|
Phật
giáo đồng hành với dân tộc
ĐĐ.TS. Thích Nhật Từ, HVPGVN tại TPHCM
Quá trình đạo
Phật đồng hành với các dân tộc
Sau khi đức
Phật qua đời, nền tảng đạo đức và triết lý cao siêu của
ngài đã được hiểu và thực hành theo từng bối cảnh văn
hoá khác nhau. Từ đó, Phật giáo có hai trường phái triết
học lớn, trường phái Thượng toạ, thường được mệnh danh
là Phật giáo Nam tông hay còn gọi là Nam truyền hoặc
Phật giáo Nguyên thuỷ, và trường phái Đại thừa, hay còn
gọi là Bắc truyền hoặc Phật giáo phát triển hoặc Phật
giáo cách tân. Phật giáo Nam truyền chủ yếu phát triển ở
các nước Tích-lan, Miến-điện, Thái -lan, Lào, Cam-pu-chia
v.v… theo hướng địa lý miền Nam Ấn-độ, trong khi Phật
giáo Bắc truyền, chuyển hướng về vùng địa lý miền Bắc
Aán, du nhập vào các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Tây Tạng,
Triều Tiên và Việt Nam v.v… Văn hệ chủ yếu của trường
phái Nam tông là tiếng Pali. Văn hệ chính của Bắc tông
là Sanskrit với hai dịch ngữ chính là tiếng Hán và Tây
Tạng.
Do nền tảng
triết lý đạo Phật, dù của Nam truyền hay Bắc truyền,
đượm nhuần chất liệu nhân bản sâu sắc, con đường truyền
bá của đạo Phật chưa từng gắn liền với dấu giầy xâm lược
của các đế quốc thực dân. Phật giáo được quần chúng
trong các nền văn hoá mới tiếp nhận như một dưỡng chất
tinh thần và tâm linh mới, thay thế cho cấu trúc tinh
thần lệ thuộc thần quyền của các tôn giáo nhất thần hay
đa thần, vốn nặng về mê tín và sợ hãi.
Tại Ấn-độ,
đại đế A-dục (Asoka) là người đầu tiên đã gởi thông điệp
từ bi và tuệ giác của đức Phật vượt ngoài biên cương bờ
cõi Aán-độ, khoảng 3 thế kỷ sau khi Phật qua đời. Từ đó,
triết lý đậm nét đạo đức của Phật đã có mặt ở nhiều nước
trên thế giới. Tư tưởng từ bi và trí tuệ của đức Phật đã
trở thành tư tưởng chủ đạo của nhiều quốc gia theo đạo
Phật.
Tại các nước
châu Á, đặc biệt là Trung Quốc, Nhật Bản, Đại Hàn, Miến
Điện, Tích Lan, Thái Lan, Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia đã
phát sinh nhiều tông môn pháp phái mới, đáp ứng lại nhu
cầu tâm linh đa dạng của quần chúng. Các trường phái mới
tại các nước này đã nhanh chóng trở thành các tổ chức
tôn giáo quan trọng, ảnh hưởng tốt đến đời sống con
người tại đây.
Thời đại toàn
cầu hoá đã thâu ngắn khoảng cách địa dư giữa các châu
lục. Phật giáo, theo đó, không còn giới hạn phạm vi ảnh
hưởng của mình ở phương Đông nữa. Theo quy trình phát
triển, Phật giáo đã du nhập vào các nền văn hoá mới ở
phương Tây, mà không hề gặp bất kỳ sự kháng cự nào, từ
chính trị đến văn hoá, khác hoàn toàn với bản chất xâm
lược của tôn giáo phương Tây gắn liền với chủ nghĩa thực
dân khi đặt chân lên các châu lục còn lại.
Phương Tây
với những điều kiện khoa học và dân chủ tiên tiến trên
thế giới, đã dễ dàng tiếp nhận tư tưởng triết lý của đạo
Phật, chú trọng đến con người, đề cao vai trò của con
người và tự do ý chí (cetana) và trách nhiệm hành vi đạo
đức. Phương Tây đã nhìn thấy đạo Phật là con đường tâm
linh, có khả năng song hành với khoa học, xoá bỏ các ảnh
hưởng thần quyền. Mảnh đất phương Tây giờ đây đã có thể
trở thành mảnh đất hứa mới cho các cư dân quá chán ngán
với tư tưởng tôn giáo thần quyền, vương mình dậy, hướng
đến một tương lai tuệ giác, dưới sự nỗ lực và quyết định
vận mệnh của bản thân từng con người.
Sự tương tác
và tiếp biến văn hoá trong bối cảnh toàn cầu hoá đã trở
thành chất xúc tác giúp cho đạo Phật phát triển một cách
nhanh chóng, như một sự kiện hiển nhiên về các điểm giao
thoa tri thức giữa Phật giáo và nền tảng khoa học phương
Tây như nhà sử học văn minh Arnold Toynbee đã phát biểu
rằng: "Sự kiện có ý nghĩa nhất của thế kỷ 20 này là sự
gặp gỡ giữa đạo Phật và phương Tây.” Đạo Phật trong sự
tiếp biến văn hoá với thế giới phương Tây đã làm thay
đổi phần nào đó cấu trúc thượng tầng tri thức và não
trạng của một thế giới quá đặt nặng về văn minh vật
chất.
Sự đồng hành
giữa Phật giáo và dân tộc Việt Nam trong quá khứ
Bản chất các
giáo huấn của đức Phật mang tính nhập thế rất cao, thông
qua học thuyết tuỳ duyên. Ngay từ thời du nhập, Phật
giáo tiếp xúc với nền văn hoá bản địa, trong tinh thần
dung thông, không độc tôn, loại trừ. Nhờ tinh thần dung
thông này, đạo Phật đã sử dụng các dữ liệu tích cực của
văn hoá và tôn giáo dân gian để góp phần xây dựng và
phát triển nền văn hoá dân tộc. Hình ảnh chùa Tứ Pháp
nói lên được sự kết hợp hài hoà giữa văn hoá Phật giáo
với văn hoá bản địa. Nếu “Mây, Mưa, Sấm, Chớp” được tín
ngưỡng dân gian nâng lên thành các vị thần linh, thì đạo
Phật đã nhìn dưới góc độ của các hiện tượng thiên nhiên,
qua hoá thân của các tượng Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi
và Pháp Điễn.
Học thuyết tứ
ân (ân tổ quốc, ân đồng bào, ân cha mẹ, ân thầy cô), đặc
biệt là ân tổ quốc của Phật giáo đã hoà quyện với tín
ngưỡng thành hoàng làm cho tinh thần yêu nước và nhân từ
của Phật giáo giúp cho Việt Nam vượt qua được các phong
ba bão táp của vó giầy xâm lược phương Bắc, bảo vệ biên
cương bờ cõi, thiết lập an ninh cho người dân. Các anh
hùng dân tộc và các liệt sĩ đã được thờ phượng trong các
chùa Phật giáo miền Bắc là một minh chứng về tinh thần
nhập thế này.
Tư tưởng
triết lý của nhà Phật đã từ lâu trở thành một phần đời
sống tinh thần của người Việt Nam. Tinh thần từ bi, yêu
chuộng hoà bình, tôn trọng sự sống và hiếu sinh của Phật
giáo đã ảnh hưởng tâm hồn Việt Nam một cách sâu sắc. Một
trong những nhà văn, nhà chính trị lớn của Việt Nam là
Nguyễn Trải đã thể hiện tình thần nhân bản của đạo Phật
trong bài Bình Ngô Đại Cáo của ông rằng: “Lấy đại nghĩa
thắng hung tàn/ Đem trí nhân để thay cường bạo.” Nhờ
tinh thần “Thần vũ chẳng giết hại/ Thuận lòng trời ta mở
đường hiếu sinh,” sau khi chiến thắng nhà Minh, chính
quyền Việt Nam thời đó thấm nhuần tinh thần nhà Phật, đã
không giết hại và cầm tù kẻ thù, ngược lại cung cấp
thuyền bè và lương thực cho họ về nước an toàn. Đạo lý
này được đức Phật dạy trong Kinh Pháp Cú: “Hận thù diệt
hận thù/ Đời này không có được/ Từ bi diệt hận thù/ Là
định luật muôn đời.” Nếu đạo lý từ bi và hiếu sinh này
được các nhà chính trị hiện đại quan tâm và ứng dụng,
chắc chắn sẽ mở ra phương trời mới của hoà bình và thái
bình.
Trong các
triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, đặc biệt là Lý Trần, tinh
thần nhập thế của đạo Phật đã thúc đẩy các vị cao tăng
Phật giáo đảm trách vai trò cố vấn cho vận mệnh quốc
gia, tham gia triều chính, vì họ nhìn thấy được nỗi đau
của một dân tộc nhỏ bé, từng bị ngoại bang lớn mạnh hơn
ức hiếp, thôn tính và đô hộ. Thời Đinh Tiên Hoàng có
thiền sư Ngô Chân Lưu được mời làm quốc sư, với mỹ hiệu
Khuông Việt Đại Sư, bậc thầy tâm linh tạo ra khuông phép
cho nước Việt Nam vĩ đại. Thời Tiền Lê có thiền sư Đỗ
Pháp Thuận và đặc biệt là thiền sư Vạn Hạnh có công hình
thành nhà Lý, đưa Lý Công Uẩn lên làm vị minh quân, kết
thúc chế độ bạo hành của hôn quân ngoại triều Lê Long
Đỉnh. Khi Lý Công Uẩn lên ngôi, nhờ tinh thần giáo dục
Phật giáo và niềm tin về tiềm năng chuyển hoá (Phật
tính), các ngục hình đã được huỷ bỏ hoặc giảm đi, thay
vào đó là chính sách giáo dục đạo đức. Ông đã cho xây
dựng nhiều ngôi chùa, làm vai trò “mái chùa che chở hồn
dân tộc.”
Theo sử liệu,
Lý Bí đã truyền xây chùa Khai Quốc (chùa Mở Nước) nay là
chùa Trấn Quốc (chùa Giữ Nước). Việc xây dựng nước Vạn
Xuân song song với chùa Trấn Quốc như muốn nói lên vai
trò dựng nước của Phật giáo, có khả năng kháng cự và
chiến thắng được Đại Hán bấy giờ!
Đời Trần có
các thiền sư Đa Bảo, Viên Thông, Tuệ Trung Thượng Sĩ và
các tướng lãnh đại tài của Phật giáo, nổi tiếng nhất là
đại tướng Trần Hưng Đạo. Trong thời Trần, mặc dù Phật
giáo không được chính thức công nhận là quốc giáo nhưng
tư tương yêu nước, dựng nước và phát triển đất nước đã
trở thành tư tưởng chủ đạo, góp phần mang lại độc lập và
chủ quyền cho dân tộc.
Đường lối đức
trị của hai triều đại Lý Trần làm cho Việt Nam đạt đến
đỉnh cao của tự hào dân tộc, chứng minh sự hội nhập của
văn hoá Phật giáo trong văn hoá dân tộc Việt Nam.
Truyền thống
tri ân và báo ân tổ quốc đã giúp cho nhiều Tăng Ni đã
mạnh dạn “cỡi áo cà-sa khoát chiến bào.” Nhiều Phật tử
Việt nam đã vận động ân xá cho nhà chính trị yêu nước
Phan Bội Châu, trong nỗ lực đòi độc lập khỏi ách thống
trị của Pháp. Trong thời Mỹ Diệm, Tăng Ni và Phật tử
Việt Nam đã tích cực tham gia các phong trào đấu tranh
đòi hoà bình và độc lập cho dân tộc.
Tinh thần
đồng hành với dân tộc của Phật giáo đối với Việt Nam
thân yêu đã có tuổi thọ trên dưới 20 thế kỷ, kể từ khi
con đường tâm linh nhân bản này có mặt tại Việt Nam.
Nhiều thế hệ thiền sư và Phật tử vừa yêu đạo, vừa yêu
nước, kháng cự lại tinh thần sùng ngoại Bắc phương Trung
Quốc. Tinh thần tứ ân của đạo Phật đã tạo ra cao trào từ
cường dân tộc, toàn dân yêu nước và đoàn kết vì đại
nghĩa quốc gia, nhiều lần đánh bại giặc Tống và giặc
Nguyên từ phương Bắc. Nhờ tướng tài Lý Thường Kiệt sùng
tư tưởng nhân bản của Phật, quân dân thiên triều và
thiên quốc của Trung Quốc “thây chất thành đống, máu
chảy thành sông,” bị đánh bại tan tành ở Châu Ung và
Châu Khiêm. Nhờ tinh thần tự cường và độc lập của Phật
giáo, dân tộc Việt Nam đã tìm ra được hướng đi mới, tác
rời khỏi tư tưởng Khổng giáo vốn là điểm tựa nhận thức
của chủ nghĩa độ hộ Trung Quốc đối với Việt Nam. Phật
giáo Việt Nam đã xoá được mặc cảm bị nô lệ Trung Quốc
kéo dài 10 thế kỷ, là nhờ vào tinh thần yêu nước và bình
đẳng của Phật giáo.
Tinh thần
bình đẳng của nhà Phật khẳng định rằng nếu Trung Quốc có
thiên triều và thiên tử thì Việt Nam cũng có thiên triều
là Đại Cồ Việt và thiên tử là các vị minh quân. Tư tưởng
này là yếu tố cần thiết giúp dân tộc Việt Nam được giải
phóng khỏi ách nô lệ Trung Hoa to lớn. Nền chính trị độc
lập và tự chủ của thời Lý Trần, với tinh thần nhập thế
của Phật giáo, đã mở ra những triều đại độc lập tự chủ
đầu tiên của lịch sử Việt Nam, làm cho dòng chảy đồng
hành với dân tộc của Phật giáo Việt Nam trở thành điểm
son của văn hoá và chính trị Việt Nam.
Vai trò dựng
nước, giữ nước và phát triển đất nước của Phật giáo đối
với nền độc lập và tự chủ của Việt Nam như nước hoà với
sữa. Trang sử Việt Nam gắn liền với trang sử Phật giáo,
vì con đường tâm linh này đã là chỗ dựa tinh thần cho
một nền văn hoá đạo đức thích ứng với sự lựa chọn của
dân tộc Việt Nam như nhà thơ Hồ Dzếnh đã phát biểu rất
chính xác:
Trang sử
Phật/ Đồng thời là trang sử Việt/ Trải bao độ hưng suy/
Có nguy mà chẳng mất/
Nhà nước đối
với Phật giáo: từ vai trò quản trị đến hộ pháp
Kể từ khi
GHPGVN được thành lập từ năm 1981, bộ máy hành chíùnh
Phật giáo Việt Nam đã bị buộc trở thành một thành viên
của Mặt trận tổ quốc Việt Nam (MTTQVN) thông qua chế độ
quản lý nhà nước và pháp luật. Từ đó, hệ thống quản lý
nhà nước theo cơ chế “xin – cho” đã áp dụng cho Phật
giáo. Hành chính xin cho tiêu biểu bao gồm: a) đăng ký
các sinh hoạt tu học hằng năm, b) tổ chức hội thảo, hội
nghị Phật giáo, c) xin phép xuất gia, thọ giới, bổ nhiệm
trụ trì, tấn phong giáo phẩm, d) xây dựng trường Phật
học, trường mẫu giáo, trung tâm từ thiện, Tuệ tĩnh đường
v.v…
Tôi cho rằng
trong giai đoạn Việt Nam thời hậu WTO, cơ chế xin cho
nên đổi thành cơ chế dịch vụ. Trong cơ chế xin cho, tình
trạng “ban ơn giáng hoạ” có thể xuất hiện. Trong cơ chế
dịch vụ, sự thoả mãn khách hàng, ở đây là đối tác Phật
giáo, phải được nâng thành chính sách. Xin-cho tạo ra
tiêu cực. Dịch vụ tạo ra thành qủa đối tác. Một điều
không thể phủ định là hành chíùnh “xin-cho” đã tạo ra
nhiều khó khăn cho sự phát triển Phật giáo, vì trong
tiến trình thực hiện các khế ước xin cho, có nhiều tình
trạng hà khắc “phép vua thua lệ làng” đã xuất hiện. Đó
là chưa nói đến các tình trạng tiêu cực đã từng phát
sinh từ người quản lý “ban cho” người xin phép một cách
chậm chạp và khó khăn. Tiêu cực lớn nhất của tình trạng
này là hiện tượng “quan liêu và tham nhũng.”
Tham khảo mối
quan hệ song hành giữa Phật giáo và dân tộc trong quá
khứ, con đường vận hành ở hiện tại và tương lai của Phật
giáo phải là con đường độc lập khỏi cơ chế “thành viên”
của nhà nước. Phật giáo không thể bị buộc thành một
thành viên của MTTQVN, vì điều đó đi ngược lại hoàn toàn
tinh thần giới luật, đặc biệt là giới Bồ - tát, và tinh
thần nhập thế nhưng không tham dự chính trị của Phật
giáo. Nếu Tăng đoàn Phật giáo không tham dự chính trị,
không thành lập đảng phái chính trị, không can thiệp nội
bộ của nhà nước thì nhà nước cũng không nên can thiệp
vào nội bộ Phật giáo. Chính trị can thiệp vào Phật giáo
sẽ làm Phật giáo không còn truyền thống tuỳ duyên bất
biến. Sự can thiệp nội bộ lẫn nhau giữa Phật giáo và
chính trị sẽ làm cho cả hai bị lũng đoạn. Cho đến lúc
nào Phật giáo Việt Nam không còn là thành viên của
MTTQVN thì hoạt động Phật sự của Phật giáo Việt Nam mới
có thể đóng nhiều nhiều cho dân tộc Việt Nam. Nhà nước
nên ý thức rõ về tính khả thể như một thực thể rằng Phật
giáo Việt Nam cần được tồn tại và phát triển độc lập
khỏi sự can thiệp của nhà nước sẽ làm cho Phật giáo Việt
Nam lẫn nhà nước Việt Nam phát huy hết tiềm năng của
mình.
Đã đến lúc cơ
chế “quản lý nhà nước” đối với Phật giáo theo cách “xin
- cho” cần được tháo gở và đổi thành cơ chế “hộ pháp.”
Nếu sự tương quan giữa Phật giáo và dân tộc được đặt
trên nền tảng Phật giáo đóng vai trò của “mái chùa che
chở hồn dân tộc” thì dân tộc, trong đó có nhà nước, phải
đóng vai trò “hộ pháp” cho những nỗ lực che chở quốc hồn
và quốc tuý Việt Nam. Thay đổi nhân sự quản lý không
phải là giải pháp cứu cánh, vì nhân sự B có thể khá hơn
nhân sự A, do học được sai lầm của A nhưng B có thể tiếp
tục vấp phải sai lầm phi-A. Trong khi đó, thay đổi cơ
chế sẽ là cách tháo gở toàn bộ bế tắc có thể có hoặc đã
từng có trong quá khứ. Nếu “cơ chế quản lý xin-cho” dẫn
đến nhiều tiêu cực như trong thời gian qua, thì “cơ chế
hộ pháp” sẽ giúp cho thành phần cầm cân nảy mực dân tộc
sử dụng được các giá trị văn hoá, đạo đức và tâm linh
của đạo Phật trong chiến lược phát triển quốc gia.
Phật giáo và
dân tộc: Viễn cảnh của sự đồng hành
Nền tảng của
sự đồng hành với dân tộc trong Phật giáo có gốc rễ của
học thuyết tuỳ duyên bất biến. Tuỳ duyên là con đường
tiếp biến và hội nhập với văn hoá bản địa để tạo ra cơ
hội và giá trị đóng góp của Phật giáo cho cuộc đời. Sự
tuỳ duyên để tiếp biến văn hoá trong Phật giáo luôn đi
kèm theo điều kiện “bất biến” tức là không được cắt đứt
gốc rễ văn hoá dân tộc, trong tiến trình hội nhập với
dân tộc. Do tính cách đặc thù của đạo Phật, lời Phật dạy
đã trở thành thích ứng với các gốc rễ văn hoá nơi đạo
Phật có mặt như một thực tại văn hoá và tâm linh nhân
bản.
Từ quá trình
đồng hành giữa Phật giáo và dân tộc Việt Nam, và ngược
lại, giữa dân tộc với Phật giáo trong quá khứ cho phép
chúng ta khẳng định rằng nói đến đất nước Việt Nam hiện
đại mà không nói đến Phật giáo Việt Nam là một thiếu sót
đáng tiếc. Nói đến văn hoá Việt Nam mà không thấy được
ảnh hưởng của văn hoá Phật giáo Việt Nam sẽ không thấy
được gốc rễ và sự phát triển của văn hoá của Việt nam mà
trong quá khứ, Phật giáo đã từng là niềm tự hào của dân
tộc, đưa dân tộc Việt Nam trở thành Đại Cồ Việt, một
quốc gia bất khả chiến bại, trước vó giầy xâm lược của
Nguyên Mông, ngay cả Pháp và Mỹ trong thời cận hiện
đại. Sở dĩ như thế là vì đất nước Việt Nam và Phật giáo
Việt Nam cũng như văn hoá Việt Nam và văn hoá Phật giáo
Việt Nam đã từ ngàn xưa hoà quyện với nhau, như nước hoà
với sữa, không thể tách rời. Thực tại văn hoá song đôi
giữa đất nước Việt Nam và Phật giáo Việt Nam không thể
tách rời đó cần phải được xác quyết bằng chính sách và
phương châm cụ thể của chính quyền Việt Nam và Phật giáo
Việt Nam.
Nếu phương
châm “Phật giáo và Dân tộc” là tông chỉ nhập thế của đạo
Phật Việt Nam trong dòng sử Việt Nam, thì “Dân tộc và
Phật giáo” nên được nhà nước Việt Nam nâng thành chính
sách của Việt Nam. Phương châm “Phật giáo và dân tộc”
được Phật giáo Việt Nam thực hiện thành công mấy ngàn
năm trong lịch sử. Phương châm “Dân tộc và Phật giáo”
được hai triều đại Lý Trần nhân lên thành quốc sách phát
triển đất nước. Thành tựu về chính trị và kinh tế trong
hai triều đại Lý Trần có sự đóng góp to lớn của văn hoá
và triết lý Phật giáo, là những dữ liệu tham khảo cần
thiết cho chính sách phát triển đất nước Việt Nam thời
hậu WTO.
Nhà nước nên
quan tâm và đầu tư nhiều hơn nữa đến các di sản văn hoá
Phật giáo, bằng cách hỗ trợ kinh phí trùng tu và bảo trì
các di sản văn hoá Phật giáo, cấp quốc gia và thành phố.
Không quan tâm đến các di sản văn hoá Phật giáo là cách
thức tách rời nền tảng văn hoá Việt Nam khỏi sinh hoạt
và cuộc sống của người Việt Nam, mà đại đa số theo Phật
giáo, từ hơn hai ngàn năm qua.
Nhà nước nên
có chính sách cụ thể cũng như đầu tư phát triển cho tôn
giáo đã có công và gắn liền với sự phát triển đất Việt
Nam như đạo Phật. Chính sách “đại đoàn kết dân tộc” của
nhà nước Việt Nam hiện tại có thể vẫn còn phù hợp với
tình hình thiết lập tình thân hữu giữa lương và giáo,
giữa những người có tôn giáo và những người không có tôn
giáo. Nhưng việc áp dụng chính sách đối với tôn giáo của
nhà nước Việt Nam không dựa trên tinh thần tôn giáo nào
đã từng gắn liền với lịch sử xây dựng và phát triển dân
tộc và tôn giáo nào chưa từng có công tích đó, một cách
như nhau, như trong thời gian hơn 30 năm qua, hẳn không
phải là một chính sách hay đối với tôn giáo và sự phát
triển đất nước trong thời hiện đại. Chính quyền nên quan
tâm hơn nữa lịch sử tôn giáo tại Việt Nam, cần hỗ trợ
phát triển bằng chính sách cụ thể đối với tôn giáo nào
đã từng gắn liền với việc xây dựng và phát triển dân
tộc. Có như vậy, gốc rễ văn hoá Việt Nam sẽ được lưu
truyền, đất nước và con người Việt Nam hiện đại sẽ không
bị mất hút trong đà hội nhập, cả tốt lẫn xấu, từ nền
kinh tế và văn hoá vật dục của thế giới phương Tây như
hiện nay.
Chính
sách văn hoá và tôn giáo theo tinh thần vừa đề nghị hoà
quyện với sự phát triển chính trị và kinh tế trong giai
đoạn hậu WTO của Việt Nam sẽ góp phần xây dựng nước Việt
Nam công bằng, dân chủ, văn minh, nhưng không mất đi gốc
rễ văn hoá truyền thống gắn liền với đạo Phật. Nghèo về
kinh tế với những lý do khách quan là điều đáng buồn
nhưng con người vẫn có thể sống hạnh phúc và khoẻ mạnh,
nhưng nghèo về văn hoá và đánh mất gốc rễ văn hoá truyền
thống thì dân tộc Việt Nam sẽ không còn chất liệu và
chất lượng Việt Nam nữa. Mong các nhà lãnh đạo đất nước
Việt Nam lưu tâm hơn về điều này!
|