PHÁP
MÔN
Trì Danh Niệm Phật, Vãng Sanh Cực Lạc
Tác giả:
Huỳnh Lão cư sĩ
Hải Huyền
Viên Giáo
dịch
PL. 2545
---o0o---
CHƯƠNG I
(2)
Người cầu đạo, vì
đạt đến giác ngộ thật rốt ráo, nên phải tu học tám món chánh đạo.
Không tà gọi là
chánh, thông đạt không trở ngại gọi là đạo. Chánh đạo âý có thể khiến
chúng sinh trọn dứt khổ và tập, đạt đến cảnh giới của thánh hiền niết bàn
tịch tịnh, cho nên tám món chánh đạo ấy cũng được gọi là tám món “thánh
đạo”
Trong tám chánh đạo
lấy “chánh kiến” làm cần thiết đầu tiên, đối với thế giới mới có thể nhận
thức chính xác, cũng mới có thể phá trừ được cái biết cái thấy của thế tục
một cách lầm vọng sai lệnh, mà ngộ nhập chánh đạo. Trừ chánh kiến ra, bảy
món chánh đạo kia được phân chia là: chánh tư duy, chánh ngữ, chánh
nghiệp, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định.
4.1. Chánh
kiến (thấy chân chánh): là
thấy hiểu chính xác, phá trừ vô minh. Ðối với đạo lý duyên khởi và bốn
thánh đế cũng như thế giới quan và nhân sinh quan của Phật pháp đã giảng
khả năng chính xác gia dĩ lý giải và tín thọ phụng hành, chẳng phải là chỗ
mê lầm (hoặc) thấy biết của thế tục.
4.2. Chánh tư
duy (suy nghĩ chân chánh):
Một khi suy nghĩ được phát ra, phần nhiều do vọng tưởng mà khởi. Nếu người
tu hành đã thấy bốn thánh đế, dùng chánh kiến tương ứng, phá trừ tưởng
pháp tà ác, mà khiến cho chơn trí tăng trưởng, đoạn trừ mê hoặc, xa lìa
tất cả niệm ác.
4.3. Chánh ngữ
(nói lời chân chánh): lấy lời nói chánh đáng mà tu khẩu nghiệp, lìa các
món nói láo, nói ác, nói luồn lách, nói hai chiều. Chỉ nói lời khả ái (ái
ngữ) thì khẩu nghiệp tự tịnh.
4.4. Chánh
nghiệp (nghiệp chân chánh):
Người ta khởi tâm động niệm, không gì chẳng tạo nghiệp. Tu thân, cần phải
không tạo sát sinh, trộm cắp, tà dâm, không làm hành nghiệp hại chúng sinh
dù trực tiếp hay là gián tiếp; như nghiệp sát sinh, nghiệp dâm, nghiệp
đánh bạc, buôn lậu... các hành nghiệp xấu ác.
4.5.Chánh mạng
(cuộc sống chân chánh): mạng gọi là nhờ lấy sinh kế của cuộc sống, thanh
tịnh những việc cuộc sống hổ thẹn, mà đem công việc chính đáng mưu lấy
cuộc sống.
4.6. Chánh
tinh tấn (siêng năng chân
chánh): Hướng đến phương trời xuất thế, đạo niết bàn, nỗ lực tiến tới, đưa
ba nghiệp được thanh tịnh. Chẳng từ việc đối nơi thân miệng khổ nhọc mà
khổ hạnh, hoặc mê tín của thế tục và pháp không rốt ráo (cứu cánh) của
ngoại đạo.
4.7. Chánh
niệm (niệm chân chánh): Niệm
từ tâm khởi, tâm chẳng lìa đạo, xa lìa tà niệm, chỉ niệm chân như thật
tướng, vả lại từng lúc từng lúc không quên lời giảng của Ðức Phật: vô
thường, khổ, vô ngã... Không luận làm việc gì, đều cùng với chánh pháp
tương ưng, tâm không có động mất.
4.8. Chánh
định (định một cách chân
chánh): Chánh định là xa lìa bất định, tà định, lấy chánh niệm vô thượng
giữ gìn tâm, an việc thiền định ở trong trí vô phân biệt mà được.
Ðạo diệt khổ gọi là
“bát chánh đạo”. Tu bát chánh đạo (tám món chánh đạo), làm nhân cho “Diệt
đế”, đó gọi là kim chỉ nam của người tu tập đạo pháp, khiến tâm tham ái và
chấp trước không xả đó sẽ bị diệt yếu đi và diệt hết, để lợi ích cho việc
tu hành.
Phật, Pháp, Tăng là
tam bảo (ba ngôi báu) trong cửa Phật. Quy y tam bảo tức là quy y Phật, quy
y Pháp và quy y Tăng. Quy là ý quay về, y là ý nương nhờ.
Phật, là nói tắt của
chữ “Phật đà” của Ấn Ðộ ngữ, Trung Quốc dịch thành là Giác, tức là người
chứng ngộ chân lý. Hàm chứa ý tự mình giác ngộ và lợi ích cho người khác,
cả hai việc ấy viên mãn đầy đủ.
Pháp, Ấn độ gọi là
“Ðạt ma”, nói theo nghĩa hẹp, tức là ý chân lý, nghĩa rộng là ý tất cả sự
vật tồn tại. Tổng quát là Ðức Phật nói bày giáo pháp chơn nghĩa của toàn
thể vũ trụ.
Tăng, là tiếng nói
tắt chữ “Tăng già” của Ấn Ðộ, là đoàn thể có hành vi đạo đức đầy đủ.
Nương Phật làm thầy,
nhân vì Ngài hay dạy rõ cho chúng ta chân lý tuyệt đối chính xác không
lầm, mà dẫn dắt chúng ta tiến vào cõi cảnh không có phiền não. Cho nên quy
y Phật, có thể khiến chúng ta giác mà không mê, nên người học Phật lấy
Phật làm bổn sư quy y, mà bỏ ngoại đạo.
Nương Pháp làm
thuốc, nhân vì Pháp (chân lý) có công dụng hiệu quả bỏ trừ được phiền não,
khiến chúng ta Chánh mà chẳng Tà, đều gọi là chúng sinh chuyển mê khai
ngộ, lìa khổ được vui, không nương nơi tà pháp của ngoại đạo.
Nương Tăng làm bạn,
nhân vị họ có thể đem chánh pháp sắp truyền bá mà truyền trao cho chúng
ta, khiến chúng ta lìa khổ được vui, nên người học Phật quy y Tăng, có thể
khiến cho chúng ta tịnh mà không nhiễm. Ðây chính là chánh tín mà vào
chánh giác, không nương nơi đồ chúng ngoại đạo.
Bao quát mà nói, tức
là tam bảo Phật, Pháp, Tăng hay khiến cho chúng sinh xa lìa biển khổ sinh
tử, được Niết bàn (giải thoát), cho nên nói là chỗ của chúng sinh rốt cuộc
phải quy y.
Người ban đầu học
Phật, tín tâm chưa kiên cố, lực lượng chưa sung túc, nên cần phải quy y
tam bảo, được sự giúp đỡ, mới thành tựu đạo nghiệp, song thì sau cùng đệ
tử ắt cần phải nương nơi sức chính mình, mới có thể thành Phật; đây là chỗ
không đồng nhất giữa Phật giáo và các tôn giáo khác. Phật Ðà (Thích Ca Mâu
Ni) trong lúc nói pháp, đều dạy răn thẳng cho đệ tử cần phải “tự y”, “pháp
y” và “bất dị y”; tức là nương cậy tự lực, nương chánh pháp để tu học và
không nương nhờ ở các lực lượng khác. Cho nên nghĩa sâu xa sau cùng của
quy y tam bảo tức là quay về chính mình, tự tâm vốn có Phật, tự mình có
thể thành Phật, tâm mình ngay nơi thể, tức là đầy đủ chánh pháp (chân lý);
tự mình nương nơi pháp tu học, tự thân và Tăng già “nhất thể”. Như thế tam
bảo Phật, Pháp, Tăng đều là không lìa tự thân, tức là chính thân tâm mình
tam bảo có thể hiển hiện. Nhìn từ bên ngoài, quy y là sự dẫn dắt tha lực
“tín nguyện”. Nhưng nhìn sâu, đây chỉ là “tăng thượng duyên” (điều kiện
giúp đỡ tiến bộ). Trên thực tế, dốc sức chính mình, thực hiện lý tưởng,
đây mới là ý nghĩa chân thật của vấn đề quy y tam bảo.
Cửa Phật giáo đều
hướng đến chỗ có nhân loại mà mở bày. Phàm là người đối với Phật Pháp có
hứng thú vả muốn học tập, không luận: sang, hèn, già, trẻ, nam, nữ, đều
biểu hiện sự chào đón, vả lại nhất luật bình đẳng, không có phân biệt giai
cấp, nhưng có chỗ trước sau thứ lớp tôn kính. Ðây là đứng trên nguyên tắc
tu hành thềm bậc thứ lớp mà nói, tức là người tu hành chứng ngộ quả vị
thấp cần phải tôn kính người có quả vị cao, vả có nghĩa vụ tiếp thu sự chỉ
dẫn, chỉ có thứ tự trước sau như đây, hoàn toàn không có bất kỳ sự phân
chia đẳng cấp trên dưới nào, hoàn toàn phát huy cái nhìn bình đẳng của
nhân tính.
Mục đích của học
Phật, tuy nhiên là ở chỗ siêu phàm nhập thánh giống nhau, nhưng nhân vì
phương pháp nghiên cứu và tu hành không đồng mà phân thành rất nhiều
phương pháp tu hành. Tịnh độ tông (pháp môn trì danh niệm Phật) là một
phương pháp trong đó.
Tam quy y tổng kết
mà nói: quy y Phật tức là “giác ngộ không mê”, quy y Pháp tức là “chánh mà
không tà”, quy y Tăng tức là “tịnh mà không nhiễm”.
Ðức Phật dạy chúng
ta cần phải từng thời khắc quán tưởng đến: Giác - Chánh - Tịnh; cần dùng
Giác - Chánh - Tịnh mà tu tư tưởng, kiến giải, lời nói, việc làm của chính
chúng ta, đây gọi là “tam quy y”, là quy y chân chính, Giác - Chánh -
Tịnh, ba nguyên tắc này tức là quy y “Tam bảo”.
Hai chữ “Bồ đề” là
tiếng Phạn của Ấn Ðộ, dịch là Giác, ý là “chánh giác”, giác chính mình,
giác người khác và giác ngộ viên mãn. Giác ngộ Phật đạo cũng tức là ý nói
thành Phật. Bồ đề tâm tức là tâm giác ngộ, tức là tâm học tập Phật pháp,
là thường ở trên hiện tượng mà rõ ràng và thông đạt, cũng tức là tâm thành
Phật.
PHÁT TÂM BỒ ÐỀ, phát
ấy là phát tâm, cho nên phát tâm bồ đề, lại là phát khởi tâm thành Phật.
Vì sao cần thành Phật ư? Là vì lợi ích tất cả chúng sinh.
Phát tâm bồ đề tức
là phát tâm thành Phật, “thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh”, rộng tu
tất cả thiện hạnh, ngộ triệt để pháp tánh bình đẳng, quyết không kiến chấp
ta và chúng sinh có sai biệt gì, như thế mới cùng tâm bồ đề tương ứng.
Như thế nào mới có
thể rộng tu các thiện hạnh ư? Lấy “bốn vô lượng tâm” làm cơ sở căn bản,
lấy “bốn nhiếp tâm” mà hành trì.
Phát tâm bồ đề, đức
Phật muốn chúng ta bồi dưỡng tâm bồ đề, chủ yếu thành trách nhiệm của một
cá nhân, cho nên mới có lời cảm là: “Nhân thành Phật thành”, đây là quy củ
mô phạm làm người xử thế.
Không phát tâm bồ đề
thì không có tâm thành Phật.
Tâm bồ đề tức là tâm
giác ngộ, tâm từ bi, tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, tâm đại nguyện.
Phát tâm bồ đề, nói
một cách đơn giản, tức là anh xem chúng sinh chỗ có, đều cùng với tự mình
giống nhau, không có ta lớn anh nhỏ, ta mạnh anh yếu, chỉ một mực bình
đẳng. Cần tận khả năng của mình giải thoát đau khổ của chúng sinh tức là
lợi tha.
Tâm bồ đề không phải
lấy Ngã làm trọng tâm xuất phát, mà là kiến lập ở trên một tướng bình đẳng
của tất cả chúng sinh cho nên không có bỉ thử, phân biệt bạn thù, cũng
không sát hại, không làm việc si mê tham ái, cần ở lúc làm bất kỳ việc gì,
hay thức tỉnh chính mình, việc này rốt ráo đối với việc giải trừ mọi người
hoặc chúng sinh trầm mê có giúp ích thế nào?
Tâm bồ đề thật chẳng
phải là ngay khi gieo hạt giống thì có thể mọc lên liền, chỉ đuợc tăng
tiến từ từ.
Bước thứ nhất, không
nên còn tâm hại chúng sinh. Bước thứ hai, thường thường tỉnh thức chính
mình, ta làm việc này cùng với chúng sinh có ích hay không có. Bước thứ
ba, nghĩ muốn là chẳng có thể giúp đỡ người khác thoát ly các nỗi khổ đau
của nhân sinh. Ðối tượng lúc bắt đầu, qua loa là rất hẹp hòi, chậm chậm
mới phổ cập được một nhóm người, nhận thức của anh, lại lần hồi đem tâm từ
bi tìm mở rộng ra, siêu vượt ranh giới và giới hạn quốc gia phổ cập mọi
chúng sinh.
Tâm Bồ đề sản sinh
có hai món: Một là xưa nay đầy đủ; một là huân tập mà có. Chúng ta mỗi
người đều có tâm giác ngộ, vì sao chẳng giác ngộ ư? Nhân vì không có sự
khởi phát. Khởi phát về sau, cái tâm này tức là tâm giác ngộ. Ðối với tất
cả vũ trụ đều là giác ngộ, đây cũng là căn bản tâm Bồ đề, tâm xưa nay đầy
đủ. Cho nên chúng ta cần do từ sự dẫn dắt của thầy và kinh điển, chầm chậm
học tập và huân tu, dùng tâm “như minh” này khởi phát sau khi tăng trưởng
trí tuệ, mới có thể giác ngộ xưa nay. Trước kia chưa nhận thức bản tâm,
thường thường hiểu rằng có giá trị thế nào mà tu, mà biết? Nhưng phát tâm
Bồ đề tức là muốn chúng ta triệt để giác ngộ pháp của tất cả chẳng lìa tự
tánh, tất cả tánh tức là tự tâm, điều này chẳng người khác bảo với anh mà
có, mà là tự mình xưa nay đầy đủ, không có bất kỳ mê hoặc nào. Cho nên nói
mọi người đều có trí huệ và đức tướng của Phật tánh, chỉ nhân nơi vọng
tưởng và chấp trước mà mê hoặc.
Hóa độ chúng sinh,
trước phải độ chính mình, “kỷ sở bất dục, vật ư chúng sinh” (việc mình
không muốn chớ đem cho chúng sinh), bất luận là thân, miệng, ý đều chẳng
thể được, lại chẳng thể có tư tưởng và hành vi làm tổn hại chúng sinh,
nghìn vạn việc khác chớ làm tùy tiện, phóng túng, buông lung, mượn cớ lót
miệng mà làm, trong tâm thường còn lòng từ ái và sự bao dung, khiêm tốn
hiền hòa, nghĩ đến chúng sinh. Chờ có lúc trí huệ sinh khởi, lời của anh
nói sẽ có ích cho chúng sinh, nói được chúng sinh miệng tâm đều phục,
chúng sinh tự nhiên sẽ tự động gần gũi anh, chẳng cần anh nhọc sức quảng
cáo tuyên truyền; cung kính anh, lúc đó chúng sinh sẽ nghe lời dạy răn của
anh; Anh không có trí tuệ, lời nói không viên dung, làm sao dẫn khởi sự
hứng thú cho chúng sinh? Dẫn pháp cần phải khế cơ, lời nói không gieo vào
căn cơ, nói rách da miệng cũng không tác dụng.
Khắp độ chúng sinh
có hai việc: 1. Cứu huệ mạng cho người, trừ si mê cho người, khiến cho họ
được minh giác, tự mở mang ra, chuyển thức thành trí,triệt ngộ rốt ráo, tự
tại không ngại, giải thoát luân hồi sinh tử, an trụ cảnh tịnh cực lạc,
vĩnh hằng thọ dụng. 2. Cứu thân mạng con người, làm chút việc tốt, cho
người ít tiền bạc hoặc y thực, hoặc lên núi xuống biển để cúng một chút
công sức nhọc nhằn mà phục vụ, cứu nhân mạng, chẳng qua là trăm năm, rốt
cuộc cũng chết, công hiệu ngắn tạm.
Phát tâm Bồ đề phổ
độ chúng sinh chẳng phải cần là anh hiện tại độ bao nhiêu chúng sinh mà là
cần có thành tâm độ chúng sinh, chẳng phải làm cho mình rồi than thở.
Ðộ chúng sinh rất là
khó! Nhân vì Phật pháp không theo nơi thế tục (không theo cái tâm tục của
người đời, theo tâm tham muốn), không giống như kiểu của ngoại đạo theo
thế tục mà dụ người. Không có trí tuệ mà khuyên người tin Phật đã chẳng
phải dễ, còn có thể nói được cho người đời miệng tâm đều phục mà học Phật
tu hành, phát khởi sức lực tu hành sao? Trước mắt chỉ có đủ thật chính
mình, chờ có một ngày trí tuệ phát ra mới độ chúng sinh, trước mắt chỉ có
miệng nói ái ngữ, lượng sức tùy duyên mà làm việc thiện; giữ gìn thiện
tâm, tùy duyên tùy sức mà làm việc thiện.
Luận đại trí độ nói
rằng: “Bồ tát chưa được sinh pháp nhẫn, chẳng thể độ chúng sinh; dụ như
phá bỏ thuyền mà cứu người chết đuối, mình và người đều bị chìm”.
Bồ Tát đất qua sông,
tự thân khó bảo tồn! Làm sao độ được người!
Phật pháp giảng: vô
thường, khổ, không, vô ngã, ý tứ là tất cả muôn việc muôn vật trên thế
gian đều là vô định tánh, nhân duyên hòa hợp thì sanh, nhân duyên ly tán
thì diệt, tất cả tùy duyên mà tận lực, không nên cưỡng cầu.
Duyên khởi, tức là
nói rõ tất cả các pháp đều là nơi nhân duyên mà sinh khởi. Nói một cách
đơn giản, tức là sự sinh khởi tất cả sự vật trên thế giới hoặc tất cả hiện
tượng, đều là tương đối, quan hệ và điều kiện nhất định của nó xen nhau
tồn tại. Nếu như không có quan hệ và điều kiện này, bất kỳ sự vật và hiện
tượng nào, đều không có pháp sinh khởi. Tại sao gọi là nhân duyên?
Nhân duyên cũng là
điều kiện quan hệ. Trên kinh Phật đã từng nói: “Nếu đây có thì kia có, nếu
đây sinh thì kia sinh, nếu đây không thì kia không, nếu đây diệt thì kia
diệt”; đây là định nghĩa về duyên khởi. Nói rõ “quan hệ đồng thời” nương
nhau tồn tại của sự vật, đạo lý “khác thời” xen nhau tồn tại.
Thế nào là đạo lý
“khác thời” xen nhau tồn tại? Thí dụ sự quan hệ của hạt giống và mầm. Nhân
vì quá khứ có hạt giống cho nên hiện tại mới có sự nảy mầm, chính nhân vì
hiện tại có nảy mầm, hạt giống của quá khứ mới gọi là hạt giống, đây tức
là đạo lý của quan hệ “khác thời” xen nhau tồn tại. Nhìn riêng một phương
diện, lúc hạt giống diệt cũng chính là lúc mầm sinh, lúc mầm sinh cũng
chính là lúc hạt giống diệt, đây là chứng minh hiện tượng sinh diệt của
mầm và hạt giống, lại là một loại quan hệ “đồng thời” xen nhau tồn tại.
Loại quan hệ cùng
thời xen nhau tồn tại và khác thời xen nhau tồn tại này kỳ thật cũng tức
là chỗ gọi của Phật giáo: “quan hệ nhân quả”; ví dụ như hạt giống là
“nhân”, mầm tức là “quả”, vì trước có hạt giống nên sau mới có sự phát
triển của mầm, đây là quan hệ nhân quả khác thời xen nhau tồn tại. Cũng
như lấy thầy giáo đó làm chính, thầy giáo đó tức là nhân, học sinh tức là
quả; ngược lại lấy học sinh làm nhân, thầy giáo là quả, đây là quan hệ
cùng thời xen nhau tồn tại. Quan hệ nhân quả này rất là lẫn lộn phức tạp.
Cho nên muôn sự muôn vật trên thế giới, đứng trên thời gian mà nói, do ở
sự quan hệ liên tục nhân quả khác thời vô số; đứng trên không gian mà nói,
quan hệ xen nương nhau tồn tại vô số, tổ chức thành một cái mạng lưới lầm
lạc cùng nhau rất là lộn xộn, phức tạp. Ðây tức là nhân nhân quả quả tương
tục không dứt, tức là quy luật nhân quả. Cũng tức là giống như quay vòng
lửa lưu chuyển không dừng, cuối mà lại đầu.
Phật pháp nói rõ
pháp nhân duyên quả báo (nhân quả) chỗ sinh có hai lực lượng: 1. Lực có
thể nghĩ bàn. 2. Lực không thể nghĩ bàn. Như nương nơi nhân nào thì được
quả đó, tạo nghiệp nào thì thành báo đó, có cảnh nào thì khởi tâm đó, có
tâm nào thì rõ cảnh đó, do hiện tượng nào thì khởi quán đó; đây là phép
tắc thông thường của nhân quả.
Trên Phật pháp, sự
sinh thành và hoàn diệt của vũ trụ vạn hữu, phải đều do hai chữ nhân
duyên. Nhân và duyên, trên Phật pháp chưa từng có ranh giới nghiêm cách mà
nói, nhưng từ sai biệt tương đối mà nói, nhân ước chỉ đặc tính mà nói,
duyên ước chỉ lực tác dụng mà nói. Nhân là chỉ một điều kiện chủ yếu sanh
diệt của sự vật, duyên thì là trợ giúp điều kiện, hai chữ “nhân duyên”,
nếu dùng ngôn ngữ hiện đại để nói thì ước chừng tương đương với hai danh
từ “điều kiện” hoặc “quan hệ”. Nói như thế, sự sinh diệt của mỗi sự vật
trong vũ trụ ắt cần phải đầy đủ những điều kiện nào đó; sự tồn tại của mỗi
sự vật, cũng quyết cần quan hệ xen nhau cùng với sự vật khác mà có. Cho
nên phàm khiến cho điều kiện hoặc quan hệ của một sự vật sinh diệt, hoặc
một sự vật tồn tại, tức gọi là “nhân duyên” của sự vật này.
Sinh thành của vũ
trụ không phải là thần sáng tạo. Sự thay đổi của vạn vật cũng không phải
là do Thượng đế chi phối; chỉ là sự nhờ gá các duyên (tức là đầy đủ các
mức điều kiện sinh thành đổi khác của vật đó) hòa hiệp mà sanh. Việc này
sanh khởi từ không đến có, tức nhân lời nói giới hạn, gọi là “duyên khởi”,
tức nói trên quả gọi là “duyên sinh”. Cho nên trên Phật pháp gọi sự sự vật
vật tồn tại ở trong vũ trụ là “pháp nhân duyên được sinh” mà gọi sự sinh
khởi của sự sự vật vật “muôn pháp nhân duyên sinh”.
Vạn hữu trong vũ
trụ, đã nhờ các duyên được sinh, tự nó chẳng khỏi sự biến hóa bại hoại.
Cho nên từ tình thế gian đến khí thế gian, từ hiện tượng tinh thần đến
hiện tượng vật chất đều là ở nơi sự vận động lưu chuyển, sự sinh diệt biến
hóa, sát na không dừng. Nhưng ở trong khoảng lưu chuyển sinh diệt này là
chẳng có một quy luật tuân theo ư? Có, đứng trên Phật pháp mà nói, phép
tắc cơ bản có hạng mục chi phối muôn hình tượng của vũ trụ sinh diệt biến
đổi, tức là luật nhân quả của vạn hữu.
Gọi là luật nhân
quả, tức là phép tắc nghiên cứu nguyên nhân kết quả của sự vật. Hiện tại
trong khoa học cũng có luật nhân quả, duy luật nhân quả của khoa học chỉ
thích hợp dùng ở sự biến hóa của vật lý. Mà luật nhân quả của Phật pháp,
ngược lại, thích nghi dụng ở sự biến hóa của tâm, sự biến hóa của sự vật,
và sự biến hóa của tâm – vật hỗn hợp. Phật pháp đem phép tắc này gia dĩ
phân tích rõ ràng chín chắn và chi tiết; căn cứ phép tắc này sáng lập ra
nhân sinh quan ba đời; lại gom đem nghiệp báo luân hồi... các vấn đề liên
quan lại, mà sáng lập ra nhân quả thiện ác chung với tư tưởng luân lý ba
đời.
Nhân quả, nên nói
một cách đầy đủ “nhân duyên quả báo”. NHÂN là nguyên nhân, DUYÊN là trợ
duyên, sự vật do nhân duyên hòa hợp được sản sinh gọi là QUẢ, quả này đối
với việc tạo nhân gọi là BÁO.
Thế, xuất thế gian,
từ chúng sinh cho đến thành Phật, từ “căn thân” cho đến “khí giới” (tức là
từ thân và căn cho đến đồ vật và nơi cõi), tất cả những việc sinh diệt đổi
dời... chẳng có việc gì là chẳng chịu lấy sự chi phối của phép tắc này.
Chỗ gọi là ba đời,
là chỉ cho đời quá khứ, hiện tại và vị lai. Phạm vi đời quá khứ bao quát
là từ trước hiện tại một đời cho đến quá khứ vô cùng lâu xa, đoạn thời
gian này đều thuộc ở nơi đời quá khứ. Ðời hiện tại là chỉ cho đời hiện tại
này. Phạm vi đời vị lai bao quát là từ sau đời hiện tại cho đến tương lai
vô cùng xa vời, đoạn thời gian này đều thuộc đời vị lai.
Chỗ gọi là nhân quả
thông ở “ba đời”, ý nghĩa có hai: 1. Quả báo phát sinh từ việc làm thiện
hoặc làm ác, thời gian cần phải có mau hay chậm; nói mau, ngay đời này
được quả báo, nói chậm có thể nhân từ đời quá khứ tạo đời này mới thọ báo
hoặc nhân đời này tạo đời vị lai mới thọ báo; nói càng chậm, thì từ nhân
đến quả, vượt qua đời quá khứ, đời hiện tại, đời vị lai, trải qua thời
gian vô cùng lâu xa mới phát sinh quả báo. 2. Sau khi phát sinh quả báo,
thời gian thọ báo cũng có ngắn dài; nói ngắn chỉ có mấy ngày, mấy tháng,
mấy năm; nói dài từ bắt đầu thọ báo cho đến lúc báo hết dừng lại, vượt qua
đời quá khứ, đời hiện tại, đời vị lai, thời gian vô cùng lâu xa.
Bất kỳ sự vật nào,
quyết không thể không nhân mà sinh; nhưng có nhân mà không duyên cũng
không thể sinh. Thí như một hạt giống (nhân) nếu không trải qua sự gieo
hạt đem nó chôn vào trong đất, lại thêm các duyên trợ giúp của ánh sáng
mặt trời, mưa, sương... thì không thể nảy mầm sinh trưởng, mà nhân duyên
hòa hợp hình thành quả báo. Chẳng những sự sinh trưởng của sự vật như đây,
tức sự biến đổi và hoại diệt của sự vật cũng chẳng như vậy.
Trên luật nhân quả
cũng có vài điểm đánh giá được chú ý:
7.1.
Trong luật nhân quả không có nhân thứ nhất, cũng không có quả cuối cùng.
Trước nhân lại có nhân, cho đến vô thủy. Sau quả lại có quả dẫn đến vô
chung. Thí như cha là nhân của con, cha lại có cha, cha... cha... vô thủy;
con là quả của cha, con lại có con, con... con... vô chung.
7.2.
Nhân và quả trong luật nhân quả là tương đối, mà chẳng phải là tuyệt đối.
Thí như sợi vải là nhân của tấm vải, ngược lại là quả của bông vải. Do
nhân Giáp mà sinh quả Ất, đương nhiên Ất là quả của Giáp. Nếu từ Ất lại
phát sinh ra quả Bính thì Ất lại là nhân của Bính.
7.3.
Là chỉ cho quá khứ, hiện tại, vị lai, trên thời gian; cho nên không tự
diệt, không luận là sự lâu – tạm thời gian, hễ gặp duyên tức khởi hiện
hành.
7.4.
Bản chất nhân quả là một. Nhân có thể sinh, ắt là quả sinh. Quả có thể
sinh ắt là cái nhân được sinh. Ðứng trên sắc pháp mà nói, trồng dưa được
dưa, trồng đậu được đậâu, hạt đậu lớn chẳng phát sinh từ dưa ươm, hạt dưa
lớn cũng chẳng phát ra từ mầm đậu. Ðứng trên tâm pháp mà nói, tự làm nhân,
tự thọ quả.
Nhân thiện không
sinh quả ác, quả ác không từ nhân thiện, dù mảy mún nhỏ nhặt cũng chẳng
thể cậy nhờ.
Luật nhân quả là quy
luật tự nhiên của vũ trụ nhân sinh; Phật giáo chủ trương nhân quả ba đời,
tức là chỉ cho quá khứ, hiện tại, vị lai của con người đều là trực tiếp
chịu sự chi phối của của “luật nhân quả”, đây cũng gọi là nhân duyên quả
báo. Thành Thánh thành Phật, lên thiên đường hay xuống địa ngục, hoặc
thành công hoặc thất bại của một sự nghiệp, hạnh phúc hay bất hạnh của một
cá nhân đều lìa không khỏi luật nhân quả. Tại sao gọi là nhân quả? Nhân ấy
là so như hạt giống, gieo vào trong ruộng, tương lai có thể trưởng thành
làm quả thật. Quả như là quả thật, từ hạt giống nảy mầm, lần lần thay hoa
đậu trái. Như tôi đánh anh là nhân, anh lại dùng tay đánh trả tôi là quả.
Như người làm công vụ tham ô là nhân, bị phát hiện rồi pháp quan kêu án
ngồi tù là quả...
“Giả sử trăm ngàn
kiếp, chỗ tạo nghiệp không mất, lúc nhân duyên gặp gỡ lại tự thọ quả báo”.
Từ đoạn văn tự này, chúng ta có thể hiểu được chúng ta đời trước tự mình
hành vi các món nghiệp thiện ác chỗ tạo tác là một món NHÂN nghiệp, mà tạo
các nhân nghiệp này tuy nói thời gian quá khứ rất lâu, rất lâu, ở trước
lúc không thọ quả báo, vĩnh viễn đều tồn tại, không thể tự động tiêu mất
hoặc tiêu diệt. Những cái nhân các món nghiệp thiện ác quá khứ hoặc đời
trước chỗ tạo ra chỉ cần gặp được điều kiện sinh trưởng thích hợp, thì sẽ
thành và sinh trưởng tích cực làm quả, cho nên thiện ác phước họa của tất
cả thế gian, hạnh phúc hay không hạnh phúc, không có việc gì chẳng phải là
“tự tác hoàn tự thọ” (tức là tự mình làm, tự mình chịu), chẳng thể có đạo
lý do anh làm, người khác lại chịu, hay do người khác làm mà anh lại chịu.
Luật nhân quả đặc
biệt chú trong về “DUYÊN”, nhân vì phép tắc nhân quả trực tiếp thông ở nơi
đời quá khứ, đời hiện tại, đời vị lai của con người. Ðiều chỉnh tất cả sự
sự vật vật của nhân sinh vũ trụ đều là do ở nơi duyên mà khiến tất cả sự
vật thành là sự tồn tại tánh cách tạm thời. Thí như nói anh trồng một cây
dưa, đây tức là “nhân” của hành vi, nhiên hậu anh lại mỗi ngày tưới nước
cho dưa, bón dinh dưỡng, đây là “trợ duyên”. Sau đó cây dưa này trồng một
cách thuận lợi sẽ lớn lên kết thành quả, chắc chắn là quả “dưa”. Tuyệt đối
không là một chủng loại nào khác, cho nên nói rằng: “trồng dưa được dưa,
trồng đậu được đậu”.
Cho nên lý luận của
nhân quả cho là: “quả báo” ắt cần phải có NHÂN DUYÊN hòa hợp mới kết quả.
Nên nói mình tạo nhân gì chắc chắn được quả đó, trừ phi mình không tạo tác
thì không thể phát sinh ra quả.
Câu nói: “nhân duyên
sanh vạn pháp” là một điều trung tâm học lý trong Phật học cũng gọi là
“luật nhân quả”. Vạn pháp là chỉ tất cả sinh vật và không sinh vật, chúng
đều là nhân duyên hòa hợp mà sinh. Nhân là phát sinh ra động lực gốc của
một vật nào đó. Duyên là nhiều yếu tố giúp trợ một vật nào đó sinh thành.
Chúng ta lấy việc trồng hạt đậu làm ví dụ, có thể dễ hiểu. Một hạt đậu là
một hạt giống thực vật họ đậu, hạt này tức là tương lai phát sinh cái nhân
của thực vật thuộc loại cây đậu đó, hạt giống gieo vào trong đất màu lại
thêm ánh sáng mặt trời, không khí, nước... tức là trợ giúp hạt giống đó
sinh trưởng là có duyên lớn lên (tăng thượng duyên) của thực vật. Thời
gian nhân duyên hội họp, tức sự sinh khởi thực vật này là hiện tượng phổ
thông vạn vật sinh khởi. Nhưng đây còn một vấn đề cũng là trọng yếu; thế
thì người nông phu nương theo thời gian thích đáng mà gia công, tưới nước,
nhổ cỏ, bón dinh dưỡng, như thế hạt giống đó tức sẽ kết thành “quả” chắc
tốt. Trái lại hạt giống gieo vào trong đất mà những duyên đó thiếu ít rồi,
hoặc nông phu không thi công, như thế cây thực vật kia, không những không
thể phát triển, thậm chí sẽ chết mất. Thực vật là kiểu này, nhân loại
chúng ta cũng như vậy. Sự vật sở hữu cũng là như vậy.
Nghiệp có: thiện
nghiệp, ác nghiệp và chuyển nghiệp. Vạn vật là do nhân, duyên hội họp được
sinh, nhân giống như hạt giống của thực vật, như thế chúng ta lại tiến
thêm một bước thử hỏi: “hạt giống của thực vật từ đâu mà có? Chúng ta biết
rằng: Một đóa hoa hoàn toàn có nhụy cái và nhụy đực, ở trong bầu nhụy có
một cái phôi tròn, mặt trong có một cái tế bào cái gọi là noãn, thuốc hoa
của nhụy đực có bốn cái túi, bên trong mỗi cái túi chứa tế bào đực rất
nhiều, gọi là phấn hoa. Nếu hoa phấn có cơ hội được gió thổi đi hoặc côn
trùng mang đến trên hoa cái thì phát triển thành ống phấn hoa, tế bào đực
với ống phấn hoa phối hợp, về sau thì phát triển thành hạt giống của quả
chắc.
Chúng ta đã hiểu
rồi, muôn pháp là do nhân duyên hội họp mà sinh khởi. Nhân là tại sao tạo
thành? Phật học nói: nhân là do quả tạo thành. Như vậy thế nào là nghiệp?
Nghiệp tức là nơi thân người có chỗ tạo tác hành vi. Lời cửa miệng nói; ý
có tư tưởng cảm phát; đây tức là nghiệp. Ở trong một đời người, phổ thông
có mười món thiện nghiệp. Như thân không tạo ra: sát - đạo - dâm. Miệng
không tạo ra: nói láo - nói ác - nói chiều uốn - nói hai chiều. Ý không
tạo ra: tham - sân - si. Một cá nhân như có thể hằng ngày tạo ra thiện
nghiệp nhiều như thế thì trong một đời của họ, chân - thiện - mỹ đầy đủ
tất cả, huống chi đời trước của họ, xưa nay thiện nghiệp chứa nhóm rất
nhiều, lại thêm một đời này thiện nghiệp được tạo, hết đời này về sau,
thiện nghiệp của họ và duyên hòa hợp, đời sau thì có thể chuyển làm trời
người hoặc Tiên hoặc Thần, hoặc người giàu có... Ðây là luật nhân quả “tự
tác tự thọ”, là một cái hiện tượng của vạn vật, nhưng người hiểu được thì
rất ít, cho nên người tốt cũng sẽ ít.
Về mặt tương phản,
nếu như một người thân hàng ngày tạo ra: sát - đạo - dâm; miệng tạo ra:
nói láo - nói ác - nói chiều uốn - nói hai chiều. Ý tạo ra: tham - sân -
si, các món ác nghiệp. Họ sẽ cấu thành nhân ác, ở đời này, hoặc đời sau,
lúc cùng duyên hòa hợp y theo luật nhân quả mà nói, người này chậm mau gì
cũng sẽ thọ lấy các món ác báo đau khổ. Tục ngữ nói rằng: “thiện ác đáo
đầu chung hữu báo, chỉ tranh lai tảo dữ lai trì” (Thện và ác cuối cùng
cũng có báo ứng, chỉ là sớm hay muộn mà thôi!). Câu nói này là không sai
vậy. Nhưng chư vị nhớ rằng một hạt giống được ánh sáng mặt trời, không
khí, nước, sẽ nuôi lớn lên, nhưng người nông phu nhổ cỏ, bón phân... các
việc là sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển và thu hoạch của thực vật đó.
Nghiệp lực cũng như thế này. Chúng ta có thể dùng sức lực chính mình để
chuyển biến sự gặp gỡ đời này của chúng ta như: giàu, nghèo, vinh, nhục...
Tuy nhiên là đời trước nghiệp lực được tạo phát triển đến, nhưng chúng ta
không ngộ được đạo lý “chuyển nghiệp”, một mặt sám hối cái ác nghiệp đã
tạo từ quá khứ không hiểu biết, riêng một phương diện hằng ngày suy nghĩ,
nói năng, hành vi đều phản tĩnh chính mình, nỗ lực hướng con đường thiện
mà đi. Như thế cá nhân này lớp ác nghiệp đã tạo trong quá khứ gọi là định
nghiệp, xưa nay là phải thọ quả báo ác, lúc này chuyển thành nghiệp nhẹ,
hay nghiệp bất định. Lại thêm sự trì giới, học định, tu huệ, như vậy thân
này có thể vào hàng Thánh, là rất có khả năng. Cho nên một cá nhân phần
lớn có thể bất tất vì ác nghiệp đã tạo từ quá khứ không biết mà lo phiền
lòng, chỉ cần hiện tại nỗ lực tạo thiện nghiệp để chuyển biến nó, “nhân
lực thắng thiên”, thì có thể lấy câu nói này “thiện ác đáo đầu chung hữu
báo, chỉ tranh lai tảo dữ lai trì”, biến đổi nhiều nhiều hơn.
Chúng ta sở dĩ đến
thế gian làm người không có cái gì chẳng phải là do các món nghiệp thiện
ác đời trước hoặc quá khứ của tự chúng ta luân hồi mà đến, (chúng sinh vì
các loại nghiệp tạo tác khác nhau, thế nên luân hồi sinh tử trong sáu
đường: trời, người, a tu la, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục). Ðó là quá khứ
của mỗi cá nhân ở trong thời gian và không gian chẳng giống nhau, nhân
nghiệp tạo tác đều không đồng. Cho nên mỗi người ở đời này các món cảnh
ngộ phải chịu lấy cũng sẽ tự nhiên có chỗ không đồng, chính mình ở ngày
nay chỗ thọ lãnh, điều là chính mình thọ lấy nhân nghiệp của quá khứ bị
chiêu cảm, chắc chắn như vậy.
Thí như có người
ngược lại có thể có đời sống được thông minh trí tuệ, gia đạo lại giàu
sang, một đời như ý, bước tiến thong dong cho đến năm phước đến cửa hoặc
giả một chút cũng không phí sức, ngồi hưởng vinh hoa. Mà có người thì đời
sống kém hèn, linh đinh cô khổ, một thân cùng khổ, còn lại gặp gỡ tai biến
hoặc bệnh tật, khổ không kể xiết.
Có người một đời huy
hoàng thắng đạt, có người một đời cùng đường chao đảo, đời người có lúc
đắc ý nhưng cũng có lúc thời khắc thất ý. Có những người sinh ra là con
nhà giàu, từ lúc sinh ra hưởng thụ thẳng đến già, không buồn không rầu. Có
người sinh ra ở gia đình nghèo khó, từ sớm bận rộn cho đến chiều, vả một
đời nhọc nhằn khổ sở. Có người lớn lên có tướng đoan chính, có tài hoa có
học vấn, một đời không tai không họa. Có người ngược lại tai họa trùng
trùng, có người làm kiến trúc sư, giáo thọ, có người buôn bán, có người
làm công việc tốt xấu giàu sang... các món sai biệt và cảnh ngộ đều mỗi
cái có chỗ không đồng. Thậm chí anh chị em cùng sinh ra từ một gia đình
cùng cha mẹ, không luận là phương diện thân thể, phương diện tiền đồ,
phương diện sự nghiệp, thậm chí một người con gái sinh ra từ gia đình
nghèo khó, gả đến một gia đình giàu hoặc ngược lại.Chúng sinh hàng trăm
trạng thái, thiên sai vạn biệt, đây là đạo lý gì? Những vấn đề này đều là
từ quá khứ hoặc đời trước chính mình mỗi người nhân nghiệp đã tạo ra mà
cấu thành; bởi nhân nghiệp không đồng, nên nhân duyên đời này gặp gỡ, cho
nên bất cứ một cá nhân nào tình cảnh đời này thọ lấy, cũng đều riêng khác
không đồng. Cảnh ngộ đời này không tốt, đều là do ở nơi quả báo của ác
niệm và ác hạnh dẫn đến từ quá khứ bao quát cả đời trước chúng ta đã tạo
ra.
Người mà đời này
nhiều bệnh tật cũng là cùng với nghiệp chính mình đã gieo trồng từ quá khứ
đến chỗ liên hệ; Nguyên nhân của tất cả bệnh tật cũng là tâm chúng ta kéo
vin ngoại cảnh tạp niệm phát sinh. Xét một cách tột cùng mà nói, con người
ở các ngằn mé gặp gỡ trong đời người, tất cả chỗ thọ chịu, đều là do ở nơi
“vọng niệm” chính mình từ quá khứ tạo thành, nhân vì mỗi người có tạp
niệm: tham ái - oán giận - ngu si, cho nên tập trung cả ở trên thân thể,
trên lời nói, trên ý niệm chính mình; rất nhiều nghiệp nhân tạo tác chẳng
đồng, mà món nghiệp nhân này thì sẽ có thế lực tiềm ẩn rất lớn, đó là vì
sự quan hệ với chúng ta lúc tạo tác các món nghiệp có “tâm niệm rất lớn”,
do đó đời này gặp được “duyên” tự nhiên khai hoa kết quả; cho nên nói rằng
“dục tri tiền thế nhân, kim sinh thọ giả thị, dục tri lai thế quả, kim
sinh tác giả thị” - (Muốn biết nhân đời trước, nhìn nơi sự thọ chịu đời
này, muốn biết sự thọ chịu quả đời sau, nhìn việc làm đời này).
Cho nên chúng ta cần
phải biết rõ các điều khổ nạn cảnh ngộ phải chịu, thì không nên oán trời
trách người, ở trong đời này chúng ta càng cần phải từng giờ làm được các
điều: “các việc ác chớ làm” (chư ác mạc tác), chẳng nên tái lại làm
bất cứ nhân ác nào; Tiến tới thì phải làm được: “nên làm các việc thiện” (chúng
thiện phụng hành), tuy nhiên chính mình đối với cảnh ngộ trước mắt vẫn
khổ, nếu như thiện duyên kết nhiều, ác duyên tức chẳng thể tăng trưởng.
Một con người muốn
sự nghiệp thuận lợi hoặc đạt được hạnh phúc, hành vi bản thân quyết cần
phải lấy quan niệm “nhân quả” làm điểm xuất phát, người mà có được cái
nhìn “nhân quả” thì từng lúc đều có thể cảnh giác chính mình, kìm chế
chính mình, phân biệt thị phi, rõ biết nhân qủa báo ứng biến hoá, cho nên
có thể theo từng con đường chánh mà đi, trọn có thể đạt đến lý tưởng chính
mình. Một con người có quan niệm nhân quả, thì họ sẽ thật tế, quan niệm tư
duy chính xác đời người vô thường, chỗ thọ chịu tất cả khổ, mà tất cả
những cái đời này thọ chịu đều do chính mình từ quá khứ các món nghiệp
nhân được tạo tác mà cấu thành; cho nên họ có thể đoạn trừ tất cả ác, tích
cực hành thiện, kết thiện duyên, tiến đến mà thể ngộ được ý nghĩa và mục
đích chân thật của vấn đề tu hành học Phật, cho nên nói là người có quan
niệm nhân quả (nhân quả quan) có thể theo con đường chánh mà đi.
Người không có quan
niệm nhân quả, thông thường chẳng dễ tuân thủ quy củ phạm vi xã hội, pháp
luật quốc gia, xã hội bốn phương tám hướng ngay trước mặt, mỗi ngày chỗ
thấy các việc như giết người, buộc tội, cướp giật,... hoặc phạm tội vì
danh lợi, những người này có thể nói là những hạng người không quan niệm
nhân quả, hoặc nói là nhận thức về nhân quả chưa sâu.
Người không có quan
niệm về nhân quả hoặc đối với nhân quả nhận thức chưa sâu, tuy cũng thọ
nghiệp lực chiêu cảm, nhưng xét cho cùng hãy còn tự mình ở trong cuộc sống
ngày thường không có quan niệm chính xác, hoặc chánh tri (hiểu biết chân
chánh) chánh kiến (cái nhìn chân chánh); lại thêm một phương diện khác có
những người là người xấu, suốt ngày không làm các nghiệp chánh, thậm chí
không ác gì là không làm, mà ngược lại cuộc sống hưởng thụ rất nhiều...
nào là: thăng quan, phát tài, thành đạt, huy hoàng, khiến người thèm muốn;
do đó chính mình sẽ hoài nghi phép tắc nhân quả. LaÏi có những người
thường nói: “Thiên hạ làm gì có việc nhân quả báo ứng, nếu có việc nhân
quả báo ứng thì thế gian sẽ không có người xấu”. Nhân đó tham tâm càng
trỗi dậy, không biết hậu quả đáng sợ, cho nên lời nói này đều là tà tri,
tà kiến tạo thành. Trong kinh Phật nói rất rõ ràng, chỉ vì người đời phần
nhiều không có xem đọc, nghe hiểu thâm nhập kinh Phật để lý giải, để thâm
tín mà thôi.
Kinh Phật nói rằng:
“Nghiệp ác chưa chín mùi, người ác cho là vui, nghiệp ác lúc chín mùi,
người ác mới thấy ác. Nghiệp thiện chưa chín mùi, người thiện cho là khổ,
nghiệp thiện lúc chín mùi, người thiện mới thấy vui”. Ðoạn kinh văn này là
nói duyên cớ những người không có ác nào chẳng làm đó, không thọ đến báo
ứng đời hiện tại, mà vả lại còn hưởng thụ lấy cái vui; đó là vì lý do nhân
thiện đời trước hoặc quá khứ của họ, đến đời này gặp được duyên đã chín
mùi từ trước; cũng tức là nói họ tất cả những gì hưởng thụ ở hiện tại,
chính là nhân thiện của quá khứ, hoặc đời trước họ đã gieo trồng, tất cả
quả báo đó là từ trước chín mùi mà được; nếu đời này họ tạo tác các món
nghiệp ác (nhân nghiệp ác), nhân đó vì trồng chưa được lâu, chưa chín mùi,
đợi đến lúc nhân duyên nghiệp ác chín mùi, chắc chắn thọ báo; cũng tức là
nói đợi nhân thiện đã trồng ở đời quá khứ của họ - phước báo chỗ được ở
đời này sau khi đã hưởng thọ xong, tự nhiên phải thọ báo, mà nhận lấy thọ
báo các món nhân ác đã tạo ở đời này, do đây khổ đau liên tiếp, khổ nạn
triền miên, tai nạn dẫy đầy, đến lúc đó, tự nhiên người làm ác sẽ thấy
được kết thúc của việc làm ác. Trên sự thật, một con người làm việc ác
chẳng có thể trốn chạy hết đời, trải qua khoảng giữa đường thì đã khổ nạn
trùng trùng, chẳng sanh bệnh thì cũng chẳng được chết tốt.. Có thể thấy
việc “quả báo hiện đời” này xác thực rất là đáng sợ, nếu đời này không thọ
báo thì ở đời vị lai, giống như vậy, phải thọ báo, “ác nghiệp chín mùi ở
đời sau” tức là cái đạo lý này vậy.
Người mà mỗi ngày
thường hay giúp đỡ người khác, làm việc thiện, đời này ngược lại vẫn vậy
thọ chịu khổ nạn trùng trùng, tự cho là việc thiện làm hết, hoặc thường
thường làm việc thiện, vẫn vậy lại còn thọ chịu quả báo khổ. Trên sự thật,
những người làm việc thiện đó, nguyên nhân đời này vẫn vậy mà còn phải
chịu các điều khổ nạn, chính là vì nhân ác họ đã trồng từ quá khứ hoặc đời
trước, duyên do nhân nợ rất nhiều rất nặng, mà những nhân nợ, nhân nghiệp
này, ở đời này gặp trước được “duyên”, do đó tự nhiên chín mùi trước, cho
nên có tình huống tự nhiên phải trả, còn phải khổ nạn trùng trùng. Mà đời
này nhân thiện được trồng, mà vì trồng chẳng lâu, cho nên chưa được chín
mùi, đợi đến lúc nhân thiện chín mùi, cũng tức là nói, đợi đến lúc nợ đời
quá khứ trả hết, tự nhiên được phước báo, hoặc đợi đời sau chín mùi, do sự
nhẹ nặng của nhân nghiệp ở mỗi người, hoặc các điều kiện chưa phối hợp mà
định. Chỗ gọi là các điều kiện chưa có thể phối hợp là chỉ: sự thiếu sót
chân thành phát ra của tâm từ bi, tâm khoan dung, tâm sám hối, tâm hành
thiện từ nội tâm, hoặc làm thiện mà thiện hạnh tích chứa chẳng đủ. Cho nên
người làm việc thiện đến một lúc nào đó sẽ bắt đầu biết được làm việc
thiện sẽ được cái vui chân chánh.
Chỗ gọi là: “có nhân
như vậy, được quả như vậy” là đạo lý tuyệt đối; cho nên có câu: “Thiện có
báo thiện, ác có báo ác, như nếu chẳng có báo tức là chưa tới lúc, lúc đến
rồi, nhất định thọ báo”.
Cho nên nói chính
mình trong quá khứ trồng nhân nghiệp gì, hiện tại sẽ phải thọ lấy quả báo
ấy; hiện tại tạo nhân nghiệp gì, vị lai sẽ phải gặt lấy quả báo ấy. Tóm
lại, có nhân nhất định sẽ dẫn đến quả nhất định, cho nên nói “nhân quả” là
một loại chân lý “bất định tánh”, luật nhân quả là một định luật bất biến
vĩnh cửu của nhân sinh vũ trụ.
Tóm lại, tâm còn
thiện lương tức được báo tốt, tâm mà bất lương tức mắc báo ác. Ðức Phật
nói: “Tất cả thiện ác đều xuất phát từ tâm, tự tâm tu thiện khiến tâm an
lạc, tự tâm tạo ác khiến tâm chịu khổ”, “Phước do tâm tác, họa do tâm
sinh”. Do đây có thể thấy, con người tất cả những việc được phước hoặc mắc
hoạ, đều là chính mình ở trong cuộc sống thường ngày ở chỗ thi vi tạo tác
mà quyết định, cho nên muốn được phước thì cần phải trước đem nội tâm của
mình tất cả những vọng tâm, ác tâm mà trừ bỏ, trừ bỏ tất cả các ác của
nhân loại; các ác của nhân loại là những gì? Ðó là mười ác nghiệp (tức là
mặt trái của mười thiện nghiệp), mười thiện nghiệp phạm rồi thì là mười ác
nghiệp.
Sở dĩ nhân loại có
mười ác nghiệp này đều là do tham - sân - tà kiến của ý nghiệp tạo khởi,
mới có thể tay tạo tội nghiệp, hoặc ý nghiệp biểu hiện ở nơi miệng, thì sẽ
tạo tác khẩu nghiệp, hoặc ý nghiệp biểu hiện ở nơi thân thì sẽ tạo tác
thân nghiệp, cho nên ý nghiệp lại gọi là “tâm nghiệp”; cho đến ngay trong
xã hội phạm tội án kiện mà nói, cũng đều rời không khỏi mười món nghiệp
này.
Tóm lại, cần trừ các
ác của nhân loại, thì quyết cần phải trừ bỏ tâm riêng tư, tâm tham, tâm
sân và tà kiến của chính mình. Một con người nếu có thể trước nhất trừ bỏ
tâm riêng tư chính mình, thì có khả năng “chẳng làm các việc ác”, do đây
có thể giảm thiểu các việc khổ phải chịu, vì ở nơi tình huống mà chẳng làm
các việc ác, thì ở trong ruộng tám thức (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, mạt
na và a lại da thức) của mình không thể tăng thêm ác duyên, tiến đến thì
có thể “Vưng làm các việc thiện”, do ở nơi làm nhiều các việc thiện, lại
có thể chận đứng tất cả các việc làm ác, thiện duyên tự sẽ tăng thêm
nhiều, ở nơi tình huống này, các món nhân ác từ quá khứ - duyên ác, tự
nhiên sẽ thối lui.
Cho nên Phật giáo
tuy nói: “nhân quả ba đời” nhưng lại chú trọng “nhân quả hiện đời này”. Vì
quả báo đời hiện tại là chỗ đặt để của đời trước chiêu cảm, mà cần phải
giảm nhẹ các vấn đề khổ báo, chỉ cần ở đời này tu thiện, tích đức tích
cực, thì có thể giảm chuyển nghiệp báo (báo thì nặng mà thọ thì nhẹ); Cũng
tức là nói các món nhân nghiệp đã tạo tác ở thời quá khứ của chính mình,
hoặc nhân ác từ xưa tới nay phải chịu lấy khổ nạn trùng trùng, chỉ nhân
nơi đời này không tạo lại các nghiệp ác, đồng thời làm thiện tích cực, tu
thiện, báo nặng đáng lẽ phải chịu, tự nhiên chuyển thành việc nhẹ.
Cho nên con người
chỉ có nhận thức triệt để quan hệ “nhân quả”, và chỗ chỗ đều lấy “nhân
quả” làm điều kiện cần thiết cơ bản của đời người, tiến đến “chẳng làm các
việc ác, nên làm các việc lành”, mới có thể cuộc sống tinh thần của nhân
loại vươn lên, khôi phục được quan niệm đạo đức, tiến đến kiến lập thế
giới tâm lý trang nghiêm của đạo đức, mới đi đến con đường khang trang
sáng lạng. Vì lý tưởng và mục tiêu của con người bao gồm là: giải trừ
phiền não và khổ đau, vượt thoát luân hồi sanh tử. Cho nên con người chỉ
có thấu suốt được thực tiễn Phật pháp, thâm nhập kinh Phật, tiến đến nhập
vào thế giới lý tưởng giải thoát của tâm linh, mới có thể đến được cuộc
sống vĩnh viễn hạnh phúc, khoái lạc, tự do tự tại.
Học Phật là giúp
chúng ta hiểu rõ cội nguồn của khổ, sau khi đã hiểu thì không sợ sệt; học
Phật có khả năng an bình được ma phiền trên cuộc sống. Tất cả niệm đều
được tạo ra từ không tánh, quả báo phát ra đều được chính mình thừa nhận
không phải là người khác, cho nên bất cứ cái gì đối với niệm đầu bất lợi
cho người khác, cũng tức là bất lợi chính mình. Niệm đầu tốt mới có chỗ
tốt với chính mình, niệm đầu xấu thì đối với chính mình có chỗ xấu, niệm
đầu không thì đối với chính mình vô quái ngại. Cần phải rõ lớp đạo lý này
mới có thể nắm được nhân quả trong bàn tay, biết nhân quả tức là biết tiến
thối. Duyên tất cả sẽ không có quái ngại, tốt nhất tâm khởi động niệm liên
miên đều phải đình chỉ (không suy tưởng), trong tâm không cả cái không,
“nhân” cũng không có.
Pháp môn tuy là bước
đầu vào cửa Phật pháp, nhưng rất là trọng yếu, không luận người nào, cũng
đều cần phải tin sâu xa. Không nên không thấy qua quỷ thì không tin có quỷ
thần; chưa từng thấy qua con người làm ác mà thân hiện tại chịu lấy ác báo
thì không tin tưởng “nhân quả báo ứng”, rồi vọng làm hành vi hồ đồ (vọng
tác hồ vi). Người ác trên xã hội hiện tại chịu lấy xử lý về pháp luật, tức
là báo ác, tức là cái báo của thân hiện tại.
Học Phật tu hành thì
phải hiểu rõ “nhân quả”, tin sâu nơi “nhân quả”. Không tin nhân quả, thì
phàm sự việc theo tâm ham muốn, vọng làm hồ đồ, như thế thì chẳng cần phải
học Phật, chẳng cần phải tu hành làm gì! Như vậy là duyên cớ gì ư? Vì
“lưới trời lồng lộng, thưa mà không lọt”, chúng sinh ở cõi ta bà, dù ai có
bản lãnh thông thiên, đều không thể trốn khỏi phán xét của nhân quả. Cho
nên nói: “Nhân quả dù đường tơ kẽ tóc không sai”. Phải, trái, cong, ngay..
tất cả đều ở dưới sự phán xét của nhân quả, sẽ khiến mọi người tâm phục,
khẩu phục.
Sự tạo tác thi vi
của chúng ta trong một đời có thiện có ác, báo ứng tương lai không ra khỏi
việc:
- Trồng cây
đào, cây lý, trưởng thành là cây đào, cây lý (làm thiện được báo thiện)
- Trồng cây
gai trưởng thành là cây gai (làm ác chịu báo ác)
Cho nên chúng ta
muốn tránh hung được cát, tiêu tai được phước, thì quyết cần phải trồng
sâu nhân lành (thiện nhân), nỗ lực sửa lỗi thành thiện, tương lai mới có
thể được quả tốt phước đức cát tường. Như thường làm nhân ác mà muốn miễn
trừ được hung họa tai nạn, như thế có thể được đâu.
Cho nên khuyên mọi
người phải tin sâu nhân quả, hiểu rõ báo ứng thiện ác, một đường tơ một kẽ
tóc không thể sai lệch. Không nên làm một người mang danh “Phật giáo đồ”
mà không tin nhân quả, không hiểu rõ nhân quả.
Phật Ðà có Phật nhãn
có thể thấy vạn tượng vũ trụ, dạy chúng sinh nên biết tin nhân quả, “làm
thiện được báo thiện, làm ác chịu báo ác”, khuyên người đời phải dừng ác
làm thiện, mới được quả báo tốt. Người đời chỉ có nhục nhãn nhìn không
thấy vạn tượng vũ trụ, như không thấy qua quỷ thần thì cho rằng không có
quỷ thần, người đời nếu học Phật tu hành công phu tới mức được thiên nhãn,
huệ nhãn, pháp nhãn, Phật nhãn thì có thể thấy được vạn tượng vũ trụ, được
thiên nhãn rồi thì thấy được quỷ thần. Người đời phần nhiều không học Phật
tu hành, hoặc học Phật tu hành mà công phu chưa sâu, chỉ có nhục nhãn,
đương nhiên nhìn không thấy vạn tượng vũ trụ, lại huống hồ gì nói đến biết
vạn tượng vũ trụ.
Luật nhân quả, là sự
chứng ngộ đặc biệt của Ðức Phật, là phép tắc sinh diệt vạn tượng thế gian.
Nói một cách khác, đây mới là chân lý vĩnh viễn bất biến, bất luận tin
Phật cũng tốt, không tin Phật cũng tốt, nói chung không có người nào có
thể chạy thoát khỏi phép tắc phạm trù nhân quả. Ðói cần phải ăn, buồn ngủ
cần phải ngủ, nhất cử nhất động của chúng ta, không có một kiểu nào không
là sự hiển bày của nhân quả; riêng khác chỉ ở người tin Phật, hiểu rõ nhân
quả, tin tưởng nhân quả, không dám vọng làm hành vi hồ đồ, sợ gặp khổ báo;
người không tin Phật, không tin hiểu nhân quả, càng không thể nói hiểu rõ
nhân quả được, kém cỏi thì nên nghĩ lại một chút mới được.
Theo lý mà nói, làm
một người đệ tử của Phật, nên phải tất nhiên quan hệ của nhân quả đều phải
hiểu rõ, nhân là cái gì, lại thêm duyên là cái gì, tất nhiên sẽ chiêu đến
quả là cái gì, khoảng giữa này, tuyệt đối không có mảy mún khả năng cầu
may, không có một chút sai lầm, tuyệt đối công bình. Cho nên ở trong pháp
nhân quả căn bản không có các từ vựng kỳ tích, xảo họp, ngẫu nhiên, ngoại
lệ... Phàm sự việc có nhân trước, chắc chắn có nhân trước mới có quả sau.
“Thiện ác đáo đầu
chung hữu báo, chỉ tranh lai tảo dữ lai trì”, “Nhược hữu bất báo, thời
thần vị đáo”... những câu nói này, không những là bốn chúng đệ tử trong
cửa Phật, không người nào chẳng hiểu, ai ai cũng có thể biết, tức là tất
cả những nhân sĩ trong xã hội, không được nghe nói, sợ rằng cũng không tìm
ra mấy người, thật là đáng tiếc; Người thật có thể tin sâu xa không nghi,
ngược lại không gặp nhiều; đệ tử của Phật nếu không thể tin sâu, cũng nói
là chưa được.
Kinh Phật nói rằng:
“Nhược vấn tiền thế nhân, kim sanh thọ giả thị; nhược vấn lai thế quả, kim
sanh tác giả thị” (Nếu muốn biết nhân đời trước, thì hãy nhìn kết quả lãnh
thọ đời này; nếu muốn biết kết quả đời sau, hãy nhìn nhân đời nầy làm ra).
Nếu như chí thành học Phật tu hành, tin sâu báo ứng nhân quả, đích xác là
chút mảy không sai. Như vậy chịu ở trên cái nhân mà dụng công, nếu chỉ ở
trên cái quả mà so tính được mất, không biết cầu quả vui thì chắc chắn
trước tiên phải trồng nhân lành, nhân ác chắc chắn chiêu lấy quả ác, đây
là nhân quả vững chắc. Ðời sống này nghèo cùng nhiều tai nạn là khổ báo
của đời trước đã làm ác, báo ứng qua rồi mới được báo lành; Người ta giàu
có vinh hoa, hồ đồ làm hành vi sai trái, nhưng ngược lại trăm việc hanh
thông, đó là người ta đời trước làm thiện, đời này hưởng phước, đợi phước
hết rồi thì phải chịu khổ báo. Nếu nhơn theo sự sai khiến của tham tâm và
tư tâm, rốt cuộc quên mất đạo lý này, cưỡng cầu vọng làm, nhân ác từng
niệm, việc làm cũng là nhân ác, ngược lại hy vọng kết quả tốt đẹp, khác
nào ngược đường mà chạy. Không tin! Nếu ở dưới tòa sen của đức Phật, mắt
lạnh bàng quan, chỉ là lợi dụng Phật pháp dối đời trộm danh, rộng thu lấy
tiếng tăm lợi dưỡng một mình, ham muốn vui say hưởng dụng, tàn cuộc mấy
người tốt đẹp, vả lại phần nhiều là hoa Ðàm một khi xuất hiện, theo đó
thân bại danh liệt, khổ nạn thật sự, sợ sệt mà còn chẳng chịu dừng lại từ
đây ư?
Chúng ta quy y tam
bảo, học pháp xuất thế, xưa nay là vì việc lớn sanh tử, vì sao vẫn vậy ở
trên danh, lợi, sắc, miếng ăn của thế tục làm kế sống? Phóng túng tham,
sân, si mà tạo các ác nghiệp? Như chân chánh quy y tam bảo, thành tâm học
Phật, có chí nơi đạo nghiệp, tin sâu nhân quả, cố siêng tự tu, ngàn vạn
chẳng thể chịu người khinh gạt, tuỳ hỉ nơi nghiệp ác. Trên việc nhân quả,
quyết không thiên tư, cũng không được chống đối. Cho nên đã là đệ tử Phật,
phàm có sự thi vi, thì nhất định cần nghĩ đến hậu quả, mới có thể bắt tay,
việc tự lợi lợi tha có thể nói có thể làm, đối với người có lợi, đối với
mình không tổn, cũng nên làm nhiều; việc mà tổn người lợi mình, quyết
không được làm, việc tổn người mà không lợi mình càng không được làm.
Nguyện đệ tử của Phật chúng ta đều có thể tin sâu nhân quả, cầu Bồ Ðề được
Bồ Ðề.
Ðức Phật chỉ bày
luật nhân quả, chủ yếu nhất là muốn chúng ta không được tạo các nghiệp ác,
để khỏi phải thọ báo khổ trong tương lai, quả báo đã đến đối mặt, thì nên
ngộ rõ là cái ác tạo tác đời trước đã đến, thản nhiên mà tiếp nhận, trả
lại nợ nần; như con cái bất hiếu, gia đình không hòa, sự nghiệp chẳng
thuận, quan hệ ác liệt của con người, phá tài sản, sinh bệnh, thủ thuật
dao cắt... tức là trả lại nợ nần.
Nếu đọc xem kinh
luận, có thể đưa ra “Phật nói báo ứng luân hồi năm con đường phước”, hay
“Kinh Ðịa Tạng Bồ Tát bổn nguyện” xin đọc tụng vài quyển, chắc chắn biết
được tu hành phước huệ ra sao.
Tuy mọi người đều
biết quan hệ nhân quả, nhưng người có thể khởi quán tu nhân lại rất là ít,
người nhờ vào sự xung động làm việc chiếm đa số, hai chữ “nhân quả” chỉ là
“hai chữ” thế thôi, căn bản phát không ra sức, khởi không được tác dụng,
không thể dùng sức nhân quả để khống chế ý thức chính mình, lúc trạng thái
tình huống đến, điều thứ nhất nổi lên ở trong tâm không phải là nhân quả,
mà là riêng tư và cừu hận... những tình tự xung động này, ngay những tánh
tình thiêu đốt này sau khi phát tác xong, từ ký ức sâu xa “nhân quả” mới
từ từ tỉnh lại, cuối cùng phát hiện ra tính nghiêm trọng của sự tình,
nhiên hậu trở lại thu gom hậu quả tàn phá, lý do, mọi người không phải là
không hiểu được đạo lý nhân quả, chỉ là không chịu tu hành, chỉ dừng lại ở
giai đoạn “biết”, mà thường thường sức biết thì mười phần đơn lẻ mỏng
manh, chống lại không được sự xung động của dục vọng. Bình thường người ta
rất chiếu cố các niệm đầu: tham - sân - si, một khi có trạng huống phát
sinh, thì trước tiên ở trong gân não lựa chọn một cái gì đó đối phó trạng
huống, căn bản không muốn ý được yên tĩnh, khiến tham - sân - si từ trong
niệm đầu trượt qua, mà đem nhân quả dừng lại dùng nhân quả quán sát, khiến
“cái nhìn nhân quả” thành là một món lực lượng, kiểu này mới có thể ảnh
hưởng sâu sắc đến hành vi con người, lấy luật nhân quả làm một loại nhân
sinh quan, ở trong một nhân sinh quan này, làm người xử việc, mà bất tất
khiến tâm linh đối với sự bất an đợi chờ phán xét, tâm tình cũng mở sáng
không được, theo thời gian sợ hãi mãi Thần minh ba thước trên trời và phán
quan địa ngục đến dẫn người. Do đây, cần làm tốt công tác “dự phòng”, cũng
cần có thể trước tiên hiểu rõ nhân quả biện biệt thị phi, mà làm cương
lãnh cần thiết của tu trì; Tóm lại: 1. – Biết tin nhân quả. 2. – Ở trong
sinh hoạt thường ngày khởi lên quán sát nhân quả. 3. – Sau khi quán chiếu
thì cần nỗ lực khống chế xung động, khiến “nhân quả” thành là lực lượng,
có lực lượng mới tu thành “nhân quả quán” được.
Một người hiểu rõ
được nhân quả, gặp việc trước nhất biết được kết quả sau khi phạm sai lầm,
sẽ hại, sợ chuốc lấy việc xử lý của pháp luật, cho nên sẽ kiểm thúc hành
vi chính mình, kiểu này cũng giống như phương pháp phòng bệnh của y học.
Nhưng ngược lại có rất nhiều người biết rõ hậu quả của sai lầm, họ kiềm
chế chưa được xung động của chính mình mà nung nấu ra đại họa, thậm chí
mất đi sinh mạng quý báu, khó bảo rằng chính họ có quý tiếc sinh mạng hay
không?
Kỳ thật, “nhân quả”
chỉ là một quan niệm, đã được tri thức giáo dục đưa ra, không nhất định là
cái năng lực; không có năng lực thì không có khả năng cùng với hành vi đối
kháng xen nhau, động lực của hành vi vĩnh viễn mạnh hơn tri thức chính
mình, như thế, họ vẫn sẽ “trang điểm” cái nhìn nhân quả và đạo đức đầy đầu
mà đi phạm sai lầm, vì “cái nhìn” của họ trọn không có “lực nhìn”, chẳng
giống tập tánh bản thân: tâm tham, cừu hận... cũng có một món năng lực,
cái năng lực này là từ nhỏ đã bị nuôi nấng mà ra, mỗi ngày đều dùng đến,
mỗi lúc đều nghĩ đến, nên nói rằng họ có thể nào mà chẳng phát sinh ra
năng lực to lớn? Cũng vậy, chúng ta cần đem quan niệm nhân quả hoặc đạo
đức làm thành một cái năng lực, có thể nói trực tiếp đem ra khắc phục hành
vi, cũng như vậy mỗi ngày làm, mỗi lúc nghĩ, ở trong cuộc sống tuỳ thời
khởi quán để quán sát con người và sự việc, sau khi quán lâu rồi, sự quán
sát đó cũng sẽ phát sinh ra năng lực chỉ huy hành vi; Chú ý! Không nên một
mạch dừng lại ở nơi “quán” mà chẳng chịu “hành”, cần phải vừa quán vừa
hành; mới bắt đầu tất nhiên quán nhiều mà hành ít, hoặc là một mặt thì
quán còn một mặt vẫn phạm sai lầm, (lúc này nên phối hợp tu sám hối),
nhưng chỉ cần kiên định ý chí không sợ khó, thì có thể khiến sự quán lần
hồi mạnh hơn sự xung động của tham sân si, nhiên hậu phát sinh ra cái gọi
là “chánh quán lực”; lúc này chỉ cần niệm loé lên, cũng sẽ có luật nhân
quả ở trong tâm mạnh mẽ chuyển vận, hành vi sở hữu của anh đều tiếp nhận
lấy lề lối của nhân quả như thế thì tính ra làm việc xấu cũng rất khó.
Bất cứ người nào
cũng biết đạo lý: thiện có báo thiện, ác có báo ác, nhưng ở trên thế giới
này vẫn có rất nhiều người không thể khống chế hành vi chính mình, tạo ác
hoặc làm thiện thường thường không phép tắc mà cứ theo tâm ham muốn; trong
tâm tuy nghĩ là phải làm thiện, mà trên thực tế hai chân ngược lại, thường
thường không nghe sai khiến, đổi chỗ chạy đi tới nơi không đáng đi mà tạo
ra ác nghiệp, đợi đến lúc lương tri thức tỉnh, mới phát hiện tự mình căn
bản không có năng lực để gánh vác tất cả những ác quả này, giống như có
một luồng khói sương vô hình ngăn cản con đường trước mặt, sau đó là một
đôi tay vô hình, dẫn người mê hoặc đi đến tuyệt lộ; luồng khói sương này
là “nghiệp lực” của chúng ta, mà đôi tay vô hình đó cũng tức là năng lực
của nhân quả. Nếu như chúng ta không trừ dọn sạch nghiệp lực trước mắt,
thì khó thấy mình bị dẫn dắt đến loại cảnh giới nào? Cho nên chúng ta cần
xử lý nhân quả về trước của mình, thì trước tiên nên nỗ lực chuyển đổi
nghiệp lực của chính mình, trừ dọn sạch khói sương trước mắt; sáng tạo
thiện duyên thiện nhân mới, cải thiện quả báo bất lương, đem việc tổn
thương tai hại mà đè bẹp đến mức tối thiểu.
Nghiệp lực của con
người đương nhiên cũng là cái nguồn nhân quả đã tạo ở đời trước, nhân quả
thiện khiến người được nghiệp lực thiện đi chế tạo quang minh và thánh
khiết của đời người; mà nhân quả ác thì chứa đựng sự xung động chúng ta
không thể khắc chế, khiến lý trí và lương tri của ta, trong sự xung động,
bị che đậy mà mang đến khổ đau và tổn thương. Phật pháp tuy vô biên, ở
trước nghiệp lực của con người, hãy còn một cái hạn chế không thể nhảy
vượt. Cho nên có rất nhiều bạn bè học Phật, tuy học đầy kinh luận, tuy vào
cửa bái thầy tập thiền định, nhưng chỉ cần nghiệp lực một ngày không
chuyển biến, thì Phật pháp cũng chẳng thể xuyên thấu nghiệp lực của chúng
ta mà khai ngộ minh tánh. Cho nên nghiệp lực tuy đáng sợ nhưng chỉ cần
công phu chuyển đổi làm tốt rồi, ác nghiệp cũng có thể lập tức bị đóng
chặt ở chỗ sâu xa của tâm linh, khiến nó không thể khởi ra hiện hạnh, mà
nhường cho nghiệp thiện đến làm chủ, như thế chúng ta xem đầy bao nhiêu là
kinh luận, khiến cho chính mình có thể “chớ nên làm các ác, các điều thiện
vưng làm, tự tịnh nơi tâm ý”, một mấu chốt tức là cần niệm nhiều: Nam mô A
Di Ðà Phật! Nhờ Phật lực ép chế nghiệp lực, niệm Phật càng nhiều, lực niệm
Phật càng lớn, lực niệm Phật càng lớn thì nghiệp lực càng thu nhỏ cho tới
không còn; nghiệp lực bị ép chế rồi không thể phát sinh tác dụng, tu hành
sẽ không có nghiệp lực trở ngại, đồng thời ác niệm một khi khởi lên thì
biết, bèn quở trách mà chẳng thể tạo ác nghiệp. Niệm Phật đến khi trong
tâm có Phật, lúc miệng chẳng niệm tâm vẫn ở tại niệm, chẳng niệm mà tự
niệm, Phật chẳng rời tâm, tâm không rời Phật, ác niệm không từ chỗ nào mà
sinh khởi.
Người biết (tin)
nhân quả chẳng ước ao, càng không thể oán trách người.
Quả thiện ác ở trong
khoảng nhất niệm.
Ðức Phật chỉ bày
nhân quả, điều rất chủ yếu là muốn chúng ta phàm phu không tạo các ác
nghiệp, để tương lai khỏi chịu báo khổ, lúc khổ báo đã đến đối mặt, thì
đầu tiên nên liễu ngộ là việc làm ác ngày trước đã đến, mà thảng nhiên
tiếp nhận, trả lại nợ nần, như là con cái bất hiếu, gia đình bất hòa, sự
nghiệp chẳng thuận, quan hệ con người ác liệt, phá tài, sinh bệnh, uống
thuốc đắng, thủ thuật đao cắt... đều là các phương thức trả lại nợ nần.
Như thế làm ác, hành
thiện được báo ứng gì? Thế giới ta bà chia ra sáu đường, tức là: trời, A
ta la, người, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục.
Cõi trời hưởng
phước, thọ mạng cũng dài; A tu la phước báo giống như trời, nhưng có tâm
sân; loài người có nghèo, giàu, khổ, vui... nói chung khổ nhiều vui ít;
súc sinh thì là khổ, chúng ta đều thấy đó, trở xuống một đường khổ hơn một
đường.
Hành thiện hợp với
đạo trời, sanh vào cõi trời hưởng phước, phước báo hưởng hết rồi, đoạ lạc
vào cõi người hoặc súc sinh, hành thiện hợp với nhân đạo lại chuyển sinh
làm người, sinh nhà giàu có; làm ác hợp với nhân đạo, sinh nhà nghèo cùng
hoặc thấp hèn chướng nạn thọ khổ; hợp với súc sinh đạo thì đoạ lạc làm súc
sinh thọ khổ. Trở xuống các loài nên xét biết.
Như thế, thế nào là
ác? thế nào là thiện?
Ác là phàm tư tưởng,
ngôn ngữ hay hành vi của tất cả chúng sinh tổn hại, trái với luân lý đạo
đức, lương tâm, trái lại với pháp luật quốc gia... đều là ác; trái với
mười nghiệp thiện tức là ác.
Kinh Vô Lượng Thọ,
Phật nói thế nào là năm điều ác?
Một là loại nhân dân manh
động của chư thiên, muốn làm các ác, chẳng lúc nào chẳng làm như vậy. Kẻ
mạnh hiếp yếu, xoay vần đánh nhau, tàn hại giết chóc, đắp đổi cắn nuốt
nhau, không biết tu thiện, ác nghịch vô đạo. Sau chịu lấy tội ương tự
nhiên đưa đến. Thần minh nhớ biết người phạm không tha thứ. Cho nên có
việc: nghèo cùng hạ tiện, ăn xin cô độc, đui điếc ngọng câm, ngu si tệ ác,
cho đến lúc luống cuống chậm chạp. Lại có kẻ tôn quý giàu có, tiền của
thành đạt, đều là do đời trước từ hiếu, tu thiện tích đức dẫn đến.
Hai là nhân dân thế gian, cha
con anh em, nhà cửa chồng vợ, đều không nghĩa lý, không thuận khuôn phép,
ham muốn quá đỗi, kiêu căng buông tuồng, đều ưa khoái ý. Mặc tâm tự lung
càng dối gạt nhau. Miệng và tâm đều khác, lời nói và suy nghĩ không thật.
Nịnh xiểm không trung, xảo ngôn dối lừa. Ghét hiền chê thiện, hãm hại oán
cuồng. Vua trên không minh. Mặc dù dùng tôi: tôi dưới tự tại, dối lừa
nhiều kiểu. Bước qua nên đi, phải biết hình thế. Lúc tại vị không chánh dễ
bị dối gạt, vọng làm tổn hại kẻ trung lương chẳng đúng với lòng trời. Tôi
dối vua, con dối cha, anh em vợ chồng, kẻ tri thức trong ngoài lại dối gạt
lẫn nhau. Ôm lòng tham dục, sân nhuế ngu si. Muốn vun vén chính mình, muốn
tham có nhiều. Sang - hèn - trên - dưới tâm đều đồng vậy. Phá nhà mất
mạng, không nhìn trước sau. Thân thuộc nội ngoại, ngồi đó mất dòng họ.
Hoặc lúc nhà cửa tri thức, bè làng bạn chợ, dân ngu người quê, cùng theo
việc họ. Lại lợi hại với nhau, giận thành oán kết. Kẻ giàu có thì lẫn
tiếc, không chịu bố thí, ôm giữ tham lam, nhọc tâm khổ thân. Như vậy rốt
cuộc, không chỗ cậy nhờ, riêng đến riêng đi, không mộ ai theo, thiện ác
họa phước, tìm chỗ sinh ra mạng, hoặc ở chỗ vui, hoặc vào chỗ khổ độc,
nhiên hậu sám hối làm sao cho kịp.
Ba là nhân dân thế gian nhân
với nhau mà sống gởi, cùng ở trong khoảng trời đất. Năm tháng trôi đi thọ
mạng không bao nhiêu. Trên có những bậc hiền minh, trưởng giả, tôn quý,
giàu có; dưới có những người nghèo cùng, hà tiện, yếu kém, ngu si; giữa có
những kẻ bất thiện, thường ôm lòng tà ác, chỉ nghĩ ham muốn nhẫy đầy,
phiền chật trong lòng, ái dục loạn xạ, ngồi đứng chẳng yên, ý tham giữ
tiếc, chỉ muốn được khống. Trông liếc sắc mịn, trạng thái tà vạy, biểu
hiện ra ngoài, vợ mình nhàm ghét, riêng vọng ra ngoài, phí tổn của nhà,
việc làm phi pháp. Giao kết tụ tập, khởi binh đánh nhau, đánh đập giết
hại, cưỡng đoạt không đạo lý. Tâm ác ở ngoài, chẳng chịu tu nghiệp. Trộm
cắp cho được, ham muốn phải làm cho thành việc. Sợ thế lực ép sát bên
hông, quy cho vợ con, thích tâm khoái ý, cố sức làm vui. Hoặc đối với thân
thuộc, không kiêng dè tôn ti. Trong ngoài nhà cửa, hoạn nạn khổ sở, cũng
lại không sợ phép vua lệnh cấm.
Bốn là nhân dân thế gian
không nghĩ tu thiện; chuyển dạy kéo nhau cùng làm các việc ác: nói hai
chiều, nói ác, nói nịnh hót, chiều uốn. Nói gièm sinh giặc đấu tranh lộn
xộn, ganh ghét người lành, bại hoại người hiền, đứng một bên thích thú.
Bất hiếu song thân, khinh mạn sư trưởng, bạn bè không tin, khó đựơc sự
thành thật. Khi tôn quý thì tự cho mình lớn, tự cho mình có đạo. Hoành
hành uy thế, xâm lấn đối với người. Chẳng thể tự biết làm ác mà không hổ
thẹn. Tự lấy sự mạnh mẽ muốn người kính sợ. Không sợ trời đất thần minh
nhật nguyệt, không chịu làm lành, khó có thể giáo hóa. Thi nhau nằm ngửa
tự dụng, có thể cho là bình thường, không có lo sợ, thường ôm lòng kiêu
mạn.
Năm là nhân dân trong thế
gian luống ỷ lại lười nhát, không chịu làm thiện sửa thân tu nghiệp; nhà
cửa quyến thuộc đói lạnh khốn khổ, cha mẹ dạy răn trừng mắt giận dữ, lời
nói bất hòa trái lệ ngược lại, thí như oan gia, chẳng bằng như không con;
giữ lấy sự vô phép, đều là các hoạn nhàm chán; phụ ơn trái nghĩa, không có
tâm đáp trả. Nghèo cùng thiếu thốn không thể được lại, lỗi lầm mặc tình
đoạt lấy, buông tuồng trôi xuôi tản mất. Kể suốt chẳng được gì, dùng của
giúp cho, mê rượu ham đẹp, ăn uống không độ lượng, tâm buông lung phóng
đãng, đần độn theo sau, chống cự xúc phạm; không hiểu nhân tình cưỡng muốn
ức chế. Thấy người có điều tốt thì ghen ghét xấu xa, vô lễ vô nghĩa không
chịu hỏi han, tự cho là biết, không chịu hỏi rõ. Lục thân quyến thuộc giúp
hay không chẳng buồn nghĩ đến. Chẳng nhớ ơn cha mẹ, chẳng giữ nghĩa thầy
bạn. Tâm thường nghĩ ác, miệng thường nói ác, thân thường làm ác, không
từng có một điều thiện; không tin Kinh Pháp chư Phật, chư Thánh; không tin
làm đạo có thể độ đời được, không tin chết rồi Thần minh lại sinh, không
tin làm thiện được thiện làm ác được ác; muốn giết người chơn, đấu loạn
chúng tăng, muốn hại cha mẹ anh em quyến thuộc. Lục thân ghét nhơ mong
muốn cho nó chết. Người đời tâm ý đều như vậy, ngu si mông muội mà tự cho
là trí tuệ, không biết chỗ từ đâu sinh đến, chết sẽ về đâu, rồi cũng sẽ
phải chết.
Thế nào là thiện? Tư
tưởng, ngôn ngữ, hành vi, làm việc đều hợp với luân lý đạo đức pháp luật
quốc gia không tổn hại đến tất cả chúng sinh, tâm giữ công chánh ưa giúp
con người, làm tức là thiện của mười thiện nghiệp.
Kinh Vô Lượng Thọ
Ðức Phật nói rằng: “... Một ngày một đêm chánh tâm chánh ý, trai giới
thanh tịnh, thì hơn ở nước Vô Lượng Thọ làm thiện một trăm năm. Lý do vì
sao? Vì cõi nước Phật kia đều toàn các điều thiện, không có mảy may ác. Ở
cõi này tu thiện mười ngày mười đêm, thì hơn trong nước chư Phật phương
khác làm thiện ngàn năm. Lý do vì sao? Nước Phật phương khác người làm
thiện rất nhiều, người làm ác rất ít, phước đức tự nhiên không tạo nhân
địa ác. Chỉ ở cõi này ác nhiều, không có tự nhiên, khổ nhọc cầu muốn lại
dối ngờ nhau, tâm thân mỏi mệt, uống đắng ăn độc, những việc dữ ác như vậy
chưa từng dừng dứt. Nhất tâm chế phục ý, thẳng thân chính niệm, lời nói và
việc làm hợp nhau, việc làm chí thành, chỗ nói như lời, tâm và miệng không
chuyển đổi, riêng làm các việc lành, không làm các việc ác, đó là món
thiện lớn vậy.”
Chúng ta muốn lìa
tai khổ nạn, được phước bình an cát tường, thì ngoài việc không làm “ác”
ra, phải cần làm “thiện” cho nhiều.
Sáu đường luân hồi
là chính chúng ta tạo ra vậy. Nhân nơi mê hoặc mà tạo ra nghiệp, tạo
nghiệp rồi chắc chắn phải thọ báo; quả báo thiện ác mảy may không sai. Như
muốn vượt khỏi sáu đường luân hồi, thì chẳng nên tạo nghiệp. Không tạo
nghiệp rất khó, mà không mê hoặc lại càng khó hơn. Dứt hết hoàn toàn mới
có thể ra khỏi ba cõi, vấn đề này không phải một đời mà có thể làm được.
Nếu muốn được phước báo nhân thiên thì so ra dễ, Thánh Hiền của thế gian
và các tôn giáo đều có thể khiến người làm được; nhưng ra khỏi luân hồi
thì người thế gian làm không xong được.
Nhân quả báo ứng bèn
là chân tướng của sự thật, như làm rõ sự thật này thì tâm an được ở lý,
chẳng oán trời trách người vì tâm đã an rồi. Tâm an thì là định, định có
khả năng sinh huệ, từ đây bỏ ác mà hướng thiện, sửa đổi cho vị lai.
Tu hành là sửa đổi
cho chính hành vi không hợp lý của chúng ta, cũng cần phải trước tiên tìm
cho ra nguyên nhân lý do có những hành vi này ở đâu? Ngoài “vô minh” ra,
tức là do “tập khí”. Như vậy, chủ yếu của tu hành là ở việc bỏ trừ tập
khí. Có thể đem tập khí xấu xa mà sửa đổi, thân - miệng - ý của chúng ta
cũng chẳng thể lại có tư tưởng lời nói và hành vi không hợp lý; Cũng vậy,
cần phải trừ bỏ tập khí, quyết cần phải biết là nguyên nhân nào dẫn đến
cho chúng ta có tập khí xấu xa này? Tìm ra nguyên nhân để rồi tiêu trừ
nguyên nhân, nhiên hậu mới có thể dọn trừ được rễ dây dưa của tập khí. Thế
này cần phải nương vào công phu “phản tỉnh” và “sám hối”. Phản tỉnh là
công việc trước tiên của tu hành, Sám hối là đã tu hành, không có công phu
phản tỉnh làm sao biết hành vi của chúng ta không đúng ư? Không có sám hối
(sám lỗi trước, hối lỗi sau chẳng làm) làm sao có thể trừ bỏ tập khí?
Chúng ta đã biết rằng mục đích của tu hành là cần phải thân - miệng - ý
đều không ác, thế này cần phải phản tỉnh, từng lúc phải “hồi quang phản
chiếu” (coi lại chính mình), mới có thể phát hiện cái xấu ác, nhưng chỉ
phát hiện thôi cũng chưa đủ, quyết cần phải dừng lại tiêu diệt nó, cho nên
phản tỉnh và sám hối cùng là trọng yếu.
Như thế nào là phản
tỉnh và sám hối? Phản tỉnh là hỏi lại và tự xét, rõ biết chính mình trong
quá khứ đã tạo việc ác gì, nhiên hậu đem việc ác bày tỏ ra sám hối. Sám
hối cũng tức là nhận lỗi lầm, biết được các việc về trước làm là không
đúng, ta cần sửa lỗi, nhiên hậu không nên làm như thế nữa. Trên phương
diện sửa đổi, lại cần phải chú ý vấn đề tập khí, những hành vi từ lâu cũng
có thể nuôi dưỡng thành thói quen, thói quen đã nuôi dưỡng thành, thường
thường không dễ gì một ngày bèn có thể sửa đổi chân chánh được, do đó, lúc
tu tập sám hối, sửa đổi lỗi lầm, cần có tâm nhẫn nại và thường xuyên,
không thể vì thất bại một hai lần mà nản tâm, thối chí. Người đời nói
rằng: “trường thành vạn dặm không phải là xây một ngày xong”, có thể nào
nhân thất bại một hai lần mà nản lòng thối chí sao! Song ngược lại đây
chính là tâm bệnh của con người, cũng có thể nói là nguyên nhân vốn có của
chúng sinh ở mãi nơi luân hồi, không thể giải thoát. Do đó, Cổ Ðức vì muốn
ngừa trị nhược điểm này của phàm phu, lại nói sám hối quyết cần có tâm hổ
thẹn. Vì cho rằng ta sinh ra là con người “vạn vật chi linh” (khí tinh anh
của muôn vật) rốt cuộc sẽ tạo ra ác nghiệp không đúng đối với người khác,
cũng như đối với chính mình, khó mà hiểu biết được, hổ thẹn không? Có thể
nào chẳng sám hối? Từ trong tâm thường sinh hổ thẹn (tàm quý tâm), và sợ
cái khổ sinh tử. Như vậy mới có thể giữ gìn tâm nhẫn nại và thường xuyên,
không dứt sám hối, cho đến khi tội được diệt nghiệp được dừng.
Con người chẳng phải
là thánh hiền, khó khỏi không lỗi lầm, lỗi lớn không có - lỗi nhỏ khó
tránh khỏi, trong sự vô ý làm ra, chính mình còn không biết, sau đó không
lâu xét lại mới biết là mình phạm sai lầm, có sai lầm thì cần phải sám hối
sửa đổi.
Con người thường hay
phạm sai lầm mà không tự biết; Nhưng người hiền chân chánh, phạm sai lầm
mà biết sai lầm đó, tiến tới một cách mạnh mẽ việc nhận sai lầm mà sửa lỗi
mình. Có thể thấy con người phạm sai lầm là điều thường tình, quý là ở chỗ
có thể sửa đổi, đó là dũng khí đáng mừng khen! Nếu lầm lỗi mà không tự
biết đó là kẻ ngu mê chìm đắm đáng thương xót! Nhưng có người ngược lại,
biết rõ sai lầm mà vì các việc mượn cớ lót miệng, hoặc nhân tốt đẹp cho
mưu đồ yểm hộ chính mình, xô đẩy trách nhiệm đến người khác, hãy còn mưu
toan lời lẽ giảo quyệt, tự tha thứ việc đã sai lầm bèn khó tránh khỏi, đây
thuộc về tội ác, không đủ làm phép tắc.
Chúng ta đã biết
nhân quả “thiện có báo thiện, ác có báo ác”, nhưng vì có lợi ích tự thân,
tập tánh ghét yêu chứa nhóm khiến như vậy, nên còn tạo các nghiệp ác. Nếu
đã làm các nghiệp ác mà không biết sám hối, thì một lần lầm lỗi lại một
lần càng lầm lỗi, cho nên đã làm ác thì phải sám hối cải chánh.
Sám hối, “sám” là
sám lỗi ngày trước, đối với tội nghiệp đã phạm, sanh tâm “đại tàm quý” (hổ
thẹn nhiều). “Hối” là sửa đổi quá khứ, tu chỉnh vị lai, lập định dứt khoát
chú ý, sửa lỗi tự được mới mẻ, chẳng tái phạm. Sám, nếu có lỗi lầm, cầu
xin đối phương rộng thứ bỏ qua, đây là bổn ý của “sám”. Hối tức là đã phạm
sai lầm, nên nhận lỗi với đối phương, và nói ra sai lầm đã phạm, đây là
bổn ý của “hối”.
Sám hối như trừ bỏ
đồ nhơ, có thể trừ bỏ bụi nhơ tội ác trong tâm chúng ta. Chỉ cần tâm sinh
niệm sám hối, tội sẽ không trở lại làm tội. Nếu như chẳng chịu nhận lấy
sai lầm mà sửa đổi, thì tội nghiệp vĩnh viễn thêm lên ở nơi thân, như bóng
theo hình. Sám hối chỉ là làm kiểu mà thôi, không có ý sám hối, cũng không
có lòng hồi tâm hướng thiện, tâm kia không ở yên, sau lại làm theo việc
ác, làm sao có thể tiêu trừ tội nghiệp!
Người tu hành quyết
cần phải từng lúc phản tỉnh lời nói việc làm, ý niệm của mình, để cầu
không hổ với mình, không thẹn với người. Nếu không có tâm tàm quý, lời nói
việc làm đối với mình không gánh vác nổi, thì tâm này đầy đủ tội ác.
Thường ôm lòng phản tỉnh tàm quý, mới có thể hiếu thuận cha mẹ, tôn kính
sư trưởng, giữ gìn hòa vui trong anh chị em, hoà khí với bạn bè và mọi
người.
Nếu chúng ta không
sám hối, như thế tội nghiệp của chúng ta tạo tác, sẽ khiến chúng ta đoạ
lạc, không biết chừng nào mới hết, mà chẳng biết dừng lại. Tất cả tội ác
đều do vô minh vọng tưởng mà sinh ra; nếu có tâm sám hối thường xuyên niệm
Phật trong sự tĩnh toạ thì tội nghiệp vốn có giống như sương bị mặt trời
trí tuệ tiêu tan, khả năng hối cải quay về làm thiện như ánh sáng chiếu
phá ở nơi thế giới tối tăm. Sám hối không nhất định vì lỗi hiện có của
mình, cũng là vì đời quá khứ mà sám hối, đồng thời cũng vì tất cả chúng
sinh mà sám hối!
“Sám hối” - Nghiệp
chướng là việc mà con người vốn có đều có. Con người khởi tâm động niệm
thì là tạo nghiệp, nhất định phải sinh ra chướng ngại. Chướng thế nào ư?
Là ngăn che bản tánh của chúng ta. Ở trong bản tánh chân thật của chúng
ta, có trí tuệ vô lượng, công đức vô lượng; hiện tại trí tuệ, khả năng
công đức không thể khởi tác dụng. Nguyên nhân tại sao? Cũng là có chướng
ngại. Vọng tưởng, chấp trước cũng gọi là chướng ngại.
Sám hối – Dọn trừ
nghiệp chướng đến nay chẳng được, sao lại dám hưởng thụ danh lợi, tiền
của, ăn uống, nam nữ... những việc thế gian tham ái ư? Lại tạo ra ương họa
mới! “Pháp chỉ” ở trên hội Linh Sơn của Ðức Phật: “Sám hối nghiệp chướng,
tin sâu nhân quả, tu trì phước huệ, là phương thuốc thần diệu trị được vạn
bệnh”. Sám hối có thể khiến chúng ta trong lúc tu hành trừ dứt nghiệp
chướng.
Sinh mạng của chúng
sinh là thông nơi ba đời, do sinh mạng đời quá khứ đã tạo nghiệp, cảm báo
mà có sinh mạng đời này, đã vậy có đời quá khứ, đời quá khứ cũng đã tạo
nghiệp. Như đây, nghiệp đời trước đã tạo, tự nhiên cũng nên sám hối thôi.
Bởi phàm phu chúng ta không có “túc mạng thông”, không có cách nào biết
chính mình ở đời quá khứ tạo những nghiệp ác gì, không chịu sám hối. Chỉ
là đời này, đến trước mắt là dừng, các nghiệp ác đã được tạo ra đã qua,
ngược lại có thể tìm biết, cũng tức là biết các ác nghiệp tự mình đã tạo,
như vậy thì dễ dàng thêm cho việc sám hối.
Nếu còn có những ác
nghiệp nhỏ nhặt chưa sám hối, ngay lúc nó hiện khởi ở trong tâm, thì có
thể khiến tâm cảm thấy bất an mà chướng ngại cho việc tu hành. Do đó, một
người trước khi phát tâm tu hành, ngoại trừ quả báo có thể thấy và sám hối
nghiệp tội đời trước ra, cần phải thường thường phản tỉnh rằng: “đời này
từ lúc nhỏ thẳng đến ngày nay, tạo ra những ác nghiệp gì? Phàm nhớ lại một
vấn đề nào khiến tâm cảm thấy hành vi đó bất an, thẹn xấu xa lâu ngày, lại
là ác nghiệp, đều quyết cần phải phát lồ ra sám hối, quyết cần phải sám
hối đến khi trong tâm thật bình yên thanh khiết, mới nói là nghiệp tội
tiêu mất.
Sau khi đã nói qua
nghiệp tội đã nói ở trước, nội tâm lại có thể thanh tịnh, yên ổn, như vậy
tu hành, thì không thể lại có nghiệp chướng đến tìm; do đây quyết cần phải
cố gắng, giữ gìn cho được sinh mạng sám hối thuần khiết quá khứ này, không
có thể khiến nó trở lại cảm nhiễm thói ác, để khỏi trở lại tạo các ác
nghiệp. Giữ gìn như thế nào? Trước cần phải đối với tất cả các việc thiện,
bất luận là mắt thấy hoặc tai nghe, trong tâm đều phải sanh lòng tuỳ hỉ;
đối với việc ác, ngược lại phải ghét như thù oán, tốt nhất là đem tâm an
trụ ở nơi “tứ chánh cần”; Tứ chánh cần là:
1.
Ác đã sinh, khiến đoạn diệt.
2.
Ác chưa sinh, khiến không sinh.
3.
Thiện chưa sinh, khiến sinh khởi.
4.
Thiện đã sinh, khiến tăng trưởng.
Bốn việc cần thiết
chân chánh này tức là đạo lý “các ác chớ làm, các thiện nên làm” (chư ác
mạc tác, chúng thiện phụng hành), chúng ta lấy trí tuệ để quán sát, chính
là khéo tinh tấn siêng năng tu hành ba học: giới - định - huệ, trừ diệt ba
độc: tham - sân - si; đem bốn việc cần thiết chân chánh làm pháp môn trợ
đạo để siêng tu khổ luyện, dứt ác sinh thiện.
“Luật nhân quả” nên
cùng với “sám hối” một lúc tu hành, càng giúp cho nỗi đau của tâm linh sau
khi phạm sai lầm. “Sám hối” không nên dùng làm hành vi giao dịch, bởi vì
chỉ cần giao một số tiền cho chùa viện để tham gia pháp hội, thì có thể
tiêu được nghiệp tội vốn có ở trong đáy của tâm đã được giữ kín của mình
sao? Tiền, không phải là vạn năng, đến pháp hội bái sám là giải quyết vấn
đề tâm lý chính mình, rất thực tại là giải quyết phiền não; Thậm chí tiền
đã giao, sám đã bái, vận tốt đã đến rồi, kết quả nếu ngược lại khiến người
mất đi chỗ mong cầu, ở đó cũng sẽ mất đi tín tâm đối với Phật và Bồ Tát,
lại chẳng gieo vào trong nguyện tu thân dưỡng tánh bằng sự nhiệt tình
thiết tha.
Tác dụng của sám hối
trước Phật và Bồ Tát tức là cần tìm chân tâm và thiện tâm chính ta, vả lại
phải cầu mong chân chánh Phật và Bồ tát làm chứng rõ ràng, chứng minh tâm
của ta là chơn vậy, thành ý gánh vác việc làm lỗi lầm của chính ta, vả lại
không dẫm đạp che dấu. Việc đời này kiếp này có thể giải quyết được thì
nên giải quyết, không nên trốn ở trong nhà sám hối với Phật và Bồ Tát, mà
trên thật tế, người thù của anh, cứ như vậy, ở một nơi nào đó đau hận việc
làm của anh; như nếu là anh rất khó làm được điểm này, thế thì ít nhất đối
với người thân cận bên cạnh phải làm trước, trước sửa đổi được cá tánh,
làm được một con người có ý nguyện sám hối nhận lỗi với người.
Ngay lúc nhân quả
hiển bày năng lực, phương thức anh có thể làm tức là nhận tội của sự chân
tâm thành ý, bình thản chân thành với việc làm tội lỗi mà sám hối hành vi
của mình, cần phải phát xuất từ nội tâm, ở trước tượng Phật hoặc mặt hướng
về phương tây, đem lỗi lầm đã phạm, tất cả nói ra và phát nguyện về sau
không tái phạm. Không thể ban ngày tạo ác, ban đêm sám hối, cho là nghiệp
tiêu, mà rốt cuộc là tạo nghiệp, mà lại sám hối không thôi.
Ngay khi anh muốn
nhận lỗi, ý muốn sám hối (bất luận là lỗi lớn lỗi nhỏ) ngang bằng với việc
tu “nhân quả quán”, hành mười thiện nghiệp. Cũng có thể chứng minh nhân
cách Bồ Tát của anh đã đầy đủ làm việc khó làm.
Chân tâm hối cải,
tâm địa tức được trong sạch, tâm chúng ta nếu không thanh tịnh, không bình
đẳng, thì “giác tâm” cũng mất đi, lập tức phát khởi sám hối. Sám hối không
phải là bảo người ta hàng ngày nghĩ lỗi đã làm, việc này là sai lầm, nghĩ
như thế này tức là trở lại tạo tội, càng nghĩ một lần là lại tạo một lần.
Lỗi lầm đã làm biết rồi, về sau không làm lại gọi là sám hối.
Cần làm tới khi nghe
lỗi thì vui, trong lòng cảm tạ, cảm ơn, từ trong tâm nhận điều không đúng,
chẳng phải là trên cửa miệng nhận điều không đúng, nên phải trong nội tâm
sám hối; không phải nghe lỗi thì nóng lên, càng không phải nghe lỗi thì
giận.
VĂN SÁM HỐI:
“Ðệ tử tên là....
(đem lỗi lầm đã phạm, tất cả nói ra), ngày trước đã tạo các ác nghiệp, đều
do vô thuỷ tham - sân - si, từ thân - miệng - ý mà sinh ra, tất cả con nay
đều sám hối.”
Phương thức sám hối,
trước tiên cần phải sạch cái tâm, tịnh ở ý, chính ở hình, cung kính ở
thân, nghiêm túc ở nơi dung mạo, tóm lại là cần cầu thân - miệng - ý thanh
tịnh.
---o0o---
[Mục Lục]
[Dẫn nhập]
[Chương 1-1]
[Chương 1-2]
[Chương 1-3]
[Chương 1-4]
[Chương 2]
[Chương 3-1]
[Chương 3-2]
[Kết Luận]
---o0o---