VỀ
NHỮNG BẬC THẦY
CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
Thích Phước An
Có những cái chết mà dù đã cách xa thời đại chúng ta
đến những 6 thế kỷ rồi, vậy mà cứ mỗi lần nhắc đến là trong
mỗi người chúng ta dường như vẫn còn đau đớn xót xa, và ta có
cảm giác rằng, nỗi đau đớn đó vẫn còn đọng lại cả trên
những dòng sông, rặng núi, và cả trên những nẻo đường heo hút
của quê hương đất nước nữa. Tôi muốn nói đến cái chết của
bậc đại anh hùng Nguyễn Trãi chẳng hạn, cái chết mà Đào Duy Anh
đã viết là:
"Và cái ngày đau xót không
những cho Nguyễn Trãi mà còn cho cả dân tộc nữa, là ngày 16
tháng 08 năm 1442. Nguyễn Trãi đã rụng đầu dưới lưỡi dao oan
nghiệt của cái triều đình hèn hạ và ngu muội mà chính ông đã
chiến đấu gian khổ để dựng lên".
(Nguyễn Trãi toàn tập, trang 22, NXB
Khoa Học Xã Hội, Hà Nội 1976)
Cũng vậy, có những cuộc ra đi mà
kẻ ra đi phải gánh lên đôi vai gầy yếu của mình tất cả sự
thống khổ và phân ly của đạo pháp và dân tộc. Đó là chuyến ra
đi của Hòa Thượng Huyền Quang và Quảng Độ vào năm 1982. Tôi có
phóng đại qúa không? Mười năm sau chuyến ra đi lịch sử đó
(1982-1992), đọc những dòng sau đây của Hòa Thượng Quảng Độ, tôi
mới thấy rằng những tưởng tượng của tôi không hề sai sự
thật:
"
Nhìn xuống bãi biển, thấy
những đợt sóng trắng xóa cuồn cuộn vỗ vào bờ ầm ầm, tôi có
cảm tưởng như những tiếng gào thét của những oan hồn người
vượt biển chết đuối từ lòng đại dương vọng về; Phía trên
đèo thì những đám mây dày đặc bao phủ mịt mù, thật là tiêu
điều ảm đạm. Tôi bèn ghi lại cảnh-tượng ấy bằng mấy câu thơ:
" Đạo pháp tiêu điều lòng
thổn thức
Giang sơn ảm đạm dạ bồn chồn
Vân Hải chiều nay sầu Tô Tử
Đường dài mang nặng nỗi hàn
ôn".
Và đây là cảnh phải chia biệt
với người thân ngay trên quê hương đất nước của chính mình:
"Đêm 26.2.1982, chúng tôi ngủ ngay
tại ty Công An Quy-Nhơn. Sáng dậy, như ngày hôm trước ở Nha Trang,
có khác là khi tôi lên xe đi thì thấy TT. Huyền Quang còn ngồi lại
ở văn phòng ty Công An, chỉ có một mình tôi đi thôi. Tôi nghĩ
bụng, chắc họ sẽ để Thượng Tọa lại, vì đây là tỉnh quê nhà
của Thượng Tọa. Còn tôi chắc là họ sẽ đưa ra Thái Bình là tỉnh
quê nhà của tôi. Một cảm giác cô đơn và xót xa len lén trong
lòng tôi, vì từ nay, chúng tôi phải cách xa nhau, kẻ Bắc người
Nam, cũng như hàng triệu gia đình Việt Nam đã phải lìa tan sau năm 1954
và 1975. Không biết bao giờ mới lại được gặp nhau. Thật vậy, cho
đến nay đã đúng 10 năm (1982 -1992) chúng tôi vẫn chưa được gặp
nhau. Ôi! Tử biệt sanh ly!"
Năm 1991, gần đúng 10 năm sau chuyến
ra đi của hai bậc Thầy đó, tôi cũng có viết một bài về Thiền Sư
Huyền Quang, vị tổ thứ ba của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đời
Trần, người đã phải miễn cưỡng nhận lấy trách nhiệm lãnh đạo
Giáo Hội Trúc Lâm Yên Tử đã bắt đầu đến hồi suy yếu, sau gần
¼ thế kỷ cực thịnh (Bài này đã được đăng trong Tạp Chí Văn
Học của Viện Văn Học (Hà Nội), số 4 năm 1992, với nhan đề là
"Thiền Sư Huyền quang và con đường trầm lặng của mùa thu",
sau đó được tờ "Etudes Vienamiennes" dịch ra tiếng Anh và Pháp
số 2 năm 1993) Dù là viết về một Thiền Sư cách đây đã hơn 7
thế kỷ, nhưng tôi cũng nhân cơ hội này để nói lên một chút
tâm sự đau đớn của-tôi đối với Phật Giáo Việt Nam hiện đại.
Nhưng quan trọng hơn cả vẫn là, bài viết cũng hàm ý nói lên niềm
hảnh diện của tôi đối với hai bậc Thầy đang dánh chịu khổ nạn
cho Phật Giáo Việt Nam và tôi muốn nhấn mạnh rằng, thông điệp
thực sự mà Phật giáo cần mang đến không phải là tại những nơi
giàu sang hay quyền thế, mà phải là những nơi khác - Ví dụ đoạn
sau đây:
"Huyền Quang dù bấy giờ đã là
người đứng đầu Giáo Hội Trúc Lâm Yên Tử vẫn không đến ở
và làm việc tại chùa Quỳnh Lâm và Báo Ân, như Pháp Loa trước
đó đã làm. Trái lại, Huyền Quang về ẩn cư luôn ở núi Thanh Mai
và Côn Sơn cho đến khi mất, bởi lẽ đọc lại các sử liệu ta
thấy rằng, Quỳnh Lâm và Báo Ân là những chùa qúa giàu có, vì
được sự hổ trợ tích cực của Vương triều Trần". Và tôi
đã đặt câu hỏi: "Có phải Huyền Quang muốn điều chỉnh lại
một giai đoạn lịch sử đã qua? Và đồng thời - muốn vạch một
hướng đi khác cho Phật giáo Đại Việt chăng? Vì với những
người đang theo đuổi giấc mộng giải thoát, thì núi rừng và
những con đường mịt mù đầy các bụi xa xôi kia mới là chỗ tới
lui đích thực của đời mình".
Tôi không ngờ những câu như:
"Phải chăng Huyền Quang muốn điều chỉnh lại một giai đoạn lịch
sử đã qua, và đồng thời muốn vạch hướng đi khác cho Phật giáo
Đại Việt chăng?" thì năm 1992, năm mà nói theo Phạm Công Thiện
thì: "Hậu thân của ngài Huyền Quang đả oanh liệt chong đèn Bát
Nhã để mở ra hướng đi định phận của Quê Hương". Cũng trong
bài ấy, bài "Hòa Thượng Huyền Quang và ý thức dẫn đạo dân
tộc", Phạm Công Thiện viết một cách cảm động như thế này:
"Đứng trơ trụi, cô độc, già
nua tuổi tác, hơn 73 tuổi, Ngài đã đương đầu trước cái chết,
không một mảy may sợ hãi, như như bất động, nói lên lời cáo
trạng oanh liệt nhất; hành động phi thường chưa từng thấy ấy,
phải chăng là tiên triệu bất ngờ cho cuộc hồi sinh dân
tộc
"
Như vậy, rõ ràng là sức mạnh tâm
linh mà tự bao đời Phật giáo có được đều không xuất phát
từ những nơi có chùa to phật - lớn, nơi kẻ quyền thế và giàu
sang ra vào tấp nập, nói đang say sưa sa vào con đường lợi dưỡng -
mà sức mạnh tâm linh đó phải phát xuất từ những nơi đầy các
bụi của trần gian, nghĩa là những nơi mà Phật giáo có thể dễ
dàng lắng nghe được tiếng thở dài của vạn sinh linh thống khổ.
Tôi vốn sanh trưởng ở Bình Định,
nơi mà vào năm 1665, Thiền sư Nguyên Thiều của Trung Quốc đã đến
và lập ra chùa Thập Tháp Di Đà. Và từ đấy, Bình Định đã trở
thành trung tâm Phật giáo quang trọng nhất của Phật giáo đàng trong
thời bấy giờ. Quan trọng hơn nữa là vào năm 1753, Nguyễn Huệ đã
chào đời tại một ngôi nhà tranh nghèo khổ bên dòng sông Côn
(quận Tây Sơn). Nhưng chính ngôi nhà tranh nghèo khổ này đã cống
hiến được cho đất nước một thiên tài xuất chúng. Năm 1786, sau
khi đánh đuổi chúa Nguyễn ở đàng trong, Nguyễn Huệ ra chiếm Thuận
Hóa rồi vượt qua sông Gianh tiến thẳng ra Thăng Long lật đổ chúa
Trịnh chấm dứt 200 năm đất nước bị qua phân. Mùa xuân năm Kỷ
Dậu (1789) Nguyễn Huệ lại còn đánh tan 29 vạn quân Thanh do Lê Chiêu
Thống rước về cùng với sự hỗ trợ của Nguyễn Ánh trong Nam, chỉ
trong năm ngày. Dù trăm trận trăm thắng trên chiến trường như
vậy,nhưng đối với các nhà trí thức của dân tộc Nguyễn Huệ hết
sức khiêm cung và nhất là thành thực. Trong một lá thư gửi cho La
Sơn Phu Tử, một nhà trí thức nổi tiếng nhất của Bắc Hà thời
bấy giờ Nguyễn Huệ viết: "Anh em qủa Đức, nguyên chỉ tró
trụi là một tụi ấp trưởng, nổi lên ở Tây Sơn. May mà đánh
được tụi yếu và dứt được kẻ hèn, gây được nghiệp
bá". Và trong một đoạn khác, cũng gửi cho La Sơn Phu Tử:
"Vả chăng, qủa Đức sanh ở chỗ hẻo lánh, học ở sự nghe
trông. Gặp thời thế này, bất đắc dĩ phải khởi binh".
Chính vì vậy mà, ngoài việc được
ca tụng là bậc anh hùng võ công đệ nhất, Nguyễn Huệ lại còn
được các nhà sử học coi như là người biết tôn trọng những
bậc tài hoa của đất nước, có thể nói là số một trong lịch sử
của dân tộc ta.
Vậy là, Bình Định cũng đã trở
thành trung tâm chính trị của đất nước vào hậu bán thế kỷ 18
nữa.
Hòa Thượng Huyền Quang cũng sanh ở
Bình Định. Ngài rất ý thức về mảnh đất mà Ngài đã chào
đời, như bốn câu mà Ngài đã tự phát họa chân dung của chính
Ngài:
" Nguyên Thiều Pháp Duệ
Nguyễn Huệ nhân dân
Tình đồng chơn cát ái từ thân
Sức chánh tín bạt trần đầu
giáo".
Tôi nghĩ, dường như hầu hết những
người sinh ra từ những nơi làm ruộng, quanh năm suốt tháng họ chỉ
lo cày sâu cuốc bẩm, nên gần như không hề biết khoa trương hay dùng
những lời hoa mỹ để nói về chính mình. Nếu có nói về bản
thân, thì cũng chỉ nói lên những hèn yếu và nhược điểm về
chính mình mà thôi - Hòa Thượng Huyền Quang có hai câu thơ về mình
như thế này:
" Lên rừng hổ thẹn thua chim núi
Xuống nước than thân hổ cá
sông".
Có lẽ, không phải tài hoa hay uyên
bác, mà chính nhờ đức tình biết hổ thẹn và thành thực với
chính mình này, mà Hòa Thượng Huyền Quang đã đưa Phật giáo Việt
Nam vượt qua được khúc quanh hiểm nghèo nhất, để Phật giáo Việt
Nam có đủ niềm tự hào mà cùng với dân tộc và nhân loại
bước vào thế kỷ 21 chăng?
Vào một ngày cuối năm, tôi đến
hầu thăm Ngài trong một ngôi chùa nhỏ tại một thị trấn hẻo lánh
thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Tôi có cảm tưởng bao nhiêu biến cố thăng
trầm của Phật giáo Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay, dường như
vẫn còn in hằn trên nét mặt già nua vì tuổi tác cùng mái tóc
bạc trắng của Ngài. Dù có già nua tuổi tác, nhưng tấm lòng đối
với Phật giáo Việt Nam, đối với quê hương đất nước vẫn nồng
nàn như ngày nào:
"Chim đứng nhìn xem trời đất
chuyển
Chờ ngày vỗ cánh khắp trường
không".
Trên đường trở về, tôi cứ
đọc mãi hai câu thơ ấy của Ngài với tất cả nỗi xúc động và
hãnh diện vì có những bậc Thầy đang lặng lẽ hy sinh quên mình vì
tương lai của đạo pháp và dân tộc.
Nha Trang, tháng 12 năm
1997.
---o0o---
| Mục lục Tác giaû |
Cập nhật ngày: 01-01-2002