Sự xuất hiện của Phật giáo ở
phương Tây
nhằm đáp ứng cho những khủng hoảng môi trường và xã hội
GS.TS. R. Clark, Đại học Stanford,
CA. Hoa Kỳ
Trong suốt 150 năm vừa qua, tại các quốc gia Tây Phương đã dấy
lên mối quan tâm sâu sắc đến những lời dạy của Đức Phật. Đạo
Phật ngày càng có thêm nhiều tín đồ tại châu Âu và châu Mỹ, và
đã trở thành đối tượng nghiên cứu về mặt học thuật cũng như văn
chương. Việc này xảy ra trong bối cảnh lịch sử khi các khủng
hoảng toàn cầu về môi trường và xã hội ngày càng đang có chiều
hướng gia tăng.
Chủ đề chính của bài này đề cập đến khả năng đặc biệt của Phật
Giáo trong việc giải quyết các vấn đề này – đây chính là yếu tố
chủ yếu để Phật Giáo ngày càng trở nên phổ biến tại Tây Phương.
Dù không đi sâu vào chi tiết, bài viết này vẫn nhằm mục đích xác
nhận lại rằng những khía cạnh khác nhau trong nền văn hóa hiện
đại, cả về mặt tôn giáo và thế tục, cũng đã đóng vai trò trong
việc tạo ra những khủng hoảng, trên mức độ là chúng đã tạo điều
kiện cho những cạnh tranh trong cùng một quốc gia, những mâu
thuẫn bè phái, cũng như những ham muốn vật chất đã góp phần làm
cạn kiệt những nguồn tài nguyên giới hạn, làm nhiễm độc môi
trường, và chúng cũng góp phần đưa đến việc gia tăng dân số
thiếu bền vững. Về tổng quan, những giải pháp cho các vấn đề của
thế giới không thể tìm ra được từ những quan điểm ủng hộ việc ưu
tiên quyền lợi của một nhóm người này so với một nhóm người khác,
hoặc từ những quan điểm không đánh giá đúng đắn đuợc sự bình
đẳng và mối quan hệ hỗ tương của các sinh vật. Đối với những vấn
đề mang tính toàn cầu, cần phải có những giải pháp mang tính
toàn cầu.
Trong phạm vi họat động kinh tế, cả nền kinh tế thị trường tự do
và nền kinh tế tập trung đều không thể ngăn chặn một cách hữu
hiệu sự gia tăng về ô nhiễm môi trường-mối đe dọa cho sức khỏe
của toàn bộ hành tinh. Động lực về lợi nhuận- hiện đang giữ vai
trò chủ đạo của nền kinh tế thế giới- cũng khó có thể làm được
điều gì để ngăn chặn những mối cạnh tranh trong cùng một quốc
gia, và những bất công trong xã hội- những điều đang đe dọa đến
sự sống còn của nền văn minh nhân loại. Những hoạt động kinh tế
dựa trên nền tảng của ham muốn và cạnh tranh không bao giờ có
thể là nền tảng cho một thế giới hòa bình, yên vui và hạnh phúc.
Khoa học cũng bị giới hạn về khả năng đưa ra giải pháp cho những
khủng hoảng về môi trường và xã hội. Khoa học đã trang bị cho
chúng ta những công cụ để nhận diện những mối đe dọa về môi
trường, và cung cấp những giải pháp để thực sự giải quỵết những
mối đe dọa này, và phục hồi lại sức khỏe cho hành tinh. Tuy
nhiên, khoa học không thể cung cấp được những ý nguyện và tư
tưởng cần thiết để thực hiện được những giải pháp đó. Khoa học
đưa ra được những liều thuốc mới mẻ và qu ý báu hơn, tuy nhiên
lại không thể đưa ra những lối đi bình đẳng cho mọi nguời để
lấy được những liều thuốc này; và bản thân những liều thuốc mới
này cũng không thể chữa trị được những căn bệnh mới phát xuất từ
những vấn đề mới mẻ, hay những độc dược do chính khoa học đã
tạo nên.
Khoa học đã được sử dụng để khai thác ngày càng nhiều hơn nguồn
năng lượng từ môi trường, nhưng những người được hưởng lợi từ
nguồn năng lượng này lại ít có những giải pháp về mặt tài chính
để đối phó hay giải quyết những sản phẩm phụ độc hại từ nguồn
năng lượng này. Khoa học đã cung cấp những phương tiện để khai
thác ngày càng nhiều những thực phẩm từ trái đất, tuy nhiên
những người được hưởng những thục phẩm này lại ít có khả năng
hay có những giải pháp nào để đảm bảo việc phân phối một cách
công bằng nguồn thực phẩm này. Khoa học đã cung cấp những phương
tiện để tạo ra những vũ khí chiến tranh có khả năng hủy diệt tất
cả các nền văn minh trên trái đất,nhưng lại không thể cung cấp
trí tuệ để người ta không bao giờ sử dụng đến những vũ khí ấy.
Như vậy nguồn động lực, tri thức và những phương tiện hữu hiệu
để đề cập đến những vấn đề khó khăn ấy có thể được tìm thấy từ
đâu? Trong suốt hai thế kỷ vừa qua, càng ngày càng có nhiều
người Tây Phương đã chuyển hướng tư tuởng sang Phật Giáo nhằm
tìm ra một câu trả lời hữu l ý cho những cuộc khủng hoảng về xã
hội và môi trường mà xã hội hiện đại đang phải đương đầu. Phật
Giáo có thể cung cấp được nhân sinh quan và động lực cần thiết
để đề cập đến những vấn đề khó khăn và phức tạp của thế giới bên
ngoài chứa đựng những vấn đề về môi trường và xã hội, cũng như
thế giới bên trong chứa đựng những mâu thuẫn cá nhân mà mỗi sinh
vật đều gặp phải. Điều này đã đuợc ghi nhận bởi nhiều nhà lãnh
đạo nổi tiếng trong lịch sử tri thức của thế giới Tây phương
hiện đại. Lấy ví dụ như Albert Einstein- một nhân vật khá nổi
tiếng và có ảnh hưởng lớn trong giới khoa học.
Khi đề cập đến sự cần thiết phải có một tôn giáo chung trên toàn
cầu để hỗ trợ cho việc tìm hiểu thấu đáo về khoa học hiện đại,
Einstein đã phát biểu:
“Phật Giáo có những đặc trưng của một tôn giáo mang tính toàn
cầu trong tương lai mà mọi người mong đợi. Nó vượt xa hơn giới
hạn của việc thờ cúng cá nhân một vị thần hay thánh, và tránh
được chủ nghĩa giáo điều hay thần học; nó bao hàm cả lãnh vực tự
nhiên và siêu nhiên, và nó dựa trên một cảm nhận về tâm linh
xuất phát từ kinh nghiệm tiếp xúc với mọi vật, dù mang tính tự
nhiên hay siêu nhiên, như một tổng thể có ý nghĩa. Nếu có được
một tôn giáo nào có khả năng đáp ứng được những nhu cầu của khoa
học hiện đại, thì đó chính là Phật Giáo.”
Là một thành viên nổi tiếng của cộng đồng người Do Thái, và có
lẽ cũng là người có bộ óc siêu việt nhất về khoa học trong lịch
sử, Einstein đã tìm thấy ở Phật Giáo một quan điểm về thế giới
phù hợp với những quan điểm của khoa học, tuy nhiên ông đã thêm
vào đó một chiều sâu tôn giáo cần thiết để có thể hợp nhất giữa
tự nhiên và siêu nhiên. Chiều sâu tôn giáo này không thể giải
thích được bằng quan điểm khoa học thuần túy, tuy nhiên nó có
thể diễn tả một cách chính xác những vấn đề cần thiết về môi
trường và xã hội hiện đang là nguy cơ cho trái đất. Đó là một
tầm nhìn có thể “kết hợp tất cả mọi vật- tự nhiên hay siêu
nhiên- thành một thể thống nhất có ý nghĩa.” Triết lý Phật Giáo
đem lại một cách nhìn sự vật theo một phương thức có thể thống
nhất tất cả sự vật và sinh vật vào một tổng thể có liên quan hỗ
tương với nhau. Bất cứ ai chấp nhận quan điểm này đều sẽ chấm
dứt việc làm hại bất cứ sinh vật sống nào, hay hủy hoại môi
trường đang hỗ trợ cho sự sống của tất cả các sinh vật.
Những lời phát biểu của Einstein về khoa học và tôn giáo đã phản
ánh sự thán phục của ông về việc Phật Giáo làm cách nào để có
thể đem đến cho mọi người lòng từ bi và đạo đức- hai yếu tố rất
quan trọng trong nền văn hóa Do Thái, cũng như một quan điểm
logic mang tính phân tích tuyệt đối- nền tảng của những ý tưởng
khoa học. Ông đã tìm thấy ở Phật Giáo một hệ thống duy nhất kết
hợp được logic, từ bi, và đạo đức theo một phương cách có thể
mang đến một quan điểm thống nhất về thế giới và vũ trụ, và phát
huy quyền lợi cho tất cả mọi người. Einstein đã phát hiện ra
rằng Phật Giáo rất phù hợp với khoa học hiện đại. Tuy nhiên,
không giống như khoa học, Phật Giáo lại là một nguồn lợi ích và
hạnh phúc đáng tin cậy cho tất cả mọi người. Vì quan điểm này
xuất phát từ một nhà khoa học nổi tiếng nhất, nó đã là một động
lực đáng kể trong việc thúc đẩy các trí thức Tây Phương nghiên
cứu và thực hành đạo Phật.
Một nhà khoa học gốc Do Thái nổi tiếng khác, J. Robert
Oppenheimer, cũng đã nêu ra một vài lãnh vực rất tương đồng
giữa quan điểm của Phật Giáo và quan điểm của khoa học hiện đại.
Ví dụ như vì sao những thực tiễn cơ bản không thể l ý giải được
bằng những thuật ngữ hay quy cách phân loại theo đúng như quy
ước:
“Ví dụ như, nếu chúng ta đưa ra câu hỏi là vị trí của một
electron có cố định không, câu trả lời sẽ là ‘không’. Nếu chúng
ta đưa ra câu hỏi là vị trí của electron có thay đổi theo thời
gian không, câu trả lời sẽ là ‘không’. Nếu chúng ta đưa ra câu
hỏi là electron có ngừng chuyển động hay không, câu trả lời sẽ
là ‘không’. Nếu chúng ta đưa ra câu hỏi là electron có đang
chuyển động không, câu trả lời sẽ là ‘không’. Đức Phật đã đưa ra
những câu trả lời như vậy khi có người hỏi Ngài về những trạng
thái của cái “Ngã” của một người sau khi người ấy qua đời, nhưng
đó không phải là những câu trả lời quen thuộc đối với khoa học ở
thế kỷ XVII và XVIII.” [2]
Vì Einstein và Oppeinheimer đã nêu ra rằng học thuyết Phật Giáo
luôn luôn phù hợp với những quan điểm nội tại cao nhất của khoa
học hiện đại, nên nhà tư tưởng nhân đạo vĩ đại Albert Schweitzer
có thể phát biểu một cách mạnh mẽ về quan điểm đặc sắc của Phật
Giáo về Tứ Diệu Đế và các pháp giới. Việc xuất phát từ quan điểm
đạo đức Phật Giáo có thể giúp tìm ra được nền tảng cho những
giải pháp đối với những vấn đề của thế giới hiện đại. Nếu tuân
thủ những giới luật căn bản do Đức Phật đề ra [3], thì xã hội
sẽ được hòa hợp và sẽ khiến cho mọi người tự nhiên sẽ có trách
nhiệm đối với môi trường sinh sống.
Schweitzer đã phát biểu về Đức Phật Thích Ca Mâu Ni như sau:
“Người đã đưa ra những lời diễn giải cho những sự thật có tính
xác đáng tuyệt đối, và đã thúc đẩy sự phát triển của những nền
tảng đạo đức không những cho đất nuớc Ấn Độ mà còn cho cả nhân
loại. Đức Phật là một trong những nhà tư tưởng tài ba lỗi lạc
nhất đã từng hiện tiền trên thế giới này.” [4]
Nếu Einstein và Oppenhemmer là hai nhà tư tưởng vĩ đại của giới
khoa học gia Tây phương, thì Albert Schweitzer lại là một người
anh hùng văn hóa Tây phương trong lãnh vực nền tảng đạo đức và
các hoạt động từ thiện. Việc mỗi nhân vật nổi tiếng như đã nêu
trên tỏ lòng thán phục Đức Phật với những quan điểm riêng xuất
phát từ kinh nghiệm sinh sống và làm việc của mình là minh chứng
cho ảnh hưởng ngày càng gia tăng của Phật Giáo đối với những
nhân vật xuất sắc trong nền văn hóa Tây phương. Ngoài những nhà
khoa học và những nhà tư tưởng đạo đức, các nhà tâm lý nổi tiếng
cũng đã tỏ lòng thán phục sâu sắc đối với Đức Phật. Lấy ví dụ,
Sigmund Freud và Carl Jung, đã nhìn nhận những hoạt động liên
quan đến nội tâm và những kỹ thuật trị liệu để làm gia tăng sức
khỏe tâm lý và hòa đồng xã hội theo những chiều hướng rất tương
đồng với tâm lý học Phật Giáo.
Freud đã từng phát biểu:
“Không điều gì có thể ngăn cản việc chúng ta quán sát bản ngã,
hoặc sử dụng tri thức của mình vào việc tự phê phán bản thân.
Trong lãnh vực này, đã có một số nghiên cứu được thực hiện - với
những kết quả dù chưa thể khắng định chắc chắn nhưng có thể làm
nền tảng cho việc xây dựng một Weltanschauung???”
[5]
Mặc dù Freud không tỏ ý thán phục trực tiếp giáo l ý của Đức
Phật, những lời phát biểu của ông luôn phản ánh những ý tưởng
của Bậc Hiền Triết dòng họ Shakyas. Ông luôn luôn đề nghị việc
xây dựng một quan điểm mang tính toàn cầu dựa trên việc quán sát
không ngừng những hoạt động, những ý tưởng và những quá trình
tâm linh của từng cá nhân. Ông đòi hỏi mỗi người đều phải tự có
trách nhiệm với bản thân, và ông không thừa nhận những khuôn mẫu
mang nặng tính giáo điều hay ép buộc về hành vi hay ý thức.
Việc kiên định trong quá trình quán sát bản ngã là điều cần
thiết để giúp tìm ra được ánh sáng nội tâm dẫn dắt đến hòa hợp
trong xã hội và cứu chữa những vết thương của môi trường sống.
Khi một cá nhân còn chấp nhặt vào những nguồn kiến thức hay chỉ
dẫn từ bên ngoài, người đó sẽ rất dễ dàng chịu những ảnh hưởng
tác động bên ngoài, đưa đến những hành động đi ngược lại đạo l
ý, làm thương tổn những người khác và môi trường sống. Một cá
nhân thường quán sát nội tâm sẽ là một cá nhân nhận thức được
mối liên hệ mang tính nhân quả giữa hành động và hậu quả, và sẽ
cảm thấy sợ hãi không muốn làm thương tổn các sinh vật hay sự
vật, vì biết rằng việc làm thương tổn như thế sẽ đem lại một sự
trả thù.
Cũng như Freud, Carl Jung cũng mong muốn tìm ra sự thật thông
qua việc quán sát nội tâm và phân tích. Tuy nhiên, những nghiên
cứu của ông lại trực tiếp dẫn dắt ông đến với Phật Giáo nhiểu
hơn. Jung đã phát biểu như sau:
“Là một nhà nghiên cứu tôn giáo so sánh, tôi tin tưởng rằng Phật
Giáo chính là tôn giáo hoàn hảo nhất mà thế giới đã từng có
được. Triết lý về Thuyết tiến hóa và Luật Nhân Quả (Định Nghiệp)
đã vượt bậc rất xa so với bất kỳ tín ngưỡng tôn giáo nào.Căn
duyên dẫn dắt tôi đến với thế giới tư tưởng Phật Giáo không phải
là lịch sử tôn giáo hay những nghiên cứu triết học, mà lại là
công việc ưa thích của tôi- bác sĩ trị liệu. Công việc của tôi
là chữa trị những vết thương về tinh thần, và chính công việc
này đã thúc đẩy tôi đến việc quen thuộc với những quan điểm và
phương pháp của Bậc Đại Sư về lòng nhân đạo, với đề tài chính là
chuỗi nối tiếp Khổ- Lão- Bệnh- Tử.” [6]
Jung đã viết rất nhiều về Phật Giáo, và những tác phẩm của ông
đã dẫn dắt rất nhiều thế hệ người Tây phương vào con đường học
hỏi và thực hành đạo Phật. Jung đã tìm thấy ở Phật Giáo một
nguồn tài nguyên chân thực trợ giúp cho việc nhìn lại nội tâm
nhằm tiêu diệt tận gốc rễ những căn nguyên nỗi khổ đau của con
người. Ông đã tìm ra từ triết lý Phật Giáo một học thuyết tiến
hóa hoàn toàn phù hợp với học thuyết tiến hóa của Darwin, nhưng
đã có mặt trước học thuyết Darwin khoảng 25 thế kỷ. Từ những học
thuyết Phật Giáo, Jung không chỉ thấy được quá trình tiến hóa,
mà còn cả một tầm nhìn rộng lớn hơn về một vũ trụ có liên quan
và hỗ tương lẫn nhau, trong đó bất kỳ một hành động nào của một
cá nhân làm gây tổn thương cho một cá nhân khác hay cho môi
trường sống đều sẽ là tác nhân trực tiếp dẫn đến việc cá nhân đó
sẽ chịu khổ đau. Jung chịu ảnh hưởng sâu sắc từ những lời dạy
của Đức Phật khi ông tuyên bố rằng hạnh phúc thực sự được tìm
thấy không phải là từ việc theo đuổi và đạt được những của cải
vật chất hay cảm giác dục lạc, mà là từ việc nhận biết được một
sự thật tiên nghiệm. Sự chữa trị những vết thương gây ra do
những khủng hoảng về xã hội và môi trường trong thời đại của
chúng ta chỉ có thể xuất phát từ quan điểm này mà thôi.
Trong lãnh vực triết lý Tây phương, nhiều nhà tư tưởng nổi tiếng
cũng đã từng ca ngợi Phật Giáo về những cống hiến to lớn của nó
trong việc tìm ra căn nguyên của thực tại và những ý tưởng tự do
cho toàn nhân loại, cũng như hạnh phúc cho muôn loài. Chẳng hạn
như Frederick Nietszche đã từng nhấn mạnh đến tính duy thực và
tính nhẫn nhục- hai đặc tính của đạo Phật- như sau:
“Đạo Phật mang tính thực tiễn cao hơn gấp hàng trăm lần so với
những tôn giáo khác. Đạo Phật bắt đầu bằng việc tiếp nhận mọi
một cách hòa nhã và khách quan mọi vấn đề. Đạo Phật đã đi sâu
vào đời sống sau nhiều năm phát triển về phương diện triết lý.
Khái niệm về Thượng Đế cũng biến mất ngay sau khi khái niệm ấy
vừa xuất hiện, và việc cầu nguyện cũng không được đặt thành vấn
đề. Việc tu khổ hạnh cũng thế. Không hề có những áp đặt theo
khuôn mẫu. Hoàn toàn không có sự ép buộc, ngay cả trong cộng
đồng tu sĩ. Vì thế, không có việc kình địch hay chống đối lại
những cộng đồng các tín đồ của những tôn giáo khác. Những lời
giáo huấn trong đạo Phật không nhằm mục đích chỉ trích bất cứ
điều gì ngoại trừ các cảm giác hiềm thù, thù hận và oán giận.”
[7]
Nietszche tỏ ý rất khâm phục phương pháp mà Đức Phật đã dạy để
chịu đựng kiên nhẫn các tai ương. Khi đã hiểu được rằng tai ương
tồn tại và xảy ra cho bất cứ sinh vật nào trên trái đất, thì
sinh vật ấy không nên hoảng sợ tìm cách tránh né hay làm tai nạn
chệch hướng đi, mà nên tuân theo con đường tu tập chính đáng.
Việc này, theo như Nietszche nói rõ hơn, không hề liên quan đến
các thần linh hay ma quỷ, hay đến những lời cầu nguyện những đối
tượng này. Đạo Phật không chấp nhận sự ép buộc, mà nhấn mạnh
việc tự giải thoát và trách nhiệm của mỗi cá nhân.Với lối suy
nghĩ như thế, Phật Giáo hoàn toàn có thể chung sống hòa bình với
những tôn giáo khác, và chỉ nhắm đến mục tiêu tối thượng là tiêu
diệt những “kẻ thù trong tâm”- tham, sân, si.
Nhiều văn sĩ và thi sĩ vĩ đại ở thế kỷ XIX, XX, và hiện nay là
thế kỷ XXI đã xem đạo Phật là một nguồn quán chiếu nội tâm và
cảm hứng sáng tác. Việc ca ngợi giáo lý đạo Phật của họ đã làm
cho vô số những người dân Tây phương chú ý đến đạo Phật. Một
người tiêu biểu từ khá lâu đời trong số những văn sĩ- thi sĩ này
là Sir Edwin Arnold, nhà thơ được giải thưởng lớn về văn chương
của Anh Quốc, người đã xuất bản tập thơ nổi tiếng The Light of
Asia [8] của mình vào năm 1879. Ông đã viết như sau:
“Về niên đại, vì thế, các tôn giáo khác đều rất trẻ so với tôn
giáo đáng kính này. Tôn giáo này chứa đựng sự vĩnh cửu của một
niềm hy vọng của toàn thế giới, sự bất tử của một niềm thương
yêu vô hạn, một niềm tin không thể hủy diệt được vào cái thánh
thiện tột cùng, và sụ khẳng định một cách tự hào nhất từ trước
đến nay về tự do nhân loại.”
Những lời ca ngợi đạo Phật của Arnold đã ảnh hưởng nhiều đến
những tác phẩm của ông về cuộc đời và sự nghiệp của Đức Phật.
Những tác phẩm này đã có tác động rất lớn đến nhiều thế hệ người
Tây phương trong việc tìm hiểu về giáo lý của đạo Phật, và trở
nên hạnh phúc, hiền hậu dịu dàng và tốt bụng hơn. Đặc biệt hơn,
Arnold đã giải thích được cái đẹp của mục tiêu tối thượng trong
việc thực hành đạo Phật- đó là trạng thái được giải thoát hoàn
toàn. Đây là trạng thái, theo ông giải thích, là trạng thái “
tốt đẹp tối thượng”, được biểu hiện bằng “tình thương vô hạn”,
và giải thoát hoàn toàn. Chính vì biết được những thực tế của
mục đích tối thượng này mà các tín đồ Phật Giáo đã có thể chịu
đựng được bất cứ một sự gian khổ nào với sự nhẫn nại đáng ngợi
khen, và đáp lại những sụ nhục mạ của người khác bằng tấm lòng
từ bi và tình thương. Tình thương vô biên và sự giải thoát hoàn
toàn không chỉ là những tính chất trừu tượng của một mục tiêu xa
xôi, mà chúng tồn tại một cách lâu dài ngay trong tâm trí một cá
nhân đã thật sự đi vào con đường của Phật.
Tác phẩm của Arnold cũng là một nguồn ảnh hưởng vô tận đối với
những người đang tìm kiếm một thế giới tốt đẹp hơn. 127 năm sau
khi tác phẩm The Light of Asia ra đời, hang trăm cuốn
sách có giá trị khác về đề tài Phật Giáo đã được xuất bản bằng
tiếng Anh, và hàng trăm kinh điển Phật Giáo đã được dịch ra
tiếng Anh hay các ngôn ngữ Tây phương khác. Những tác phẩm này
thường được tìm thấy trong các thư viện và nhà của những người
đang đi tìm thực tại nội tâm và những nguồn cảm hứng trong quá
trình tìm kiếm những giải pháp cho những khủng hoảng về xã hội
và môi trường.
Những lời dạy của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được dịch ra nhiều
ngôn ngữ phương Tây, đã trở thành những lời hướng dẫn rõ ràng và
ảnh hưởng sâu sắc đối với những người đang đi tìm một phương
thuốc chữa trị cho xã hội và môi trường. Đức Phật đã thuyết pháp
khá nhiều về những giải pháp cho những vấn đề toàn cầu. Một ví
dụ cơ bản có thể tìm được trong Kinh Từ:
“Người khôn khéo mưu tìm lợi ích cho mình và có ước nguyện thành
đạt trạng thái Vắng Lặng nên có hành động như thế này: Người ấy
phải có khả năng, phải chánh trực, hoàn toàn chánh trực, kín
đáo, tế nhị, khiêm tốn. Người ấy phải tri túc, dễ nuôi, có ít
nhiệm vụ, sống dễ dàng, thu thúc lục căn, biết suy xét, không
luyến ái gia đình.Người ấy không nên vi phạm ngay cả những lỗi
lầm nhỏ bé nhất khiến bậc thiện trí có thể khiển trách. Người ấy
nên luôn luôn giữ chánh niệm như sau:
Ước mong tất cả chúng sanh được an vui và châu toàn! Ước mong
tất cả đều có tâm hoàn toàn trong sạch. Bất luận chúng sanh ấy
như thế nào: - yếu đuối hay khỏe mạnh, cao lớn mập mạp hay tầm
vóc bình thường, lùn thấp bé nhỏ, hữu hình hay vô hình, những
chúng sanh ở gần hay những chúng sanh ở xa, những chúng sanh đã
ra đời hoặc những chúng sanh chưa sanh - Ước mong tất cả chúng
sanh, không loại trừ bất luận ai, đều có tâm an lành hạnh phúc.
Không để ai làm cho ai thất vọng, không ai khinh bỉ ai, dù người
như thế nào hoặc ở nơi đâu. Trong cơn giận dữ hay lúc oán hờn,
không nên mong điều bất hạnh đến với người khác. Cũng như bà từ
mẫu hết lòng bảo bọc đứa con duy nhất của bà dù có hiểm nguy đến
tính mạng, cùng thế ấy người kia trau giồi tâm Từ vô lượng vô
biên, rải khắp mọi chúng sanh. Hãy để những tư tưởng từ ái vô
biên bao trùm toàn thể thế gian -bên trên, phía dưới, bốn phương
tám hướng- không để cho điều gì làm trở ngại, không mảy may nóng
giận, không chút hiềm thù.”
Theo lời của Đức Phật trong bài thuyết pháp đầu tiên của Ngài
tại Vườn Lộc Uyển tại thành Sarnath, nguyên nhân của tất cả
những nỗi khổ đau là klesha, một khái niệm bao hàm tất
cả những trạng thái của tâm buồn khổ như hôn trầm, si mê, xan
tham, dối lừa, sân hận, ghét ghen… Điều này là sự thật ở mức độ
cá nhân (nỗi khổ đau riêng của từng người), ở mức độ xã hội (các
vấn đề về xã hội), và ở mức độ môi trường (như ô nhiễm, hay hiện
tượng trái đất ngày càng nóng lên, v.v..) Khi tận diệt được
klesha, lúc đó con người sẽ đạt đến trạng thái Vô Dư Niết
Bàn. Một xã hội có càng ít klesha sẽ là một xã hội hạnh
phúc và khỏe mạnh, và sẽ luôn chú ý đến sự phát triển một môi
trường sống lành mạnh và trong sạch. Các klesha được
đoạn trừ bằng cách tu tập theo con đường như đã nêu ra trong
trích đoạn Kinh Từ. Con đường này được biểu hiện qua việc giữ
chánh tâm, sống khiêm tốn, tế nhị, sống một cuộc đời đơn giản,
ít đam mê dục lạc, không sân, si, và đối xử với tất cả chúng
sanh như một người mẹ nhìn đứa con duy nhất của mình- với tâm Từ
vô lượng vô biên.
Lời trích dẫn ở trên (“Nguyện tất cả chúng sanh đều đuợc an
lạc”) là một minh chứng cho lòng Từ tâm vô hạn đã được ghi lại
trong các kinh điển của Phật Giáo- Đại Thừa và Tiểu Thừa. Lòng
Từ như vậy chính là tâm điểm trong những lời dạy của Đức Phật,
và là yếu tố chính làm nền tảng dẫn đến việc khôi phục lại xã
hội và môi trường. Sự vô biên vô lượng của lòng Từ như thế thật
không thể lấy gì làm thước đo được. Những lời nói có thể được
nhắc đi nhắc lạimột cách dễ dàng, nhưng rất khó cho một người
bình thường trên thế gian có thể tin được là những lời này đã
an trú trong tâm của những con người đang cố gắng thực hiện lòng
Từ này qua Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp. Chỉ nhờ vào
những thực thể như vậy trong cuộc sống mà một người bình thường
có thể tin vào pháp lực vô biên và sự thành tựu của những pháp
này.
Không những chỉ có những lời thuyết pháp hùng vĩ của Đức Thế
Tôn, mà hàng ngàn bộ kinh điển chứa đựng những lời giáo hóa khác
của Ngài, và những nhận xét về những lời dạy đó, đã xuất hiện
trên thế giới hơn 2000 năm nay. Điều không may là mỗi người nghe
được những lời dạy đó lại không cần thiết phải ghi nhớ thuộc
lòng. Ngay cả từ thời Đức Phật còn tại thế, một số đệ tử của
Ngài chỉ đơn thuần nghe những lời dạy của Ngài, nhưng không bao
giờ ghi nhớ chúng. Hầu hết những người dân của quốc gia mà Đức
Phật xuất thân chỉ tiếp tục hưởng thụ những thú vui trần tục mà
không chú ý gì nhiều đến cơ hội qu ý báu được nghe và hành trì
theo lời dạy của Đấng Giác Ngộ. Trong thế giới các nước Âu Châu
và châu Mỹ, những lời dạy của Đức Phật đã được phổ biến một cách
rộng rãi, tuy nhiên, cho đến nay số những người thực hiện đúng
nghĩa những lời dạy của Ngài vẫn là một con số rất nhỏ; tuy
nhiên những người này lại có một ảnh huởng khá sâu rộng.
Như vậy những người Tây phương đã bắt đầu nghe và ghi nhớ những
lời dạy của Đức Phật đến mức độ nào? Ngoài những lời khuyên của
những nhân vật nổi tiếng ở Tây phương như đã đề cập ở trên,
phương tiện chính yếu để truyền bá những lời dạy đó chính là
những “ ví dụ sống”- những vị sư Phật Giáo đã đến các nước
phương Tây. Người có vai trò đặc biệt quan trọng là Đức Dalai
Lama đời thứ 19, người đã đi vòng quanh thế giới để truyền bá
những lời dạy của Đức Phật bằng những buổi thuyết pháp và các ví
dụ, tạo giải thoát cho nhiều tâm linh và làm cảm động nhiều trái
tim khác ở bất cứ nơi nào mà Ngài đã đi qua.
Tâm trí của hầu hết người Tây phương đều có thể chịu ảnh huởng
của những buổi thuyết trình mang tính học thuật và những vần thơ
phú. Tuy nhiên, những nhân cách lớn thường có sức thuyết phục
rất mạnh để dẫn dắt mọi người đi vào việc hành đạo. Những lời
dạy của Đức Phật, nếu chỉ được nghe qua lời giảng của một học
giả ở một trường đại học, hay từ một thi sĩ tại một quán cà phê,
thì không thể nào có thể sức mạnh thuyết phục như khi chúng được
giảng bởi một người đã thệ nguyện quy y giữ giới sống trong một
tu viện Phật Giáo, và giữ được những giới này trong điều kiện có
nhiều chướng ngại lớn lao và những áp lực từ bên ngoài. Những tu
sĩ Phật Giáo như Đức Dalai Lama và đoàn thể những tăng sĩ của
Ngài đã đi sang các nước Tây phương theo lời mời của các sinh
viên và các phật tử. Họ đã thấy rằng những lời thuyết pháp của
mình đã được lắng nghe một cách chăm chú bởi những thính giả Tây
phương- những người rất nể trọng những hy sinh mà các tu sĩ này
đã phải làm để giữ được những lời phát nguyện của họ, và tiếp
tục hành đạo ngay cả trong những điều kiện khắc nghiệt nhất.
Những tu sĩ sẵn sàng từ bỏ mạng sống và tự do riêng của mình
thay vì từ bỏ những lời phát nguyện và giớ luật thì rất xứng
đáng được mọi người coi trọng như thế.
Hàng ngàn cuốn sách và kinh điển Phật Giáo có thể đã chỉ nằm im
trong các thư viện ở các nước phương Tây, và ít mang lại được
ảnh hưởng gì đối với mọi người. Tuy nhiên, những hành động anh
hùng của các vị như Bồ Tát Thích Quảng Đức đã tạo một hiệu quả
tức thời, sâu sắc và lâu dài đối với hàng triệu người. Những lời
giáo hóa của các thiền sư như Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh- người
đã rất khéo léo và không mệt mỏi thuyết pháp cho hàng triệu sinh
viên, đã có một ảnh hưởng rất lớn lao ở phương Tây. Lịch sử hành
đạo và những lời giáo hóa của các thượng tọa như Thượng Tọa
Thích Trí Siêu đang ngày càng được nhiều người quan tâm theo dõi
ở các nước Tây phương. Càng ngày càng có nhiều công dân Mỹ ở các
trường đại học lớn và những sinh viên chuyên ngành Phật học tìm
đến xin ham vấn các vị sư có ảnh hưởng lớn lao này, và luôn luôn
cầu nguyện cho sức khỏe và sự thành công trong việc hoằng dương
Phật pháp của các vị.
Thế giới hiện nay có nhiều thách thức lớn lao như những nỗi đe
dọa thường xuyên về khủng bố, sự áp bức, chiến tranh giữa các
quốc gia, và xung đột dân sự. Những chứng bệnh mới đã xuất hiện,
đe dọa sức khỏe của chúng ta, và những cải cách kinh tế cũng đe
dọa đời sống của chúng ta. Ô nhiễm môi trường làm nhiễm độc
không khí, đất đai và mặt nước, và dẫn đến những vấn đề khủng
khiếp đi kèm với hiện tượng trái đấtngày càng nóng lên. Việc
bùng nổ dân số đã đặt áp lực ngày càng lớn lên những nguồn tài
nguyên đang ngày càng cạn kiệt, và dẫn đến tình trạng đói nghèo,
bệnh tật, chiến tranh, xung đột, ô nhiễm, ngày càng gia tăng.
Những thách thức này thật lớn lao. Cơ hội tìm được một giải pháp
thực sự vẫn tồn tại, tuy nhiên rất ít. Chúng phụ thuộc vào việc
có đủ hay không những người có đủ tính can đảm, khắc cốt ghi tâm
những lời dạy của Đức Phật, noi gương những vị tăng sĩ của đất
nước Việt Nam tươi đẹp này- những người đã chấp nhận hiến dâng
cuộc đời mình để lòng Từ bi của Đức Phật sẽ tiếp tục làm thế
giới trở nên tốt đẹp./.
|