Pháp
Tạng
Phật Giáo Việt Nam
Tập
85
Luận sử tông Tịnh độ
Việt dịch:
Quảng Tấn - Quảng Ân - Quảng Bình
Quảng Hiếu
- Huệ Hải - Quảng Xả
Quảng Mẫn
- Tâm Đức - Huệ Chí - Tâm Đại
Hạnh Minh
- Nhuận Độ - Nguyên Thành
Tâm Hiếu -
Như Giáo - Nguyên An
Chứng Nghĩa:
Thích Đổng Minh
Phụ chú:Thích
Tâm Nhãn
Chùa Long Sơn, Nha Trang
Phật Lịch: 2548 - 2004
--- o0o ---
16.
TƯ
TƯỞNG TỊNH ĐỘ CỦA CƯ SĨ
DƯƠNG NHÂN SƠN
Nguyên tác:
Du Hiệp
Việt dịch:
Thích Tâm Hiếu
Cư
sĩ Dương Nhân Sơn là một nhân vật Tiền bối đại biểu cho hàng sử học Phật
giáo thời Trung Quốc cận đại. Ông rất tôn sùng pháp môn Tịnh độ và thường
nói: “Lấy niệm Phật vãng sanh làm tông chỉ, xem việc hoàng pháp lợi sanh
là trợ duyên”.
Để trình bày quan điểm của
Ông về pháp môn tông Tịnh độ thì những quan điểm ngôn luận này thường thấy
rải rác trong các tác phẩm của Ông. Nhưng nhận thức của Ông đối với pháp
môn Tịnh độ hoàn toàn không đồng với những người tín ngưỡng Tịnh độ bình
thường, mà quan điểm độc đáo của Ông đều nằm trên các phương diện lý luận
thực tiển, có nhiều chỗ không đồng với quan điểm những người đi trước. Nay
tóm tắt biên tập lại, để thấy một cách đại khái tư tưởng Tịnh độ của Ông.
Tịnh độ tông là một tông
trong các tông của Phật giáo ở Trung Quốc, trong quần chúng, nó có nền
tảng lớn hơn các tông khác. Từ đời Tống, thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ mới
đề xướng Thiền Tịnh hợp nhất, nên về sau các tông phái của ngài đều dung
hợp thâu nhiếp pháp môn Tịnh độ, đem ảnh hưởng đó khuếch trương rộng lớn
tông mình, tuyên truyền qua bằng con đường ngắn dễ thực hành, với ý chỉ
phổ biến tín ngưỡng tông giáo đến khắp nơi trong quần chúng. Phần thực
hành pháp, xem nặng về trì danh, còn giảng thuật thì đa phần cái cũ cứ
chồng lên cũ không được phát huy, dồn chứa lâu ngày tự nó không tránh khỏi
chạy theo về hình thức. Còn việc đề xướng về pháp môn Tịnh độ của Cư sĩ
Dương Nhân Sơn thì không giống như vậy, Ông đem sự tu tập và việc hoằng
pháp lợi sanh cùng việc in ấn kinh Tạng kết hợp lại với nhau để bổ sung
cho nội dung thực tiển của pháp môn Tịnh độ; đồng thời cũng để đề cao rõ
tánh tư tưởng của pháp môn này. Đây là điểm nổi bậc nhất. Ở đây, Ông đặc
biệt chú trọng đưa vấn đề tu tập pháp môn Tịnh độ cần phải lấy “phát Bồ-đề
tâm” làm nhân, đây là một điều nhắc nhở hết sức cẩn thận và thiết thực.
Học Phật cốt yếu là phát tâm Bồ-đề, đây là câu mà mọi người thường nói.
Nhưng thông thường đối với điều gì quen thuộc rồi thì không còn để ý nữa.
Thật ra đây là giá trị tối cao được người học Phật nhận thức sâu xa về đạo
lý căn bản. Cư sĩ Dương Nhân Sơn đối với phần biên soạn “Tịnh độ tông lược
thuyết” là lời nói mở đầu của hàng tiền bối “Tông này lấy quả địa giác làm
nhân cho địa tâm” nhưng nhận thức của Ông và vãng sanh Tịnh độ là cuối
cùng cũng để thành Phật. Cho nên tu tập pháp môn này, trước hết cần phải
trồng cái nhân thành Phật, đây chính là phát tâm Bồ-đề. Ông nói pháp thế
gian và pháp xuất thế gian đều không ra ngoài phạm vi của nhân quả. Trong
kinh “Vô lượng thọ” nói ba hạng vãng sanh đều lấy phát Bồ-đề Tâm làm gốc,
tuyệt đối không có cái lý: không có nhân mà có quả. Đối với việc tiếp dẫn
người độn căn, tuy chưa thể yêu cầu họ phát cùng một đại tâm này, nhưng
cũng nên dạy cho họ phát tướng của tâm này. Ông cho rằng phát tâm có hai
loại: Ở địa vị phàm phu phát tâm là phát tứ hoằng thệ nguyện, đến khi lòng
tin vững vàng thì mới chính thức phát tâm Bồ-đề, mà phát tứ hoằng thệ
nguyện chính là cái nhân của tâm Bồ-đề. Vãng sanh Tịnh độ là nương nhờ vào
cái nhân này, mà cứu cánh thành Phật thì cũng nương nhờ vào cái nhân này,
đây là điều kiện tất yếu không thể thiếu của hành giả tu Tịnh độ. Vấn đề
này cực kỳ quan trọng cần thiết cho sự hoàn bị đức tin của sự tín ngưỡng
tông giáo, là yếu chỉ của tông Tịnh độ. Để thêm sự đề cao phát triển ý
nghĩa của tư tưởng trên mà đứng trên một góc độ để nhìn lại, thì sở dĩ Ông
thường nói, pháp môn Tịnh độ chẳng phải là căn khí của hàng Đại thừa thì
không thể lãnh hội, lại khen ngợi kinh Hoa nghiêm, sau cùng tán thán
Bồ-tát Phổ Hiền dùng mười đại nguyện vương để dẫn dắt hữu tình về Cực lạc
… nhưng thật ra là phải tham vấn đến năm mươi ba vị1 ...
Do đó Ông hết sức phản đối
về cách nhìn theo quan điểm của mười niệm vãng sanh, mà không nêu lên vấn
đề phát tâm Bồ-đề và tu các hạnh. Ông nói pháp môn Tịnh độ bao gồm cả ba
căn cơ, mười niệm vãng sanh trong kinh “Vô lượng thoï” và kinh “Quán vô
lượng thoï” đều nói chỉ thuộc về hạ phẩm. Cần phải phát tâm Bồ-đề, tu tập
các công đức, thì mới sanh vào bậc trung và bậc thượng. Nếu bỏ mất tâm
Bồ-đề và các hạnh, thì chỉ có thâu nhiếp bậc hạ căn, không thể dung nhiếp
được bậc trung căn thượng căn, thì đâu có thể nói đó bao quát cả ba căn
cơ.
Cư sĩ Nhân Sơn đặc biệt đề
xướng thuyết phát tâm Bồ-đề làm chánh nhân của sự vãng sanh. Vả lại còn
bao gồm cả ý nghĩa thích hợp căn cơ chậm lụt để thích ứng với thời đại.
Ông cho rằng thời bấy giờ người học Phật pháp không thể tất cả đều cầu đắc
đạo, nếu chấp chặc vào việc cầu đắc đạo, thì trái lại dễ bị ma chướng. Nếu
muốn đoạn dứt việc đời và trừ đi vạn duyên mới học Phật, thì ở đời rất ít
người đầy đủ điều kiện này. Vì thế ở hiện tại không thể gấp gáp cầu chứng
đắc, mà phải dụng tâm vào việc hoằng pháp lợi sanh là trên hết; lấy vãng
sanh Tịnh độ để làm tư lương. Có thể lấy phát Bồ-đề tâm làm nhân, lại quán
thông suốt các hạnh, thì việc phải làm trong tất cả thế giới đâu không
phải là các hạnh của Bồ-tát. Dù cho có làm việc gì cũng đều có thể tu tập
được, không bỏ việc thế tục, có thể tu hành trong mỗi lúc, mỗi niệm mỗi
niệm hướng về Tịnh độ. Như vậy, đem tấc cả pháp thế gian và pháp xuất thế
gian đưa vào pháp môn niệm Phật. Vì vậy trong kinh Hoa nghiêm thể hiện rõ
việc dung nhiếp cảnh giới vô ngại, là vì ước lược trong cái rộng lớn, từ
chỗ phức tạp rút gọn lại thành giản lược để thực hành pháp môn, cho nên
pháp môn này được gọi là đại phương tiện trong phương tiện. Lại có người
hoài nghi về việc tu tập của pháp môn này, nên không cố gắng để chuyên tu
một cách thiết tha. Cư sĩ Dương Nhân Sơn giải thích, là do không hiểu biết
rõ pháp môn Tịnh độ, cần lấy sự hồi hướng, nương về cuối cùng để thành
Phật làm tông chỉ yếu chỉ này bao quát hết tất cả pháp môn, mà đem tất cả
pháp môn quy về pháp môn Tịnh độ một cách hài hòa vô ngại. Nếu không như
vậy, sợ lâu ngày rồi sẽ sanh ra nhàm chán, không thấy hướng để vượt lên,
thì ắc sẽ bị thối chuyển. Lợi ích có thể thấy của sự lấy tâm Bồ-đề làm
nhân, đưa đến dung nhiếp pháp tu của Vạn hạnh, chính là phương hướng cần
phải nổ lực của người tu tập pháp môn Tịnh độ.
Lại nữa, cư sĩ Nhân Sơn
đối với pháp môn niệm Phật thọ hưởng chân thật, đồng thời Ông hết sức xiển
dương đến chỗ sâu xa cùng cực. Ông cho rằng thực hành pháp môn niệm Phật,
cần phải đặt nặng ngay đương niệm, phải lấy một câu đương niệm làm chủ. Có
người phát tâm niệm Phật, tự nói với mình rằng muốn đạt được kết quả cao
thì phải đợi sau mười năm, Ông không đồng ý lời nói của người đó. Chủ
trương chân chánh của việc niệm Phật, một ngày niệm Phật thì một ngày vãng
sanh, ngày ngày niệm Phật ngày ngày vãng sanh, không luận bàn tới thời
gian, đến khi mạng căn đã đoạn liền được vãng sanh, không đợi về sau nương
tựa, thì cần gì phải đợi sau mười năm mới có kết quả. Lại nói, chân chánh
của việc niệm Phật là miệng niệm một câu Hồng danh (danh hiệu Phật) với
đức tin từng niệm từng niệm, không nương tựa vào bên nào, cắt đứt sự giao
tiếp trước sau, đây chính là chỗ đương niệm vậy. Lấy một câu niệm Phật
đương niệm này làm chủ, liền ngay đây vượt lên địa vị bất thối. Đây chính
là con đường tắt nhưng rất rắc rối của việc niệm Phật vãng sanh. Có người
hỏi cách hạ thủ công phu để niệm Phật, thì Ông dẫn lời nói của pháp sư Đàm
Loan: “Niệm Phật tâm không còn phân biệt trước sau, tâm không bị gián
đoạn. Để giải thích, cho dù đây là thiên niệm hay vạn niệm chỉ nên dùng
một câu đương niệm để làm chánh nhân cho việc vãng sanh. Cho nên ở đây gọi
là “Tâm không còn phân biệt trước sau” (Vô hậu tâm). Câu trước đã qua, câu
sau chưa phát, chuyên tâm chú ý niệm một câu đương niệm, đó gọi là “Sự
nhất tâm”. Cho dù thời gian có thế nào đều có thể vãng sanh. Như là mỗi
niệm mỗi niệm tiếp nối nhau, lâu ngày thì thành thạo, đương niệm cũng dứt,
liền nhập vào “Lý nhất tâm” thì việc sanh phẩm, ắt sẽ cao, gọi là “Tâm
không bị gián đoạn”, nhưng cũng chỉ là cảnh giới thuần nhất không sanh tâm
sau. Như đem sự niệm Phật ở hiện tại để biện minh cho lộ trình trước thì
đây chính là pháp tưởng của tâm sau. Mạng sống của con người chỉ trong
thời gian hơi thở ra vào thế thì có thể tồn tại tâm sau này. Ông lại nói,
một niệm niệm Phật toàn niệm đều là Phật, Phật thì không có xưa và nay,
niệm cũng không có xưa và nay. Một niệm trùm cả ba đời, Tân Phật tức là
Cựu Phật. Cảnh giới thuần nhất của tâm sau tức là tâm không gián đoạn,
thực tế ý nghĩa này bao trùm dung nhiếp cả ba đời, có thểá thấy thọ dụng
chân thật của sự niệm Phật, chính là ứng hợp ở chỗ dưới thì nhất niệm,
trên thì thể nhận .
Từ đó, cư sĩ Nhân Sơn đối
với vấn đề của tha lực và tự lực, cũng đề xuất ra cái nhìn của mình. Thông
thường việc cầu vãng sanh Tịnh độ, đều tin theo cái lực tiếp dẫn đại
nguyện của đức Di-đà, do đó mà đời sau phân ra “Tha lực giáo”. Cư sĩ Nhân
Sơn cho rằng vãng sanh là nương vào tha lực, nhưng cũng cần có tự lực. Đức
Di-đà tuy có đại nguyện (tiếp dẫn) mà (chúng ta) “hết lòng tin ưa muốn
sanh vào nước kia (Tịnh độ)” thì xuất phát từ tự lực, thậm chí lúc vãng
sanh, sanh phẩm có cao thấp, thấy Phật cóù nhanh chậm, sự chứng đạo có cạn
hay sâu, tùy theo sự thọ ký trước sau, đều là ở trên phần tự lực. Tu hành
có sự khác nhau, nên không thể hoàn toàn dựa vào tha lực mà xem nhẹ phần
tự lực. Nhưng cũng không thể bỏ qua sức mạnh của tự lực, còn xem nặng về
phần tự lực thì khiến cho hành giả lo ngại không quyết định rõ ràng, điều
đó lại làm cản trở việc vãng sanh. Cho đến xem nặng về tha lực, thì cũng
dễ dàng chạy theo duyên đời, không tự cố đứng lên, sự vãng sanh không hoàn
toàn nhờ vào nguyện tiếp dẫn. Nói thuần túy về tha lực thì Ông ta đặc biệt
phản đối và cho rằng tha lực tự lực, hai cái đó không thể đặt nặng bên
nào, mà cần phải có cái nhìn thống nhất. Nó được ví như hai bánh của chiếc
xe, hay hai cánh chim, Ông dẫn lời kệ của ngài Vĩnh Minh: “Ngàn người tu
thì ngàn người vãng sanh”. Ông đề xướng chữ “Tu” để khích lệ hành giả, tức
là bao gồm cả ý nghĩa này. Lại nữa vấn đề này lại được chú ý đối với sự đề
xướng pháp môn quán tưởng thì Ông cho rằng pháp môn niệm Phật không nên
hạn chế về chấp trì danh hiệu, mà bên trong nhớ nghĩ quán tưởng cũng quan
trọng như nhau. Ba bộ kinh của Tịnh độ (Đại kinh2) đề cao bổn nguyện,
(Tiểu kinh3) chuyên chú vào trì danh hiệu, (Quán kinh4) thì chỉ dạy con
đường quán tưởng. Các vị thiền sư thời cận đại lấy pháp thâm diệu để quán
tưởng, người mà căn trí ám độn khó mà vào, nên môn trì danh niệm Phật được
thịnh hành, còn con đường ngắn của pháp môn quán tưởng không được dùng.
Tại sao hai bộ Đại kinh, Tiểu kinh đều nói rõ ràng cảnh giới y chánh trang
nghiêm của miền Cực lạc? Lời cuối của Quán kinh có nói: “Đức Phật dặn ngài
A-nan, thầy khéo ghi nhớ lời này”, tức dặn bảo ngài trì danh hiệu của đức
Phật Vô Lượng Thọ, và pháp môn quán tưởng như văn trên đã nói, qua đó đã
chỉ rõ pháp quán tưởng và trì danh hiệu hỗ tương dung nhiếp với nhau.
Nhưng sợ người đời sau đem pháp quán tưởng và trì danh hiệu phân chia
thành hai con đường, cho nên nói lời dung nhiếp này là để hiểu tỏ điều đó.
Nhân đây, Ông hết sức phản đối về việc bỏ đi thuyêát thực hành pháp môn
quán tưởng, vì đó là con đường đưa đến một ngàn năm sau pháp sẽ xuống dốc.
Cho nên người tu tập pháp môn Tịnh độ, quán và hạnh cần phải tương ứng,
thì mới có thể nhập vào niệm Phật tam-muội. Đạo lý liên quan về sự tu tập
pháp môn quán tưởng, Ông bằng lòng với ví dụ “Người cầm gương soi thì sẽ
thấy hình ảnh của mình” như trong “Quán kinh” đã nói ở trên. Hình lớn hay
nhỏ đều tùy theo mắt nhìn, vì tất cả pháp quán tưởng đều không ngoài lý
này. Trong đây nghĩa là tự thấy hình dáng mặt mình, tức là ám chỉ người tu
quán không nên tác tưởng khác. Phàm có sắc tướng thì đều có thể thấy, đâu
không phải là thân tha thọ dụng (thọ dụng thân khác). Đây tùy theo tâm lý
chúng sanh, mỗi mỗi không đồng nhau, hiểu rõ nghĩa này, thì đối với pháp
môn quán tưởng không còn nghi ngờ. Đời Đường, ngài Thiện Đạo pháp sư giải
thích “Quán kinh”, nói hành giả thành tựu mười hai pháp quán tưởng, tức là
đã vượt qua và sanh lên thượng phẩm. Cư sĩ Nhân Sơn giải thích thêm: Nói
khi thành tựu pháp quán thì Ta bà tức Cực lạc, Cực lạc tức Ta bà hòa nhập
với nhau, không trở ngại không tạp uế, tương ưng với pháp giới sự sự vô
ngại của Hoa nghiêm. Do vậy, bậc này vượt lên thượng phẩm thượng sanh, Ông
cho rằng từ pháp quán mười ba trở xuống là đối với hạng căn cơ thấp mà
nói. Còn chủ trương thì sau khi thành pháp quán tưởng thứ mười hai cũng
phải tu các pháp quán ở dưới. Để lợi lạc cho sự tiếp dẫn, lấy pháp quán
thứ mười ba để làm mạch nối trong mười sáu quán môn.
Đây là do hạnh môn của
Bồ-tát không ngoài việc trên cầu Phật đạo dưới hóa độ chúng sanh. Thành
tựu mười hai pháp quán tưởng trước là chỗ cùng cực của việc trên cầu Phật
đạo, ở dưới thì quán tưỏng chín phẩm vãng sanh, đây là hạnh hạ hóa chúng
sanh. Vì vậy, trước nói pháp quán tưởng là đặt tự tâm hoàn toàn nhập vào
biển nguyện của Di-đà. Sau đó quán pháp tức là hoàn toàn dung nhiếp biển
nguyện Di-đà quy về tự tâm; như vậy từng bước từng bước đi vào trùm khắp
tất cả, có thể thấy cảnh giới Cực lạc và cảnh giới Hoa nghiêm đều không
khác nhau. Lại nói từ pháp quán mười bốn cho đến pháp quán mười sáu, phân
biệt quán chín phẩm vãng sanh của ba bậc thượng, trung, hạ để mà độ thoát.
(Cư sĩ Nhân Sơn y cứ vào đó mà đưa ra chín phẩm được nói trong kinh, nhưng
trong quán tưởng lại dung nhiếp luôn hạnh giáo hóa gồm cả không phải là
người tu pháp quán tưởng mà được vãng sanh thì nhờ vào phẩm này, như thành
tựu được pháp quán thứ mười hai rồi thì mới vượt lên thượng phẩm thượng
sanh); Đây là thâu nhiếp chủng tánh chín giới vào trong pháp giới của một
đức Phật. Ở đây có thể thấy pháp giới chúng sanh tức là tự tánh chúng
sanh, không có hai cũng không có sự phân biệt, chẳng phải một chẳng phải
đường hướng, tức tương đương với cảnh giới giải thoát không thể nghĩ bàn.
Còn trong chín phẩm vãng sanh, thì sự thấy Phật có mau, có chậm, nhưng đã
vãng sanh tức là đã thấy Phật, hoặc trải qua tu tập mười hai đại kiếp hoa
nở mới được thấy Phật, tức là khi quán tưởng pháp này bao gồm cả thông
niệm, chỉ cho kiếp viên dung. Ở đây chỉ nói sơ, nói đến sự ấn chứng và
phát huy phần lớn đều chọn tông Hiền Thủ, mỗi mỗi đều có quan điểm độc đáo
của nó. (Lược nói trong kinh Quán vô lượng thọ) .
Ngoài ra cư sĩ Nhân Sơn
đối với sự xướng diễn thuyết pháp môn Tịnh độ, Ông cho rằng có những chỗ
không đồng ý được, nên có thêm vào chỉ để phân tích, còn bản thân Ông đưa
ra cách nhìn khác. Như pháp sư Thiện Đạo giải thích phần cuối của “Quán
kinh”: “Đức Phật dặn bảo ngài A-nan: ‘Ông hãy khéo léo giữ gìn lời nói
ấy’”. Nghĩa là bổn nguyện ước mong của đức Phật là chuyên xưng danh hiệu
Phật. Ông cho là không nên có cái hiểu như thế. Vì nếu chấp chặt điều này
cho là quả quyết, thì pháp quán mà đức Phật nói thành ra thừa sao? Vả lại
nếu Phật đặt nặng về trì danh hiệu Phật còn kinh này chép Đề-hi5 tu theo
pháp quán tưởng thì đâu chẳng phải tâm và nguyện trái nhau? Theo cái nhìn
của Ông, thì trong đó đã nói khéo giữ pháp quán tưởng và trì danh hiệu hỗ
tương dung nhiếp với nhau, không thể bỏ bên nào cho nên giải thích như
vậy, không trái với ý kinh.
Lại nữa, cư sĩ Nhân Sơn
đối với người xưa thì Ông lấy bốn độ (tứ độ)6 để giải thích thế giới Cực
lạc, lại đem sự hỗ tương thâu nhiếp trình bày để hiểu thông suốt. Ông biết
được dù tham cứu một cách rõ ràng tỉ mỉ cũng không cùng cái lý dung hợp.
Ông cho rằng nói về cõi Phật thì đầy đủ bốn độ, không thể luận bàn theo
một quan điểm. Trong kinh nói: Hoặc có cõi Phật hoàn toàn là Bồ tát ...
Tự nhiên đàm luận không có cõi trên cõi dưới. Y vào lời giảng trong ba
Tịnh độ tam kinh (kinh Vô lượng thọ, A-di-đà, Quán vô lượmg thọ): Tất cả
chúng sanh đều có thể vãng sanh qua nước kia (Cực lạc), đều tự nhiên được
thức ăn y phục, rốt ráo chứng đắc đến quả vô thượng Bồ-đề, tức là người
vãng sanh tuy chưa chứng Thánh vị, nhưng đã chẳng còn là phàm phu. Song
không thể nói quả quyết có cõi phàm Thánh đồng cư. Lại nữa hàng Nhị thừa
sau khi vãng sanh, tuy đã chứng quả Tiểu thừa, nhưng mới bắt đầu hướng vào
Phật Thừa, bậc này không còn là Thanh văn thì không thể nói có cõi phương
tiện hữu dư; trái lại, thế giới Cực lạc không phải không có cõi Di-đà báo
độ, tùy theo căn khí của người vãng sanh không đồng mà thấy quốc độ kia
sâu cạn khác nhau, đã vào biển nguyện Di-đà, thì nghiệp báo của mình hoàn
toàn xả, tự mình vượt khỏi sự trói buộc của phàm giới, không thể mỗi mỗi
vạch kẻ phân chia. Lại nữa, một số người bàn tán về cõi Tịnh độ, thích ca
ngợi Thường tịch quang tịnh độ, đây cũng không hợp với ý kinh. Chỗ ở của
chư Phật là Thường tịch quang tịnh độ bình đẳng không hai, đây chẳng phải
là chỗ đề cập đến của hàng Bồ-tát, huống chi là hàng phàm phu? Nếu có thể
nhập vào Thường tịch quang tịnh độ, thì không phân biệt thế giới này hay
thế giới kia, lại hà tất gì mà nhất định nói là Tây phương? Đã nói Tây
phương, thì tự mình nên lấy cõi Di-đà báo độ để quay về, đây chính là cõi
Tha thọ dụng. Chỉ có cõi mà đức Di-đà tự thọ dụng, mới là Thường tịch
quang tịnh độ (đây là Báo độ của đức Di-đà).
Ngoài ra, Ông đối với chỗ
soạn của Bành Tế Thanh7 về luận “Hoa nghiêm niệm Phật Tam-muội”, trong
đoạn vấn đáp cuối, nói đến Phương Sơn chấp chặt đã nêu lên chỗ Thập trụ sơ
tâm tức thành chánh giác. Bởi vì nếu nương vào tự lực, huân tập lâu đời
lâu kiếp, khuôn phép đường lối thì còn xa vời.
Cư sĩ Nhân Sơn cho rằng
những lời bàn về pháp môn viên đốn của Hoa nghiêm không hợp với nhau. Bành
Tế Thanh đối với tông chỉ và học thuyết của Phương Sơn hiểu biết còn mê
hồ. Còn nếu hoàn toàn nương vào quan điểm của Phương Sơn, cũng chỉ là pháp
môn của một thời một phương, không thể lập cái kiến giải cho mọi thời đại
được. Ở đây, Bành Tế Thanh đối với việc này lấy thời lượng làm thật pháp,
nên hiểu biết riêng mà bỏ đi sự kiểm chứng. Tế Thanh và cư sĩ Nhân Sơn đều
học thông suốt kinh Hoa nghiêm, đều có điểm thể hội và thâm nhập. Cư sĩ
Nhân Sơn đối với luận điểm đó, hiểu một cách rõ ràng, nên mới nêu lại quan
điểm tông chỉ Phương Sơn cho thích hợp. Nếu hiểu biết đúng cách thắng giải
nhất quán của Ông, thì bẻ gãy các lối lý luận lung tung, chỗ nào cũng nhận
thức đúng không còn lầm.
Lại nữa, pháp môn niệm
Phật từ trước tới nay chuyên nặng về trì danh hiệu, đến thời cận đại thì
chạy theo hình thức, lại mất luôn tính cơ giới đơn điệu. Nhằm đúng tình
hình thực tế, cư sĩ Nhân Sơn cho rằng tập khí của phàm phu thì rất nặng,
nếu chỉ dạy chuyên về trì niệm danh hiệu Phật lâu ngày thì sanh ra mệt
mỏi, tâm sẽ bị cảnh chuyển, thường thì nó sẽ đi vào con đường sai mà mình
không thể thấy được. Cho nên lấy chỗ thâm diệu của kinh luận để trừ đi cái
tình tưởng, khích lệ tiến lên mới thoát khỏi con đường thoái đọa. Tức là
nhắm vào lòng tin mà nói, cũng cần có thời cơ và thuận cảnh, thì mới được
tăng trưởng. Đây chính là kết hợp với chủ trương việc giảng dạy và hoằng
pháp lợi sanh mà thường ngày Ông ta đề xướng. Trước xem trọng pháp môn,
sau khi khai mở tánh giác của mình, khai triển pháp hành của pháp môn Tịnh
độ thêm dồi dào, đây là đề cao tánh tư tưởng của pháp môn Tịnh độ, cũng
để bắt nhịp thích ứng với tình huống phát triển của xã hội thời nay.
--- o0o ---
[
Mục
Lục] [01] [02] [03] [04] [05] [06] [07] [08] [09]
[10] [11] [12] [13] [14] [15] [16] [17] [18]
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật: 01-01-2005