, chúng ta thường thấy
những điều tốt đẹp, như là thấy Phật, thấy chư Bồ Tát, chư Tổ, khi thì
chúng ta thấy mình trúng số độc đắc, thấy những người bạn tốt đến dùng
những lời hay ý đẹp khuyên mình tu hành, mơ thấy mình làm vua, làm quan,
mơ thấy mình thi đỗ Đại học v.v… những hình ảnh đẹp trong giấc mộng lành
luôn luôn đem lại cho chúng ta một đời sống tinh thần an lạc hơn, vui tươi
hơn, tâm được an tịnh hơn.
Như vậy qua hai giấc mộng trên, chúng ta chọn
giấc mộng nào? Tức nhiên chúng ta phải chọn giấc mộng lành, mộng đẹp chứ
không ai dại khờ gì chọn giấc mộng ác.
Cũng vậy, giấc mộng ác ví như cõi Ta Bà ngũ
trược ác thế, còn giấc mộng đẹp ví như cõi Cực Lạc. Vậy thì Ta Bà và Cực
Lạc cũng đều huyễn mộng, nhưng hai cái huyễn mộng này hoàn toàn là khác
nhau.
Ở trong cảnh mộng khổ của Ta Bà chúng sinh luân
chuyển sinh tử không ngừng để chịu khổ trong cảnh mộng, từ mộng cảnh này
sang mộng cảnh kia không bao giờ dứt. Càng đi sâu trong mộng thì càng mê
càng khổ. Chi bằng ta nguyện sinh Cực Lạc, tuy là cũng cảnh mộng, nhưng ra
khỏi mộng thì liền thành bậc Đại giác. Uế và tịnh tuy đồng cảnh mộng nhưng
bậc Bồ Tát từ Thất địa trở xuống vẫn còn cảm thọ khác nhau; còn nóng, còn
lạnh, còn xúc, còn cảm, nên thà rằng ta cảm nhận cảnh giới an lạc để bước
vào Phật quả, hơn là chấp sự thọ cảm khổ bức để cho tâm Bồ-đề bị thối
chuyển.
Kinh dạy: “Từ bậc Nhị thừa, sơ phát tâm Bồ Tát,
cho đến Bồ Tát đệ thất địa Viễn Hành, đều ở trong huyễn mộng mà tu, chỉ
trừ bậc Bồ Tát đệ bát địa trở lên bậc Đẳng giác và Phật quả mới an tịnh
trong Phật quốc Tịnh Độ”. Như vậy, chư Phật đã dạy, chư Bồ Tát, chư Tổ đã
hành pháp môn này thì quý vị nên an tâm niệm Phật chớ đừng có mối hoài
nghi gì cả.
Thật là thiện căn phước đức nhân duyên cho
chúng ta từ nhiều đời nhiều kiếp đã có đủ nên chúng ta mới gặp được pháp
môn niệm Phật này. Nhờ đầy đủ phước đức nên chúng ta dễ tin sâu, nguyện
thiết, hành chuyên đối với pháp môn này. Vì thế trong Kinh A Di Đà nói rất
rõ: “Bất khả dĩ thiểu thiện căn phước đức nhân duyên đắc sinh bỉ quốc”,
nghĩa là, không thể đem một ít thiện căn phước đức nhân duyên mà được sinh
về nước đó đâu.
Chúng ta đã có đủ thiện căn phước đức nhân
duyên cho nên chúng ta y giáo phụng hành Pháp môn Tịnh độ một cách nghiêm
mật như thế này. Còn ngược lại chúng ta không có đủ thiện căn phước đức
thì khó mà gặp được pháp môn này, khó mà sinh về thế giới Cực Lạc.
Chúng ta thử nghĩ, ngài Văn Thù, Phổ Hiền tu vô
lượng kiếp mới đến thế giới Hoa Tạng, mới gặp được Pháp môn Tịnh độ. Còn
chúng ta ngày nay, vừa mới học Phật mà đã tìm được pháp môn này. Hoa Tạng
hải hội có 41 vị Pháp thân đại sĩ Bồ Tát gặp quý vị, không một vị nào mà
không bội phục. Tại sao các ngài lại bội phục? Là vì các ngài tu vô lượng
kiếp mới tìm được pháp môn này, còn chúng ta không hao một chút sức nào
cũng gặp được. Các ngài đầy đủ “Tín, nguyện, hạnh” cầu vãng sinh về thế
giới Cực Lạc thấy Phật thành Phật. Ngày nay, chúng ta cũng áp dụng phương
pháp như thế, lý luận như thế, vãng sinh Tây phương, thấy Phật thành Phật
cùng với các ngài không hai không khác.
Đa số người phàm phu chúng ta không tin Phật A
Di Đà là có thật mà cứ nhận cái giả làm cái thật? Cái gì là giả? Tiền tài,
danh vọng, đối với người trí là người ta vứt bỏ nó ngay, không cần ngó
ngàng gì đến nó, tại sao người trí vứt bỏ cái giả ngay? Là vì người ta
hiểu rõ khi chúng ta chết, chúng ta đâu mang cái giả, của cải vật chất đi
theo đâu, mà chúng ta chỉ mang đi theo được sự công phu tu tập của chúng
ta mà thôi.
Có ai đó hỏi chúng ta: Tu theo Pháp môn Tịnh độ
là tu cái gì?
Trả lời: Tu “Thanh tịnh, bình đẳng giác”.
Tại sao phải tu thanh tịnh, bình đẳng giác?
Trả lời: Vì có đầy đủ Tam Bảo và tam vô lậu
học, đây là cốt lõi của đạo Phật.
Thanh tịnh: Tăng bảo – Giới
Bình đẳng: Pháp bảo – Định
Giác: Phật bảo – Tuệ
Vậy tu phương pháp nào để đạt được tam học và
Tam Bảo?
Trả lời: Chỉ cần dùng tín nguyện trì danh hiệu
Phật A Di Đà là đủ. Sáu chữ Nam mô A Di Đà Phật mà chứa đủ tam học và Tam
Bảo. Thật phải nói pháp môn niệm Phật thù thắng vi diệu, bất khả tư nghì
vô cùng.
Trong Kinh Niệm Phật Ba La Mật, Đức Phật dạy:
“Đây là môn tu thích đáng khế hợp mọi căn cơ mà chư Phật dùng để đưa hết
thảy muôn loài xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết-bàn tại thế, thành Phật
trong một đời”.
Niệm Phật cứu độ khắp hết thảy chúng sinh muôn
loài.
Niệm Phật có ba điều lợi ở địa ngục.
1.- Hồi hướng công đức cho ông bà cha mẹ từ
tiền kiếp.
2.- Các tội nhân nghe tiếng niệm Phật đều được
giải thoát.
3.- Được vãng sinh Tây phương Tịnh Độ.
Chúng tôi lấy ví dụ để chứng minh một trong ba
điều lợi trên.
Có hai vợ chồng, người vợ rất hiền lành, mỗi
ngày chị ta rất siêng năng niệm Phật, chồng thì không thích niệm Phật,
nghe niệm Phật là anh ta khó chịu. Để cho chồng mình có sự lợi lạc sau khi
chết, cho nên mỗi ngày chị ta bắt chồng đánh trống cho chị niệm Phật.
Người chồng này rất khờ khạo cho nên vợ sai gì làm nấy. Vì vậy, cứ mỗi
ngày anh ta đánh trống cho vợ niệm Phật. Sau khi lấy nhau ba năm, anh ta
chết, liền rơi vào địa ngục rất chi là kinh ngạc. Đến giờ hành hình tội
nhân, có một con quỷ cầm một cây sắt đánh vào tội nhân, con quỷ đánh trật,
cây sắt va chạm vào một vạc dầu kêu lên một tiếng giống tiếng trống. Lúc
này anh ta nhớ lại sao tiếng kêu này giống mình đánh tiếng trống cho vợ
mình niệm Phật quá vậy. Lúc này duyên niệm Phật đã khởi dậy, anh liền niệm
A Di Đà Phật. Nhờ niệm Phật, anh ta thoát khỏi cảnh địa ngục trở về nhân
gian, các tội nhân ở trong đó nghe tiếng niệm Phật đều được vãng sinh hết
thảy.
Chúng ta chỉ cần gieo nhân niệm Phật thì đời
đời kiếp kiếp chúng ta không bao giờ gặp quả khổ. Vì thế, trong Kinh Pháp
Hoa nói rằng: “Nếu có người nào đi vào tháp miếu có thờ tượng Phật, miệng
chỉ cần xưng lên Nam mô Phật, hay đưa tay lên tỏ lòng cung kính thì cũng
được thành Phật”.
Như chúng ta thấy, ông Tu Bạt Đà La là vị đệ tử
cuối cùng của Đức Phật. Tại sao ông Tu Bạt Đà La được Đức Phật xuất gia và
chứng quả A-la-hán? Là vì thế này, trong nhiều kiếp quá khứ ông ta là một
người đi đốn củi ở rừng. Một hôm, bị cọp rượt, ông ta hoảng hốt leo lên
một cây lớn, con cọp cứ hung dữ, cắn xé dưới gốc cây hết sức ghê gớm, ông
ta rất sợ, liền lớn tiếng niệm “Mô Phật” thì con cọp liền bỏ đi xa.
Chúng ta thấy chỉ cần niệm một tiếng Mô Phật
thôi mà được gặp Phật xuất gia chứng quả vị A-la-hán. Huống hồ chúng ta
niệm Phật ròng rã suốt ngày đêm, chắc chắn chúng ta sẽ được thành Phật
sớm.
Chính vì sự lợi lạc số đông cho chúng sinh,
hiện nay trên khắp thế giới biết bao nhiêu vị cao tăng xiển dương Pháp môn
Tịnh độ.
Chúng tôi xin đưa ra một vị cao tăng đang xiển
dương Pháp môn Tịnh độ là Pháp sư Tịnh Không, là người Trung Hoa, hiện
đang sống tại Úc Châu, tài đức và công năng tu tập của ngài về Pháp môn
Tịnh độ cũng đã vang vọng khắp toàn thế giới mà ai ai cũng biết cả.
Pháp sư Tịnh Không đã thuyết giảng rất rõ ràng
trong Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác:
“Tôi tin Tịnh độ là vì giảng Kinh Hoa Nghiêm 17 năm, tôi từ Kinh Hoa
Nghiêm khai ngộ đại triệt đại ngộ. Ngộ cái gì? Ngộ vì thấy mười phương chư
Phật niệm Phật mà thành Phật, vì thế tôi quyết tâm học pháp môn này mà
không cần đến Kinh Hoa Nghiêm nữa. Tôi xem Kinh Hoa Nghiêm là công cụ đưa
tôi vào Tịnh độ cũng giống như qua sông rồi không cần đến thuyền nữa”.
Lời cuối cùng, chúng tôi thiết tha kêu gọi toàn
thể mọi người hãy sớm bừng tỉnh tin ngay lời Đức Phật dạy mà một lòng
thiết tha niệm Phật A Di Đà cầu vãng sinh về thế giới của ngài. Tóm lại,
pháp môn niệm Phật A Di Đà đã hợp thời cơ, khế lý, lại còn nhiếp cả Thiền,
Giáo, Luật và Mật, thật là viên mãn. Mỗi câu “A Di Đà Phật” là tâm yếu của
chư Phật, dọc thì quán suốt năm thời, ngang lại gồm thâu tám giáo và điểm
son của Pháp môn Tịnh độ là từ phàm phu nặng nghiệp quả mà liền thẳng đến
ngôi bất thoái, không như các pháp môn khác dù phá được phiền não, nhưng
khi lâm chung, tinh thần hôn mê, lại quên mất sở tu, sở chứng, làm cho tâm
thoái chuyển, lại phải đọa vào bát nạn tam đồ. Do đó, Pháp môn Tịnh độ
được đại đa số Phật tử tu trì. Thế mà đến nay vẫn còn nhiều điều nghi vấn
thì thực cần phải lưu tâm nghiên cứu để làm sáng tỏ những điểm còn mờ ám,
mới mong thoát khỏi mê đồ đáng tiếc.
Mấy lời tâm huyết
Thuyết pháp giảng kinh, viết
sách giáo lý nhà Phật hoặc in kinh sách đem phát cho mọi người xem, để họ sớm
giác ngộ. Được như thế hạnh phúc không gì bằng, đó gọi là pháp thí.
Nếu không
đủ điều kiện làm những việc ấy, chúng ta thỉnh một số kinh sách, chịu khó đem
đến từng nhà cho mượn đọc, sau đó lần lượt cho nhà khác mượn, hoặc đọc cho kẻ
khác nghe, nhất là cho người không biết chữ. Việc làm này quý giá vô biên, đây
cũng gọi là Pháp thí.
Chính Đức Phật đã dạy: “Trong
các sự bố thí chỉ có Pháp thí là công đức lớn nhất, không có công đức nào sánh
bằng”.
Tưởng về
lợi cũng như về danh, chúng ta đừng nên lo nghĩ, mà điều tối cần là làm sao
cho rạng rỡ chánh đạo. Đó là mục đích chính, thiêng liêng và cao cả nhất của
chúng ta. Nền móng đạo pháp cần nhờ sự chung lưng góp sức của chúng ta. Vậy
mỗi người nên xây đắp vào đó một ít vôi, một ít nước, một tảng đá hay một viên
gạch v.v… ngõ hầu làm cho nền móng ấy được thêm bền vững và kiên cố đời đời.
Chúng ta không nên quan niệm gì về công đức, mà hãy nên nghĩ đến những người
lầm đường lạc lối, sống trong vòng tội lỗi không có lối thoát chung quanh
chúng ta. Hãy mau cứu vớt họ, cảnh tỉnh họ để cùng quay về chân lý, giúp họ
tìm ra lẽ sống và niềm vui. Được thế, chính ta đã làm lợi ích cho Phật pháp
vậy.
Với hoài bão cuộc đời, chúng ta hãy “Tất Cả Vì Phật Pháp”. Hy vọng mấy lời tâm
huyết này được nhiều vị hảo tâm in kinh sách cho mọi người xem!
Được vậy, niềm phúc lạc vô bờ chắc chắn sẽ đến với chúng ta. Tha thiết mong
mỏi như thế!
Tặng cho thân nhân một số tiền nhỏ, lòng mình không vui. Nhưng mình không đủ
sức tặng nhiều hơn nữa. Chỉ có một cách là tặng các loại sách tu hành để xây
dựng cho đời sống thanh cao, thì dù một quyển sách giá chỉ vài ngàn, nhưng vẫn
quý hơn tiền trăm bạc triệu.
Quý vị nào muốn phát tâm ấn tống kinh sách xin liên hệ: CHÙA HOẰNG PHÁP, xã
Tân Hiệp, huyện Hóc Môn, TP. Hồ Chí Minh.
ĐT: 7130002 - 7133827.
Email:
hoangphap@hcm.vnn.vn
--- o0o ---
Trình bày: Linh Thoại
Cập nhật: 01-02-2005