Hòa Thượng
Thích Hồng Đạo
---o0o---
Lời giới thiệu
^
Về nhà chỉ có
một lối, nhưng phương tiện thì có nhiều ngả. Phật dạy có nhiều pháp môn
tu, nhưng chuyên tu một pháp môn nào cũng đều được liễu ngộ cả.
Tập “Pháp môn
niệm Phật” này, chuyên nói về sự niệm Phật. Hành giả nào muốn mau thành
Phật không gì qua niệm Phật. Nên biết sáu chữ Hồng danh chẳng luận già
trẻ, trai gái, sang hèn, nghèo giàu, kẻ mua gánh bán bưng, kẻ đi bộ,
người chèo thuyền, đều niệm Phật được. Nhưng phải phát nguyện sau khi
lâm chung thần thức được vãng sanh về Cực lạc, liên hoa hóa sanh.
Lại nữa, ai là
người muốn giải thoát sanh tử luân hồi, muốn viên mãn phước huệ, những
ai phát Bồ-đề tâm cầu thành Phật, nguyện độ chúng sanh, đều phải chuyên
tu niệm Phật.
Soạn giả tập
Pháp môn niệm Phật này, rất có công
phu lựa chọn các chỗ tinh yếu của lối tu niệm Phật, để cống hiến
cho độc giả.
Thừa nhàn, tôi
có xem qua tập Pháp môn niệm Phật này, rất lấy làm hoan hỷ, xin gởi lên
trang đầu vài dòng, để tán dương vận động đó. Ðồng thời giới thiệu với
các Phật tử bốn phương xa gần tập Pháp môn niệm Phật này.
Mong sao mọi
người may mắn được đọc và thực hành
mới thấm nhuần bổ ích, như ăn bánh thật, chớ không như bánh vẽ
trên giấy.
THÍCH THIỆN HÒA
Lời đầu quyển
^
·
Trong thế gian này, khổ nào cho
bằng khổ luân hồi sanh tử. Bởi vậy, bổn hoài duy nhất của chư Phật ra
đời là để cứu độ chúng sanh thoát
khỏi biển sanh tử. Mục đích
chính của người thật tâm tu hành theo đạo Phật
cũng chỉ là mong cầu thoát ly sanh tử
luân hồi. Vì còn sanh tử luân hồi là còn trải qua bốn
điều khổ căn bản hiển nhiên mà ai
cũng phải công nhận là: sanh,
già, bệnh, chết. Bốn điều khổ
đó, chúng sanh trong sáu đường: Trời, người, a-tu-la, địa ngục,
ngạ quỷ, súc sanh, không ai thoát khỏi được. Bỏ thân này lại
mang thân khác, chết nơi đây lại sanh
nơi kia, cứ trôi lăn trong sáu đường như thế mãi, trừ những người
tu hành đặng giải thoát.
·
Chư
Phật là bậc Vô thượng Y vương hay cứu bệnh sanh tử của chúng sanh. Nếu
chúng sanh nào chịu áp dụng môn thuốc Phật chỉ dạy sẽ dứt trừ được bệnh
sanh tử, tự nhiên muôn bệnh vạn khổ chi cũng đều do đó mà dứt hết. Trái
lại, có thuốc hay của Phật đưa cho mà không chịu uống thì làm sao hết
bệnh, giải khổ được.
·
Chư
Phật trong mười phương mẫn niệm chúng sanh cũng như mẹ nhớ con, nếu con
cứ lẩn tránh, dầu mẹ có nhớ cũng không biết làm sao! Trái lại, nếu con
nhớ mẹ cũng như lòng mẹ nhớ con thì mẹ con đời đời chẳng cách xa nhau.
Cũng như thế, nếu tâm chúng sanh hằng nhớ Phật, niệm Phật, thì đời này,
đời sau, quyết định sẽ thấy Phật, cách Phật không xa, chẳng cần dùng
phương tiện chi khác, tâm mình được khai ngộ.
·
Pháp
môn Tịnh độ, tức là môn niệm Phật, là phương thuốc thần diệu quý báu để
trừ bệnh khổ sanh tử của chúng sanh, do Phật Thích-ca, Di-đà kiến lập,
Bồ-tát Văn Thù, Phổ Hiền chỉ quy, đức Mã Minh, Long Thọ hoằng dương và
chư Tổ: Huệ Viễn, Thiên Thai, Thanh Lương, Vĩnh Minh, Liên Trì, Ngẫu Ích
xướng đạo để khuyến khắp Thánh, phàm, ngu, trí đồng tu hành vậy.
·
Nội
dung của tập sách này là gồm những lời dạy bảo hy hữu quý báu của chư Tổ
thuở xưa về môn niệm Phật, được tuyển chọn chép ra trong những sách mà
chúng tôi được hân hạnh xem qua. Ước nguyện những lời vàng vô giá trong
đây sẽ đem lại muôn phần lợi lạc cho những ai hâm mộ tu hành tịnh nghiệp
giải thoát.
·
Tu, chúng ta không nên lựa môn
khó, cao mới hay. Miễn là môn nào ta
làm được và có sự lợi ích
thiết thật là hay. Tu chỉ lo “một”
và “chuyên” là tốt. Muốn đến một địa
điểm nào, không ai bắt buộc ta
phải đi nhiều đường, hãy chọn
nẻo nào thẳng tắt là hơn. Từ sự loạn động đến sự yên tĩnh, chỉ có
pháp môn niệm Phật là giúp ta đắc
lực. Từ đây đến kia, từ Ta-bà đến Cực lạc cũng chỉ có con đường
“niệm Phật” là ngay thẳng nhất. Con đường ấy là nơi các vị tiền bối đã
đi, đã thật hành, là lối đi thẳng tắt đến đạo quả cứu cánh vậy.
PL. 2515, ngày 17-11 năm Tân
Hợi, 1971
THÍCH HỒNG ÐẠO
Chùa Quy Sơn Vũng Tàu
Kính ghi
LỜI BẠT
Quyển “Pháp môn niệm Phật” này được lưu
hành là do công trình của chúng tôi tuyển chọn, sưu tập những lời lẽ
hay quý ở các sách:
1) Pháp môn
Tịnh độ (HT. Thích Trí Thủ)
2) Hương quê
Cực lạc (Liên Du)
3) Ðường về Cực
lạc (TT. Thích Trí Tịnh)
4) Tịnh độ Thập
nghi luận (Liên Du)
5) Hồi chuông
cảnh tỉnh (TT. Thích Trí Tịnh)
6) Niệm Phật
thập yếu (TT. Thích Thiền Tâm)
Và việc
làm này cũng chỉ
nhằm mục đích tự lợi lợi tha, và đó cũng là bổn phận của người con Phật
vậy.
HỒI HƯỚNG CÔNG ÐỨC
^
Con nguyện đem công đức
này
Tạo thành quyển sách này
Nhan đề phép niệm Phật;
Ấn tặng trong tứ chúng
Y theo lời giáo huấn
Chư Phật cùng chư Tổ
Ðồng tu đồng chung
Vãng sanh Cực lạc quốc;
Cầu bốn ân ba cõi
Con cùng với chúng sanh
Tăng trưởng các căn lành
Ðều sanh về Cực lạc.
THÍCH HỒNG
ÐẠO
I.
NHỮNG LỜI VÀNG VỀ PHÁP MÔN NIỆM PHẬT
^
* Niệm Phật không khó, khó
ở bền lâu
* Niệm bền lâu không khó,
mà khó ở nơi nhất tâm.
1.
Pháp môn niệm Phật cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Ðây
là pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một
đời giáo hóa của Ðức Thích-ca. Trên như bậc Ðẳng Giác Bồ-tát, không thể
vượt ra ngoài phạm vi của môn này, dưới dù kẻ phạm tội nghịch ác cũng
được phần tế độ.
Tuy nhiên, bởi pháp môn cao siêu như
thế mà phần nhiếp cơ lại quá phổ cập, dùng ít sức mà thu thập kết
quả rất mau lẹ lớn lao, nên những vị
thông hiểu đôi chút về tông,
giáo đều cho là môn tu trì của kẻ ngu phu, ngu
phụ. Truy nguyên, cũng do các vị ấy
chưa hiểu rõ chỗ lớn, nhỏ, khó, dễ của Phật lực và tự lực.
Hai phương diện này, sự hơn kém thật
không thể dùng lời nói, văn tự hình
dung cho hết được. Vì sao? Bởi
tất cả pháp môn khác đều nương
theo sức giới, định, huệ tu cho đến
nghiệp sạch, tình không, mới có thể
thoát luân hồi sanh tử. Nhưng
địa vị nghiệp sạch tình không,
đâu phải là dễ được! Trong hai
phần hoặc nghiệp, dứt được kiến hoặc khó
cũng như ngăn chặn dòng nước đổ bốn
mươi dặm, huống nữa là tư hoặc
ư! Dù cho bậc tỏ ngộ cao siêu, nếu chưa dứt sạch phiền não,
vẫn còn bị luân hồi. Và một khi đã
thọ sanh thì kẻ thối thất trong một muôn có đến mười ngàn, kẻ tiến bộ trong
ức người khó được ba bốn. Thế thì tự lực không đủ ỷ lại, không chi vững
vàng. Những kẻ khoe mình là trí, không thuận theo lòng từ thệ nhiếp thọ
của Như-lai, thử nghĩ có nên tự phụ chăng?
Riêng về môn Tịnh độ, nếu người có đủ tín nguyện chân thiết, dùng
lòng chí thành niệm Phật như
con thơ nhớ mẹ và hằng ngày sự
hành vi không trái với đạo đức, thì đến khi lâm chung sẽ được nhờ
Phật tiếp dẫn sanh về Tây phương. Dù
người ấy hoặc nghiệp hãy còn,
nhưng khi đã vãng sanh thì chỗ sở đắc
cũng cao hơn bậc A-la-hán tình không
nghiệp sạch, vì lẽ chủng tánh không đồng. Kẻ chưa dứt nghiệp hoặc còn
như thế, người đã hết nghiệp không đợi phải luận nhiều! Ấy bởi do Phật
lực, pháp lực và tâm lực của chúng
sanh đều không thể nghĩ bàn; mà tâm lực lại
nhờ năng lực của Phật và Pháp, được
hiển hiện một cách toàn vẹn.
Cho nên, chỉ ỷ lại vào tự lực,
sánh với nương nhờ Phật lực, thật kém xa nhau hằng hà sa số sự
cách biệt của đất trời! Lại nên biết, đạo lý của môn Tịnh độ này không
thể đem luận chung với các pháp môn phổ thông khác vì đây là pháp môn
đặc biệt! Tôi thường có đôi liễn:
“Pháp môn cao cả, lợi khắp ba căn, nhân đây chín cõi đồng về, mười phương khen ngợi”
“Phật nguyện rộng sâu, không từ
một vật, nên được ngàn Kinh đều chỉ, muôn Luận tuyên bày”
(Trên đây là
lời của Ðại sư Ấn Quang, vị Tổ thứ 13 trong Liên tông
Phật giáo Trung Hoa)
2. Sáu chữ “Nam mô A-di-đà Phật” là từ tiếng Phạn phiên âm ra. Nếu
cắt nghĩa từng chữ một theo Phạn ngữ thì chỉ có bốn chữ mà thôi. Trước
hết, chữ “Nam mô” có 6 nghĩa: Kính lễ, quy y, phụng thờ, cứu ngã, độ
ngã, quy mạng. Chữ “A”“ nghĩa là không,
là vô, chữ “Di-đà” nghĩa là lượng.
Chữ Phật nghĩa là Giác giả.
Hợp cả bốn chữ lại có nghĩa là: Quy y kính lễ đấng giác ngộ vô
lượng.
Ðức Phật A-di-đà là Giáo chủ thế giới Cực Lạc. Ngài đã từng phát nguyện
rằng ai niệm danh hiệu Ngài, lúc lâm chung sẽ được Ngài tiếp dẫn sanh về
nước Cực lạc. Vì thế, về sau chúng sanh căn cứ vào đó mà xưng niệm danh
hiệu Ngài.
3.
Pháp môn Tịnh độ, tức là môn niệm Phật, do Phật Thích-ca, Di-đà kiến lập, Bồ-tát
Văn Thù, Phổ Hiền chỉ quy, đức Mã Minh, Long Thọ hoằng dương và
chư Tổ Huệ Viễn, Thiên Thai, Thanh Lương, Vĩnh Minh, Liên Trì, Ngẫu Ích
xướng đạo để khuyến khắp Thánh, phàm, ngu, trí đồng tu hành vậy.
4. Ðức Phật A-di-đà ngày xưa phát
48 lời nguyện làm duyên khởi tạo thành thế giới
Cực lạc. Từ đó về sau, chúng sanh trong mười
phương đều lấy sự phát nguyện vãng
sanh làm căn cứ tu hành của
tông Tịnh độ. Một đằng, Phật
nguyện tiếp dẫn, một đằng chúng
sanh nguyện vãng sanh, hai nguyện gặp
nhau,
hai lực lượng tự, tha hỗ trợ nhau mới
đủ sức kết thành quả vãng sanh. Vì
thế, người tu tịnh nghiệp
quyết phải phát nguyện dõng
mãnh.
5. Trong 48 lời đại nguyện của
Ðức A-di-đà,
lời đại nguyện thứ 19 nói một cách rõ
ràng rằng nếu có người chí tâm phát nguyện
muốn sanh về nước Ngài, lúc lâm chung nhất
định Ngài sẽ đến tiếp dẫn. Cho nên, hễ có
phát nguyện là quyết định phải được vãng sanh.
6. Không sanh về Tịnh độ tất phải đọa ác đạo.
Trong mười phương, số thế giới tuy nhiều vô tận, nhưng xét về phương
diện tịnh uế, thì chỉ có thể chia làm hai loại mà thôi: Một là Tịnh độ
của chư Phật, hai là tam giới (uế độ) của chúng sanh. Không sanh về bên
nọ, tất phải sanh bên kia. Sanh về Tịnh độ tức là thoát ly sanh tử, sanh
trong tam giới tức là còn sống chết luân hồi.
Ở cõi Trời, phước báu tuy nhiều
nhưng
vẫn có giới hạn và sai khác nhau, nên cuối cùng sẽ có ngày phước hết,
báo cùng, thọ mạng tất phải chấm dứt, để rồi tùy nghiệp mới mà
thác sanh qua kiếp khác, quanh quẩn trong tam giới.
Tất cả chúng sanh, nếu không được sanh về cõi Phật, tất nhiên sẽ phải
đọa vào ác đạo, không trước thời sau. Nếu muốn sanh về cõi Phật, đương
nhiên phải là niệm Phật. Ðó là một sự thật đương nhiên không thể phủ
nhận.
7. Do vì Ðức Phật A-di-đà có bổn thệ nguyện lực nhiếp thủ chúng sanh
niệm Phật, nên người dùng tín nguyện mà niệm Phật (tự lực) thời cảm
thông với nguyện lực của Phật, nương nguyện lực của Phật nhiếp thủ (tha
lực) liền đặng siêu thoát sanh tử luân hồi mà sanh về Cực lạc Tịnh độ.
Ðã được vãng sanh tức là vào bậc Thánh lưu bất thối, nên gọi là rất viên
đốn, rất huyền diệu và thành công cao.
8. Pháp môn niệm Phật là con đường phương tiện duy nhất hướng dẫn ta
và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta-bà về đến thế giới thanh tịnh Cực
lạc.
9. Nương pháp môn niệm Phật, ắt là
ta sẽ được toại bổn nguyện: Giải thoát, thành Phật, độ sanh.
Người cực ác tu còn thành tựu thay, huống ta chưa phải là kẻ ác!
10.
Ðức Phật Như-lai có dạy một phương tiện siêu thắng để bảo đảm sự giải
thoát, mà cũng để bảo đảm vững chắc bước đường thành Phật cho tất cả
chúng sanh: Pháp môn Tịnh độ, tức môn niệm Phật cầu sanh Cực lạc thế
giới. Theo lời Phật, dầu là hạng cực ác mà chịu hồi tâm tu theo pháp môn
này trong một thời gian rất ngắn (10 niệm) cũng được vãng sanh; đã được
vãng sanh thời là siêu phàm nhập Thánh, thoát hẳn sanh tử, bất thối Vô
thượng Bồ-đề.
11.
Với pháp môn niệm Phật này, không luận là kẻ trí ngu, không luận
là Tăng tục, không luận sang giàu, nghèo hèn, già trẻ, nam nữ, không
luận là sĩ, nông, công, thương... tất cả các giới trong xã hội đều có
thể tu tập và đều có thể thành tựu đặng cả.
12.
Văn Thù Bồ-tát nói: Các môn tu hành không môn nào qua môn niệm Phật.
Niệm Phật là “vua” trong các pháp môn.
13.
Ðức Quán Thế Âm bảo: Tịnh độ pháp môn là hơn tất cả hạnh khác.
14.
Mã Minh Ðại sĩ cho rằng: Chuyên tâm niệm Phật là phương tiện siêu thắng
của Ðức Như-lai.
15.
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ-tát nói:
Pháp môn niệm
Phật là tâm tông của chư
Phật, là con
đường giải thoát tắt nhất của mọi loài.
16. Pháp môn
Tịnh độ nhiếp cả Thánh
phàm, nhiếp cả
thiện ác, nhiếp cả chúng sanh, như biển lớn gồm thâu muôn dòng
vậy.
17. Ấn Quang Ðại sư cũng từng nói: Vì nương Phật lực nên tất cả mọi
người, không kể là nghiệp hoặc nhiều hay ít, cũng không kể là công phu
hành đạo cạn cùng sâu, miễn tin cho chắc, nguyện cho thiết, thời quyết
muôn người tu muôn người vãng sanh không sót một. Còn nếu là bậc đã đoạn
hoặc chứng chân mà cầu vãng sanh thời đốn siêu Thập địa. Bậc Thập địa mà
cầu sanh thời mau viên Phật quả. Vì thế nên cả các ngài Văn Thù, Phổ
Hiền, Mã Minh, Long Thọ... các đại Bồ-tát đều nguyện vãng sanh. Ðến như
những kẻ tạo ác cả đời, sắp đọa địa ngục, hồi tâm niệm Phật cũng được
giải thoát, như các ông: Trương Thiện Hòa, Trương Chung Húc, Hùng Tuấn,
Duy Cung... Hạng người phạm tội ác ấy mà còn được thành tựu thay, huống
là những người chưa quá ác, huống là những người lành.
18. Trong Kinh Ðại Tập, Ðức Phật có lời huyền ký: “Thời mạt pháp muôn
ức người tu hành, khó có một người được giải thoát, chỉ nương nơi pháp
môn niệm Phật mà được thoát khỏi luân hồi sanh tử”.
19. Trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Phật đã dạy: “Trong đời vị lai, khi
Kinh đạo diệt hết, Ta dùng lòng từ bi đặc biệt lưu lại kinh này tồn tại
trong một trăm năm, chúng sanh nào gặp được kinh này, đều có thể được độ
thoát như ý sở nguyện”.
20. Chân nghĩa của pháp môn Tịnh độ chỉ có Phật mới biết hết.
Trong các Kinh nói về Tịnh độ, sở dĩ Phật không dùng lý để lập luận một
cách chặt chẽ
mà chỉ khuyến phát tín tâm và thực
hành, không
phải pháp môn Tịnh độ không có lý nghĩa vững chãi, chẳng qua vì
nghĩa lý ấy quá
thâm diệu và “bất khả tư nghị”, nên không thể nào nói hết. Cảnh
giới Tịnh độ đã “bất
khả tư nghị”,
lại thêm ngữ ngôn chỉ hữu hạn,
không thể nào
nói đầy đủ được, dù cho có
nói nhiều đến
đâu, cũng chỉ diễn tả được một khía
cạnh nào đó
thôi, không sao tránh được thiếu sót, không sót bên nọ cũng sót
bên kia, hoặc nói được một thì sót đến mười. Ðó là các lý do khiến Phật
không lý luận mà chỉ khuyên tu trì, thực hành phép niệm Phật.
Chúng ta thử nghĩ, nếu phương pháp
trì danh niệm
Phật không phải thật có ý nghĩa cao siêu và công đức bất khả tư
nghị thì tại sao trong Kinh “Phật thuyết A-di-đà”, Phật dạy rằng khi
Phật nói kinh đó thì hết thảy chư Phật trong sáu phương đều tán thán và
hộ niệm? Như vậy, thì biết rằng pháp môn ấy đặc biệt và nhiệm mầu như
thế nào!
Vả lại, trong
kinh có nói: “Không thể nhờ một ít nhân duyên phước đức thiện căn
mà có thể vãng
sanh được”. Tiếp đó Ngài lại dạy: “Bảy ngày chấp trì danh hiệu,
đạt được nhất
tâm bất loạn thì liền được vãng sanh”. Như thế thì thiện căn
phước đức nhân duyên của sự chấp trì danh hiệu quả không phải nhỏ vậy.
21.
Trong 48 lời nguyện của Ðức Phật A-di-đà đều có câu “Thề quyết không thủ
ngôi Chánh giác”. Xin lưu ý rằng đó là một điều quan trọng. Không thủ
ngôi Chánh giác tức là từ chối quả vị Phật, không chịu làm Phật để riêng
an hưởng thường, lạc, ngã, tịnh một mình, trong khi chúng sanh trong
quốc độ còn đau khổ. Lời nguyện vừa hợp tình, vừa xứng lý, vừa quảng đại
bao la, thể hiện hoàn toàn được cả một trời đại từ đại bi thăm thẳm, khó
thể nghĩ bàn.
Trong Kinh “Phật thuyết A-di-đà” Ðức Thích-ca dạy rằng: Ðức Phật A-di-đà
thành Phật đã từ mười kiếp rồi và 48 lời nguyện của Ngài đều đã được
thực hiện hoàn toàn viên mãn. Nếu không như thế Ngài quyết không chịu
thành Phật.
22. Sở dĩ hành giả bình thời xưng niệm danh hiệu Phật, chính là ứng
hợp với đại nguyện thứ 18 của Ðức A-di-đà: “Mỗi ngày mười niệm quyết
được vãng sanh”; bình thời phát nguyện cầu vãng sanh tức là ứng hợp với
đại nguyện thứ 19 của Ðức A-di-đà: “Kẻ nào phát nguyện vãng sanh Cực
lạc, lúc lâm chung sẽ có Phật đến rước”; và bình thời làm các công đức,
hồi hướng công đức về quả Cực lạc tức là ứng hợp với đại nguyện thứ 20
của Ðức A-di-đà: “Kẻ nào hồi hướng công đức, nhất định được vãng sanh”.
Hằng ngày, tu phép thập niệm phát nguyện vãng sanh và hồi hướng công
đức, cũng như người có đóng bảo hiểm nhân thọ. Một bên là đóng bảo hiểm
vật chất. Một bên là đóng bảo hiểm tinh thần; cả hai đều nhất định toại
nguyện như nhau.
Như trên, ta
thấy quả vãng sanh là một quả có bảo đảm chắc chắn. Mà nhân vãng sanh
lại là một nhân dễ tu tập. Ðiều cốt yếu là phải thật hiểu chân tinh thần
của pháp môn niệm Phật mới sanh được chánh niệm và có được ba tư lương:
Tín, Nguyện, Hạnh.
23. Pháp môn
Tịnh độ dễ tu nhưng khó
tin. Trong Kinh
Phật thuyết A-di-đà, Ðức Thế-tôn
cũng thừa nhận như thế (nan tín chi pháp)
Ðã thế rồi, pháp môn này lại còn nương tựa hoàn toàn vào lòng tin để
thành lập, nương tựa vào lòng tin để duy trì; có lòng tin rồi mới sanh
khởi hành động và có hành động rồi mới đạt nguyện vọng nhân viên quả
mãn. Nếu không có lòng tin vững chắc thì tuy cửa Phật rộng mở, cũng
không thể gì vào được. Vì vậy nên Tín, Nguyện, Hạnh gọi là ba món tư
lương về Tịnh độ.
Nói tư lương cũng ví như nói người muốn đi xa cần phải có tiền của (tư)
và lương thực (lương). Nếu thiếu một trong hai thứ đó thì khó mà đạt mục
đích mình muốn đến. Cũng thế, ba món tư lương cần có để lên đường về
Tịnh độ cũng không thể thiếu một. Hơn nữa, ba món này liên hệ mật thiết
với nhau theo thứ tự trước sau tiếp nối sanh khởi. Trước hết phải do có
lòng tin thâm thiết mới có phát sanh nguyện cầu; do nguyện cầu thành
khẩn mới hăng hái hành động. Nếu lòng tin không có thì quyết nhiên
nguyện và hạnh không thể thành lập được.
24.
Tín là căn bản của người tu hành pháp môn Tịnh độ.
Thứ nhất, phải tin rằng ba bộ kinh nói về Tịnh độ là do Ðức Thế-tôn vì
lòng từ bi chân thật mà dạy cho chúng ta, quyết không phải như sách ngụ
ngôn giả thiết để khuyến tu.
Thứ hai, phải tin rằng ngoài thế giới ô uế mà chúng ta hiện sống, chắc
thật có thế giới Tịnh độ trang nghiêm.
Thứ ba, phải tin rằng 48 lời đại nguyện của Ðức Phật A-di-đà, cùng là
những công hạnh kiến lập cõi Tịnh độ của Ngài là chân thật, cũng như
việc Ngài hiện đang ứng hóa độ sanh tại cảnh giới Tịnh độ ấy là chân
thật.
Thứ tư, phải tin rằng sanh Tịnh độ hay uế độ hoàn toàn do tự tâm ứng
hiện, hễ trồng nhân tịnh thì được quả tịnh, trồng nhân uế thì được quả
uế, tuyệt nhiên không liên quan gì đến vấn đề thưởng phạt.
Thứ năm, phải tin rằng chánh niệm của ta cùng tâm niệm của Ðức Phật
A-di-đà chắc chắn cảm ứng với nhau, lâm chung thế nào cũng được Ngài
tiếp dẫn vãng sanh.
Thứ sáu, phải tin rằng tuy ác nghiệp của chúng ta có nhiều, nhưng một
khi đã sanh về Tịnh độ, nhờ có hoàn cảnh tốt đẹp thuận tiện, nhờ ơn giáo
huấn thường xuyên của Phật và Bồ-tát, ác niệm không thể sanh khởi lại và
ác báo do đó sẽ lần lần tiêu trừ.
Thứ bảy, phải tin rằng sức mình và sức Phật, cả hai đều bất khả tư
nghị. Trong hai sức cùng bất khả tư nghị ấy, sức Phật lại bất khả tư
nghị gấp trăm ngàn muôn ức lần hơn, cho nên một khi được tiếp dẫn, dù
sức mình còn kém cỏi thì với sức Phật cũng đủ giúp ta vãng sanh.
Thứ tám, phải tin rằng khi mình niệm một câu Phật là tức thời Ðức
Phật liền nghe và liền thâu nhiếp.
Thứ chín, phải tin rằng hễ mình niệm Phật thì chắc chắn lúc lâm
chung được Phật và Thánh chúng đến tiếp dẫn vãng sanh về thế giới Cực
lạc, quyết không còn đọa lạc luân hồi trong sáu đường nữa.
Tóm lại, phải tin chắc rằng những lời Phật dạy trong kinh đều chân
thật, cần phải thâm tín, tuyệt đối không nên sanh tâm ngờ vực. Lòng ngờ
vực là chướng ngại vật không thể vượt qua trên con đường dẫn
đến đạo quả. Có
lòng ngờ vực rồi thì tất nhiên
nguyện và hạnh
sẽ không có cứ điểm để sanh khởi. Nếu lòng tin kiên cố, tự nhiên
phát nguyện cầu sanh Cực lạc và đã phát tâm nguyện cầu tự nhiên chuyên
tâm tinh tấn, y
pháp hành trì, không đợi ngoại duyên thúc đẩy.
Hễ Tín
đã vững chắc thì Nguyện và Hạnh tự nhiên thành tựu, khỏi cần phải nhắc
nhủ, khuyến hóa.
25.
Ðã tin sâu, nguyện thiết, phải tu chánh hạnh niệm Phật. Sự tu trì đây
đều tùy theo thân phận của mình mà lập, không nên chấp định một pháp
thức nào. Như người không việc chi hệ lụy, nên từ mai đến chiều, chiều
lại mai, lúc đi đứng nằm ngồi, nói nín động tịnh, khi ăn cơm mặc áo cùng
đại tiểu tiện, tất cả thời, tất cả chỗ đều giữ một câu hồng danh không
rời nơi tâm niệm. Nếu khi thân hình sạch sẽ, y phục chỉnh tề, chỗ nơi
thanh khiết, thì niệm thầm hay ra tiếng đều được. Như lúc ngủ nghỉ, tắm
gội, đại tiểu tiện hoặc ở chỗ không sạch chỉ được niệm thầm, không nên
ra tiếng, niệm thầm công đức vẫn đồng, nếu ra tiếng thì có lỗi không
cung kính. Chớ cho rằng những lúc ấy không nên niệm, chỉ e niệm không
được mà thôi. Lại khi nằm nếu niệm ra tiếng, chẳng những không cung
kính, mà còn bị tổn hơi, phải biết điều này.
26.
Muốn được vãng sanh về cõi Tịnh độ Tây phương, hành giả phải chuẩn bị ba
yếu tố: Tín, Hạnh, Nguyện, nếu thiếu một món nào cũng không thể tu hành
có kết quả. Hành giả phải suốt đời chuyên tâm niệm Phật với một lòng
thành kính, tin tưởng và nhất quyết cầu khi lâm chung được vãng sanh cõi
Tịnh độ. Niệm cho đến “nhất tâm bất loạn” thì chắc chắn sẽ được mãn
nguyện.
27.
Pháp môn niệm Phật cần có đủ 16 chữ:
Vì
thoát sanh tử, phát tâm Bồ-đề
Lấy tín nguyện sâu, trì danh hiệu Phật
Bởi vì
hết thảy những sự thống khổ cực nặng trong thế gian, không chi bằng cái
khổ sanh tử, mà nếu sanh tử chẳng dứt được thì sanh rồi tử, tử rồi sanh,
ra khỏi bào thai này, chun vào bào thai khác, cởi bỏ đãy da nọ, mang lấy
đãy da kia, khổ nào xiết nói!
28.
Một chữ nguyện bao gồm cả tín và hạnh. Tín là tin tự, tha, nhân, quả,
sự, lý không hư dối. Tín tự: Tin tất cả do tâm tạo, mình niệm
Phật sẽ được Phật tiếp dẫn. Tín tha: Tin Phật Thích-ca không nói
dối, Phật A-di-đà không nguyện suông. Tín nhân: Tin niệm Phật là
nhân vãng sanh, giải thoát. Tín quả: Tin sự vãng sanh thành Phật
là kết quả. Tín sự: Tin cảnh giới Tây phương, tất cả sự tướng đều
có thật. Tín lý: Tin lý tánh duy tâm bao trùm Phật độ. Mỗi điều
trên đây đều xác thật nên gọi là không hư dối. Hạnh là chuyên trì danh
hiệu không xen tạp, không tán loạn. Nguyện là mỗi tâm ưa thích, mỗi niệm
mong cầu. Trong ba điều này, người tu tịnh nghiệp cần phải đủ không thể
thiếu một, mà Nguyện là điểm cần yếu. Có thể có Tín, Hạnh, mà không
Nguyện, chưa từng có Nguyện mà không Tín, Hạnh.
29.
Ðược vãng sanh
hay không là do Tín Nguyện có hay không, còn phẩm vị vãng sanh
cao hay thấp là
tùy việc trì danh sâu hay cạn.
30.
Tín, Nguyện, Hạnh là ba tư lương sanh về Tịnh độ. Nếu tư lương
không đủ, quyết không được vãng sanh. Sở dĩ vì thế mà sự phát nguyện
chiếm một địa vị tối quan trọng trong pháp môn tu Tịnh độ.
31.
Thập thiện là mười điều thiện, là căn bản tu hành, thuộc ba
nghiệp thân, khẩu, ý gọi là tu tịnh nghiệp.
Thân nghiệp có ba: Không sát sanh, không trộm cắp, không dâm dục
(nếu tại gia thì không tà dâm).
Khẩu nghiệp có bốn: Không nói láo, không nói lời thêu dệt, không
nói hai lưỡi, không nói lời thô bạo.
Ý nghiệp có ba: Không tham lam, không sân nhuế, không ngu si.
Mười điều thiện này là căn bản phát sinh tất cả các điều thiện
khác. Ðó cũng là nền tảng xây dựng mọi cảnh giới an vui. Người tu hành
mà không tu mười điều thiện này, thì không khác kẻ xây lâu đài cao ngàn
thước trên vũng bùn xập xậy, quyết không hy vọng thành công.
32.
Ðã tu tịnh nghiệp phải giữ luân thường, làm hết bổn phận, dứt niệm tà,
gìn lòng thành kính, trừ bỏ các điều ác, vâng làm
những việc lành, đừng giết hại, gắng
ăn chay, thương tiếc hộ trì
mạng sống loài vật, tín nguyện
niệm Phật cầu sanh Tây phương. Bên
trong phải vì ông bà, cha mẹ, anh em,
chị em, bên ngoài vì thân
thích, bạn bè, xóm giềng, làng
nước, đem pháp môn Tịnh độ này mà phụng khuyến, chẳng luận người
có tin làm cùng không, chỉ hết sức
mình khiến cho mọi người đều
biết pháp nhiệm mầu này mà thôi.
33.
Người tu tịnh nghiệp, nếu có mảy may công đức lành đều đem hồi hướng
vãng sanh. Như thế thì tất cả hành môn đều là trợ hạnh của Tịnh độ. Lại
phải phát lòng Bồ-đề, thề độ muôn loài, đem công đức mình tu hồi hướng
cho bốn ân ba cõi cùng chúng sanh trong pháp giới. Làm như thế như đèn
thêm dầu, như mạ được mưa, đã kết pháp duyên sâu cùng tất cả chúng sanh,
lại mau thành tựu thắng hạnh Ðại thừa của mình. Nếu chẳng hiểu nghĩa
này, tất thành ra chỗ thấy cạn hẹp tự lợi của hàng phàm phu và nhị thừa,
tuy hạnh mầu, cảm quả rất kém (xem bài phát nguyện, chương VII).
34.
Người tu tịnh nghiệp nên biết rằng sự tu hành hôm nay, chính là
đối địch với nghiệp sanh tử ngày mai,
không phải chuyện tầm thường, hằng nghĩ đến vô thường mau chóng,
ngày tháng chẳng chờ người nhận chân, thiết thật mà niệm Phật. Nếu nửa
lui nửa tới, lúc tin lúc ngờ, kết cuộc tịnh nghiệp không thành tựu, làm
sao ra khỏi luân hồi?
35.
Tu tịnh nghiệp, cảnh cô tịch chừng nào hay chừng nấy. Tiếng niệm Phật
cao thấp, mau chậm tùy nghi, làm sao cho hợp thành một phiến. Nên biết,
khi ấy thân tuy đơn chiếc mà tâm chẳng lẻ loi, vì tâm của chư Phật cùng
Ðức A-di-đà chưa từng tạm rời ta, ta khởi niệm thì Phật biết, mở miệng
Phật liền nghe, lo gì sợ cô tịch!
36.
Có tám điều cốt yếu, người tu tịnh nghiệp nên ghi nhớ:
1/ “Vì sự sanh tử, phát lòng
Bồ-đề”, đây là đường lối chung của người học đạo.
2/ “Dùng tín, nguyện sâu trì
danh hiệu Phật, đây là chánh tông của môn Tịnh độ.
3/ Lấy sự nhiếp tâm chuyên
chú mà niệm, làm phương tiện dụng công.
4/ Lấy sự chiết phục phiền
não hiện hành làm việc yếu tu tâm.
5/ Lấy sự giữ chắc bốn trọng
giới làm căn bản vào đạo.
6/ Dùng các thứ khổ hạnh làm
trợ duyên tu hành.
7/ Lấy nhất tâm bất loạn làm
chỗ quy túc của môn Tịnh độ.
8/ Lấy các điềm lành làm
chứng nghiệm cho sự vãng sanh.
37.
Chí tâm niệm Phật tức là ý nghiệp làm lành, xưng danh hiệu Phật là khẩu
nghiệp làm lành, chắp tay lễ bái là thân nghiệp làm lành. Do ba nghiệp
này làm lành, nên có thể diệt tội nặng sanh tử trong tám mươi ức kiếp,
nhờ hạnh nguyện nương nhau, quyết định được vãng sanh.
38.
Người tu tịnh nghiệp khi ngồi nằm không được xoay lưng về hướng Tây,
cũng không được hướng về Tây khạc nhổ
cùng đại tiểu tiện. Bởi đã quy y về Liên bang nên tôn sùng miền kim địa,
nếu lòng không trân trọng, đâu phải là chí nguyện cầu sanh.
39.
Miệng đừng ngớt tụng, ý chớ nghĩ khác. Phàm phu tạp loạn, khẩu ý khó
kiềm. Trong Kinh Phạm Võng, Phật dạy: “Mỗi
ngày khởi ba nghiệp tội, mà tội của miệng
thì vô lượng”. Muốn cho khẩu nghiệp khỏi gây
tội, chỉ có cách là đừng nói. Song
miệng không nói càng làm cho ý
suy nghĩ nhiều, mà nếu ý suy nghĩ những điều quấy, còn không bằng
nói mà nói những chuyện có ích, không hại. Bởi thế cho nên các vị Tổ sư
lấy phương pháp tụng kinh làm một phương tiện kiềm chế khẩu nghiệp và ý
nghiệp đắc lực nhất.
Từ xưa đến nay, các vị chuyên tu về môn niệm Phật, thường phải
đóng cửa (kiết thất) để kiềm chế ba
nghiệp, cho tâm chuyên nhất cảnh. Như bà Vô Sanh cư sĩ đóng cửa
thất 49 ngày, dứt tất cả duyên sự,
chuyên một câu niệm Phật, nhờ
vậy mà bà được “Niệm Phật tam muội”. Sở dĩ kiết thất là phương
tiện cần yếu của pháp môn Tịnh độ, vì
chúng ta hiện là phàm phu mê tối, chướng dầy mà huệ mỏng, nghiệp nặng
phước nhẹ, nên tâm nhiễm dễ khởi, tịnh nghiệp khó thành.
40.
Người mà thực vì thoát ly sanh tử, phát Bồ-đề tâm là con đường phổ thông
học đạo. Lấy lòng tín nguyện thật sâu để niệm
danh hiệu Phật, là chính tông tu pháp Tịnh độ. Thân tâm chuyên chú
niệm Phật là pháp phương tiện tu Tịnh
độ. Cốt yếu phải bền chắc giữ
bốn giới cấm trọng để làm căn bản nhập
đạo. Phải bẻ dẹp phiền não hiện hành,
là việc cần yếu để tu tâm. Dùng mỗi mỗi khổ hạnh chính đáng để
làm trợ duyên tu hành. Phải niệm Phật cho được nhất tâm bất loạn làm chỗ
quy túc cho tịnh hạnh. Lấy mỗi mỗi điều lành để làm chứng nghiệm được
vãng sanh.
41.
Niệm Phật mà không phát lòng
Bồ-đề, thì không tương ưng với bổn nguyện của
Ðức Di-đà, tất khó vãng sanh (lòng
Bồ-đề là tâm lợi mình, lợi người, trên cầu thành quả
Phật, dưới nguyện độ chúng sanh). Tuy
phát lòng Bồ-đề mà không chuyên niệm Phật cũng không được vãng
sanh. Nên phải lấy sự phát lòng Bồ-đề
làm chánh nhân, niệm Phật làm
trợ duyên, rồi sau mới cầu sanh Tịnh độ.
Người tu tịnh nghiệp cần phải hiểu
biết điều này.
42.
Môn niệm Phật cầu sanh Tịnh độ, nương nguyện lực rộng lớn của Ðức Phật
A-di-đà, tất cả lục đạo chúng sanh không luận căn lành thành thục hay
chưa thành thục, không luận ác nghiệp nặng hay nhẹ, nếu ai bằng lòng tin
chắc, phát nguyện trì niệm hồng danh A-di-đà Phật, thời quyết định được
Ðức Phật tiếp dẫn vãng sanh Cực lạc Tịnh độ, là hạng thiện căn thành
thục, tất chóng viên mãn Phật quả, nhẫn đến kẻ ác nghiệp nặng cũng đặng
dự hàng Thánh.
Nên biết, pháp môn niệm Phật là
yếu đạo độ sanh của chư Phật và là diệu pháp
mà trên thì Thánh nhân đại Bồ-tát, dưới đến phàm phu đều đồng tu.
Vì thế nên trong các kinh liễu nghĩa Ðại thừa luôn nhắc đến, mà lịch đại
Tổ sư không ai chẳng tuân hành.
Xét về Ðức Thích-ca Mâu-ni và Phật
A-di-đà, từ nơi kiếp xưa từng phát đại nguyện độ thoát chúng sanh.
Ðức Thích-ca thực hiện ở uế độ dùng khổ để chiết phục và thúc đẩy
chúng sanh tiến tu. Còn Ðức A-di-đà
an tọa nơi Tịnh độ, dùng tịnh,
dùng vui để nhiếp thọ và đào luyện cho mọi người nên Thánh quả.
43.
Ðức Bổn sư Thích-ca hết lời khuyên đại chúng hiện thời cũng như mạt
pháp, chúng sanh phải cầu sanh Cực lạc, để được thấy Phật, nghe pháp,
mau chứng Vô sanh nhẫn, rồi sau sẽ tùy nguyện vào Ta-bà để cứu độ chúng
sanh. Như thế thời có tiến mà không thối, có lợi mà không tổn.
44.
Hiện tại phương pháp Trì danh niệm Phật thâm nhập nhân gian, phổ cập
khắp quần chúng và không ai là không biết niệm sáu tiếng “Nam mô A-di-đà
Phật”. Lý do thâm nhập và phổ biến của phương pháp này là hễ có tu là có
thành, rất thích hợp với mọi căn cơ, bất cứ kẻ trí người ngu đều thâu
nhiếp được một cách dễ dàng. Số người nhờ nương pháp này mà được độ
thoát, so với các tông phái khác, chiếm đến trên bảy tám mươi phần trăm.
Cứ xác thật mà nói, thì đạo lý của pháp môn này hàm chứa tinh ba
của hết thảy các pháp môn khác một cách sâu xa rộng rãi. Không những so
với các pháp môn khác, nó đã không kém thua, mà trái lại tinh ba của các
pháp môn khác đều thu trọn vào trong một pháp môn này. Nó có đủ khí độ
rộng rãi tập hợp sự đại thành của các tông phái khác. Vì vậy nếu bàn đến
hiệu quả, bàn đến học lý, bàn đến khó dễ, không một tông phái nào so
sánh kịp!
45.
Muốn chống đỡ với những khó khăn
chướng ngại của thời mạt pháp, không
còn có pháp môn nào hơn pháp
môn niệm Phật. Pháp môn này tự
nó đã đơn giản dễ theo, ngoài
ra nó lại dồn được cả hai sức: tự, tha để hỗ trợ cho nhau nên dễ
thành tựu. Kinh Ðại Tập dạy: “Ðời mạt pháp, trong số ức triệu
người tu hành, chưa có một người đắc
đạo, duy chỉ có nương vào pháp
môn niệm Phật mới được độ
thoát sanh tử”. Vì thế nên biết, sau
khi các tông phái khác suy tàn, duy
có mỗi một tông Tịnh độ là còn
tồn tại để nối dài pháp vận,
cứu độ chúng sanh mà thôi; các
tông phái khác như Thiền, Giáo, Luật tông,
v.v... đều phụ thuộc làm trợ duyên
cho tông Tịnh độ, chớ không có thể đơn độc tồn tại riêng được.
Trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Phật đã dạy: “Trong đời vị lai, khi
kinh đạo diệt hết, ta dùng lòng từ bi, đặc biệt lưu lại kinh này tồn tại
trong một trăm năm, chúng sanh nào gặp được kinh này đều có thể được độ
thoát như ý sở nguyện”.
46.
Muốn cho tâm không luyến việc ngoài, chuyên niệm Phật được quy nhất,
cũng không có phương pháp chi kỳ lạ, chỉ đừng quên cái chết rình rập bên
mình, không biết xảy ra lúc nào.
Phải
nghĩ rằng ta từ trước đến nay tạo ra vô lượng vô biên ác nghiệp, như
trong kinh nói: “Giả sử nghiệp ác kia có hình tướng thì khắp mười phương
hư không cũng chẳng dung chứa hết”. Duyên đâu may mắn, nay được thân
người lại nghe Phật pháp, nếu không một lòng chuyên niệm Phật cầu sanh
Tây phương, khi cái chết đến thình lình, chắc chắn phải bị đọa vào ác
đạo. Chừng ấy nếu vào địa ngục thì bị non đao, rừng kiếm, lò lửa, vạc
dầu, một ngày đêm sống chết đến vạn lần, sự khổ cùng cực không thể diễn
tả. Nếu đọa vào ngạ quỷ thì thân hình xấu xa, hôi hám, bụng lớn như cái
trống, cổ họng như cây kim, thấy cơm nước
thì những vật ấy đều hóa thành than
lửa, chịu đói khát lăn lộn khóc la trong vô lượng kiếp. Nếu đọa
vào súc sanh, thì hoặc bị kéo chở
nặng nề, hoặc bị người giết ăn thịt, hoặc
bị nạn loài mạnh ăn nuốt loài yếu,
kinh khủng chẳng lúc nào yên.
Chịu khổ như thế có khi vô
lượng chư Phật ra đời mà vẫn còn xoay
vần trong ác đạo không được thoát ly.
Nghĩ thân người mong manh, cái
chết bất kỳ, nghĩ mình đời trước, đời này đã tạo ra vô lượng
nghiệp ác, nghĩ đến sự khổ tam đồ mà
tỉnh ngộ sợ hãi, tất không còn
tham luyến cảnh huyễn bên
ngoài, niệm Phật được chuyên nhất.
47.
Người niệm Phật nếu dụng công
siêng năng tinh tấn, thì sẽ thuần thục quy
nhất, được cảm thông với Phật, tự có
thể thấy cảnh lành, dù không thấy cũng không ngại.
Nếu bỏ sự chuyên dụng công mà vội gấp muốn
được nhất tâm, được tương ưng, được
thấy cảnh
lành, thì vọng tưởng rối ren, tâm
niệm cầu
mong cố kết nơi lòng, đây là chứng
bệnh lớn lao nguy hiểm của
người tu hành. Như thế lâu
ngày, những oan gia đời trước
nương theo vọng tưởng của hành
nhân, hóa làm thân Phật, hoa sen, hoặc các cảnh tốt lạ, để mong
báo oán. Lúc ấy tự mình không có
chánh kiến, toàn thể là khí
phần của ma, một khi thấy cảnh
ấy tất sanh lòng hoan hỷ, ma vương
theo đây mà vào tâm phủ làm cho hành
nhân điên cuồng, dù có Phật sống cũng
không cứu được.
48.
Người niệm Phật không phải chỉ tu theo sự tướng bên ngoài, mà cần phải
để ý trừ phiền não cùng tập nghiệp lầm lỗi xấu xa. Nếu phiền não bớt một
phần thì công phu niệm Phật tăng một phần. Trái lại, để phiền não tăng
tất công hạnh phải lui kém. Cho nên có người càng tu hành lại càng đổ
nghiệp là bởi lý do trên đây.
49.
Giữ một câu A-di-đà Phật nhặt nhiệm nối nhau, thường nhớ thường niệm.
Khi những tâm tham lam bỏn sẻn, hờn giận, dâm dục, háo thắng, kiêu mạn,
thoạt nổi lên, phải nghĩ: “Ta là người niệm Phật cầu giải thoát, không
nên có tâm niệm như vậy”, nghĩ rồi liền trừ diệt đi. Như thế, lâu lâu
những niệm lao thần tổn thân đều không do đâu mà khởi, sẽ được công đức
không nghĩ bàn của Phật gia trì nơi thân tâm mình, dám bảo đảm trong
mười ngày sẽ thấy đại hiệu. Nếu tu hành lôi thôi gián đoạn liền muốn
được công hiệu, đó là khi mình khi người, tuy cũng có công đức, nhưng
muốn do đó mà lành bệnh thì quyết không thể được.
50.
Phàm việc chi cũng lấy lòng thành làm gốc, tu hành nếu không dùng
tâm chí thành làm sao
được sự lợi ích lành bệnh dứt khổ!
51.
Trong lúc dụng công tu muốn vọng tưởng dứt lặng đi, mà nó lại loạn động
lên mãi, thì mặc kệ cho vọng tưởng sanh khởi, không kể, chỉ cốt là ta
liền nhớ thâu tĩnh tâm lại, chăm chú đừng cho tâm niệm lững
dời đi là được. Tỷ như chú ý của con
mèo chăm bắt con chuột, hẳn
không có cử chỉ gì để buông rời. Lúc ta đương dụng công để tu,
dẫu như tâm tu có lững tán đi, thì phải thâu kéo nó lại, cứ thế thâu tâm
về mãi không thôi. Cái công thâu tâm ấy càng nhiều, càng nhặt, càng dầy
thì tự nhiên nó kết tinh lại thành một thể vô tướng. Kinh Thủ Lăng
Nghiêm nói: “Với cái động và tịnh của cảnh, tánh nó chẳng dời, lúc
nhớ lúc quên, tánh vẫn như một, phát từ chỗ đó để lần lượt đi sâu vào
mãi cho đến giai đoạn quên cảnh quên tâm, và với cái “quên” cũng quên
luôn đi, đến tận cảnh tịch diệt là chứng được pháp tánh”.
52.
Người chân thật niệm Phật: Trong thì quên thân, ngoài quên cảnh,
đó là ÐẠI BỐ THÍ; không sanh lòng
tham, sân, si là ÐẠI TRÌ GIỚI;
chẳng chấp thị phi nhân ngã, là ÐẠI NHẪN NHỤC; niệm Phật không ngừng hở
là ÐẠI TINH TẤN; vọng tưởng không móng khởi là ÐẠI THIỀN ÐỊNH; tâm không
bị các duyên cảnh ràng buộc là ÐẠI
TRÍ HUỆ.
53.
Muốn tu theo pháp môn niệm Phật,
thì phải ăn chay giữ giới, phải đổi dữ làm
lành, phải nương thầy giỏi bạn hay,
phải chánh nguyện giải thoát,
phải biết rõ nhân quả, phải có đủ phương tiện, phải chứa nhiều
công đức, phải làm sự phước duyên lẫn nhau.
54.
Lên nẻo nhân thiên, làm phước là trước. Ra biển sanh tử, niệm Phật là
đầu. Phải dùng câu niệm Phật làm chánh nhân, sự tu phước làm trợ đạo,
phước huệ gồm tu ắt chung bậc Chánh giác. Trì giới, niệm Phật là nhân ra
khỏi đời.
55.
Nếu không niệm Phật thì sanh tử không thế gì trốn được.
56.
Ðức Phật A-di-đà có lời nguyện rằng: “Nếu chúng sanh nào xưng danh hiệu
ta thì chắc sanh về nước ta, như không y lời thì ta chẳng làm Phật”.
57.
Pháp môn niệm Phật là một pháp môn rất phổ thông, từ hạng phàm phu cho
đến các đấng Thánh Hiền, từ hàng cùng đinh tục tử cho đến các bậc văn
nhân học giả. Một pháp tu rộng rãi thích hợp cho từ dưới phàm phu lên
trên Thánh giả, bao trùm hết các Giáo, thâu nhiếp cả mười tông.
58.
Niệm Phật là một pháp môn lẹ làng thẳng tắt, công cao dễ tới, sự rẻ dễ
làm, nếu chẳng niệm Phật mà cầu thoát ly ra khỏi tam giới thì tất không
đặng.
59.
Những người tu
hành dẫu có năng lực làm được những sự bố thí, trì giới, tham
thiền, tụng
đọc, cũng không bằng công đức
niệm Phật. Bởi
vì tu theo các thứ phước
nghiệp kia đều
là thiện căn nhỏ nhen, còn niệm Phật
cầu sanh Tây
phương mới thiệt là thiện căn to
lớn.
60.
Trong sự cầu sanh về Tịnh độ mà được dễ dàng là nhờ có Phật lực. Ðức
A-di-đà thì có nguyện lực tiếp dẫn, Ðức Thích-ca thì có nguyện lực
khuyến bảo, còn chư Phật thì có nguyện lực hộ niệm.
61.
Một câu “A DI ÐÀ PHẬT” là công án đầu tiên của tông môn. Thí như cỡi
ngựa mà cầm gậy thì càng thêm vững vàng cho sự sống. Hết thảy trong hàng
tứ chúng, ai niệm Phật cũng đều có ứng nghiệm, đương khi sống thì thêm
phước thêm duyên, sau lúc chết được tiêu nghiệp. Cho nên người nào thọ
trì thì những điều hy vọng của mình không có chi là chẳng mãn nguyện.
62.
Nhất tâm niệm Phật, muôn việc trần tự nhiên dứt bỏ, tức là pháp “Bố
thí ba-la-mật”.
Nhất tâm niệm Phật, các việc ác tự dứt, tức là “Trì giới
ba-la-mật”.
Nhất tâm niệm Phật, lòng được nhu
hòa mát dịu, tức là “Nhẫn nhục ba-la-mật”.
Nhất tâm niệm Phật, vĩnh viễn
không bị thối lui đọa lạc, tức
là “Tinh tấn ba-la-mật”.
Nhất tâm niệm Phật, không sanh
các vọng tưởng, tức là “Thiền định ba-la-mật”.
Nhất tâm niệm Phật, chánh niệm rõ ràng, tức là “Bát-nhã
ba-la-mật”.
Suy xét cho cùng tột, thì không ra ngoài nhất tâm niệm Phật mà
muôn hạnh được đầy đủ cả.
63.
Nghe nói danh hiệu Phật là “Văn huệ”, chấp thọ nơi lòng là “Tư huệ”, giữ
gìn làm theo là “Tu huệ”.
64.
Ðại Tập Kinh có lời: “Mạt thế, ức ức người tu hành không có một người
được giải thoát, chỉ nương pháp môn niệm Phật mà ra khỏi luân hồi”.
Kinh
lại nói: “Nếu người chuyên niệm Phật, hoặc ngồi mà niệm, hoặc đi mà
niệm, ròng rặc trong 49 ngày, thời hiện đời được thấy Phật, liền đặng
vãng sanh”.
65.
Niệm Phật là chuyên xưng danh hiệu,
chấp trì không tán loạn, cứ bền giữ như
thế, trong đời này được thấy Phật.
Hiện nay, phần đông người tu
Tịnh độ đều lấy pháp Trì danh
làm chính. Pháp xưng danh cần phải
lắng lòng không cho
tán loạn, mỗi niệm nối tiếp
nhau, buộc tâm nơi hiệu Phật. Khi
miệng niệm Nam mô A-di-đà Phật, tâm
phải soi theo mỗi chữ cho rành rẽ rõ ràng. Khi xưng
danh hiệu Phật, không luận ít hay nhiều, đều
phải một lòng một ý tâm tâm nối nhau.
Niệm như thế, mới có thể mỗi câu diệt
được tội nặng nơi đường sanh
tử trong tám mươi ức kiếp. Nếu chẳng vậy thì tội chướng khó tiêu
trừ.
66.
Vừa làm xong một việc, vừa nói xong một lời, chưa khởi tâm niệm Phật, mà
một câu hồng danh niệm Phật cuồn cuộn
tuôn ra đó là triệu chứng tam muội dễ thành vậy.
67.
Người niệm Phật, thì không được
nói chuyện tạp hoặc nghĩ ngợi lông bông. Nếu lỡ có phạm, phải suy
xét: Ta là người niệm Phật không nên như thế, rồi niệm Phật vài tiếng để
tự cảnh tỉnh mà đánh tan điều ấy.
68.
Tâm ta chỉ có một niệm, niệm Phật tức là nó, mà tạp niệm cũng là nó. Chỉ
nhân ta niệm Phật chưa tinh chuyên, niệm niệm trần còn vơ vẩn thế thôi.
69.
Không cần phải trừ tạp niệm, chỉ đem tâm niệm hoàn toàn để trên hiệu
Phật, tạp niệm liền mất.
70.
Người đạo đức chưa thuần, nên tán loạn nhiều, phải cố thâu nhiếp sáu
căn, lần lần sẽ được thanh tịnh. Nếu chưa làm được như thế, thì mở mắt
chăm chú nhìn tượng Phật mà niệm, hoặc nhắm mắt tưởng chân dung Phật mà
niệm, tạp niệm sẽ tiêu.
71.
Niệm Phật đừng vội vàng nóng nảy, phải lóng định tâm tư, niệm chậm rãi
hiệu Phật ra từ nơi tâm, phát thành tiếng nơi miệng, rồi lại vào nơi
tai, tâm nghĩ, miệng niệm, tai nghe, cứ tuần hoàn như thế, tạp niệm sẽ
dứt.
72.
Nên đem sáu chữ Nam mô A-di-đà Phật mà niệm. Khi niệm ghi nhớ rành rẽ,
tiếng thứ nhất là Nam, tiếng thứ nhì là mô, như thế đủ sáu
chữ, liên hoàn không dứt, thì vọng niệm không còn chỗ xuất sanh.
73.
Chúng sanh cùng ta đồng một bản thể,
là cha mẹ của ta trong nhiều kiếp, là chư
Phật đời vị lai, nếu chẳng phát tâm
cứu độ, chỉ cần giải thoát
riêng mình, thì đối với tình
có chỗ chưa an, với lý có điều sơ sót. Huống chi chẳng phát đại
tâm, thì ngoài không thể cảm thông với chư Phật, trong không thể khế hợp
tánh chân, trên không thể tròn quả Bồ-đề, dưới không thể độ khắp muôn
loài. Như thế làm sao báo bổ người ân nhiều kiếp, làm sao cởi mở oan gia
nhiều đời, làm sao thành tựu căn lành đã gieo trồng từ xưa,
làm sao sám trừ tội nghiệp đã tạo ra
từ trước? Và như thế thì tu
hành chỗ nào cũng gặp chướng
duyên, dù có thành tựu cũng là quả thấp, cho nên phải xứng tánh
phát lòng Bồ-đề vậy.
Nhưng phát đại tâm, phải tu đại
hạnh, mà trong tất cả hành môn, tìm
phương pháp dễ dụng công, mau thành tựu, rất yên
ổn, rất viên đốn, thì không chi hơn
dùng Tín Nguyện sâu trì danh hiệu Phật. Nói chấp trì danh hiệu
tức là giữ chắc hiệu Phật nơi lòng
không tạm quên. Nếu có một niệm gián đoạn, hoặc một niệm xen tạp,
thì không gọi là chấp trì. Giữ được một niệm nối nhau không xen tạp, đó
là chân tinh tấn; tinh tấn mãi không
thôi, sẽ lần vào cảnh nhất tâm bất
loạn mà viên thành tịnh nghiệp. Nhất
tâm bất loạn là chỗ quy túc của tịnh nghiệp, là đại môn của Tịnh
độ; chưa vào môn này tất chưa yên ổn,
học giả há chẳng nên cố gắng ư?
74.
Tâm đã hay tạo nghiệp thì cũng có thể chuyển nghiệp và nghiệp đã
do tâm tạo, tất cũng tùy theo tâm mà
chuyển. Nếu tâm mình không chuyển được nghiệp, tức bị
nghiệp trói buộc, nghiệp không chuyển theo
tâm thì có thể buộc tâm. Nhưng dùng
tâm thế nào mới chuyển được nghiệp? Ấy là giữ tâm hợp với đạo
đức, hợp với Phật. Và nghiệp làm sao buộc được tâm? Ấy là để tâm y theo
đường lối cũ, buông lung theo cảnh trần.
75.
Nghiệp đã tạo ra từ trước, đành đã lỡ rồi, chỉ trông mong có phát đại
tâm để biến chuyển; mà nắm giữ cơ quan ấy chính là ta chớ không ai khác.
Nếu hôm nay ta phát tâm niệm Phật cầu sanh Cực lạc để mau chứng quả, độ
chúng sanh, giữ niệm hiệu Phật nối nhau không dứt, lâu ngày tâm sẽ hiệp
với đạo, thì chuyển được quả báo Ta-bà thành Cực lạc, đổi nhục thai
thành liên thai. Không bao lâu, chính mình sẽ là một bậc thượng thiện,
tướng tốt trang nghiêm, an vui tự tại nơi cõi liên hoa thất bảo. Như ta
tu hành nửa chừng bỗng lần biếng trễ thối lui, tất bị nghiệp lực mạnh mẽ
từ kiếp trước sai sử, rồi vẫn y nhiên một kẻ chịu vô lượng sự thống khổ
về thân tâm ở cõi Ta-bà, không tránh khỏi bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ,
súc sanh vậy. Những ai có chí thoát ly, cầu về Tịnh độ há không nên sợ
hãi, tỉnh ngộ, phát tâm phấn chấn tu hành ư?
76. Lúc
đi đứng ngồi nằm, uống ăn làm
việc, câu niệm Phật vẫn thường hiển hiện. Nếu
gặp cảnh duyên phiền não, tâm không
yên, chỉ nên chuyên niệm Phật, phiền não liền tan
mất. Bởi phiền não là cội gốc luân hồi, niệm
Phật là thuyền vượt qua biển khổ sanh
tử. Muốn thoát sanh tử, chỉ
đem câu niệm Phật phá tan
phiền não, đó là phương pháp đơn
giản mà rất hay.
77.
Ðiều cần yếu nhất trong sự tu hành là tâm tha thiết về việc luân hồi
sanh tử. Tâm sanh tử không tha thiết, làm sao dám gọi là niệm Phật thành
một khối? Nếu người quả vì sự luân hồi mà tha thiết, thì mỗi niệm như
cứu lửa cháy đầu, chỉ theo khi mất thân người, muôn kiếp khó được. Lúc
ấy quyết giữ chắc câu niệm Phật, quyết đánh lui vọng tưởng, trong tất cả
thời, tất cả chỗ, hiệu Phật thường hiện tiền, không bị vọng tình ngăn
che lôi kéo. Dùng công phu khổ thiết như thế, lâu ngày niệm sẽ thuần
thục, tâm được tương ưng, tuy không hy cầu mà niệm lực tự nhiên thành
một khối.
78.
Hạnh thấp mà
nói vọng đạo lý cao siêu không bằng kẻ chất phác mà giữ giới niệm Phật.
79. Nên giữ bổn phận, không nên tham cầu
danh lợi, đừng chạy theo duyên ngoài, chỉ cần phân minh lý nhân quả, một
lòng chuyên niệm Phật mà thôi.
80. Tánh háo kỳ, ưa cầu sự linh thông của
ma quỷ, không bằng chánh tín nhân quả mà niệm Phật.
81. Người niệm Phật giữ lòng ngay, dứt
hạnh ác, gọi là Thiện nhân. Người niệm Phật nhiếp tâm trừ tán loạn, gọi
là Hiền nhân. Người niệm Phật rõ tâm tánh, dứt hoặc nghiệp, gọi là Thánh
nhân.
82.
Trong lúc muôn niệm rối ren, chính
là thời khắc dùng công phu, mỗi khi
tán loạn liền mau thâu nhiếp lại. Cứ như thế mãi, lâu
ngày công phu thuần thục, tự nhiên
vọng niệm không sanh. Vả lại,
người biết vọng niệm nhiều, là
do niệm Phật, lúc không niệm,
vọng tâm như sóng nổi nước trào không giây
phút nào dừng nghỉ, khi ấy đâu có tự
biết được.
83. Tạp niệm là bệnh, niệm Phật là thuốc.
Niệm Phật chính để trị tạp niệm, mà không thấy hiệu quả là do dụng công
chưa được chân thiết. Cho nên khi tạp niệm nổi lên, phải chuyên lòng gia
công niệm Phật, mỗi chữ, mỗi câu chuyên nhất không xao lãng, thì tạp
niệm tự dứt.
84.
Tâm hỗn loạn đã
lâu, không thể
một lúc mà an
định được, cho nên người niệm
Phật nếu tâm
không thanh tịnh đừng quá vội
lo, chỉ cần khi
niệm mỗi chữ mỗi câu đều do
nơi tâm phát
ra, dụng công bền lâu tự có hiệu quả.
85.
Người niệm Phật, tâm chân thiết cùng không, có thể suy mà biết được. Ðại
để như người chân tâm niệm Phật, dù ở cảnh phiền não hay vui mừng cũng
giữ câu niệm Phật không gián đoạn, cho nên những cảnh ấy không làm lay
động họ được. Hai điều trên đã không thể làm lay động, thì đối với
cảnh sống chết, họ vẫn tự nhiên không
sợ hãi.
86. Người niệm Phật, bình thường niệm được
không gián đoạn, nếu trong giấc ngủ thoạt có quên niệm, khi thức dậy
thống khóc, đến trước bàn Phật cúi đầu sám hối, rồi quỳ niệm Phật một
ngàn hay một muôn câu, dùng hết sức mình thì thôi. Làm như vậy vài ba
phen, dù trong lúc ngủ mê, câu niệm Phật vẫn hiện ra không gián đoạn.
87. Khi lâm chung được chánh niệm,
toàn nhớ lúc thường nhật dụng công
phu sâu.
88.
Niệm
Phật không luận là hạng người nào, nếu nghĩ mình thuở bình sanh có nhiều điều ác mà tự bỏ không
chịu tu hành, là sai lầm!
Niệm Phật không quản thời gian nào, nếu cho rằng mình đã già sắp
chết mà không chịu tu hành, là sai lầm.
Niệm Phật, bất kỳ là phương pháp nào, nếu lập ra một quy củ nhất
định, bắt mọi người đều tin theo, khiến cho sự tu hành của họ bị chướng
ngại, là sai lầm.
Nên biết pháp môn Tịnh độ chẳng
lựa trí ngu, sang hèn, nghèo
giàu, chẳng phân nam nữ, già
trẻ, tăng tục, chẳng luận kẻ huân tập
đã lâu hay mới tu hành, đều có thể
niệm Phật.
Hoặc niệm lớn, niệm nhỏ, niệm ra tiếng, niệm thầm, đảnh lễ mà
niệm, tham cứu mà niệm, nhiếp tâm mà niệm, quán tưởng mà niệm, lần chuỗi
mà niệm, giữ hiệu Phật liên tục không dứt như dòng chảy mà niệm, cho đến
đi đứng nằm ngồi niệm, ngàn muôn niệm đều về một niệm.
Niệm theo cách nào cũng được, chỉ cần yếu giữ cho lâu bền đừng lui
sụt và phát lòng tin quyết định cầu sanh Tây phương. Nếu quả hành trì
được như vậy, cần chi tìm bậc tri thức hỏi đường.
Cho nên tu Tịnh độ có nhiều phương pháp, kết quả ra sao là do chỗ
xu hướng của tâm nguyện. Có thể gọi: “Ði thuyền cốt bởi
người cầm lái,
hiểu được đồng về cõi Tịnh liên”.
89.
Niệm Phật chỉ nên để cho thân tâm nhàn đạm, thầm nhớ chẳng quên, khi hưỡn,
gấp, động, tịnh vẫn một niệm không
khác. Niệm như thế, ngày kia
xúc cảnh chạm duyên, bỗng nhiên tỉnh ngộ. Chừng ấy mới biết cõi
Tịch quang Tịnh độ không rời nơi đây, Phật A-di-đà chẳng ngoài tâm mình.
Nếu lập tâm muốn cầu tỏ ngộ, thì trở lại thành chướng ngại, nên chỉ lấy
lòng tin làm căn bản, chẳng tùy theo tạp niệm mà thôi. Hành giả trì như
thế, dù không tỏ ngộ, khi chết cũng được sanh về Tây phương, theo giai
cấp mà tiến tu, không còn lo thối chuyển.
90.
Người tu
hành nếu bị túc nghiệp ngăn che, khiến cho nghiệp hạnh lui kém, phải nhất tâm trì tụng
chú vãng sanh. Chú này gọi là môn đà-la-ni, nhổ trừ tất cả cội gốc
nghiệp chướng, tụng một biến tiêu diệt hết tội ngũ nghịch thập ác trong
thân. Tụng mười muôn biến, được không quên mất Bồ-đề tâm; tụng hai mươi
muôn biến, liền cảm sanh mầm mộng Bồ-đề; tụng ba mươi muôn biến, Phật
A-di-đà thường trụ trên đảnh, quyết định sanh về Tịnh độ.
91.
Niệm Phật nên vận
dụng thân miệng mà niệm, không kể đến tán hay định, chỉ làm sao cho câu
Phật không hở dứt, tự sẽ được nhất tâm, hoặc cũng có thể gọi chính đó là
nhất tâm. Nhưng phải niệm mãi không thôi, trạng như mẹ lạc con thơ, thì
không còn lo chi tán loạn, không cần nhất tâm mà tự được nhất tâm. Chẳng
nên cưỡng ép cho tâm quy nhất, vì dù cưỡng ép cũng không thể được, thật
ra chỉ do người tu siêng năng hay biếng trễ mà thôi.
92. Muốn cho khi sắp chết được chánh niệm vãng sanh,
thì ngay bây giờ phải xét rõ việc đời là huyễn mộng, tùy duyên an phận
qua ngày, không còn tham luyến, được rỗi rảnh lúc nào thì niệm Phật lúc
ấy, đừng hẹn chờ lần lựa, hoặc để hư phí thì giờ. Như thế thì tư lương
ta đã dự bị xong, lúc ra đi mới không điều chi chướng ngại.
93. Thuyết chuyên tu vô gián của ngài Thiện Ðạo là: Vô
gián tu là thân chuyên lễ Phật A-di-đà không lễ tạp, miệng chuyên xưng
hiệu A-di-đà không xưng tạp; ý chuyên tưởng Phật A-di-đà không tưởng
tạp.
94.
Muốn sanh về Tịnh độ, nên nghĩ tất cả việc đời là vô thường, có thành
tất có hoại, có sống ắt có chết, nếu ta không nghe Phật pháp thì phải
chịu thay thân này, đổi thân khác, trôi lăn trong ba cõi sáu đường,
không biết lúc nào ra khỏi. Nay ta đã có duyên được nghe chánh pháp,
được tu tịnh nghiệp, nếu chuyên niệm Phật thì khi bỏ thân này sẽ vào
thai sen nơi cõi Phật, hưởng các điều vui, thoát hẳn sự khổ, đi ngay đến
nẻo Bồ-đề, ấy là chí sự thuở sanh bình của bậc đại trượng phu vậy.
95.
Người niệm Phật,
dù có bận làm việc này khác lăng xăng, nhưng trong tâm không ngớt lo
nghĩ đến câu niệm Phật. Nếu niệm có thất lạc phải thâu nhiếp lại, lâu
ngày thành thói quen, chừng ấy sự nhớ niệm được tự tại.
96.
Phép tu Tịnh độ không ngoài hai chữ chuyên cần, chuyên thì không thêm
một việc chi khác, cần thì không bỏ phí một giây. Lại phép trì danh, cần
phải mỗi chữ, mỗi câu, tâm và tiếng nương nhau, không xen lẫn một mảy
niệm đời, lâu ngày thành thục, quyết định được sanh về Cực lạc, ngồi tòa
bảo liên, lên ngôi bất thối.
97. Tu môn niệm Phật, lắm lúc phải
chọn lại năm bảy lần, mới tìm ra một phương pháp thật thích hợp.
Phương pháp nào trấn định được tâm cảnh, tiêu trừ được vọng niệm thì là
phương pháp hay nhất đối với mình. Cũng như đối với thầy thuốc, phương
thang nào chữa đúng căn bệnh là phương thang hay. Ðối với chúng sanh,
vọng niệm là căn bệnh, thuốc là danh hiệu Phật, hễ phương pháp nào trừ
được căn bệnh vọng niệm, ấy là phương pháp thiện xảo nhất, đừng câu nệ.
98.
Nên nhớ rằng TRÌ DANH là phương pháp tụng niệm của đường lối tu Tịnh độ.
Ðó là một điểm trọng yếu.
99.
Niệm Phật, hành giả vừa niệm vừa
lắng tai nghe
lại tiếng niệm của mình, từng chữ một thật rõ ràng. Cứ vừa niệm vừa nghe
như thế, trí óc sẽ không bị xao lãng và tâm thần định được. Phương pháp
này lại có tên là PHẢN VĂN NIỆM PHẬT, nghĩa là niệm chữ nào trở lại nghe
chữ ấy, chữ từ miệng lại trở về tai.
100.
Tu môn niệm Phật, cần phải vạch khóa trình và khi quyết định khóa trình,
cần phải tế nhị châm chước, dung hòa giữa hoàn cảnh và năng lực, thế nào
cho thích ứng mới được lâu dài và hữu hiệu.
101.
Với những hành giả đã huân tập được
tịnh chủng khá thành thục, thì tự nhiên
phát ra những tiếng niệm Phật bất cứ
lúc nào, cơ hồ như có một sức
lực dõng mãnh nào bên trong thúc đẩy, khiến cho hành giả hằng
tiến không lùi. Trừ giấc ngủ, bất luận ngày đêm, trong khi đi đứng nằm
ngồi, không lúc nào, không chốn nào là không niệm Phật. Như vậy, câu Nam
mô A-di-đà Phật không lúc nào rời khỏi miệng, lâu ngày thành tập quán.
Ðây là nói sự niệm Phật thành tiếng.
102.
Niệm hay không niệm vẫn là niệm, là chỉ tâm niệm (tâm niệm nhớ nghĩ đến
Phật). Nói “niệm hay không niệm vẫn là niệm”, có nghĩa là bất kể miệng
có niệm thành lời hay không, luôn
luôn trong tâm vẫn tưởng nhớ
đến Phật, tức là vẫn có niệm Phật.
Sở dĩ miệng phải niệm Phật là cốt nhắc trong tâm tưởng nhớ đến Phật. Giờ
đây, dù cho khi miệng không niệm mà tâm
vẫn có tưởng nhớ, như thế cứu
cánh của pháp trì danh niệm Phật đã đạt được rồi vậy.
Như vậy, quyết
không còn một trần niệm ô nhiễm nào có thể đột nhập, khiến cho tâm chao
động được. Lúc ấy phép niệm Phật tam muội tự nhiên thành tựu, quả vãng
sanh không cầu mà tự đến.
103.
Nơi pháp môn niệm Phật, phương
pháp thực hành rất giản tiện, mọi
người có thể tùy phần tùy sức
mà hành đạo. Chỉ cần chỗ tu
cho đúng pháp thời chắc chắn là thành
tựu cả, nên gọi là dùng sức ít, dễ
thực hành và mau có hiệu quả.
Tổ Thiện Ðạo cho rằng nghìn
người tu không sót một. Vĩnh Minh Ðại
sư
cũng công nhận là mười người tu được
cả mười.
104.
Hễ “đa từ thì tán tâm”. Tâm không định, trí không yên thì niệm Phật khó
thành, tam muội khó đắc. Vì vậy người chuyên tu tịnh nghiệp đôi khi cần
phải định kỳ kiết thất để tránh duyên, chỉ đêm ngày chuyên lo một câu
niệm Phật, mới có hy vọng kết quả phần nào. Ngoài ra, trong vòng tạp tu,
tạp niệm khó mà thành tựu, dầu cho có niệm cũng ít khi được thiệt niệm.
105.
Người tu tịnh nghiệp là người tu hành cởi mở cho kỳ hết những gì vướng
vít cho sự vãng sanh, nhất là sợi dây lợi dưỡng, để khi lâm chung ý chí
được thảnh thơi, tâm niệm chuyên chú về một việc “vãng sanh Tịnh độ”.
Tâm không mảy bợn nhơ, lòng không chút bám víu, chỉ nhất chí tưởng Phật, niệm Phật, tâm ta
cùng tâm Phật đồng nhất, như hai lằn điện tiếp nối nhau, đề huề về cảnh
giới an vui, tự tại và giải thoát.
106.
Muốn sanh về cõi tịnh, thì trước phải tịnh tâm, hễ tâm mình tịnh, tức là
cõi tịnh của Phật.
107. Phải tin chắc pháp môn niệm Phật như tin những
việc mặc áo quần cùng ăn cơm vậy. Mặc áo khỏi lạnh, ăn cơm khỏi đói,
niệm Phật khỏi sanh tử.
108.
Khi niệm Phật đã thuần thục,
thì trong sáu trần chỉ có thinh trần, năng dụng
của sáu căn đều gởi nơi nhĩ căn,
không còn biết thân mình đang
vi nhiễu, lưỡi mình đang uốn
động, ý có phân biệt hay không, mũi
thở ra hay vào, mắt mình nhắm
hay mở. Căn tức là trần, trần tức là căn, căn trần tức là thức,
mười tám giới dung hợp thành một giới.
109. Khi đối trước tượng Phật, phải xem tượng ấy cũng
như Phật thiệt, mắt nhìn tâm niệm, cung kính chí thành. Lúc không ở
trước tượng cũng nên thành kính cũng
như lúc đối trước Phật tượng.
Niệm Phật như thế rất dễ cảm thông, nghiệp ác cũng mau tiêu diệt.
110. Khi gấp cảnh thuận nghịch, khổ vui, đắc thất, dơ
sạch, tất cả trường hợp, cần phải giữ một câu niệm Phật cho chắc. Nếu
không như thế, tất bị cảnh chuyển,
hiệu Phật liền gián đoạn, há chẳng đáng tiếc lắm ư!
111. Niệm Phật tam muội, tức là niệm Phật chánh định:
Tâm và Phật hiệp nhất, Phật cảnh hiện tiền.
112. Cũng như Tịnh độ tông Trung Hoa, Tịnh độ tông Nhật Bản chủ trương
rằng: “Trong đời mạt pháp hiện nay, khó mà áp dụng pháp môn Thiền
định là con đường của chư Thánh, tức là con đường của những bậc đại căn
đại trí, đủ đại hùng đại lực tự giác ngộ, tự giải thoát”.
Tại sao khó? Vì
ngũ trược nặng nề, nhiều sự cám dỗ,
chúng sanh khó mà sống một cuộc đời bình dị, thanh tịnh để chiêm
nghiệm, thấu suốt những giáo lý cao
siêu của Phật. Huống chi cách Phật đã lâu xa, còn ai đâu để đem
khẩu giáo, thân giáo chân chính dìu dắt mình một cách hiệu lực nữa! Bởi
các cớ ấy, chúng sanh trong đời mạt pháp này
phải tự thú nhận rằng mình quá yếu
đuối, quá mê mờ, quá thiếu phương tiện và hùng lực
để tự thức tỉnh và cởi mở cho mình,
mà cần phải kêu gọi đến pháp
môn niệm Phật, nương nhờ vào từ lực cứu độ của Ðức Phật A-di-đà.
113.
Giáo tướng của Phật giáo chia ra làm hai môn là THÁNH ÐẠO MÔN và TỊNH ÐỘ
MÔN. Người tu về Thánh đạo môn, vì nương vào kinh điển, phát tự lực tu
chứng nên khó khăn. Người tu Tịnh độ môn, vì nương vào tha lực (Phật
A-di-đà) nên tu chứng được dễ dàng. Kết luận, hai ngài Long Thọ và Ðàm
Loan khuyên mọi người nên tu Tịnh độ là pháp môn duy nhất thích ứng với
căn cơ của chúng sanh ở thời mạt pháp.
114.
Hễ trong giờ
phút lâm chung mà được thanh tịnh, thì bất luận là ai, cũng đều được
vãng sanh tất cả. Trái lại, giả sử cả đời tu hành, nhưng đến giờ phút
lâm chung mà còn luyến tiếc, nghi ngờ, rối loạn, thì không thể nào vãng
sanh được. Cho nên những bậc thiện tri thức và ban hộ niệm không thể
vắng mặt trong giờ phút “thiên thu
vĩnh biệt” mà dù là Phật tử hay không Phật tử, nếu người ấy muốn
có một cuộc đời hạnh phúc vĩnh cửu sau khi bỏ đời này qua đời khác.
Nhưng ỷ lại vào thiện tri thức không bằng tự trông cậy vào mình, cầu
Phật lúc lâm chung không bằng thường xuyên hằng ngày vậy.
115. Dưới đây
là mười điểm thiết yếu của môn niệm Phật hay của người tu pháp niệm
Phật:
1.- Niệm Phật phải
vì thoát sanh tử.
2.- Niệm Phật phải
phát lòng Bồ-đề.
3.- Niệm Phật phải dứt trừ
lòng nghi.
4.- Niệm Phật phải quyết định
nguyện vãng sanh.
5.- Niệm Phật phải hành trì
cho thiết thật.
6.- Niệm Phật phải đoạn tuyệt
phiền não.
7.- Niệm Phật phải khắc kỷ
cầu chứng nghiệm.
8.- Niệm Phật phải bền lâu
không gián đoạn.
9.- Niệm Phật phải an nhẫn
các chướng duyên.
10.- Niệm Phật phải dự bị lúc
lâm chung.
116. Phật giáo đồ ở Nhật Bản có truyền thoại là “Mật
tông và Thiên Thai tông để cho hàng quý phái, Thiền tông cho võ sĩ đạo
và Tịnh độ tông cho hạng bình dân” mà bình dân là hạng chiếm đa số.
Xem thế thì biết ở các xứ Bắc tông
Phật giáo, những người xưng niệm danh
hiệu Phật A-di-đà chiếm phần tối đa.
117. Có một bí quyết, khẩn thiết bảo nhau: HẾT LÒNG
THÀNH KÍNH, nhiệm mầu, nhiệm mầu!
Phuï: Khi làm việc lành chi, dù nhỏ nhặt cũng nên chắp
tay đối trước Phật hoặc hướng về Tây, đọc bài kệ hồi hướng:
Nguyện đem công
đức này
Cầu bốn ân, ba
cõi
Con cùng với
chúng sanh
Ðồng sanh về
Cực lạc.
II. CẢNH GIỚI CỰC LẠC
^
Cực lạc là quê hương
Ta-bà là cõi tạm
Thế nên:
Sống là gởi, thác là về.
118. NGUYÊN NHÂN CÓ CÕI CỰC LẠC. Kinh Vô Lượng
Thọ chép rằng: Ðức Phật A-di-đà khi đương còn làm Tỳ-kheo tên là Pháp
Tạng, Ngài nhắm mục đích trang nghiêm cõi Cực lạc để dễ giáo hóa các
loài hữu tình, nên đã từng xin Ðức Phật Thế Tự
Tại dạy cho biết tướng trạng và nội
dung 210 ức quốc độ của chư Phật. Nghe xong, Ngài
yêu cầu biến hiện cho thấy để y cứ
vào đó mà tham khảo, làm ấn tượng trong khi tu hành.
Sau khi thấy nghe tường tận bao nhiêu cảnh giới quốc độ của chư Phật
rồi, Tỳ-kheo Pháp Tạng mới bắt đầu vận hết tinh thần tu nhân “tạo quốc
độ”. Trải qua năm kiếp tư duy nhiếp thủ, Ngài mới thành tựu thế giới Cực
lạc.
Ðến nay thế giới Cực lạc là nơi quy
túc (về nghỉ) của chúng ta về sau. Sanh về đó
là nấc thang thoát ly sanh tử luân
hồi, để cho chúng ta bước lên đường cứu cánh giải thoát.
Vậy xem đó, chúng
ta có thể ý niệm được lòng từ bi vô hạn của Ðức Phật A-di-đà đối với
chúng sanh là đường nào vậy.
119. CHÁNH BÁO VÀ Y BÁO CÕI CỰC LẠC
VỀ NHÂN DÂN (Chánh báo) ở cõi Cực lạc có 13 món trang nghiêm thanh tịnh
dưới đây, thuộc phần “chúng sanh thế gian” (Chánh báo):
1.- An lạc vô
bệnh.
2.- Thọ mạng lâu
dài.
3.- Thân tướng đẹp
đẽ.
4.- Không có sự
bất bình đẳng về giàu nghèo, sang hèn.
5.- Tâm tánh nhu
hòa, đạo đức cao thượng.
6.- Ðạo tâm kiên
cố.
7.- Mọi người đều
do hóa sanh mà có, không do thai sanh là kết quả của dâm dục ô trược.
8.- Không có sự
sai khác về nhỏ lớn, già trẻ, mạnh yếu.
9.- Không nhơ bẩn
ô uế.
10.- Tâm trí phóng khoáng,
thông đạt.
11.- Hết luân hồi
trong lục đạo.
12.- Ðủ sáu món
thần thông.
13.- Ðầy đủ huệ
nhãn, chánh kiến.
VỀ CẢNH VẬT (Y báo)
cõi Cực lạc có 19 món trang nghiêm thanh tịnh dưới đây:
1.-
Quốc độ bằng phẳng thanh tịnh.
2.-
Mặt đất do bảy báu tạo thành.
3.-
Khí hậu ôn hòa.
4.-
Lưới báu bủa giăng.
5.-
Sáu thời mưa hoa.
6.-
Sen báu đầy dẫy.
7.-
Hóa Phật thuyết pháp.
8.-
Cây đạo tràng của Phật.
9.-
Cây báu phát âm thanh.
10.-
Muôn vật nghiêm lệ.
11.-
Không có ba đường dữ.
12.-
Cung điện trang nghiêm.
13.-
Quốc độ thanh tịnh.
14.-
Hồ tắm trong thơm.
15.-
Nước hồ lên xuống tùy nguyện.
16.-
Hương xông ngào ngạt.
17.-
Thức ăn tinh khiết.
18.-
Y phục tùy niệm.
19.-
Chim biết thuyết pháp.
120. CÁC CÕI TỊNH ÐỘ TRONG MƯỜI PHƯƠNG
Trong mười phương hư không có vô lượng vô số quốc độ với những trạng
huống khổ vui ngàn sai muôn khác. Nguyên nhân thành tựu các quốc độ sai
khác ấy tuyệt đối không do một sức thần thánh nào hoặc một sự ngẫu nhiên
nào tạo thành.
Quốc độ tuy nhiều,
nhưng khái quát có thể chia thành hai loại:
1. Quốc độ do cộng
nghiệp của chúng sanh duyên khởi, cộng nghiệp ấy cảm thành quốc độ y báo
chung, để chúng sanh tùy từng biệt nghiệp thiện hay ác mà thọ quả báo
hoặc vui hoặc khổ.
2. Quốc độ do Phật
và Bồ-tát hóa hiện để dùng làm chốn đạo tràng độ sanh.
Loại trước gọi là uế độ. Vì nguyên nhân trong quá khứ chúng sanh làm
điều phước đức ít mà gây điều tội ác nhiều, nên cảm báo thành quốc độ
vui ít, khổ nhiều.
Loại sau gọi là Tịnh độ. Vì nguyên nhân tạo nên quốc độ này là do sức
phước huệ của chư Phật, Bồ-tát, sức gia trì của bốn tâm vô lượng: Từ,
bi, hỷ, xả. Thêm vào các nguyên nhân ấy lại có tăng thượng duyên là công
đức tu tập của chúng sanh hồi hướng nguyện sanh về các cõi ấy. Có sự cảm
ứng đạo giao giữa nội nhân và ngoại duyên ấy liên hệ với nhau, nên mới
duyên khởi được quốc độ trang nghiêm thanh tịnh, thuần vui, không có khổ
nhân tội báo xen vào.
Trong mười phương thế giới có vô số uế độ nhưng cũng có vô số Tịnh độ.
Trong các uế độ, thế giới Ta-bà của chúng ta mới chỉ là một. Cũng như
trong các Tịnh độ, thế giới Cực lạc của Ðức Phật A-di-đà cũng chỉ là
một.
Trong mười phương thế giới có hằng hà sa số chư Phật, thì cũng có hằng
hà sa số cõi Tịnh độ. Mỗi cõi Tịnh độ đều có phương pháp tu hành khác
nhau, phù hợp với từng nhân duyên. Tu hành y theo phương pháp nào thì
đến khi thuần thục sẽ được vãng sanh về cõi Tịnh độ ấy. Phương pháp tu
hành cầu quả vãng sanh Tịnh độ thì gọi là phép tu Tịnh độ.
Các cõi Tịnh độ trong mười phương có
nhiều vô lượng mà phép tu cũng có nhiều
vô số. Vậy ai theo phương pháp của
cõi nào cũng đều có thể tùy
nguyện được vãng sanh ở cõi ấy.
121.
CÁC LOẠI TỊNH ÐỘ SAI KHÁC
Tịnh độ hay uế độ
đều do nhất tâm biến hiện. Chư Phật khi lấy diệu dụng của tịnh thức biến
hiện ra Tịnh độ, vì tác dụng có sai khác nên danh nghĩa Tịnh độ cũng tùy
đó mà có sai khác.
Căn cứ vào “Tây
phương Hiệp luận” đã ghi chép, thì Tịnh độ có 10 loại không đồng nhau.
Nhưng ở đây chỉ nói về NHẤT TÂM TỊNH ÐỘ và BẤT KHẢ TƯ NGHỊ TỊNH ÐỘ có
liên quan đến chúng ta.
NHẤT TÂM TỊNH ÐỘ
Nhất tâm Tịnh độ là nương nơi tâm
mà biến hiện và tùy theo công năng tu
chứng cao thấp nên có phân ra bốn bậc không đồng:
a/ Phàm Thánh đồng
cư Tịnh độ
Ðây là quốc độ của
hàng Nhị thừa và nhân thiên. Nhị thừa là Thánh, nhân thiên là phàm.
Thánh phàm cùng ở chung nên gọi là Phàm Thánh đồng cư, lại vì tính chất
tịnh uế không đồng mà có chia thành hai thứ. Như cõi Ta-bà là đồng cư uế
độ, cõi Cực lạc là đồng cư Tịnh độ.
b/ Phương tiện hữu
dư Tịnh độ
Ðây là cảnh giới
an trú của hàng Tiểu thừa. Hàng Tiểu thừa nhờ đoạn Kiến Tư hoặc nên
thoát ly tam giới. Kiến hoặc là sự mê lầm về kiến thức. Tư hoặc là sự
mê lầm về tư tưởng. Trên con đường tu chứng, đoạn trừ Kiến Tư hoặc
chỉ là mới đạt phương tiện, chưa đạt cứu cánh. Cần phải tiến lên nữa và
phải đoạn hai món mê lầm là Trần sa hoặc và Vô minh hoặc. Trần sa
hoặc là sự mê lầm nhỏ nhặt như vi trần. Vô minh hoặc là sự mê lầm cội
gốc do căn bản vô minh gây nên. Ðoạn Kiến hoặc và Tư hoặc chỉ là đạt
phương tiện, hành giả phải tiến tu thêm nữa. Vì vậy gọi là phương tiện
hữu dư. Hữu dư nghĩa là còn sót, chưa rốt ráo.
c/ Thật báo vô
chướng ngại Tịnh độ
Ðây là cảnh giới
an trú của các vị đại Bồ-tát. Chư Bồ-tát nương theo phương pháp chân
thật mà tu hành, cảm được quả báo thù thắng chân thật; sắc giới (vật
chất) cũng như tâm giới (tinh thần) không còn gây chướng ngại đối với
Bồ-tát nên gọi là Thật báo vô chướng ngại. Ðây là cảnh giới của các vị
Bồ-tát tu chứng.
d/ Thường tịch
quang Tịnh độ
Ðây là cảnh giới
đại Niết-bàn của chư Phật an trú. Thể tánh cảnh giới này thường vắng
lặng mà vẫn thường quang minh, vì do trí tuệ của Phật hằng thường tỏa
cùng khắp. Vì thế nên gọi là Thường Tịch Quang Tịnh độ. Thường Tịch
nghĩa là thường vắng lặng. Thường Quang là thường soi sáng.
BẤT KHẢ TƯ NGHỊ TỊNH ÐỘ
Bất khả tư nghị
Tịnh độ là cảnh giới Cực lạc của Ðức
Phật A-di-đà, để thâu nhiếp,
tiếp nhận chúng sanh trong mười phương. Sức thâu nhiếp ấy không
thể nghĩ bàn, vì ngoài sức tư tưởng và luận bàn của chúng sanh.
Cõi Cực lạc Tịnh
độ là mục tiêu chính để cho chúng ta tập trung tất cả lực lượng tư tưởng
vào đó. Nếu thật chứng được một cõi Tịnh độ ấy thì bao nhiêu cõi Tịnh độ
khác cũng đều chứng được.
III. PHƯƠNG
PHÁP TRÌ DANH NIỆM PHẬT
^
Ðối với chúng sanh, vọng
niệm là căn bệnh, thuốc là danh hiệu Phật. Hễ phương pháp nào trừ được
căn bệnh vọng niệm, ấy là phương pháp thiện xảo nhất. Cũng như đối với
thầy thuốc, phương thang nào chữa đúng căn bệnh là phương thang hay.
122.
TRÌ DANH NIỆM PHẬT có 12 phương pháp:
1.- NIỆM PHẬT CAO
TIẾNG: Niệm lớn tiếng, đem hết cả tinh lực toàn thân dồn vào trong câu
niệm Phật, khác nào những tiếng đại hồng chung, những tiếng sư tử rống,
át cả trời đất vũ trụ.
Kinh Ðại Tập nói:
“Niệm Phật lớn tiếng có mười công đức: 1) Ðánh tan hôn trầm mê ngủ. 2)
Thiên ma kinh sợ. 3) Tiếng vang khắp mười phương. 4) Ba đường ác được
dứt khổ. 5) Tiếng bên ngoài không xâm nhập. 6) Niệm tâm không tán loạn.
7) Mạnh mẽ tinh tấn. 8) Chư Phật vui mừng. 9) Tam muội hiện tiền. 10)
Vãng sanh về Tịnh độ”.
2.- MẶC NIỆM: Lúc niệm, môi
chỉ hơi mấp máy,
không phát ra tiếng, niệm thầm.
3.- NIỆM KIM CANG:
Tức niệm ra tiếng. Niệm vừa tiếng, không lớn quá, không nhỏ quá. Nghe
thong thả hòa hoãn. Cứ vừa niệm vừa nghe như thế, óc sẽ không bị xao
lãng và tâm thần định được. Phương pháp này hiệu lực rất lớn lao, cho
nên đem ví dụ với ngọc Kim cang. Kim nghĩa là vàng, thí dụ cho sự cô
đọng cẩn mật; cang nghĩa là cứng, thí dụ cho sự cứng rắn; vừa cẩn mật,
vừa cứng rắn thì ngoại cảnh khó xâm nhập và tạp niệm dễ bị đánh tan.
Trong các phương
pháp niệm Phật, phương pháp này được thường dùng hơn hết. Phương pháp
này lại có tên là PHẢN VĂN NIỆM PHẬT, nghĩa là niệm chữ nào trở lại nghe
chữ ấy, chữ ra từ miệng lại trở về tai.
Cần phải niệm Phật
ra tiếng thì tam muội dễ thành. Niệm thầm nhỏ phần nhiều bị tán loạn.
Ðiều này riêng hành giả tự biết, người ngoài không rõ thấu được.
4.- NIỆM GIÁC
CHIẾU: Một mặt xưng danh hiệu Phật, một mặt quay tâm trí của mình trở
lại soi xét tự tánh.
5.- NIỆM QUÁN
TƯỞNG: Một mặt xưng danh hiệu Phật, mặt khác quán tưởng thân Phật và
Bồ-tát trang nghiêm đang đứng trước ta. Quán tưởng cảnh Cực lạc với lầu
đài tráng lệ, lưới báu bủa giăng, hoa nở chim kêu, đương phát ra tiếng
niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng v.v...
6.- NIỆM TRUY
ÐẢNH: Cũng như phép niệm Kim cang nói trên, nhưng giữa chữ trước và chữ
sau, giữa câu trước và câu sau, đừng để xen hở. Chữ nọ bồi vào chữ kia,
câu sau chồng lên câu trước, trung gian không cho dứt hở nên gọi là truy
đảnh. Truy nghĩa là đuổi theo, đảnh là đầu. Tức là đuổi theo, niệm đầu
niệm sau nối liền nhau không dứt hở.
7.- NIỆM LỄ BÁI:
Ðồng thời trong khi niệm Phật thì thân lạy; hoặc niệm xong một câu, lạy
một lạy; hoặc miệng niệm thì thân lạy, thân lạy thì miệng niệm.
8.- NIỆM TỪNG LOẠT
MƯỜI HƠI: Tức mười niệm (sổ thập). Niệm một hơi kể một niệm, niệm mười
hơi là mười niệm. Tùy hơi dài ngắn,
mỗi hơi niệm 7 câu Phật chẳng hạn, lấy đó làm chừng. Niệm mỗi hơi
phải thầm đếm để nhớ số 7 câu Phật (phương tiện để nhiếp tâm). Niệm đủ
mười hơi rồi trở lại niệm mười hơi khác, cứ tiếp niệm như vậy và lấy đó
làm chừng trong mỗi thời niệm Phật. Sau mỗi mười hơi tức mười niệm phải
đếm số thứ tự ra tiếng để dễ nhớ. Ðây là pháp mượn hơi nhiếp tâm. Với
phương pháp này khỏi dùng chuỗi.
9.- NIỆM ÐẾM THEO
HƠI THỞ (sổ tức): Niệm như phép truy đảnh ở trên, không kể số danh hiệu
Phật niệm được nhiều hay ít, chỉ dùng hơi thở làm chừng. Bắt đầu thở ra
thì niệm cho đến khi hết hơi thở, nghỉ niệm mà hít hơi vào. Khi thở ra
lại tiếp tục niệm như trước. Cứ mười lần như vậy thì gọi là mười niệm.
10.- NIỆM THEO
THỜI KHÓA NHẤT ÐỊNH: Một khi thời khóa biểu đã vạch sẵn rồi, thì ngày
ngày cứ y theo đó mà hành trì, tự lập cho mình một thói quen và có như
thế mới giữ được đạo tâm bất thối. Ðiều quan trọng là tại chỗ thường
thời thực hành, đều đều chuyên nhất.
11.- NIỆM BẤT CỨ
LÚC NÀO: Với những hành giả đã huân
tập được tịnh chủng khá thành thục, thì tự nhiên phát ra những
tiếng niệm Phật bất cứ lúc nào, cơ hồ như có một sức lực dõng mãnh nào
bên trong thúc đẩy, khiến cho hành giả hằng tiến không lùi. Lúc đi đứng
nằm ngồi, không lúc nào là không niệm Phật, ngoại trừ trong giấc ngủ.
12.- NIỆM PHẬT HAY KHÔNG
NIỆM VẪN LÀ NIỆM: Pháp niệm Phật nói ở trên là chỉ cho sự niệm Phật
thành tiếng phát ra nơi miệng trong lúc đi, đứng, nằm, ngồi. Còn niệm
Phật trong đoạn này chỉ là tâm niệm, tâm niệm nhớ nghĩ đến Phật. Nói
“niệm hay không niệm vẫn là niệm” nghĩa là bất kể miệng có niệm thành
lời hay không, luôn luôn trong tâm vẫn tưởng nhớ đến Phật, tức là vẫn có
niệm Phật.
Ðây chính là người niệm Phật dụng
công chuyên nhất. Ngoài sự niệm Phật
không nghĩ ngợi gì khác, cho đến khi
công phu được thuần
thục, thế nên tâm niệm tự nhiên có sẵn câu niệm Phật luôn luôn tiếp nối
nhau không hở
dứt, vì vậy không cần phải dụng ý
niệm Phật
mà
danh hiệu Phật vẫn không hở dứt trong
nội tâm.
Người xưa nói:
“Niệm mà không niệm, không niệm mà niệm” tức là chỉ cho phép niệm
Phật trong đoạn này vậy.
123. TÁN TÂM
NIỆM PHẬT
vẫn có công hiệu. Miệng niệm Phật,
tâm chuyên nhất nghĩ tưởng đến
Phật gọi là định tâm niệm
Phật. Miệng niệm Phật, tâm không nghĩ
tưởng
đến Phật mà lại suy nghĩ vẩn vơ gọi là tán tâm niệm Phật, so với định tâm
niệm Phật
công hiệu hai bên vốn cách nhau rất
xa. Nhưng sự thật thì nhất cử
nhất động gì bên ngoài đều ảnh
hưởng đến nội tâm, nên dù là
tán tâm niệm Phật, sự niệm Phật ấy không
phải hoàn toàn vô công hiệu. Vả lại,
trong khi niệm lục tự Di-đà,
không phải là không xuất phát
từ trong tâm ta mà ra hay sao? Cho nên
trong khi miệng ta niệm, bắt đầu là
sáu chữ ấy
phải bắt nguồn từ ý muốn do trong tâm
ta phát ra.
Thứ lại, khi sáu chữ đã phát thành
tiếng, âm thanh phát ra nhất định phải trở lui huân tập tâm ta. Như thế
không thể nói rằng nó hoàn toàn không có hiệu lực, chẳng
qua công hiệu của nó so với công hiệu của định tâm niệm Phật có
kém thua mà thôi. Ðiều cần nhất là giữ cho niệm niệm đừng xen hở, niệm
một lúc lâu rồi tự nhiên lần hồi định tĩnh trở lại, không cần phải dụng
tâm điều nhiếp, lâu ngày định niệm
trở nên thành thục. Cho nên
ngày đêm lúc nào ta cũng niệm
Phật, không cần nghĩ đến tán tâm hay
định tâm. Nếu định tâm niệm Phật được
thì rất quý, nhưng rủi có bị
tán tâm cũng đừng lo ngại.
124. NIỆM PHẬT
TAM MUỘI
là nhớ chuyên, tưởng lặng vậy. Nhớ chuyên thì chí không chia, tưởng lặng
thì khí thanh, thần sáng. Khí thanh thì trí giác soi khắp; thần sáng thì
chiếu suốt chỗ tối tăm. Hai điều này
thầm hợp nhau, hội lại mà ứng dụng.
Ðây chính là người
niệm Phật đã đạt công phu đến mức vi diệu, cho nên lý niệm và sự niệm
được viên dung một khối duy nhất. Như câu: “Nhất phiến băng tâm tại ngọc
hồ” không khác nào một cái hồ bằng chất ngọc trắng trong, đựng một phiến
nước đá trong trắng. Hai vật tuy khác tên mà tự thể trong trắng của nó
dường như không thể nào phân chia làm hai khối. Nên gọi là niệm Phật tam
muội, vì sự niệm và lý niệm đã đến chỗ chứng đắc rồi vậy.
125. TU PHÁP
THẬP NIỆM:
Sớm mai thức dậy, phục sức xong rồi, nên chắp tay hướng về Tây niệm
Phật. Nên lấy hơi dài niệm liên tiếp luôn hết một hơi, kể là một niệm;
niệm đủ mười hơi là mười niệm. Nhưng đừng quá cố gắng, hơi dài ngắn,
tiếng cao thấp, niệm chậm mau đều tùy theo sức mình. Niệm xong, phát
nguyện vắn tắt cầu sanh Tây phương. Nếu có thờ Phật, nên đối trước Phật
mà niệm. Nhưng khi mới vào và lui ra, đều phải lễ ba lạy. Pháp thập niệm
này rất tiện lợi cho người có nhiều duyên sự. Nếu mỗi ngày đều thật hành
y theo đây, lấy trọn đời làm kỳ hạn, thì quyết định sẽ được vãng sanh.
126. PHÉP “TÙY
THUẬN TRÌ DANH”
là khi hôn trầm thì đi kinh hành, lúc tán loạn thì trở lại ngồi, hoặc
đứng nằm đều tùy tiện mà trì niệm, làm sao cho câu niệm Phật đừng xa
lìa. Ðây là yếu thuật để hàng phục tâm ma.
127. Khi niệm Phật, mí mắt nên sụp xuống, đừng nên quá
dùng tinh thần, nếu dùng tinh thần quá hỏa khí sẽ bốc lên, làm cho nhức
đầu choáng váng, hoặc mang các chứng bệnh: lên máu, đầu tê rần, ngứa,
nhức, máu bầm tụ trên đỉnh đầu. Vậy phải niệm cho vừa chừng. Nếu thấy
đầu óc nặng nề nóng bừng, phải trấn định tinh thần, lắng tai nghe mà
niệm, hoặc chú tưởng nơi lòng bàn chân thì hỏa khí sẽ hạ xuống.
IV. ÐỀ PHÒNG MA CHƯỚNG
^
“Cổ đức đã bảo:
“Thấy ma không ma, ma liền tự hoại. Thấy quái không quái, quái liền tự
bại”.
Câu này có nghĩa: Nếu thấy ma quái
mà lòng không xao động sợ hãi, giữ
chánh niệm được vững vàng,
hoặc chí tâm niệm Phật,
loài ma quái ấy không làm chi được,
sẽ tự bỏ
đi.
128. CÁC LOẠI
MA
Ma tiếng Phạn là Ma-la, Trung Hoa
dịch là Sát. Bởi nó hay cướp của công
đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. Ma cũng
chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả
thối đạo tâm, cuồng loạn, mất chánh niệm
hoặc sanh tà kiến làm điều ác rồi kết cuộc bị
sa đọa.
Những việc phát
sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự.
Các điều phá hoại căn lành khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong vòng
sống chết luân hồi, là ma sự.
Người tu càng lâu,
đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hưng thạnh. Ma tuy nhiều, nhưng
kết yếu chỉ có ba loại là phiền não ma, ngoại ma và thiên ma.
PHIỀN NÃO MA chỉ cho các phiền não tham nhiễm, hờn giận, si mê, khinh
mạn, nghi ngờ, ác kiến cho đến các thứ ma: năm ấm, sáu nhập, mười hai
xứ, mười tám giới. Loại ma này cũng gọi là nội ma, do lòng mê muội điên
đảo sanh ra, nên phải dùng tâm chân chánh, sáng suốt, giác ngộ mà giải
trừ. Phàm phu tự mình đã có những nghiệp riêng, lại do cộng nghiệp sống
chung trong khung cảnh, mà người xung quanh phần nhiều tánh tình hiểm
ác, nghiệp chướng lẫy lừng, nên dễ động sanh phiền não. Có kẻ không chịu
đựng nổi sự lôi cuốn của ngũ trần, nên bị sa ngã. Có người vì nghịch
cảnh, khiến cho bi thương sầu não, chí tiến thủ tiêu ma.
Muốn đối trị ma
này, hành giả phải quán xét phiền não là hư huyễn, xao động, nóng bức,
trói buộc, tối tăm, chỉ làm khổ cho người và mình. Dứt phiền não ta sẽ
trở về chân tâm tự tại giải thoát, mát lặng sáng trong, an vui mầu
nhiệm.
Phiền não hay nội
ma, nếu không chế phục được, tất sẽ chiêu cảm đến ngoại ma ở ngoài đến
phá. Lời xưa nói: “Trong cửa có tiểu nhân, ngoài cửa tiểu nhân đến.
Trong cửa có quân tử, ngoài cửa quân tử đến”.
NGOẠI MA là những loài quỷ thần yêu mị bên ngoài. Người tu khi có đôi
chút công phu, liền bị nó đến thử thách phá khuấy. Loài này có thể chia
thành ba hạng là Bố ma, Ái ma và Não ma.
1.- Bố ma là loài
mà ưa khủng bố, làm cho người kinh sợ. Thứ ma này thường hóa hình cọp,
sói, rắn rít hoặc các loài thú hung dữ kỳ lạ, hay hình ác quỷ ghê rợn để
dọa nhát người tu. Nếu hành giả kinh hãi, liền bị nó phá, làm mất chánh
niệm, lắm khi sanh điên cuồng. Gặp cảnh này, nên nghĩ các tướng đều giả
dối, an nhiên chuyên tâm niệm Phật hoặc trì chú, nó sẽ tự rút lui.
2.- Ái ma là loài
ma kích động lòng ái dục cho đến tâm tham nhiễm cảnh ngũ trần. Tùy tâm
niệm hành giả ưa thích điều chi, nó liền hiện ra thứ ấy. Chúng có thể
dùng ma lực khiến cho người tu được tà định, tà trí, tài biện thuyết,
biết phép thần thông, biết quá khứ vị lai. Những kẻ không hiểu cho là đã
chứng đạo quả, thảy đều tin phục. Song kỳ thật người kia trong tâm điên
đảo, chuyên làm phép quỷ mê hoặc thế gian.
3.- Não ma là loại
ma chuyên phá rối, làm não loạn người tu. Muốn đối trị não ma, nên tụng
Tam quy, Ngũ giới hoặc Giới bổn, bởi chúng là thứ quỷ phạm tội phá giới.
Làm như thế chúng liền ẩn mất. Hoặc chuyên trì chú niệm Phật, chúng sẽ
biến tan.
THIÊN MA là loại ma cõi Tha Hóa Tự Tại, thuộc tầng thứ sáu của trời Lục
Dục. Chúng hiện ra nhiều cảnh, hoặc hăm dọa, hoặc khuyến dụ, hoặc giúp
cho ta sức tà định tà trí cùng thần thông để gạt gẫm, chúng rình rập nếu
hành giả có một niệm sơ hở, liền bị chúng ám nhập, xui giục làm những
điều trái đạo đức, đời tu kể như đã hư tàn. Khi gặp những cảnh như trên,
người tu phải dùng trí huệ quán sát, gắng giữ chánh niệm, đừng sanh tâm
chấp trước mà lạc vào lưới tà. Phải kiên trì như thế mới xa lìa được ma
chướng.
Sức tu của người thời nay, phần nhiều bị phiền não ma phá hoại, chưa đủ
để cho thiên ma phải ra tay. Loại thiên ma này chỉ đến với những vị tu
cao. Nếu thiên ma quyết phá những vị sức tu tầm thường, khó có hy vọng
thoát khỏi. Người tu môn niệm Phật, nhờ có ánh sáng hào quang nhiếp hộ
của Ðức A-di-đà mà không nạn ma, hoặc nếu có cũng là phần ít. Trái lại,
người tu thiền, ma cảnh hiện nhiều,
bởi chỉ nương vào tự lực.
Bởi vậy chuyên tâm
niệm Phật là phương tiện mầâu nhiệm để thoát khỏi nạn ma mau thành tựu
chánh định.
129.
Khi niệm Phật cần phải chí thành, hoặc có lúc
trong tâm khởi ra bi cảm, đó là tướng căn lành phát hiện. Nhưng phải đề
phòng, đừng nên thường như thế, chẳng vậy thì bị loài ma bi thương nhập
vào làm cho thương khóc mãi chẳng thôi. Phàm gặp việc chi vừa ý cũng
đừng quá vui mừng; vui mừng quá tất bị loài ma hoan hỷ ám nhập, làm cho
cười mãi như điên cuồng.
130.
Trong kinh sách Phật, có nhiều
chỗ khuyên răn người tu, lúc được cảnh giới
tốt hay có sở đắc chi, chớ nên phô bày. Nếu
phô bày thì dễ sanh ma chướng, tà niệm, hoặc
có khi được rồi lại mất. Trừ ra hai phương diện:
1.- Bậc Bồ-tát hiện thân, vọng tâm đã dứt, vì muốn thủ tín cùng đời, hay
vì dắt dìu, chỉ dẫn người sau, nên mới nói ra.
2.- Lòng mình có chỗ
nghi, muốn thuật riêng lại với bậc thiện tri thức để nhờ quyết
đoán sự chánh tà, tránh các điều hại, không phải có ý khoe khoang tự
đắc.
Vậy xin các hành
giả phải cẩn thận, đừng có được ít mà nói nhiều, và nếu không phải vì
một trong hai trường hợp trên, xin chớ phô ra. Như thế mới khỏi mang tội
đại vọng ngữ và tránh được các điều hại.
Người tu nếu đúng theo pháp mà
niệm Phật, thì thấy tướng hảo càng
tốt, không thấy cũng vô hại, bởi nhân chắc thật, tất quả không hư dối. Như tu niệm
không đúng pháp, hoặc dụng công chẳng
chí cực, thì có sở đắc là ma,
không sở đắc là ngu si. Dù khi các cảnh tướng
tốt hoặc xấu phát hiện, cũng nên giữ vững
chánh niệm, đừng quá vui mừng hoặc kinh sợ
vì đó là những chỗ hở ma dễ nhập vào
tâm. Người đời nay, khi tu
hành phần nhiều có tánh hiếu
kỳ, không chú trọng nơi chỗ dụng công,
chỉ mong cầu được thấy hảo tướng. Ðã
như thế, chẳng những không
được cảnh tốt, mà do bởi vọng
tưởng phân vân, ma nhân đó giả hiện Phật, Bồ-tát để gạt gẫm, khiến cho
điên cuồng.
Nếu người có đôi
chút công hạnh mà tham chấp cảnh giới, hoặc cầu các hảo tướng quá phần
lượng, lại là một điều hại cần nên để tâm lưu ý.
V.
SỰ LỢI ÍCH HIỆN THẾ VỀ PHÁP MÔN NIỆM PHẬT
^
Niệm Phật:
Nghiệp báo tiêu trừ
Thiện căn tăng trưởng
Bớt khổ thêm vui
An thân lập mạng.
131. Những người thọ trì danh hiệu Phật A-di-đà thì lúc
hiện thế đặng mười món lợi ích rất lớn:
1.-
Ngày đêm thường có các bậc thiện thần ẩn hình để ủng hộ.
2.-
Thường có hai mươi vị Bồ-tát như bậc ngài Quán Âm và cả thảy các
vị Bồ-tát khác nữa hằng theo giúp đỡ.
3.-
Thường đặng các Ðức Phật ngày đêm hộ niệm và Ðức Phật A-di-đà
hằng phóng quang để nhiếp thọ cho nữa.
4.-
Tất cả các thứ quỷ dữ, như quỷ Dạ xoa, quỷ La sát đều không dám
hại, và những loài rắn độc, rồng độc cùng thuốc độc cũng không thể làm
cho nguy hiểm được.
5.-
Nào những nạn lửa, nạn nước, nạn oán thù gươm mác cũng không hại
được.
6.-
Những tội nghiệp kiếp trước của mình cũng đều tiêu diệt hết, còn
các loài sinh vật lâu nay bị mình giết hại cũng được nhờ phần giải thoát
mà khỏi sự oan báo.
7.-
Ðêm ngủ chiêm bao thường thấy những sự chân chánh và có khi thấy
được tướng hảo của Phật A-di-đà nữa, chớ không khi nào thấy điều ác
mộng.
8.-
Tâm thường vui vẻ, sắc thường tươi nhuận và khí lực thường khỏe
mạnh, hành động sự gì cũng được phước lợi.
9.-
Người đời ai cũng yêu vì, cúng dường và hoan hỷ lễ bái, kính
trọng cũng như Phật.
10.-
Ðến lúc lâm chung, trong tâm không sợ hãi mà giữ được chánh niệm,
lại đặng thấy Ðức Phật A-di-đà và các vị Thánh chúng cầm hoa sen vàng
tiếp dẫn về Tây phương mà hưởng thọ những điều khoái lạc vô cùng, vô
tận.
132.
Người niệm Phật có hào quang của Phật soi vào mình,
ánh sáng chung quanh cách bốn mươi dặm, nên ma không thể xâm phạm được,
do vì nhờ sức Phật A-di-đà và mười phương Phật thường hộ niệm, mãi từ
ngày phát tâm cho đến khi thành đạo, từ trước đến sau mỗi việc đều lành
cả.
133.
Người niệm Phật nếu tấm lòng chân thiết, tự có thể
nhờ từ lực của Phật khiến cho khỏi tai nạn đao binh, nước, lửa v.v... Dù
có bị túc nghiệp sâu dầy, hoặc trường hợp chuyển quả nặng địa ngục thành
báo nhẹ đời nay mà ngẫu nhiên bị những tai nạn ấy, nếu lúc bình nhật có
lòng tín nguyện chân thiết, quyết định lúc bấy giờ sẽ được chư Phật tiếp
dẫn.
VI. SO ÐỜI SỐNG GIỮA CÕI CỰC LẠC VÀ TRỜI NGƯỜI
^
Cảnh Ta-bà thời ngắn khổ,
Cõi trời vui sướng nhưng
không bền,
Miền Cực lạc thuần vui lại
bất thối,
Thế nên Cực lạc quyết được
về!
134. Người mới học
đạo, nhẫn lực chưa thuần nên phải mượn tịnh duyên để giúp phần
tinh tiến. Bởi ở cõi Ta-bà Phật Thích-ca đã nhập diệt, Ðức Di-lặc chưa
giáng sanh; miền Cực lạc thì đấng Từ phụ A-di-đà hiện đương thuyết pháp.
Với đức Quán Âm, Thế Chí và vô số bậc
thượng thiện nhân đều là bạn
tốt. Ở Ta-bà các loài ma nổi dậy, làm não loạn người tu; trái
lại, nơi cõi Cực lạc trong ánh đại quang minh đâu còn ma sự! Ở Ta-bà dễ
bị tiếng tà quấy loạn, sắc đẹp mê tâm; miền Cực lạc thì chim nước rừng
cây đều tuyên diệu pháp, chánh báo thanh tịnh, đâu có nữ nhân! Thế thì
duyên tu hành thuận tiện đầy đủ không đâu hơn cõi Tây phương.
135. Sự vui ở Cực lạc mầu nhiệm không cùng, đâu phải
chỉ như cảnh chùa thanh tịnh. Vì vậy, xuất gia là tốt mà không chịu cầu
vãng sanh, đó là điều lầm thứ nhất.
Nguyện tham phỏng bậc tri thức mà không muốn thấy Phật, là điều lầm thứ
hai.
Muốn gần gũi chùa lớn mà không mến hải chúng thanh tịnh ở Tây phương là
điều lầm thứ ba.
Người ở Tây phương thọ mạng không lường, một khi gởi chất nơi hoa sen
thì không còn sự khổ sanh già bệnh chết. Ở nơi đây tu hành tiếp tục mãi
cho đến khi chứng quả Bồ-đề. Cam chịu luân chuyển ở cảnh Ta-bà ngắn khổ,
mà quên miền Cực lạc trường xuân, đó là điều lầm thứ tư.
Thế nên những người chẳng tin lời Phật, khinh rẻ sự cầu sanh Tịnh độ há
chẳng phải là mê lầm ư? Than ôi! Người không biết lo xa ắt có sự buồn
gần, một khi mất thân này muôn kiếp đành ôm hận, chừng ấy hối sao cho
kịp!
136. Vĩnh Gia Thiền sư nói: Người tu phước sanh lên cõi
trời sẽ chiêu vời quả khổ ở tương lai, như bắn mũi tên lên hư không, khi
sức đã mãn tên lại rơi xuống đất.
Trong kinh có lời: Chư Thiên cõi Dục vì cảnh ngũ dục quá thắng diệu dồi
dào làm cho say mê, lại không có sự thống khổ làm cho thức tỉnh, nên khó
phát tâm chịu nhọc, chịu khổ mà tu hành đạo hạnh. Vì hưởng phước vui mãi
mà không tu, tất có ngày hết phước phải sa đạo. Còn chư Thiên trong cõi
Sắc và Vô sắc lại vì mãi an trụ trong cảnh giới thiền định, khó tấn tu
đạo giải thoát. Lúc sức thiền định đã mãn, vẫn y nhiên trở lại luân hồi.
Do đó, sanh lên
cõi trời thời không bảo đảm giải thoát.
137. Người tu phước sanh trở lại cõi người, dầu cho
thân người đời sau của ta do căn lành mà ở ngoài những chướng nạn (tàn
tật, ngoại đạo, tà giáo, không gặp Phật, không nghe đặng pháp, v.v...)
nhưng theo lời Phật, Phật pháp càng ngày càng đi sâu vào thời mạt, bậc
minh sư, thiện hữu chân chánh tu hành có đạo đức tất là khó có, khó gặp.
Thầy bạn giải thoát đã không, ai là người dẫn đường cho ta đắc đạo. Lại
đương nhằm kiếp giảm, tuổi thọ con người càng lúc càng bớt lần, đời sau
tu học chưa được gì rồi kế chết, đời thứ ba, thứ tư sẽ ra thế nào? Ta sẽ
đi vào đâu?
Lại nữa, Phật đã
nói: “Chúng sanh được thân người như đất dính móng tay, còn sa vào ác
đạo như đất toàn cõi đại địa”. Sau khi bỏ thân này, ta dám cả quyết
là không đi xuống ư?
Thế là dầu được
sanh làm người trở lại cũng không thể bảo đảm là sẽ giải thoát.
Lại còn e rằng một
bước trật chân chắc chắn là lăn xuống đến hố sâu. Ðây là điều đáng lo sợ
cho đời sau mãi mãi phải bị trầm luân.
Vậy chúng ta phải
quyết tâm tấn tu để kịp lo sao cho được giải thoát, và phải giải thoát
nơi đời hiện tại này mà thôi.
VII.
NHỮNG BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN VÀ TÁN PHẬT
^
“Yếu môn vào đạo, phát tâm
làm gốc,
Cấp vụ tu hành: lập nguyện
ở trước”
- Nguyện lập thì chúng
sanh mới có thể độ.
- Tâm phát thì Phật đạo
mới được thành.
(Trích Phát Bồ-đề tâm văn)
138.
Trong các bài phát nguyện, nổi tiếng nhất là bài “Khể thủ Tây phương”
của ngài Liên Trì Ðại sư, bài “Nhất
tâm quy mạng” của ngài Từ Vân sám chủ, bài “Thập
phương tam thế Phật” của ngài Ðại Từ
Bồ-tát. Bài nào bài nấy lời văn rất hay, ý nghĩa rất đầy đủ và
hàm súc. Sau một thời kinh và trì niệm danh hiệu Phật, ta nên vận hết
thành tâm đọc một trong những bài ấy, hoặc đọc
tiếp hai ba lần cũng được. Ðọc như
thế tức là mượn lời văn để tự mình phát lời nguyện rồi vậy. Lúc
lâm chung nhất định sẽ được nhờ Phật tiếp dẫn vãng sanh thế giới Cực
lạc.
Bài NHẤT TÂM QUY MẠNG
Của ngài Từ Vân
sám chủ
BẢN DỊCH
Một lòng quy
kính
Phật A-di-đà
Thế giới Cực
lạc
Nguyện lấy tịnh
quang chiếu con
Từ thệ nhiếp
con
Con nay chánh
niệm
Xưng hiệu
Như-lai
Vì đạo Bồ-đề
Cầu sanh Tịnh
độ
Phật xưa có
thệ:
“Nếu có chúng
sanh
Muốn sanh nước
ta
Hết lòng tín
niệm,
Dù chỉ mười
niệm,
Mà chẳng đặng
sanh,
Thề chẳng làm
Phật”.
Nhờ nhân duyên
niệm Phật này,
Ðược vào trong
biển đại thệ,
Của Ðức
Như-lai.
Nhờ từ lực
Phật,
Các tội tiêu
diệt,
Căn lành tăng
trưởng,
Khi thân mạng
gần chung,
Biết trước giờ
chết,
Thân không bệnh
khổ,
Tâm không tham
luyến,
Ý không điên
đảo,
Như vào thiền
định,
Phật và Thánh
chúng,
Tay nâng kim
đài,
Ðến nghinh tiếp
con,
Trong khoảng
một niệm,
Sanh về Cực
lạc,
Sen nở thấy
Phật,
Liền nghe Phật
thừa,
Bừng tỏ Phật
huệ,
Lui về độ sanh,
Tròn nguyện
Bồ-đề.
Bài THẬP PHƯƠNG TAM THẾ PHẬT
Của ngài Ðại Từ
Bồ-tát
BẢN DỊCH
Trong ba đời
mười phương,
Phật Di-đà thứ
nhất,
Chín phẩm độ
chúng sanh,
Oai đức cao tột
bậc,
Con nay nguyện
quy y,
Sám hối tội ba
nghiệp,
Phàm làm được
phước thiện,
Thảy nhất tâm
hồi hướng,
Nguyền cùng
người niệm Phật,
Tùy thời hiện
cảm ứng,
Khi lâm chung
thấy rõ,
Cảnh Tây phương
trước mắt,
Thấy nghe đều
tinh tấn,
Ðồng sanh về
Cực lạc,
Thấy Phật đoạn
sanh tử,
Như Phật độ hết
thảy,
Dứt vô biên
phiền não,
Tu vô lượng
pháp môn,
Ðộ hết thảy
chúng sanh,
Ðều trọn thành
Phật đạo,
Hư không có
hạn,
Nguyện con
không cùng,
Hữu tình vô
tình,
Ðều trọn trí
giác.
MỘT BÀI PHÁT NGUYỆN KHÁC
Nguyện đem công
đức này,
Trên đền bốn ơn
sâu,
Nếu có kẻ thấy
nghe,
Khi báo thân
này mãn,
Trang nghiêm
nơi cõi Phật,
Dưới độ ba
đường khổ,
Ðều phát lòng
Bồ-đề,
Ðồng sanh về
Cực lạc.
BÀI TÁN PHẬT
Ðại từ đại bi
thương chúng sanh,
Ðại hỷ đại xả
cứu muôn loài,
Tướng tốt rực
rỡ tự trang nghiêm,
Ðệ tử chí thành
quy mạng lễ.
BÀI HỒI HƯỚNG
Nguyện đem công
đức này,
Ðệ tử và chúng
sanh,
Chung cùng khắp
cả,
Ðều trọn thành
Phật đạo.
VIII. KHUYÊN NIỆM PHẬT
^
“Lục tự Di-đà vô biệt niệm
Bất lao đàn chỉ đáo Tây
phương”
(Sáu chữ Di-đà thường
chuyên niệm,
Tương lai quyết định vãng
Tây phương).
139.
Người xuất gia phải chí thú nơi
sự giải thoát, đừng quá đua theo công
nghiệp hữu vi, vì trong ấy có nhiều lầm lỗi, e cho thiên
đường chưa thấy, địa ngục đã trước thành!
Nếu việc sống chết chưa xong, thì tất
cả công nghiệp hữu vi đều là
nguyên nhân của sự khổ. Một mai nhắm mắt đi rồi, tùy theo nghiệp
mà thọ báo, chừng ấy mới hay việc đã làm là trên gông cùm thêm xiềng
xích, dưới vạc nóng thêm củi than, mảnh pháp y đã mất nơi thân, nẻo dị
loại đổi hình muôn kiếp.
140.
Trong đời, những người tiền của như núi, thê thiếp đầy nhà, đâu phải họ
không muốn trẻ mãi để ngày đêm hưởng phước báo thế gian. Nhưng vì kiếp
sanh có hạn, tháng năm thúc giục tuổi già, cái chết há thiên vị kẻ giàu
sang, sức nghiệp đâu nể kiêng người tài trí! Chừng ấy tội hành nghiệp
cảm, còn chi là thói phong lưu; kiếp trả đền vay, luống hối cho đời
phóng đãng! Những việc vừa nói, thế nhân hầu hết mắt đã từng thấy và tai
cũng đã từng nghe. Người đời thường lần lựa chờ khi
lớn tuổi, việc nhà xong xuôi rồi sẽ niệm Phật, nhưng
cái chết đâu có hẹn trẻ hay già! Tuy
nói thế, đã mấy ai tuổi cao mà biết lo niệm Phật. Cổ nhân bảo:
“Chớ đợi đến già rồi niệm Phật. Ðồng hoang mồ trẻ đã nhiều đây!”.
141.
Tất cả người khổ trong đời, vì thân tâm không rỗi rảnh, nên khó tu hành.
Nay ta có phần an nhàn, lại nghe pháp môn
niệm Phật, vậy phải cố gắng hành trì
nối tiếp nhau, khi chuyên tưởng, lúc nhiếp
tâm, mới
không uổng ngàn vàng tấc bóng. Nếu tu
hành lôi thôi tất khó có kết quả, như thế là phụ rãy bốn ân, luống qua
ngày tháng, một mai vô thường chợt đến, lấy gì mà chống đối!
142.
Năm tháng không chờ
đợi, đừng
nên hẹn lại ngày mai. Trên con đường tu
hành, việc niệm Phật là một việc vừa cần
thiết vừa cấp bách. Hễ gặp dịp tu được là tu liền, gặp dịp niệm được là
niệm ngay, chớ nên
chần chờ để cho thời gian luống qua một cách vô ích.
Phật dạy mạng
người ở trong một hơi thở, thở ra mà
không thở vào nữa là đời tàn! Bất luận lúc nào, giờ phút nào, con
người cũng có thể chết được, không
một ai có đủ tài năng bảo đảm đời sống vững chắc lâu dài.
Sự thật đơn giản
và phũ phàng ấy, từ Thánh nhân cho đến thế tục, không ai là không xác
nhận. “Sanh hữu hạn, tử vô kỳ”, cho nên muốn kịp thời đối phó với
cái chết bất thần, ta không nên để lỡ một thời gian nào trôi qua mà
không tu niệm. Bất cứ lúc nào tu được, niệm được thì phải gấp rút và
tinh tấn hành trì; có thế phút lâm chung
mới tránh khỏi cảnh hoang mang, tay
quàng, chân rối, lúng túng chẳng biết về đâu.
143.
Phàm làm việc gì mà có
lý có sự,
việc mới thành tựu. Ví như đã biết lộ trình mà
lại còn chịu cất bước ra đi. Nếu có lý mà không
có sự thì nào có khác gì kẻ biết đường nhưng
lại không chịu đi. Cũng như có sự mà không lý
thì không khác kẻ muốn đi mà không biết đường. Người đã biết đường và
chịu đi theo đường ấy, lý sự tương xứng nhau, nhất định phải thành công.
Hạng biết không chịu đi chắc chắn không đến đâu cả. Hạng chịu đi mặc dầu
không biết đường nhưng có chí cương quyết, không chần chờ do dự, như vậy
cuối cùng rồi
cũng sẽ đạt đến đích. Vì các lẽ ấy cho nên mặc dù thiếu lý soi đường
những người chịu thực hành cũng chưa lấy gì làm lo. Có lo chăng là với
hạng người chỉ ngồi nói lý suông mà không chịu thực hành. Vì vậy, Phật
pháp có công năng độ kẻ ngu phu, thất phu không biết nửa chữ một cách dễ
dàng chớ khó độ người thế trí biện thông, hoặc người không chịu thiết
thực tu hành.
144.
May thay, Ðức Bổn sư Thích-ca Mâu-ni
Phật đã vận dụng trí tuệ vô biên và
từ
bi vô lượng, đề ra pháp môn Tịnh độ,
tức
là
môn niệm Phật rất giản tiện mà
có
hiệu lực
rất lớn, giúp được tín đồ không phí thì giờ,
khỏi bỏ công việc mà vẫn có
thể thành tựu đạo
quả một cách chắc chắn. Hễ ai có tu
là có
chứng, không luận tại gia hay xuất gia, không
bỏ sót một ai. Hàng Phật tử
tại gia, ngoài pháp môn niệm
Phật này ra tưởng cũng khó có
hy vọng thành công đối với các
pháp môn khác. Càng khó thành công thì lại càng dễ
sanh chán nản, lắm lúc còn làm cho thối
khuất rồi mất hẳn tín tâm, tai hại biết bao! Vì các lẽ ấy nên nói rằng
pháp môn niệm Phật là pháp môn
duy nhất cho hàng Phật tử tại
gia.
Rất mong các vị Phật tử tại gia
nhận thức tròn đầy tất cả công hiệu viên
dung của pháp môn niệm Phật để tu
hành, cùng
nhau niệm Phật và một ngày kia
cùng gặp nhau trên ao sen bảy
báu của Ðức Phật A-di-đà.
Nam Mô Liên Trì Hải Hội Phật Bồ-Tát
145. NIỆM PHẬT
QUYẾT ÐỊNH NGUYỆN VÃNG SANH
Sân lan trời
ngã bóng chiều,
Cảm thân phù
thế ít nhiều ngẩn ngơ
Tranh đời dệt
mộng vẩn vơ
Say đua danh
lợi mê mờ sắc thanh
Cánh bèo sóng
vỗ bập bềnh
Tại ai hay cũng
gây nên bởi mình?
Bể trần là mấy
phù sanh
Thị phi thương ghét trong
tình quẩn quanh
Mà trông chiếc
là lìa cành,
Vinh hư cõi tạm
trong vành đó thôi!
Mà trông ngọn
nước chảy trôi
Mênh mang sáu
nẻo biết rồi về đâu?
Kiếp người nào
có bao lâu
Nắng mưa thôi
cũng dãi dầu cỏ hoa!
Lầu sương nhạt
ánh trăng tà
Hoàng lương một giấc tỉnh
ra ngỡ ngàng!
Chi bằng về cõi
Liên bang
Sen khoe sắc
ngọc, gió đàn pháp âm
Trời giải
thoát, cảnh thậm thâm
An vui muôn
kiếp, tuyệt lỗi lầm xưa
Chỉ câu niệm
Phật đừng thưa
Chỉ bền tín
nguyện, tam thừa bước lên
Ðài vàng sẵn đã
ghi tên
Cơ duyên sẵn
đợi một nền đạo tâm.
146.
Trong Kinh Vô Lượng Thọ, Ðức Thích-ca đã than thở
và khuyến tấn:
Cõi Phật Vô Lượng
Thọ
Hàng Thanh văn
Bồ-tát
Công đức và trí
tuệ
Không có thể khen
nói!
Lại nơi cõi nước
kia
Nhiệm mầu cực an
vui
Sự thanh tịnh như
thế
Sao không gắng làm
lành
Mà niệm đạo tự
nhiên?
Ðều phải siêng
tinh tấn
Gắng sức tự mong
cầu
Vãng sanh cõi Cực
lạc
Tất lên chỗ siêu
tuyệt
Vượt ngang năm nẻo
ác
Ác đạo tự nhiên
đóng
Thăng đạo không
cùng tận
Dễ sanh mà không
người!
Cõi kia không cảnh
nghịch
Tự nhiên thuận
tiến lên
Sao không xả việc
đời
Siêng tu cầu đạo
đức
Ðể được kiếp sống
lâu
Thọ, vui không
cùng cực
SỰ TÍCH “KHUYẾN
TU”
Niệm Phật
là nhân
Thành
Phật là quả
Ai ơi
gắng gổ đêm ngày
Chuyên
tâm niệm Phật cầu ngày vãng sanh
147. SỰ TÍCH
CHÂU LỢI BÀN ÐÀ GIÀ VÀ ÐỀ BÀ ÐẠT ÐA
Ngày xưa, khi Phật còn tại thế, có
ngài Châu Lợi Bàn Ðà Già là người rất độn căn.
Khi xuất gia làm đệ tử Phật, chỉ được Phật
dạy cho hai chữ “Chổi” và “Quét”, thế
mà học mãi không thuộc. Tuy thế, ngài vẫn không nản chí, hết lòng
cố gắng, không hề xao lãng, cuối cùng vọng niệm tiêu trừ, nghiệp đoạn
giải, ngài chứng được quả A-la-hán.
Ðồng thời với ngài Châu Lợi Bàn Ðà
Già có ngài Ðề Bà Ðạt Ða, một đệ tử
rất thông minh và có biện tài
vô ngại. Ðề Bà học đủ các môn
thần thông, đọc làu cả sáu vạn
pháp tụng, nhưng vì bản tính kiêu căng,
không chịu tu tập nên cuối cùng bị
đọa địa ngục.
Xem đó đủ biết dù bác thông giáo lý,
biện luận như thác nước chảy,
nhưng nếu không thiết thực tu
trì thì hoặc nghiệp từ vô thỉ
vẫn nằm yên bất động, không giảm được
một hai ly, thử hỏi sự hiểu biết ấy
có lợi ích gì không? Công hiệu lợi ích so với một bà già
nấu bếp, mặt lem luốc, nửa chữ không
biết, chưa chắc đã ai hơn ai,
nhất là khi bà già này tinh
tấn niệm Phật, luôn luôn một lòng tin
tưởng, lúc lâm chung nhất định sẽ
được vãng sanh.
Ai là người học
Phật chân chính nên xem đó là
gương.
148. TÍCH
TRƯƠNG TỔ LƯU
Ngày xưa, có người đến nhà bạn là Trương Tổ Lưu khuyên
niệm Phật. Trương nghe theo
nhưng xin khất lại một ngày khác vì có ba
việc chưa làm xong: Một là cha mẹ
đang còn cần phải phụng dưỡng,
hai là con cái chưa dựng gả
xong, ba là việc nhà chưa thu xếp gọn. Trương hẹn khi nào làm
xong ba việc ấy sẽ hạ thủ công phu, nhất tâm niệm Phật. Sau khi cáo từ
ra về được vài tháng, người kia trở lại
thăm, với chủ ý khiến được ông bạn
đừng nên chần chờ nữa, nhưng than ôi! Khi đến mới
biết bạn đã là người thiên cổ. Bèn
ngậm ngùi than thở và làm một bài thơ điếu rằng:
Ngô hữu
danh vi Trương Tổ Lưu
Khuyên y
niệm Phật thuyết tam đầu
Khước hậu
Diêm công vô phân hiểu
Tam đầu
vị liễu tiện lai câu.
Tạm dịch là:
Ông bạn
tôi tên Trương Tổ Lưu
Tôi
khuyên niệm Phật hẹn ba điều
Diêm
vương ác hại không thèm hiểu
Ba việc
chưa xong vội bắt liều.
Người
đời dầu quyền cao chức trọng đến
đâu,
vẫn không thể bảo đảm cho tương lai đời
mình
một cách chắc chắn được. Trường hợp
như
Trương Tổ Lưu trên đây không phải là hiếm có. Vì thế, nếu đã có chí tu
hành thì tâm phải cho quyết và phải biết lợi dụng thời gian mới khỏi để
ân hận về sau. Vậy, lúc nào tu được là nên tu liền, phút nào niệm được
là phải niệm ngay. Thế gian có câu ca rằng: “Ðời người khác thể
bóng
câu, sớm còn tối mất, biết đâu mà lường”.
Ðạo Phật cũng có
câu kệ:
Mạc đãi lão lai phương niệm
Phật
Cô phần đa thị thiếu niên
nhân
(Chớ đợi
đến già rồi niệm Phật
Ðồng
hoang mồ trẻ đã nhiều đây!)
149. Kệ khuyên
niệm Phật
Vô thường
mau lẹ sớm hồi đầu
Thân này
tuy có chẳng bền lâu
Mai lo
danh lợi, chiều nhắm mắt
Khá mau
niệm Phật kẻo bạc đầu
Khuyên ai
tinh tấn tìm giải thoát
Sống tu
kẻo chết biết về đâu!
Ngày đêm
gắng nhớ câu niệm Phật
Nguyện về
Cực lạc khỏi đọa sâu.
IX.
SỬ PHẬT, BỒ-TÁT VÀ 13 VỊ TỔ LIÊN TÔNG.
^
Cây có
cội nước có nguồn
Công ơn
Phật Tổ sánh dường non cao
Vâng lời
Phật Tổ hành trì
Mong ngày
đắc quả hằng tùy độ sanh
150. Bổn sư
Thích-ca Mâu-ni Phật
Thích-ca Mâu-ni là
tiếng Phạn, dịch: Năng nhân Tịch mặc, Thích-ca là họ, Mâu-ni là tên;
Phật có nghĩa là: Ðấng Giác ngộ. Ðức Bổn Sư khi xưa là Thái tử
Tất-đạt-đa, ở xứ Trung Ấn Ðộ, nước
Ca-tỳ-la-vệ, cha là Tịnh Phạn
Vương, mẹ là Ma-da Hoàng hậu. Thái tử xuất gia lúc 19 tuổi, đến
30 tuổi thành đạo, thuyết pháp 50 năm, trụ đời 80 tuổi. Ðức Phật ra đời độ vô lượng
chúng sanh, hiện nay đạo pháp của Ngài được khắp Á, Âu, tôn trọng.
Pháp môn niệm Phật
ra đời là do công đức của Ngài giới thiệu và hướng dẫn đầu tiên trong
Kinh Ðại A-di-đà.
151. Ðạo sư
A-di-đà Phật
A-di-đà là tiếng Phạn, dịch Vô Lượng
Thọ hoặc Vô Lượng Quang. Ngài là vị
giáo chủ ở thế giới Cực lạc,
về phương Tây. Theo Kinh Cổ Âm
Vương thì đời quá khứ có nước
Diệu Hỷ, vị Quốc vương là Kiều Thi Ca. Bấy
giờ có Phật Thế Tự Tại Vương ra đời.
Kiều Thi Ca xuất gia đầu Phật,
hiệu là Pháp Tạng. Lại Kinh Vô
Lượng Thọ nói: “Pháp Tạng Tỳ-kheo
ở nơi Phật Thế Tự Tại Vương phát lòng Bồ-đề, lại phát 48 lời nguyện mỗi nguyện đều nói:
“NẾU KHÔNG ÐƯỢC
NHƯ THẾ TÔI THỀ KHÔNG THÀNH PHẬT”
Những đại nguyện
ấy đã thành tựu, và Ngài Pháp Tạng đã thành Phật tức là Ðức A-di-đà ở
thế giới Cực lạc hiện nay.
Ðức Từ phụ A-di-đà
Phật là một đấng hoàn toàn lịch sử ở
thế giới Cực lạc, trên vài
mươi thế kỷ, hồng danh mãi vang lên nơi
miệng, nơi tâm của tất cả chúng sanh, y cứ
nơi kim ngôn của Ðức Bổn Sư,
đấng Chân thật
ngữ.
Dưới đây là nhân
địa của Ðức Ðạo Sư A-di-đà Phật, để
biết rằng kết quả vô thượng
đây, tất do nơi nhân thù thắng thuở trước
vậy.
A. Bồ-tát Sa-di
(Một tiền thân Ðức
Phật A-di-đà)
Trích thuật theo Kinh Pháp
Hoa, phẩm Hóa Thành Dụ, thứ 7
Ðức Ðại Thông Trí
Thắng Phật khi còn ở ngôi quốc vương, có 16 người con trai. Lúc quốc
vương bỏ ngai vàng xuất gia thành Phật, thời 16 vị vương tử đồng vào
pháp hội xin xuất gia làm Sa-di. Trải qua một thời gian tu học, 16 vị
Sa-di chứng ngộ diệu lý, đều đặng thần thông trí huệ.
Sau khi giảng Kinh Diệu Pháp Liên Hoa cho đại chúng trong pháp hội, Ðức
Ðại Thông Trí Thắng Phật liền nhập tịnh thất, trụ trong đại định.
Thời gian Ðức Phật
ngồi yên lặng nơi tịnh thất, 16 vị
Bồ-tát Sa-di đều thăng tòa
giảng rộng nghĩa lý Kinh Pháp Hoa cho đại
chúng. Mỗi vị Bồ-tát Sa-di độ được
sáu trăm tám mươi muôn ức na
do tha hằng hà sa người.
Mười sáu vị Sa-di đó hiện nay đều đã thành Phật cả, đang ngự trong đạo
tràng ở mười phương thế giới. Vị Sa-di thứ 16
thành Phật ở cõi Ta-bà hiệu là
Thích-ca Mâu-ni, và vị thứ 9 hiện tại thành Phật ở cõi Cực lạc
thế giới, tức là Ðức Từ phụ A-di-đà Phật.
B. Thái tử
Thắng Công Ðức
(Một tiền thân Ðức
Phật A-di-đà)
Trích thuật theo Kinh Nhất
Hướng Xuất Sanh Bồ-tát
Về thuở quá khứ có vị Thái
tử
tên là Bất Tư Nghì Thắng Công Ðức. Năm 16 tuổi, Thái tử được nghe
Kinh Pháp Bổn Ðà-la-ni nơi Ðức Phật Bảo Công Ðức Tinh Tú Kiếp Vương
Như-lai. Nghe kinh xong, Thái tử tinh tấn tu tập trong bảy muôn năm,
không ngủ nghỉ mà cũng không nằm, không dựa. Nhờ sức dõng mãnh ấy nên
lần lần Thái tử được gặp chín mươi ức trăm nghìn Ðức Phật. Bao nhiêu
kinh pháp của chư Phật dạy truyền, Thái tử đều có thể thọ trì tu tập cả.
Về sau, Thái tử xuất gia làm Sa môn, lại tu tập “Pháp Bổn Ðà-la-ni” chín
muôn năm và giảng truyền chánh pháp cho mọi người.
Tinh tấn tu hành
và cần mẫn giáo hóa, trong một đời hoằng pháp Thái tử độ được tám mươi
ức na do tha người phát Bồ-đề tâm, trụ bậc bất thối chuyển.
Thái tử Thắng Công
Ðức là tiền thân của Ðức Từ phụ A-di-đà Phật.
C. Vua Vô Tránh
Niệm và hai vương tử
(Một tiền thân Ðức
Phật A-di-đà và Quán Thế Âm, Ðại Thế Chí Bồ-tát)
Trích thuật theo Kinh Bi
Hoa
Vô lượng hằng hà
sa kiếp về trước, ở thế giới San Ðề Lâm, con trai của Phụ tướng Bảo Hải,
xuất gia thành Phật hiệu là Bảo Tạng Như-lai. Bấy giờ quốc vương Vô
Tránh Niệm cùng đi với Phụ tướng Bảo Hải, các vị vương tử và thần dân,
đến đạo tràng cúng dường Ðức Phật Bảo Tạng.
Sau khi nghe Ðức
Phật giảng dạy, vua cùng Phụ tướng đều phát Bồ-đề tâm. Ðức vua nguyện
trang nghiêm Tịnh độ để nhiếp thọ chúng sanh. Quan Phụ tướng nguyện
thành Phật ở uế độ hầu ngự phục mọi loài. Ðức Phật Bảo Tạng phán rằng:
“Quá trăm nghìn muôn ức Phật độ về phương Tây có thế giới của Tôn Ám
Vương Như-lai, một hằng hà sa a tăng kỳ kiếp sau, thế giới đó sẽ đổi tên
là Cực lạc; bấy giờ vua sẽ thành Phật nơi ấy hiệu là Vô Lượng Thọ
Như-lai. Và quan Phụ tướng Bảo Hải sẽ thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni
ở Ta-bà thế giới”.
Quan Phụ tướng là tiền thân của
Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật. Ðức vua Vô Tránh Niệm là tiền thân của Từ
phụ A-di-đà Phật.
Lúc vua Vô Tránh Niệm phát
nguyện và được thọ ký xong, Thái tử Bất Huyến, trưởng tử của vua, phát
Bồ-đề tâm, đối trước Phật phát nguyện rằng: “Sau này, thời gian tôi tu
Bồ-tát hạnh, có chúng sanh nào gặp phải các sự khổ não khủng bố, v.v...
sầu lo cơ cùng không ai cứu hộ, không chỗ cậy nương, kẻ ấy nhớ đến tôi,
xưng danh hiệu của tôi, được thiên nhĩ tôi nghe đến, thiên nhãn tôi thấy
đến, nếu những chúng sanh đó chẳng được thoát khỏi các sự khổ não khủng
bố thời tôi thề trọn không thành bậc Chánh giác, và khi vua cha thành
Phật ở Cực lạc thế giới, thời tôi thường ở Cực lạc thực hành Bồ-tát đạo
và hộ trì Chánh pháp”.
Ðức Bảo Tạng Như-lai phán với
Thái tử: “Ông quan sát chúng sanh mà sanh lòng
đại bi, muốn dứt tất cả sự khổ não
của chúng sanh đều được an
lạc, nay nên đặt hiệu cho ông
là Quán Thế Âm. Về sau, lúc
Ðức Vô Lượng Thọ
nhập Niết-bàn, cõi Cực lạc đổi tên là
Nhất
Thiết Trân Bửu Thành Tựu thế giới,
ông sẽ
thành Phật nơi ấy hiệu là Biến Xuất Nhất Thiết Quang Minh Công Ðức Sơn
Vương Như-lai”.
Bấy giờ Vương tử Ni Ma, con thứ của
vua, phát nguyện đem tất cả công đức
hồi hướng Vô thượng Bồ-đề, và lúc Thái tử Bất
Huyến thành Phật, người sẽ là vị Bồ-tát thỉnh
chuyển pháp luân trước nhất,
cũng thường ở luôn một bên Sơn
Vương Như-lai giúp Phật hoằng hóa.
Ðức Bảo Tạng Như-lai liền thọ ký cho Vương tử Ni Ma sẽ được toại nguyện,
lúc Sơn Vương Như-lai nhập Niết-bàn, người sẽ hộ trì Chánh pháp và sau
cùng sẽ thành Phật nơi thế giới ấy, hiệu là Thiện Trụ Công Ðức Bửu Vương
Như-lai, quang minh, thọ mạng, quốc độ cùng tất cả Phật sự đều đồng như
Ðức Sơn Vương Như-lai.
Thái tử Bất Huyến là tiền thân của Quán Thế Âm Bồ-tát và Vương tử Ni Ma
là tiền thân của Ðại Thế Chí Bồ-tát.
Ðức Phật chỉ cõi Tịnh độ hoàn toàn an vui, cứu cánh thanh tịnh giải
thoát, cùng những pháp môn Tịnh độ, để người ham mộ nguyện về, đây là
môn “Nhiếp thọ”.
Bổn nguyện của hai Ðức Phật:
Thích-ca Mâu-ni nguyện ở uế độ để ngự phục
chúng sanh cang cường. A-di-đà Phật
nguyện trang nghiêm Tịnh độ để nhiếp thọ chúng sanh thanh tịnh.
152. Quán Thế
Âm Bồ-tát
Theo Kinh Bi Hoa,
về kiếp quá khứ, thuở đời Phật Bảo
Tạng, khi Ðức A-di-đà còn làm
Luân Vương, thì Bồ-tát làm vị Thái tử thứ nhất của Ngài, hiệu là Bất
Huyến. Lúc Thái tử đối trước Ðức Bảo Tạng phát đại nguyện rồi,
Phật liền ban cho danh hiệu là Quán Thế Âm. Hiện tại Bồ-tát ở cõi Cực
lạc phụ giúp Phật A-di-đà mà hoằng hóa và tiếp dẫn chúng sanh. Về sau,
Bồ-tát kế vị Ðức A-di-đà mà thành Phật hiệu là Biến Xuất Nhất Thiết Công
Ðức Sơn Vương Như-lai; thế giới Cực lạc đổi tên lại là Nhất Thiết Trân
Bảo Sở Thành Tựu. Về phần nhân hạnh,
quả đức, cùng sự ứng hóa của Bồ-tát, trong Kinh Pháp Hoa, Lăng
Nghiêm, Ðại Bi có nói đến.
153. Ðại Thế
Chí Bồ-tát
Theo Kinh Bi Hoa,
về kiếp quá khứ, thuở đời Phật Bảo
Tạng, khi Ðức A-di-đà còn làm
Luân Vương thì Bồ-tát làm vị Thái tử thứ hai của Ngài, hiệu là Ni
Ma. Lúc thái tử Ni Ma đối trước Ðức Bảo Tạng phát thệ nguyện rồi, Phật
liền ban cho danh hiệu là Ðắc Ðại Thế và thọ ký cho sau thành Phật
hiệu là Thiện Trụ Trân Bảo Sơn
Vương. Hiện
tại, Bồ-tát ở cõi Cực lạc phụ giúp
Phật A-di-đà hoằng hóa và tiếp dẫn chúng sanh. Về sau,
Bồ-tát thành Phật kế đức Quán Thế Âm.
Thế giới, thời kiếp và Phật sự, cùng
Phật Công Ðức Sơn Vương tương
đồng. Trong Kinh Lăng Nghiêm
Bồ-tát nói pháp môn niệm Phật rất
là tinh thiết, người tu tịnh nghiệp
nên tuân theo.
154. Dưới đây là 13 vị Tổ trong Liên tông Phật giáo
Trung Hoa:
Huệ Viễn Ðại sư,
Sơ Tổ
Thiện Ðạo Ðại sư,
Tổ thứ 2
Thừa Viễn Ðại sư,
Tổ thứ 3
Pháp Chiếu Ðại sư,
Tổ thứ 4
Thiếu Khang Ðại
sư, Tổ thứ 5
Vĩnh Minh Ðại sư,
Tỏ thứ 6
Tĩnh Thường Ðại
sư, Tổ thứ 7
Liên Trì Ðại sư,
Tổ thứ 8
Ngẫu Ích Ðại sư,
Tổ thứ 9
Triệt Lưu Ðại sư,
Tổ thứ 10
Tỉnh Am Ðại sư, Tổ
thứ 11
Triệt Ngộ Ðại sư,
Tổ thứ 12
Ấn Quang Ðại sư,
Tổ thứ 13
155. Huệ Viễn Ðại sư
(Sơ Tổ Liên tông)
Ðại sư họ Cổ,
người xứ Nhạn Môn, tin về học thuyết Nho, Lão. Năm 21 tuổi, sư nghe ngài
Ðạo An giảng Kinh Bát-nhã, bỗng tỏ ngộ than rằng: “Các môn học Nho, Lão
đều như lúa lép thôi!”. Nhân đó bèn xuất gia phát thệ hoằng dương Phật
giáo. Ngài Ðạo An từng khen: “Chánh pháp truyền bá ở Trung Hoa, là do
Huệ Viễn này chăng?”. Sau, Ðại sư vào Lô Sơn, cảm rồng khai mạch nước,
thần vận chuyển cây để cất chùa Ðông Lâm. Ngài từng đào ao trồng sen,
hợp chúng lại ngày đêm sáu thời niệm Phật cầu sanh Tây phương, nhân gọi
là Liên xã.
Ðại sư ở trong núi hơn 30 năm, vua
vời cũng không đi, từng ba lần trông
thấy Thánh tướng, song trầm hậu không nói ra. Năm Nghĩa Hy thứ
12, Phật lại hiện, ngài bèn ngồi ngay
nhập diệt, thọ được 83 tuổi.
Người sau tôn Ðại sư làm Sơ Tổ trong Liên tông.
156. Thiện Ðạo Ðại sư
(Tổ thứ 2 Liên
tông).
Ðại sư ban sơ, nhân thấy đạo tràng
tịnh nghiệp của ngài Ðạo Xước, mừng
rỡ nói rằng: “Ðây mới thật là nẻo bí yếu để thành Phật”. Rồi đó
ngài đến kinh đô khuyên chúng tu Tịnh độ, thường quỳ niệm cho đến khi
kiệt lực mới thôi. Ðại sư giảng môn Tịnh độ hơn 30 năm, tu hành chuyên
cần, chưa từng ngủ nghỉ. Ðược bao nhiêu của thì ngài dùng tả
Kinh A-di-đà hơn mười muôn quyển, vẽ
Thánh cảnh Tây phương hơn ba trăm
bức. Ðại sư cảm hóa hàng đạo tục rất đông, trong ấy số
người được tam muội sanh Tịnh độ
nhiều không xiết kể. Một hôm, ngài leo lên cây liễu, hướng về Tây
chú nguyện rằng: “Xin Phật tiếp dẫn tôi về Tịnh độ”. Nói xong, gieo mình
rơi nhẹ nhàng như lá, ngồi kiết già mà tịch. Vua Cao Tông phục sự thần
dị của ngài, phong cho hiệu chùa là Quang Minh.
157. Thừa Viễn Ðại sư
(Tổ thứ 3
Liên tông)
Trích ở bộ “Liễu Tứ Hậu
Văn Tập”
Ðại sư ban đầu học
đạo với Ðường Thiền sư tại Thành Ðô, kế theo học với Tân Thiền sư ở Tứ
Xuyên, sau đến Kinh Châu tham học với Chơn Thiền sư ở Ngọc Tuyền.
Sau khi đã đại
ngộ, đạo lực đã thành, Chơn Thiền sư bảo ngài đến Hoành Sơn để hóa độ
người đời.
Lúc đầu, ngài đến ở dưới gộp đá phía Tây Nam của non
Hoành. Có ai thí cho cơm cháo
thời ăn, hôm nào không thí chủ thời
ngài ăn bùn, không hề đi quyên xin,
đến nỗi mình gầy, mặt nám, trên thân chỉ một cái y
rách.
Về phần truyền giáo, ngài đứng nơi
trung đạo mà dạy người pháp môn chuyên niệm Phật để mau được thành công.
Ngài viết lời Phật dạy ra nơi bên
đường, bên khe. Khắc giáo pháp
lên trên đà, trên vách. Tận tụy khuyên bảo người không nệ mệt nhọc.
Không bao lâu
người tin hướng theo ngài, lấy số vạn mà kể. Rồi những kẻ mang tiền mang
gạo, kẻ đốn cây đẵn gỗ, mọi người
đồng tâm xây chùa dựng điện. Ngài vẫn thản nhiên không khước từ, cũng
không bảo làm. Chẳng mấy lúc mà cụm rừng hoang đổi thành cảnh Di-đà đồ
sộ.
Phần riêng ngài
vẫn y rách cơm thô. Có ai cúng thí dư ra thời bảo đem cứu giúp kẻ nghèo
đói tật nguyền.
Năm Trinh Nguyên thứ 18 nhà
Ðường, ngày 19 tháng 7, ngài thị tịch nơi chùa Di-đà, thọ 91 tuổi.
158. Pháp Chiếu
Ðại sư
(Tổ thứ 4 Liên tông)
Trích ở những bộ “Tống Cao
Tăng truyện và Lạc Bang văn loại”
Pháp Chiếu Ðại sư, ban đầu ở chùa
Vân Phong tại Hoàng Châu chuyên cần
tu tập.
Năm Ðại Lịch thứ 4
nhà Ðường, ngài mở đạo tràng niệm Phật tại chùa Hồ Ðông. Ngày khai hội
cảm đến mây lành giăng che, trong mây hiện cung điện, Ðức A-di-đà Phật
và Quán Thế Âm, Ðại Thế Chí hiện thân vàng chói cả hư không. Khắp thành
Hoàng Châu, nam nữ già trẻ đều đặt bàn thắp hương đảnh lễ. Do Phật và
Bồ-tát hiện thân như thế, nên mọi người đều phát tâm tinh tấn hành đạo.
Ðạo tràng này ngài khai được năm hội.
Năm Ðại Lịch thứ
5, ngài được gặp Văn Thù và Phổ Hiền, hai vị Bồ-tát tại
chùa Ðại Thánh Trúc Lâm tự ở
Ngũ Ðài Sơn. Hai vị Bồ-tát khuyên ngài gắng chuyên chí nơi pháp môn niệm
Phật để giáo hóa mọi người và đồng thọ ký cho ngài sẽ được vãng sanh Cực
lạc và mau chứng quả Vô thượng Bồ-đề.
Triều vua Ðức Tông, ngài mở đạo tràng
niệm Phật ở Tinh Châu cũng được năm hội.
Mỗi đêm khuya, vua
và người trong cung thường nghe văng
vẳng tiếng niệm Phật rất thanh. Nhà vua bèn sai người
theo tiếng
mà tìm và sau khi biết đó là tiếng
niệm Phật ở đạo tràng Tinh
Châu. Nhà
vua bèn phái sứ giả mang lễ vật thỉnh ngài vào triều.
Ngài mở đạo tràng
niệm Phật tại hoàng cung cũng được năm hội. Vì thế nên người đời gọi
ngài là Ngũ Hội Pháp sư.
Một hôm, đang lúc định tâm niệm Phật,
bỗng có một vị Thánh tăng hiện đến bảo ngài rằng: “Tòa sen báu của Pháp
sư đã hoàn thành.
Ba năm sau hoa
nở”. Ðúng ba năm sau, ngài hội đại chúng mà dặn rằng: “Ta về Cực lạc,
mọi người phải gắng tinh tu”.
Dặn bảo xong, ngài ngồi ngay mà tịch.
159. Thiếu
Khang Ðại sư
(Tổ thứ 5 Liên tông)
Trích ở những bộ “Tống Cao
Tăng truyện và Lạc Bang Văn loại”
Thiếu Khang Ðại
sư, họ Châu, người Tiêu Ðô. Lúc bé, câm từ khi sanh. Năm 7
tuổi, ngài theo mẹ vào chùa Linh Sơn
lễ Phật. Mẹ chỉ Phật mà hỏi đùa: “Con có
biết ai đó
không?”. Ngài bỗng đáp rằng:
“Thích-ca Mâu-ni Phật”. Biết là có duyên với Phật
pháp, cha mẹ ngài bèn cho ngài xuất
gia. Năm 15 tuổi, ngài thông
suốt được năm bộ kinh.
Nhà Ðường, năm
Trinh Nguyên thứ nhất, ngài viếng chùa Bạch Mã ở Lạc Dương, thấy chỗ cất
kinh sách trong điện có ánh sáng xẹt
ra, ngài tìm xem thời ánh sáng ấy phát sinh từ tập văn “Tây
phương hóa đạo” của nhị Tổ Thiện Ðạo Ðại sư. Ngài vái
rằng: “Nếu tôi có duyên với Tịnh độ,
nguyện tập văn này lại phóng quang minh”. Ngài vừa nguyện dứt lời, tập
văn ấy liền chiếu sáng, trong ánh sáng
dạng dạng có hóa Bồ-tát. Ngài
nói: “Kiếp thạch có thể mòn, chớ chí nguyện tôi quyết không dời đổi”.
Sau ngài đến
Trường An lễ di tượng của nhị Tổ Thiện Ðạo Ðại sư. Khi đương lễ, tượng
của Tổ bỗng bay lên hư không,
lại có tiếng bảo ngài rằng: “Ông y theo lời dạy của ta mà phổ độ chúng
sanh, ngày sau công đức thành tựu sẽ sanh về Cực lạc”.
Ngài đến Giang
Lăng gặp một sư cụ bảo: “Ông muốn truyền đạo thời nên đến Tân Ðịnh, có
duyên ở đó”. Dứt lời, sư cụ bỗng biến mất.
Ngài đến Tân Ðịnh,
thấy người xứ ấy chưa ai biết niệm Phật là gì. Ngài quyên tiền rồi dụ
các trẻ nhỏ niệm Phật. Lúc đầu, các trẻ niệm một câu Phật thời ngài
thưởng một tiền, sau lần lần mười câu thưởng một tiền. Ít lâu, không cần
thưởng tiền chúng nó cũng niệm. Trước, thời có mặt ngài chúng mới niệm,
sau rồi chỗ nào và lúc nào chúng nó cũng vẫn niệm. Hơn một năm sau, cả
xứ Tân Ðịnh, mọi người đều biết niệm Phật và phàm nam nữ, già trẻ hễ
thấy ngài liền niệm “A-di-đà Phật”. Người người tay lần chuỗi, miệng lẩm
nhẩm, tiếng niệm Phật vang khắp các nơi.
Ngài bèn lập Tịnh
độ đạo tràng ở Ô Long Sơn, xây đàn tam cấp, cứ ngày trai, các thiện tín
nam nữ đều họp nơi đó để cùng nhau niệm Phật và nghe pháp. Thường số
người họp trên ba nghìn. Ngài ngồi trên tòa cao to tiếng xướng hiệu Phật
rồi đại chúng đồng hòa theo. Ngài xướng một câu thời đại chúng thấy một
Ðức Phật nhỏ từ trong miệng
ngài mà ra, mười câu là mười Phật, nối liền nhau như xâu chuỗi. Ngài bảo
đại chúng: “Quý vị đã được thấy Phật, chắc sẽ được vãng sanh”. Mọi người
đều mừng lắm.
Năm Trinh Nguyên
thứ 21, tháng 10, ngài họp hết kẻ tăng người tục lại rồi dặn
rằng: “Với thế giới ác trược này, mọi
người nên nhàm chán, với Cực
lạc Tịnh độ kia, nên hết lòng tăng tấn. Giờ này ai thấy được quang minh của ta, thời
thiệt là đệ tử của ta”.
Nói xong, ngài xòe
tay phóng ra vài tia sáng đẹp dài, rồi ngồi yên mà tịch.
Ðại chúng xây tháp
ngài ở Ðài Nham, hiệu là Ðài Nham Pháp sư.
160. Vĩnh Minh Ðại sư
(Tổ thứ 6 Liên
tông)
Ngài tục tánh họ
Vương, người xứ Tiền Ðường. Thuở còn tại chức ở ngoài đời, ngài có lấy
tiền thuế mua vật mạng phóng sanh, bị khép vào tử tội, song thần sắc
không biến, nên được vua ân xá. Sau đó, ngài cũng, trước y chỉ theo Thúy
Nham Thiền sư, kế tham học với Thiều quốc sư, nhờ đức Quán Âm dùng nước
cam lồ rưới nơi miệng nên được trí huệ biện tài.
Ðại sư có trứ tác
bộ Tông Cảnh Lục gồm 100 quyển, lại viết ra bộ vạn Thiện Ðồng Quy Tập,
khuyên tu Tịnh độ. Trung Ý Vương mến hạnh đức, thỉnh ngài về trụ trì
chùa Vĩnh Minh. Ðại sư định khóa mỗi ngày 108 việc thiện, ban đêm lên
chót núi niệm Phật, mọi người nghe tiếng thiên nhạc rền vang giữa hư
không.
Ngài tụng Kinh
Pháp Hoa đến một muôn ba ngàn bộ. Năm Khai Bảo thứ 8, Ðại sư đốt hương
cáo từ chúng, rồi ngồi ngay mà hóa, thọ được 72 tuổi.
161. Tĩnh
Thường Ðại sư
(Tổ thứ 7 Liên tông)
Trích ở bộ “Phật Tổ Thống
Ký”
Tĩnh Thường Ðại sư, người Tiền
Ðường,
họ Nhan, tự Thứu Vi, xuất gia hồi
thuở mới lên bảy. Trong khoảng niên hiệu Thuần Hóa
nhà Tống, ngài trụ trì chùa Nam Chiêu
Khánh. Vì mộ Tịnh độ đạo tràng ở Lô Sơn,
ngài lập Liên xã, khắc tượng A-di-đà Phật.
Ngài tự trích lấy máu chép phẩm “Tịnh
Hạnh” trong Kinh Hoa Nghiêm. Nhân đó
bèn đổi tên Liên xã làm Tịnh Hạnh xã.
Hàng sĩ phu trí thức thời bấy
giờ dự hội được 120 người.
Tướng quốc Vương Văn Ðán làm Hội thủ. Mọi người đều tự xưng là
Tịnh hạnh đệ tử. Về phần Tỳ-kheo tăng
Ðại sư độ được trên nghìn người.
Năm Thiên Hy thứ
4, ngày 12 tháng giêng, Ðại sư đoan tọa niệm Phật, giây lát bỗng nói to
rằng: “Phật đã đến!”. Rồi yên lặng mà tịch, thọ 62 tuổi. Giờ ngài tịch,
cả đại chúng đều thấy mặt đất biến thành sắc huỳnh kim, rất lâu mới trở
lại màu cũ.
162. Liên Trì
Ðại sư
(Tổ thứ 8 Liên tông)
Ðại sư húy Châu Hoằng, họ Trầm,
người ở đất Nhân Hòa. Lúc ban sơ,
ngài nương theo Tánh Thiên Hòa
thượng xuất gia. Sau khi thọ
đại giới, lại đi khắp nơi tham học với các bậc
tri thức. Khi Ðại sư lễ Thánh tích ở
non Ngũ Ðài, cảm đức Văn Thù
phóng quang. Ði đến núi Vân
Thê, thấy cảnh trí u tịch, ngài có ý
muốn nương ở đó suốt đời. Dân chúng ở làng
ấy thường bị khổ vì nạn hổ. Ðại sư
tụng kinh thí thực, hổ đều lẩn
tránh. Gặp năm trời hạn, ngài
đi dọc theo bờ ruộng niệm Phật, gót chân
đến đâu, mưa rơi đến đó. Từ đó, người
quy hướng càng ngày càng đông.
Ðại sư đều dùng môn niệm Phật
mà nhiếp hóa. Ngài có trứ tác pho Vân Thê Pháp Vựng, gồm hai mươi
mấy thứ sách, đại khái đều đề xướng về Tịnh độ.
Trước khi lâm
chung, Ðại sư từ giã khắp các đệ tử và hàng cố cựu, khuyên chân thật
niệm Phật. Ðến kỳ hạn, ngài ngồi niệm Phật mà hóa, thọ 81 tuổi.
163. Ngẫu Ích
Ðại sư
(Tổ thứ 9 Liên tông)
Ðại sư họ Chung,
hiệu Trí Húc, quê ở Ngô huyện. Người cha trì chú Ðại Bi mười năm, mộng
thấy đức Quán Thế Âm bồng con trao cho mà sanh ra ngài.
Ban sơ, ngài theo
Nho giáo, làm sách bài bác đạo Phật. Ðến khi đọc qua bộ Trúc Song Tùy
Bút Lục, liền đốt bản thảo sách mình. Năm 21 tuổi, ngài xuất gia tập
tham thiền, nhân bị bệnh nặng gần chết, mới chuyển ý, tu tịnh nghiệp.
Về sau, Ðại sư ở
ẩn nơi chùa Linh Phong, trứ thuật rất nhiều. Khi lâm chung,
ngài trối dặn thiêu hóa sắc thân, lấy
tro xương hòa với bột làm hoàn thí cho chim cá, đặng
kết duyên Tây phương, rồi ngồi ngay mà tịch.
Ba năm sau, hàng
môn nhân mở bảo khám ra thấy sắc diện Ðại sư như người sống, tóc mọc dài
lấp cả tai, không nỡ theo lời di chúc, xây nhục tháp thờ ở Linh Phong.
164. Triệt Lưu
Ðại sư
(Tổ thứ 10 Liên tông)
Ðại sư họ Tưởng,
húy Hành Sách, người ở Nghi Nhơn. Ngài xuất gia năm 23 tuổi, chuyên tu
tịnh nghiệp, thường trụ tại chùa Tây Khê ở Hàng Châu mở mang Tịnh tông,
sự hoằng hóa rất thạnh. Ðại sư có soạn ra mấy bộ: Liên Tạng Tập, Tịnh độ
Pháp ngữ, lưu hành ở đời. Niên hiệu Khang Hy thứ 21, ngài thị tịch thọ
55 tuổi.
Bấy giờ, có người
Tông Hoàng và con nhà họ Ngô chết một lượt, trải qua một ngày tỉnh dậy
đều nói y nhau: “Tôi bị minh ty bắt đem trói để dưới điện, bỗng thấy hào
quang sáng rực khắp nơi, hương thơm hoa báu đầy cả hư không. Minh Vương
mọp xuống đất đưa một vị Ðại sư về Tây phương, xem kỹ lại là Triệt công.
Tôi nhờ hào quang chiếu liền được tha trở về”.
165. Tỉnh Am
Ðại sư
(Tổ thứ 11 Liên tông)
Tổ họ Thời, tự Tư Tê, người xứ
Thường Thục. Ngài xuất gia thuở 7 tuổi, thọ đại giới lúc 24 tuổi. Ðối
với Thiền, giáo, tánh, tướng đều suốt thông. Ðại sư từng ở chùa Chân
Tịch, duyệt tạng kinh, niệm Phật qua ba năm, nguồn biện luận như thác
đổ. Ngài lại đến chùa Dục Vương lễ tháp, cảm ơn xá lợi phóng quang, nhân
đó soạn ra sám Niết-bàn và văn Khuyến phát Bồ-đề tâm, người đọc phần
nhiều rơi lệ.
Lúc tuổi già, Ðại
sư về ở chùa Phạm Thiên tại Hàng
Châu, kết Liên xã để khuyên nhắc lẫn nhau chuyên tu tịnh nghiệp.
Mùa Ðông năm Ung Chánh thứ 11, Ðại sư
dự biết ngày 14 tháng 4 năm
sau mình sẽ vãng sanh. Ðến kỳ hạn, ngài nói: “Mười hôm trước ta
đã thấy Phật, nay lại được thấy”. Nói xong niệm Phật mà quy Tây.
166. Triệt Ngộ
Ðại sư
(Tổ thứ 12 Liên tông)
Ðại sư họ Mã, húy
Tế Tỉnh, người đất Phong Nhân, 22
tuổi xuất gia, thông suốt cả
Thiền, Giáo. Ban sơ, ngài chủ trì chùa Vạn
Thọ ở Bắc Kinh, danh đồn khắp Nam
Bắc, hằng đề xướng pháp môn
Tịnh độ khuyên chúng tinh tu.
Kế đó, Ðại sư lại trụ trì chùa
Giác Sanh, tiếng tăm cũng lừng lẫy như trước.
Sau, ngài về ở non Hồng Loa, đại
chúng quy hướng càng đông, bèn
thành ra đạo tràng Tịnh độ.
Ðời nhà Thanh,
niên hiệu Gia Khánh thứ 15, vào mùa Xuân, Ðại sư nói trước ngày về Tây
và bảo: “Thân huyễn không bền, đừng để một đời luống qua, mọi người nên
cố gắng niệm Phật”. Quả nhiên tới ngày kỳ hẹn, Ðại sư thấy Phật đến tiếp
dẫn, liền chánh niệm mà tọa hóa. Lúc ấy đại chúng nghe mùi thơm ngào
ngạt, khi trà tỳ được xá lợi trăm hột.
167. Ấn Quang
Ðại sư
(Tổ thứ 13 Liên tông)
Ðại sư họ Triệu,
người ở Cấp Dương, suốt thông tông giáo, chuyên tu tịnh nghiệp, từng
trải ở các non Chung Nam, Hồng Loa, Phổ Ðà.
Năm Dân quốc thứ
19, ngài đến đất Ngô, sáng lập Linh Nham tịnh tông đạo tràng, khuyên
người lấy luân thường nhân quả làm cơ sở, niệm Phật sanh Tây phương làm
chỗ quy túc. Ðại sư ấn tặng sách Phật năm trăm muôn bộ, tượng Phật hơn
trăm muôn bức.
Mùa Ðông năm Dân
quốc thứ 29, ngài niệm Phật tọa hóa ở Linh Nham đạo tràng. Khi trà tỳ,
32 cái răng còn nguyên, được xá lợi ngũ sắc vài ngàn hột. Ðại sư hưởng
tuổi đời 80, tăng lạp 60, trứ thuật trăm muôn lời, đệ tử hơn hai mươi
muôn, phần nhiều là bậc hiền triết và người có danh vọng trong Quốc
đảng.
X. SỰ TÍCH
“NIỆM PHẬT VÃNG SANH”
^
Niệm Phật
vãng sanh Liên trì
Là nhờ
chuyên nhất: đứng, đi, nằm, ngồi
Biết bao
gương sáng phải noi
Cố y theo
đó tài bồi thân tâm.
168. SỰ TÍCH BÀ THÁI XƯƠNG
Bà Thái Xương, vợ một Hoa kiều, nguyên buôn bán ở Quy
Nhơn, là một đàn việt chùa
Bạch Sa hiện nay. Bà chuyên tu pháp môn niệm Phật và chỉ phát nguyện khi
thọ chung được gặp ngày vía Ðức A-di-đà (tức là ngày 17 tháng 11 âm
lịch) và được biết trước giờ phút thọ chung ấy.
Năm bà mất, đã 80 tuổi mà vẫn khỏe
mạnh.
Ðầu tháng 11 năm ấy, bà đến xin
thầy Bạch Sa tụng cho một bộ Kinh Thủy Sám và
một bộ Kinh Pháp Hoa để kịp đến ngày
17 tháng ấy bà về chầu Phật. Thầy Bạch Sa lấy
làm kinh ngạc vô cùng, nhưng vì bà là
bổn đạo thuần thành đã lâu năm
nên thầy cũng phải chìu theo.
Ðến ngày 17, bà con và đạo hữu
vì tin ấy đã làm cho họ kinh ngạc, tụ tập
đến nhà bà rất đông để thỏa mãn tánh
hiếu kỳ.
Suốt
buổi sáng hôm ấy bà vẫn khỏe mạnh và bình tĩnh như thường ngày, khiến
thầy Bạch Sa trong thâm tâm rất e sợ, không khéo phen này làm trò cười
cho thiên hạ. Bỗng đâu đến khoảng quá 10 giờ sáng, bà bảo người giúp
việc in một in cơm đem lên nhờ thầy cúng Phật rồi đem xuống cho bà, bà
chắn in cơm làm hai phần, tự mình ăn một nửa, của một nửa bảo người giúp
việc ăn mà từ tạ rằng: “Gọi là đền đáp công ơn mụ giúp đỡ tôi trong mười
mấy năm trường, nay đến ngày vĩnh biệt, xin biếu mụ ăn nửa phần cơm này
để sau nhờ Phật tiếp dẫn mụ về Tây phương”. Nói xong, rửa mặt súc miệng
và thay áo quần thì đúng 12 giờ trưa.
Bà
chào tất cả mọi người, ngồi xếp bằng, hai tay chắp trước ngực mà hóa một
cách vui vẻ trước sự kinh ngạc của tất cả mọi người trong nhà. Năm ấy ở
Quy Nhơn, thiên hạ xôn xao bàn tán rất nhiều về cái chết của bà Thái
Xương. Tiếng đồn bà thành Phật lan ra khắp các tỉnh.
Xem đó
đủ biết sự phát nguyện vãng
sanh Cực Lạc là một điều tối cần thiết cho người tu theo pháp môn Tịnh
độ. Phát nguyện là một nhu kiện không thể không có, ta không nên suất
lược để phải mất công hiệu và lợi ích rất lớn về sau.
169. Tích sư Khắc Cần
Sư Khắc Cần họ Trương, người Hồ Nam (Trung Hoa), từ bé tánh khờ
khạo. Năm năm mươi ngoài tuổi, sư xuất gia tại am Hồng Thể ở Thiện Hóa,
sau thọ Cụ túc giới ở Lộc Sơn. Sư không biết chữ, học mấy thời khóa tụng
ngót năm năm mới thuộc. Sau đó 10 năm, sư đi khắp ngũ nhạc, tứ sơn và
các đại tòng lâm để tham học, nhưng rốt cuộc không tham hiểu một mảy gì,
vẫn khờ khạo như cũ.
Ðến năm 60 tuổi, sư nghe Minh Quả Pháp sư giảng về công đức của
pháp môn trì danh niệm Phật quý tại “nhất tâm bất loạn”. Nếu tâm loạn
nên chăm chú nghe kỹ tiếng niệm thời tạp niệm sẽ tự trừ, vọng tưởng sẽ
tự diệt, tâm sẽ đặng thanh tịnh, v.v... Từ đó sư mới được biết pháp môn
niệm Phật, bèn chuyên tu.
Sáu năm sau thời tánh cũ của sư đều mất, tâm hằng tự tại minh mẫn.
Lúc rảnh sư thường bảo người rằng: “Tu hành quý tại nhất tâm bất loạn.
Nghiệp chướng của tôi do niệm Phật tiêu sạch. Mấy năm gần đây, chẳng
những không phiền não mà thân tâm đều được khinh an”.
Một hôm, sư cho người đi mời sư huynh Hàm An. Qua ngày kế, Hàm An
đến, sư vừa thấy liền cười nói: “Khắc Cần này xin cáo từ sư huynh!”. Hàm
An hỏi: “Tính đi đâu?”. Sư đáp: “Ði Tây phương Cực lạc thế giới”. Hàm An
bảo: “Nói khùng phải không?”. Sư nói: “Từ sáu năm gần đây, tâm tôi không
loạn động, niệm A-di-đà Phật, câu câu rõ ràng mục kích Tịnh độ. Tự biết
ngày giờ quyết định vãng sanh. Chẳng phải khi dối vậy!”. Sư liền đem tất
cả công sự trong am giao phó cho Hàm An rồi lại bảo: “Giờ ngọ ngày mai
tôi sẽ từ biệt sư huynh, anh em già với nhau, tất cả phải lo cho nhau,
sư huynh nên gắng chuyên tu pháp môn niệm Phật để chuẩn bị tư lương”.
Sáng hôm sau, sư tắm gội, thay y, Tịnh độ. Chiều hôm ấy, sư ngồi
một mình niệm Phật không nói chuyện. Sáng hôm sau nữa, sư lại tắm gội,
thay y phục, thắp hương lễ Phật, tạ Tổ xong, sư vẫn vào tịnh thất ngồi
niệm Phật. Ðến giờ ngọ sư mới chậm rãi đi vào ngồi kiết già trong khánh,
tay cầm chuỗi yên lặng niệm Phật. Mãi đến hai giờ sau, Hàm An thấy đã
lâu mà không thấy sự động tịnh, bèn lại gần thăm xem, thì ra sư đã tịch
rồi. Chừng đó mới cả kinh mà tin thật và đồng thời cùng với các sư Phổ
Ấm v.v... đều nghe mùi hương lạ. Lúc đó là giờ ngọ, ngày mùng 5 tháng 7
năm Tân Sửu, triều vua Quang Tự nhà Thanh. Bấy giờ nhằm tiết trời nóng
nực mà thi hài của ngài vẫn để yên nơi đình khánh ấy đến 7 ngày, vẫn
không sình nứt thúi hôi chi cả; người mục kích đều ngợi khen, cho là
điều lạ ít có.
170. Tích Trương Chung Húc và Trương
Thiện Hòa
Trương Chung Húc, người nhà Ðường, sống nghề làm thịt gà. Khi sắp chết,
thấy người lùa bầy gà đến hô: Mổ! Mổ! Bầy gà xúm mổ Húc, mặt, mắt đều
chảy máu ròng ròng, đau không chịu nổi. Sa môn Hoằng Ðạo hay tin bèn đến
trương tượng Phật, khuyên Húc niệm Phật. Ðược một lát bỗng có mùi hương
lạ, thơm ngát cả nhà, bầy gà biến mất, máu hết chảy, ông Húc đoan tọa mà
mất.
Trương Thiện Hòa cũng người nhà
Ðường, làm nghề giết bò. Lúc bệnh ngặt,
thấy vài mươi con bò đến nói tiếng
người rằng: “Mầy giết chúng tao, phải đền mạng!”.
Ông Hòa hối vợ thỉnh sư tăng. Sư tăng bảo:
“Trong Quán Kinh nói: “Nếu chúng sanh nào gây tạo ác nghiệp, đáng
đọa vào ác đạo, mà chí tâm xưng niệm A-di-đà Phật đủ 10 niệm thời tiêu
tội, được vãng sanh Cực lạc thế giới”.
Ông Hòa nói: “Lửa địa ngục đến rồi, không thể chờ lư hương được!”.
Ông liền tay tả cầm lửa, tay hữu cầm hương, hướng về Tây phương to tiếng
niệm Phật. Chưa đầy 10 hơi, ông bỗng nói: “Phật đã đến trao cho tôi tòa
sen báu”. Dứt lời liền tắt hơi.
XI. SO VÀ
GIỚI THIỆU THIỀN VỚI TỊNH
^
Thiền nào
có khác Tịnh đâu
Có chăng
chỉ khác công phu tu hành
Ngộ là
Phật, mê: chúng sanh
Ngoài ra
kết quả đành rành như nhau
171.
“THIỀN CÙNG TỊNH ÐỘ VẪN KHÔNG
HAI, NẾU LIỄU THÌ LIỄU CẢ, MÊ CŨNG ÐỒNG MÊ”, lời của Thiên Như
Ðại sư quả thật xác đáng. Bởi chân
tâm bao hằng sa muôn pháp, hàm
vô biên quốc độ, nơi Thiền gọi
là “Bản lai diện mục”, nơi Tịnh gọi là “Tự tánh Di-đà”. Kinh Lăng
Nghiêm nói: “Mười phương hư không sanh trong tâm ông
như áng mây nổi điểm giữa trời xanh
rộng lớn bao la, huống chi vô
lượng thế giới ở trong hư không ư?”. Cổ đức cũng bảo: “Hằng sa
pháp ấy Bồ-đề đạo, nghĩ đến Bồ-đề
cách vạn tầm!”. Vì chân
tâm bao hàm muôn tượng, nên nếu
người tu Thiền mà hiểu Thiền bằng lý
không không, rồi bảo chẳng có Cực
lạc, bác sự cầu sanh, tất chưa
phải là người hiểu Thiền. Sở dĩ ngài
Thiên Như nhiều phen cặn kẽ chỉ bày
là để phá mối chấp không đó.
Về
phần thể, chân tâm xán lạn bao hàm vô biên thế giới, gọi là “Thiền Tịnh
độ”, và vô lượng thế giới ảnh hiện trong chân tâm, tất cả đều tịch tịnh
như huyễn, gọi là “Tịnh độ Thiền”.
Về
phần dụng, hành giả khi đã ngộ tánh
bản lai, rồi khởi lên bi nguyện, tu những hạnh trang nghiêm cõi
Phật, thành tựu chúng sanh, gọi là “Thiền Tịnh độ”, và nếu dùng môn Tịnh
độ để nhiếp hóa hữu tình trở về chân tánh, gọi là “Tịnh độ Thiền”
Tóm lại, Thiền tức Tịnh độ, Tịnh độ tức là Thiền. Nếu bác Tịnh độ
chính là chưa hiểu rõ Thiền, và bác Thiền cũng chẳng suốt thông Tịnh độ.
Liễu thì liễu cả, mê cũng đồng mê, bởi do lý đó.
172.
So với Thiền, pháp niệm Phật, khi chưa đạt được “NHẤT TÂM BẤT LOẠN”, hai
bên khác nhau rất xa.
Buổi sơ phát tâm, với phép tu thiền định, hành giả không được có
tâm ưa, chán, thủ, xả; với phép tu niệm Phật, hành giả lại phải ưa thủ
cảnh Cực lạc và mong xả cảnh Ta-bà. Với phép tu Thiền định, tâm không
được trú trước vào cảnh giới, nếu còn
trú trước tức là sai lạc; với
phép tu niệm Phật, tâm lấy cảnh làm đối tượng, tâm năng duyên và
cảnh sở duyên phải rõ ràng. Với phép tu Thiền định, tâm phải xa
lìa pháp chấp, với phép tu niệm Phật,
hành giả cần phải lợi dụng
pháp chấp. Với phép tu Thiền định,
hành giả phải thể nhận được pháp tánh
thân ngay trong thế gian này; với phép tu niệm
Phật, hành giả khởi tưởng sẽ chết ở
thế gian này và sẽ sanh về thế
giới bên kia. Vì các lý do trên, Thiền tông và niệm Phật có chỗ
bất đồng.
Nhưng khi niệm Phật đã đến chỗ “NHẤT TÂM BẤT LOẠN”, nghĩa là đã đắc định
rồi, thì lại là việc khác. Ðạt được cảnh giới tam muội, tức là hư không
tan rã, đại địa lấp bằng, hiện tiền một niệm dung hợp được với pháp thân
chư Phật trong mười phương, như trăm ngàn ngọn đèn cùng dung hợp ánh
sáng và cùng chiếu chung trong một căn nhà, không tan mất, không lẫn
lộn. Lúc ấy ý thức phân biệt ly khai. Cảnh giới này so với cảnh giới
chân như tam muội của Thiền tông không hai, không khác. Xem thế thì biết
rằng Tịnh độ tức là Thiền tông, kết quả của hai bên nào có khác gì nhau!
173.
Mộ Liên Pháp sư nói: “Thiền chính là chân như Phật tánh sẵn có
của chúng ta”. Thiền tông gọi là “Bản lai diện mục” trước khi cha mẹ
sanh, mà không nói rõ ra, cố muốn cho người tự tham cứu, tự ngộ lấy. Kỳ
thiệt chính là: Tâm thể thuần chân, linh tri ly niệm, không năng không
sở, tức tịch tức chiếu vậy.
Tịnh chính là tin sâu nguyện thiết, chuyên tâm trì danh cầu sanh Cực
lạc.
Người hành Thiền khi sức tham cứu đã tột, vọng niệm dừng, vọng tình dứt,
suốt thấy bản lai diện mục, minh tâm kiến tánh, đó gọi là có Thiền.
Còn người tu Tịnh độ, chân thiệt phát
Bồ-đề tâm, tin sâu nguyện thiết, chuyên trì hồng danh cầu sanh
Tây phương Cực lạc, thế gọi là có Tịnh.
174. Người tu hành mà chưa đại triệt,
đại ngộ, là không Thiền, lại cũng không có tín
nguyện niệm Phật, là không Tịnh. Dầu
triệt ngộ Thiền tông, minh tâm
kiến tánh, nhưng kiến tu phiền
não chưa dễ đoạn trừ, phải trải
qua nhiều công phu tu trì gột rửa cho
sạch cả mới ra khỏi luân hồi sanh tử. Nếu còn một phần phiền não
thời lục đạo luân hồi vẫn y như cũ,
nói chi đến người chưa đoạn phần nào.
175. Các tông đại khái chia ra làm hai, là KHÔNG MÔN và HỮU MÔN. Không
môn từ phương tiện lý tánh đi vào. Hữu môn từ phương tiện sự tướng đi
vào. Nhưng đi đến chỗ tận cùng thì dung hội tất cả, sự tức lý, lý tức
sự, tánh tức tướng, tướng tức tánh; nói cách khác: Sắc tức là không,
không tức là sắc, không và sắc chẳng khác nhau.
Cho nên khi xưa có một vị Ðại sư tham thiền ngộ đạo, nhưng lại mật
tu Tịnh độ. Lúc lâm chung ngài lưu kệ phó chúc cho đại chúng, rồi niệm
Phật, sắp vãng sanh. Một vị Thiền giả bỗng lên tiếng hỏi: “Cực lạc là
cõi hữu vi, sao tôn đức lại cầu về làm chi?”. Ðại sư quát bảo: “Ngươi
nói vô vi ngoài hữu vi mà có hay sao?”. Thiền giả nghe xong chợt
tỉnh ngộ. Thế nên Thiền và Tịnh đồng về một mục tiêu. Hữu môn cùng Không
môn tuy dường tương hoại mà thật ra là tương thành cho nhau vậy.
“Thuốc không quý tiện, lành bệnh là thuốc hay; pháp chẳng thấp cao, hợp
cơ là pháp diệu”. Tịnh độ với Thiền tông thật ra
chẳng thấp cao, hơn kém. Nhưng luận
về căn cơ, thì Thiền tông duy
bậc thượng căn mới có thể được
lợi ích; còn môn Tịnh độ thì gồm
nhiếp cả ba căn (thượng, trung, hạ),
hạng nào nếu tu cũng đều dễ
thành kết quả. Luận về thời
tiết, thì thời mạt pháp này, người trung,
hạ căn nhiều, bậc thượng căn rất ít, nếu muốn
đi đến thành quả giải thoát một cách
chắc chắn, tất phải chú tâm về
Tịnh độ pháp môn. Ðây là bởi lòng đại bi của Phật, Tổ, vì quán
thấy rõ thời cơ muốn cho chúng sanh
sớm thoát nỗi khổ luân hồi,
nên trong các kinh luận đã
nhiều phen nhắc nhở. Ðiều này là
một sự kiện rất quan yếu và hết sức
xác thật!
Tuy nhiên, chúng sanh sở thích và tánh dục có muôn ngàn sai biệt không
đồng, nên chư Phật phải mở vô lượng pháp môn mới có thể thâu nhiếp hết
được. Vì vậy Tịnh độ tuy hợp thời cơ, song chỉ thích ứng một phần, không
thể hợp với sở thích của tất cả mọi người, nên cần phải có Thiền tông và
các môn khác, để cho chúng sanh đều nhờ lợi ích, và Phật pháp được đầy
đủ sâu rộng.
176. Giới thiệu lợi hại giữa Thiền và
Tịnh
I. Có Thiền không Tịnh độ,
Mười người, chín ngại
đường.
Khi ấm cảnh hiện ra,
Chớp mắt đi theo nghiệp.
II. Không Thiền có Tịnh
độ,
Muôn tu, muôn người
sanh.
Khi được thấy Di-đà,
Lo gì không tỏ ngộ!
III. Có Thiền, có Tịnh
độ,
Cũng như cọp mọc sừng.
Ðời nay làm thầy người,
Ðời sau làm Phật, Tổ.
IV. Không Thiền, không
Tịnh độ,
Giường sắt, cột đồng
lửa.
Muôn kiếp lại ngàn đời,
Chẳng có nơi nương tựa!
Kệ của
Vĩnh Minh Ðại sư
177. Ðề bạt
Tức tâm
Tịnh độ lý không ngoa
Tịnh khác
Thiền đâu, vẫn một nhà!
Phước kết
trang nghiêm phần sắc tướng,
Huệ tuôn
vô ngại cõi hằng sa.
Trời Tây
sáng lạ màu vi diệu,
Nguyện
Phật thâm sâu, đức hải hà.
Ngoảnh
lại đường tu, ai sớm tỉnh?
Nỗi
thương ác đạo mãi vào ra!
Tây Trai
lão nhân
XII. SỰ
CHUYỂN HƯỚNG TỪ THIỀN SANG TỊNH
^
Ðời mạt
pháp hiếm người tu chứng
Bởi nhiễm
ô ái dục nặng nề
Pháp
Thiền rất khó hành trì
Chuyển
sang niệm Phật khó gì vãng sanh.
178.
Thuở xưa, môn Thiền trực chỉ rất thạnh hành ở Trung Hoa, Triều Tiên,
Nhật Bản và cả ở Việt Nam. Tại Việt Nam, nhất là vào đời Lý, Trần, Tăng
Ni có cả nửa thiên hạ và hầu hết đều tu Thiền. Thời này Phật giáo ở Việt
Nam rất hưng thạnh.
Nhưng cơ duyên cũng theo thời mà chuyển biến. Có rất nhiều vị Thiền đức
tuy
bên ngoài truyền bá tông Thiền, nhưng bên trong
lại mật tu Tịnh độ, để bảo đảm không
thối đọa. Có nhiều vị khác,
sau khi tham ngộ Thiền tông,
quán xét thời cơ, vì lòng thương xót lợi
sanh, hết sức hoằng dương pháp môn
Tịnh độ.
Thế lực của Thiền tông lần suy kém, bởi ít người tu chứng. Trái
lại, môn niệm Phật lại lần
chiếm ưu thế, Tăng tục nhiều người tu
Tịnh độ được vãng sanh. Bây giờ, tuy
Thiền tông vẫn lưu hành, nhưng
trên thực tế chính là thời kỳ Tịnh độ đã nắm quyền hướng dẫn. Bởi
ảnh hưởng đó mà ở Việt Nam, môn niệm
Phật hầu như phổ cập trong quần chúng vậy.
NHỮNG VẦN
THƠ HƯỚNG VỀ CÕI CỰC LẠC LIÊN TRÌ HẢI HỘI
^
Thắng hội
hòa vui cõi Lạc bang,
Hoa mầu
cây báu đất tô vàng,
Ðài cao
ẩn hiện ngôi vương giác,
Diệu pháp
truyền rao khắp bốn phang.
Nơi đây
nào thấy có đêm tràng,
Chỉ thấy
làu làu bóng Diệu quang,
Nhạc ngọc
thoáng rơi giòng Bát-nhã,
Thiền
nhân quay nhẹ chiếc Từ thoàn.
Mành châu
cột gió lời bi tráng,
Hoa ngọc
cười xuân sắc dịu dàng,
Ao báu
mát trong nguồn bát đức,
Linh cầm
lảnh lót giọng thinh thang.
Nơi đây
bể khổ không quyền hạn,
Dân trí
nhàn vui rảnh rang,
Hoa nở
sáng ngày dâng pháp cúng,
Chiều về
định tĩnh học thiền quang.
Ðẹp màu
thanh nhã màu tươi rạng,
Cực lạc
trời Tây lắm tịnh nhân,
Sống mãi
không già, không bệnh chết,
Vui hoài
chẳng mất, chẳng mơ màng.
Di-đà bổn
nguyện hồn cao sáng,
Tịnh độ
ngày thêm cuộc mở mang,
Nhắn gởi
bạn lành chung mối niệm,
Quy Tây
đường lối bước mau sang.
TỰ KHUYẾN
Cõi đời
nhơ đục khổ dường bao,
Ai sớm
quy Tây khỏe thế nào!
Vinh nhục
trò đời thôi khó nói,
Thị phi
miệng thế nghĩ ra sao?
Sang hèn
an phận cho qua buổi,
Cao thấp
đua nhau luống mỏi hao.
Phải
phải, chăng chăng buồn biếng nói
Chỉ mong
nước Phật nhẹ ra vào.
Chỉ mong
nước Phật nhẹ ra vào,
Ðưa rước
quần sanh chẳng ngại lao.
Hoa nở
Liên đài tên biến hiện,
Gió lồng
thiên nhạc giọng vang rao.
Ðất lành,
giống tốt siêng gieo rải,
Cõi tục,
đời nhơ sớm tránh mau.
Nguyện
khắp trần gian xa ác nghiệp,
Hướng về
Tịnh độ phước thanh cao.
Tỳ-kheo-ni Như Thanh
TỰ KHUYẾN
Họa vận
Thế tục đua chen khổ biết
bao,
Tu là giải thoát, rõ chăng
nào?
Lợi danh ảo ảnh mây nhòa
khói,
Quyền thế hững hờ nước dợn
xao!
Thua được cạnh tranh thêm
nhọc mỏi,
Sang hèn so sánh luống tiêu
hao,
Thị phi lắm chuyện khôn thành
dại,
Cõi Phật nhất tâm sẽ được
vào.
Cõi Phật nhất tâm sẽ được
vào,
Hồng trần mờ mịt bụi trần
lao.
Tây phương rực rỡ mây thiền
lộng,
Tịnh độ du dương pháp diệu
rao.
Nước đức rưới thân tiêu
nghiệp sớm,
Sen vàng thoát chất rảnh
duyên mau.
Bồ-đề đạo thọ oằn bông trái,
Tự giác, giác tha chứng quả
cao.
Viết tại chùa Từ Nghiêm, 11-8 Canh Tuất
Tương Song ngày 11-9-1970
Ni sư Từ Quang - THÍCH NHƯ CHÍ
TỰ KHUYẾN
Phụng họa
Trần gian
giả tạm, giấc chiêm bao,
Ảo ảnh
phù sanh, có khác nào!
Phú quý
vinh hoa dường bọt nước,
Từ bi hỷ
xả tợ chòm sao.
Xa đường
danh lợi thân không mệt,
Gần đạo
Bồ-đề trí chẳng hao.
Vi diệu
nhiệm mầu ai sớm biết,
Thậm thâm
cõi Phật, kíp nên vào.
Thậm thâm
cõi Phật, kíp nên vào,
Tịnh thủy
nhuần thân dứt khổ
lao.
Ðuốc tuệ
sáng soi, người phơi phới,
Hoa Ðàm
rực rỡ, gió rao rao.
Căn lành
vun tưới càng tăng
trưởng,
Nghiệp dữ
tiêu trừ cũng lẹ mau.
Chín phẩm
sen vàng nêu trước mắt,
Liên trì
đất báu vượt lên cao.
Thượng Thanh
19-9-70
CHỌN HÀNH TRANG
Ai ở trăm
năm cũng phải về,
Hành
trang sao chẳng chọn cho xuê.
Của tiền
vật chất sanh muôn việc,
Ðạo đức
tinh anh giữ một bề,
Phú quý
xem qua đều mộng ảo,
Công danh
gẫm lại chuyện nồi kê.
Sao bằng
tu niệm bồi công đức,
Cực lạc
Liên hoa sẽ được kề.
Minh Thiện
Thượng Thanh
13-10-1970
HOẠ VẬN
Trăm năm
cõi tạm ở rồi về,
Gác tía
lầu son cũng chửa xuê.
Bã lợi
gạt người bày lắm chuyện,
Mùi danh
phỉnh chúng vẽ nhiều bề.
Trường
đời vật chất say cơn mộng,
Cửa đạo
tinh thần tỉnh giấc kê.
Một niệm
tịnh tâm tiêu nghiệp chướng,
Bồ-đề
Phật quả sẽ gần kề.
Ni sư Từ Quang
THÍCH NHƯ CHÍ tự CHÍ KIÊN
Sài Gòn, 21-9 Canh Tuất
Tương Song 20-10-70 - PL.2514
CHỌN HÀNH TRANG
Họa vận
Non nước quê xưa sớm trở về,
Thiền trang chọn sẵn ngắm
càng xuê.
Bồ-đề phẩm vị mang đầy túi,
Bát-nhã thanh hương chất một
bề.
Lục vị thuốc mầu gồm mấy gói,
Nhất tâm gạo quý nửa nồi kê.
Ly trần sẵn có xe đưa rước,
Cõi tịnh quay lưng đã dựa kề.
Cõi tịnh quay lưng đã dựa kề,
Khách trần nhìn lại chín nồi
kê.
Vinh hoa phú quý đây còn
mộng,
Thanh tịnh vô vi đó trọn bề.
Ly niệm cõi chơn vừa hiện rõ,
Thanh tâm sự thế chẳng gì
xuê.
Ra đi nguồn cảm lòng mê muội,
Chợt tỉnh mau mau sớm trở về.
Tỳ-kheo-ni NHƯ THANH
24-10-70 tức 25-9 Canh Tuất
Chùa Từ Nghiêm
HƯỚNG VỀ CỰC LẠC
Ðời ngũ trược, xa trông bát
ngát
Gót hồng trần, lưu lạc mấy
xuân
Lòng riêng luống những bâng
khuâng
Cõi nào thoát kiếp trầm luân
khổ phiền
Nguồn hạnh phúc hỏi miền chân
thật
Nghĩ thành tâm niệm Phật là
hay!
Hương nguyền một nén xa bay
Hướng về Cực lạc hôm mai khẩn
cầu
Ðời dâu bể bể dâu lắm độ
Cảnh khổ đau đau khổ thêm
thương
Không nương về đấng Nguyện
Vương
Biết ai dắt dẫn ra đường tối
tăm?
Xót thương nỗi đau về vật
chất
Giết nhau vì giọt mật hư danh
Kiếp luân hồi mãi quẩn quanh
Mà ba đường ác đã thành gia
cư
Giấc mơ tỉnh, bây chừ tủi
thẹn!
Bước quy Tây dám hẹn ru mà?
Lầu sương lạc ánh trăng tà
Kiếp người lẩn quẩn bệnh già
một bên
Ví chăng giữ lòng bền niệm
Phật
Có lo gì phải mất phẩm sen!
Việc đời mặc tiếng chê khen
Cuộc đời mặc kẻ đua chen sắc
tài
Ðường sanh tử sẽ bày trước
mắt
Bước khổ vui dè dặt mà trông
Ðã hay lửa đỏ sen hồng
Lửa sen âu cũng do lòng tạo
nên
Thôi thì gắng xây nền công
đức
Thôi thì rèn niệm lực tinh
chuyên
Nguyện sanh về cõi Bảo Liên
Nguyện đem Thiền Tịnh hòa
duyên khắp miền
Nhắn ai đồng hội đồng thuyền!
Lánh cõi giả tìm nơi trong
sáng
Học lý mầu soi rạng tinh thần
Quyết trau lòng, trọn trả
thâm ân
Lẽ đâu dám nay lần mai lựa
Nơi tu viện sớm hôm nương dựa
Niệm chân kinh lọc lượt tâm
trần
Lẽ thị phi đừng mãi phân vân
Niềm chánh giáo ân cần trau
sửa.
BỐN MƯƠI TÁM ÐẠI
NGUYỆN của Ðức Phật A-di-đà
^
Cha lành
thương con dại
Nên phát
lời đại nguyện
Tạo cảnh
giới Cực lạc
Ðể nhiếp
độ chúng sanh
Thoát ly
khổ sanh tử
Tiến tu
thành đạo quả
Hườn lai
cõi Ta-bà
Tùy
nguyện độ chúng sanh
Ðồng sanh
về Cực lạc.
Nguyện thứ 1.- Lúc tôi thành
Phật, nếu trong cõi nước tôi có địa
ngục, ngạ quỷ, súc sanh, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 2.-
Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhân thiên trong cõi nước tôi sau khi thọ
chung lại còn sa vào ba ác đạo, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 3.-
Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhân thiên trong cõi nước tôi thân chẳng
màu vàng ròng tất cả, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 4.-
Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhân thiên trong cõi nước
tôi thân hình có kẻ tốt người xấu
chẳng đồng nhau, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 5.-
Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhân thiên trong cõi nước tôi chẳng có túc
mạng thông, ít nhất là biết rõ những việc trong trăm nghìn ức na do tha
kiếp, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 6.-
Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhân thiên trong cõi nước tôi chẳng được
thiên nhãn, ít nhất là thấy rõ trăm nghìn ức na do tha thế giới của chư
Phật, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 7.- Lúc tôi thành
Phật, nếu hàng nhân thiên trong cõi
nước tôi chẳng
được thiên nhĩ, ít nhất là nghe và thọ trì tất
cả lời thuyết pháp của trăm nghìn ức na do tha Ðức Phật, thời tôi không
ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 8.-
Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhân thiên trong cõi nước tôi chẳng được
tha tâm trí, ít nhất là biết rõ những tâm niệm của tất cả chúng sanh
trong trăm nghìn ức na do tha thế giới, thời tôi không ở ngôi Chánh
giác.
Nguyện thứ 9.-
Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhân thiên trong cõi nước tôi chẳng được thần túc,
khoảng một niệm, ít nhất là lướt qua
khỏi trăm nghìn ức na do tha thế giới, thời tôi không ở ngôi
Chánh giác.
Nguyện thứ 10.-
Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhân thiên trong cõi nước tôi còn có quan
niệm tham chấp lấy thân, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 11.-
Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhân thiên trong cõi nước tôi chẳng trụ
chánh định tụ, nhẫn đến trọn diệt độ, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 12.-
Lúc tôi thành Phật, nếu quang minh còn hữu hạn, ít nhất chẳng chiếu thấu
trăm nghìn ức na do tha thế giới, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 13.-
Lúc tôi thành Phật, nếu thọ mạng còn hữu hạn, ít nhất chẳng đến trăm
nghìn ức na do tha kiếp, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 14.-
Lúc tôi thành Phật, chúng Thanh văn trong cõi nước tôi, nếu có ai tính
đếm biết được số bao nhiêu, dầu đó là vô lượng Bích Chi Phật đồng tính
đếm trong trăm nghìn kiếp, thời tôi không ở
ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 15.- Lúc tôi thành
Phật,
nếu hàng nhân thiên trong cõi nước tôi
thọ mạng còn hữu hạn, trừ người có
bổn nguyện riêng, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 16.-
Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhân thiên trong cõi nước tôi còn có người
nghe danh từ bất thiện, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 17.- Lúc tôi thành
Phật, nếu vô lượng chư Phật
trong thập phương
thế giới chẳng đều khen ngợi xưng danh hiệu của tôi, thời tôi
không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 18.-
Lúc tôi thành Phật, thập phương chúng sanh chí tâm
tin mộ muốn sanh về cõi nước
tôi nhẫn đến mười niệm, nếu không được sanh, (trừ kẻ tạo tội ngũ nghịch
cùng hủy báng chánh pháp), thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 19.-
Lúc tôi thành Phật, thập phương chúng sanh phát Bồ đề tâm tu các công
đức nguyện sanh về cõi nước tôi, đến lúc lâm chung, nếu tôi chẳng cùng đại chúng hiện
thân trước người đó, thời tôi
không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 20.-
Lúc tôi thành Phật, thập phương chúng sanh nghe danh hiệu tôi, chuyên
nhớ cõi nước tôi và tu các công đức chí tâm hồi hướng muốn
sanh về cõi nước tôi, nếu
chẳng được toại nguyện, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 21.- Lúc tôi thành Phật,
nếu như hàng nhân thiên trong cõi nước tôi, tất cả chẳng đều đầy đủ ba
mươi hai đại nhân tướng, thời tôi
không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 22.-
Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ-tát ở cõi khác sanh về nước tôi, cứu cánh
quyết đều đến bậc nhất sanh bổ xứ, trừ người có bổn nguyện
riêng tự tại hóa hiện, vì
chúng sanh mà phát hoằng thệ tu các công đức độ thoát mọi loài, đi khắp
các thế giới tu Bồ-tát hạnh, cúng dường thập phương chư Phật, khai hóa
vô lượng chúng sanh, làm cho tất cả đều đứng vững nơi đạo Vô thượng
Chánh giác, siêu xuất công hạnh của các bậc thông thường, hiện tiền tu
tập đức của Phổ Hiền, nếu chẳng được như thế thời tôi không ở ngôi Chánh
giác.
Nguyện thứ 23.-
Lúc tôi thành Phật, các Bồ-tát trong cõi nước tôi, thừa thần lực của
Phật mà đi cúng dường thập phương chư
Phật, trong khoảng thời gian một bữa ăn, nếu không đến khắp vô
lượng vô số ức na do tha thế giới, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 24.-
Lúc tôi thành Phật, các Bồ-tát ở trong cõi nước tôi, khi ở trước thập
phương chư Phật hiện công đức của mình muốn có những vật cúng dường, nếu
không được đúng như ý muốn, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 25.-
Lúc tôi thành Phật, nếu chúng Bồ-tát trong cõi nước tôi không diễn
thuyết được nhất thiết trí, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 26.-
Lúc tôi thành Phật, nếu các Bồ-tát trong cõi nước tôi chẳng đều được
thân kim cương na la diên, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 27.-
Lúc tôi thành Phật, trong cõi nước tôi, tất cả đồ dùng của nhân thiên,
hình sắc đều sáng đẹp, sạch sẽ, rất tột vi diệu, không có thể tính biết,
dầu là người được thiên nhãn. Nếu có người biện danh số các đồ ấy được
rõ ràng, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 28.-
Lúc tôi thành Phật, nếu Bồ-tát trong
cõi nước tôi, dầu là người ít
công đức nhất, chẳng thấy biết được
cội cây đạo tràng cao bốn trăm
muôn do tuần, vô lượng
quang sắc, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 29.-
Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ-tát trong cõi nước tôi nếu thọ trì, đọc
tụng, giảng thuyết kinh pháp, mà chẳng được trí huệ biện tài, thời tôi
không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 30.-
Lúc tôi thành Phật, nếu có ai hạn lượng được trí huệ biện tài của Bồ-tát
trong cõi nước tôi, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 31.-
Lúc tôi thành Phật, cõi nước tôi thanh tịnh, nơi nơi đều soi thấy tất cả
vô lượng vô số bất tư nghị thế giới ở mười phương, như là thấy mặt mình
trong gương sáng. Nếu chẳng được như vậy, thời tôi không ở ngôi Chánh
giác.
Nguyện thứ 32.-
Lúc tôi thành Phật, trong cõi nước tôi từ mặt đất vàng lên đến hư không,
lầu nhà cung điện, ao nước hoa cây, tất cả vạn vật đều là vô lượng chất
báu và trăm nghìn thứ hương hiệp chung lại mà thành. Vạn vật đều xinh
đẹp kỳ diệu, mùi thơm xông khắp thập phương thế giới, Bồ-tát các nơi
ngửi đến mùi thơm ấy thời đều tu hạnh của Phật. Nếu chẳng được vậy, tôi
không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 33.-
Lúc tôi thành Phật,
các loài chúng sanh trong vô lượng
bất khả tư nghị thế giới ở mười phương, được quang minh của tôi chạm đến thân, thời thân tâm
nhu
nhuyến nhẹ nhàng hơn thiên nhân. Nếu
chẳng được vậy, thời tôi không ở ngôi
Chánh giác.
Nguyện thứ 34.-
Lúc tôi thành Phật, các loài chúng sanh trong vô lượng bất khả tư nghị
thế giới ở mười phương nghe danh hiệu của tôi mà không được vô sanh pháp
nhẫn cùng các môn thâm tổng trì, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 35.-
Lúc tôi thành Phật, các người nữ trong vô lượng bất tư nghị ở mười
phương vui mừng tin mến phát Bồ đề tâm, nhàm ghét thân gái. Nếu sau khi
mạng chung mà còn làm thân người nữ nữa, thời tôi không ở ngôi Chánh
giác.
Nguyện thứ 36.-
Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ-tát trong vô lượng bất tư nghị thế giới ở
mười phương nghe danh hiệu tôi, vẫn thường tu phạm hạnh mãi đến thành
Phật. Nếu chẳng như vậy, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 37.-
Lúc tôi thành Phật, hàng nhân
thiên trong vô lượng bất tư nghị
thế giới ở mười phương nghe
danh hiệu tôi, cúi đầu đảnh lễ, năm vóc gieo xuống đất, vui mừng
tin mến tu Bồ-tát hạnh, thời chư Thiên và
người đời đều kính trọng người đó. Nếu
chẳng như vậy, thời
tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 38.-
Lúc tôi thành Phật, hàng nhân thiên trong cõi nước tôi muốn có y phục, thời y
phục tốt đúng pháp liền theo tâm niệm
của người đó mà tự nhiên đến trên thân. Nếu còn phải cắt may
nhuộm giặt, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 39.-
Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhân thiên trong cõi nước tôi
hưởng thọ sự vui sướng không như vị
lậu tận Tỳ kheo thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 40.-
Lúc tôi thành Phật, các Bồ-tát trong cõi nước tôi tùy ý
muốn thấy vô lượng thế giới nghiêm tịnh của chư Phật ở mười
phương, thời liền được thấy rõ cả nơi
trong cây báu đúng theo ý muốn
như thấy mặt mình trong gương sáng. Nếu chẳng được vậy, thời tôi
không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 41.-
Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ-tát ở thế giới phương khác nghe danh hiệu
tôi, từ đó nhẫn đến lúc thành Phật mà các sắc căn còn thiếu xấu, thời
tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 42.-
Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ-tát ở thế giới phương khác nghe danh hiệu
tôi, thảy đều được giải thoát tam muội. Trụ tam muội đó trong khoảng
thời gian một niệm, cúng dường vô lượng bất khả tư nghị chư Phật Thế
Tôn, mà vẫn không mất chánh định. Nếu chẳng như vậy, thời tôi không ở
ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 43.-
Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ-tát ở phương khác nghe danh hiệu tôi, sau
khi mạng chung thác sanh nhà tôn quý. Nếu chẳng như vậy, thời tôi không
ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 44.-
Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ-tát ở phương khác nghe danh hiệu tôi vui
mừng hớn hở, tu Bồ-tát hạnh vẹn đủ công đức. Nếu chẳng như vậy, thời tôi
không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 45.-
Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ-tát ở
phương khác nghe danh hiệu tôi
đều đặng Phổ đẳng tam muội, trụ tam
muội
này mãi đến lúc thành Phật, thường
được thấy
vô lượng bất khả tư nghị tất cả chư
Phật. Nếu
chẳng như vậy thời tôi không ở ngôi
Chánh giác.
Nguyện thứ 46.-
Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ-tát trong cõi nước tôi muốn nghe pháp gì,
thời liền tự nhiên đặng nghe pháp ấy. Nếu chẳng như vậy, thời tôi không
ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 47.-
Lúc tôi thành Phật, nếu chúng Bồ-tát
ở thế giới phương khác nghe
danh hiệu tôi mà chẳng được đến bậc bất thối chuyển, thời tôi
không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 48.-
Lúc tôi thành Phật, nếu chúng Bồ-tát
ở thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi, mà chẳng liền được đệ
nhất Âm hưởng nhẫn, đệ nhị Nhu thuận nhẫn, đệ tam Vô sanh pháp nhẫn, ở
nơi Phật pháp chẳng liền được bậc bất thối chuyển, thời tôi không ở ngôi
Chánh giác.
Trong 48 lời nguyện trên đây của Ðức Phật A-di-đà đều có câu:
“Thệ quyết không thủ ngôi Chánh giác”. Xin lưu ý rằng đó là một điều
quan trọng. Không thủ ngôi Chánh giác tức là từ chối quả vị Phật, không
chịu làm Phật, để riêng an hưởng: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh một
mình, trong khi chúng sanh trong quốc độ còn đau khổ.
Lời nguyện vừa hợp tình, vừa xứng lý, vừa quảng đại bao la, thể
hiện hoàn toàn được cả một trời đại từ đại bi thăm thẳm, khó thể nghĩ
bàn.
Trong Kinh “Phật thuyết A-di-đà” Ðức Thích-ca dạy rằng: “Ðức Phật
A-di-đà thành Phật đã từ 10 kiếp rồi và 48
lời đại nguyện của Ngài
đều đã được thực hiện hoàn toàn viên mãn. Nếu không như thế, Ngài quyết
không chịu thành Phật”.
---o0o---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật: 07-2004