Năm ước mơ của một
Phật tử và
mười điều
cấp thiết mà Phật giáo VN
không thể thiếu
TS.
Hồng Quang, Hoa Kỳ
Kính
thưa quý vị:
Là một
Phật tử có liên hệ gián tiếp hoặc trực tiếp với các hội đoàn
Phật giáo trong cũng như ngoài nước, là một trong những người có
nhiều niềm vui nhưng cũng không ít những băn khoăn trăn trở về
sự thăng trầm của một Phật Giáo Việt Nam trong bối cảnh đất nước
và thế giới hiện nay, nên mặc dù thiện chí và tâm huyết có thừa
nhưng cách trình bày và phát biểu thì không thiếu những điều bất
cập, kính xin sám hối và đảnh lễ chư Tôn Đức Tăng Ni và quý
thiện hữu tri thức Phật tử, xin quý ngài và quý vị từ bi hỹ xã
nếu có những ngôn từ và suy nghiệm chưa chuyên chở được thiện ý
và thiện tâm trong lúc trình bày năm ước mơ của một người Phật
tử và đề nghị mười điều cấp thiết mà Phật Giáo Việt Nam không
thể thiếu.
NĂM ƯỚC MƠ
- Cơ
cấu tổ chức Giáo hội
- Giáo
dục Phật Giáo
- Sự
liên hệ giữa Phật Giáo và Nhà nước
- Một
đạo Phật nhập thế
- Cải
tiến Hoằng Pháp
1. Ước
mơ thứ nhất: Cơ cấu tổ chức Giáo hội
Tránh
tình trạng phân rẽ như Việt nam Quốc tự và Ấn quang trước đây,
vốn đã là điều bất hạnh trong lịch sử Phật giáo. Do đó, chỉ cần
có một giáo hội duy nhất và thống nhất từ Bắc chí Nam, từ trong
ra ngoài nước để hộ quốc an dân và truyền bá chánh pháp đến khắp
các thôn ấp làng mạc cũng như đến các quốc gia khác trên thế
giới.
Giáo
hội cần có ít nhất là bốn đặc điểm chính sau đây:
a.
Giáo hội thực sự kế truyền mạng mạch của chư Phật chư Tổ, được
tưới tẩm un đúc từ các lịch đại tổ sư, từ các triều đại vàng son
Trần- Lý. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam phải là một giáo hội Phật
thực sự. Một giáo hội qui tụ đầy đủ tứ chúng, biết hổ trợ, tương
kính trong các chương trình hoằng pháp lợi sanh. Giáo hội đủ tầm
cở để làm chỗ qui hướng cho tăng tín đồ như cha mẹ luôn che chở
cho đàn con thơ dại.
b.
Hàng giáo phẫm là những tấm gương về đạo hạnh để làm phương châm
cho giới đức của tăng tín đồ, là những ngôi sao bắc đẫu để hàng
hàng lớp lớp tăng ni Phật tử qui ngưỡng hướng về như người đi
lạc đường giữa đại dương tăm tối tìm được la bàn và ánh sáng để
đến được đất liền. Hàng tăng ni trẻ là những người có tu và thực
học, có đủ hành trang để vận dụng lời Phật dạy mà chuyển Pháp
Luân trong thời đại mới, và hàng cư sĩ là những người mang hạnh
bồ tát để hộ đạo giúp đời.
c.
Giáo hội cần phải trẻ trung, năng động, đủ khả năng đáp ứng nhu
cầu cần thiết cho một quốc gia Việt nam trên đà phát triển. Nhân
sự của Giáo hội phải có đủ kiến thức và bản lãnh để đối diện
trước một thế giới đang bị toàn cầu hóa, có nghĩa là đang bị xâm
thực hóa ở mức độ sâu sắc và toàn diện nhất trong tất cả các
lãnh vực.
d.Một
Giáo hội nằm trong khuôn khổ luật pháp quốc gia nhưng không bị
ràng buộc bởi các điều kiện của các hiệp hội thế tục. Một giáo
hội không bị chi phối bởi xu hướng và quyền lực chính trị, không
bị ảnh hưởng, bị sức ép hay trúng kế ngoại bang.
2. Ước
mơ thứ 2: Vấn đề giáo dục Phật giáo:
Bốn
chúng đệ tử của Phật, hàng Tăng Ni được xem là trưởng tử Như
Lai. Tăng Ni là những vị lãnh đạo, là đoàn thể nguyện sống cuộc
đời tỉnh thức và hướng dẫn tín đồ. Một người lãnh đạo hoặc hướng
dẫn kẻ khác thì phải đi trước, ít nhất là đi “ngang hàng” với
quần chúng chứ không thể “đi sau” mà có thể lãnh đạo được người
đi trước. Do đó, Tăng Ni cần phải được đào tạo quy mô, phải được
trang bị đầy đủ hành lý để lãnh đạo và “lên đường” phục vụ.
Thành
phần Tăng Ni lớn tuổi: Trong thời kỳ chiến tranh và sau khi đất
nước thống nhất, nhiều Tăng Ni thiếu sở học vì hoàn cảnh và
luống tuổi không thể vào trường lớp, nhưng vẫn chưa có chương
trình bổ túc văn hóa, bổ túc kinh-luật-luận. Vì thế, một số ít
Tăng Ni đã tạo ra nhiều trở ngại không nhỏ cho cho các hành hoạt
từ chốn thiền môn ra ngoài xã hội, nhất là tại nước ngoài.
Một số
ít bị lôi cuốn vào con đường thế tục sai lầm, nhất là con đường
chính trị thủ đoạn vì thiếu nhận thức. Một trong những hệ quả
của tình huống nầy là tạo ra tình trạng thiếu hoà hợp trong Tăng
giới và gây chia rẻ trong cọng đồng Phật tử. Thí dụ điển hình là
bốn nhà sư ở California và một số ít cư sĩ bị xúi bẩy để phe ta
đánh phá phe mình. Hoặc những vụ chống đối chư tăng như chống
Hòa Thượng Thanh Từ, TT. P. Trí, TT. K. Chơn..., ra chữa bệnh,
giảng diễn hoặc tham quan tại Hoa Kỳ. Toa rập với kẻ khác để
chống đối Thiền sư Nhất Hạnh sau lời tuyên bố về nạn khủng bố
11.9.2001 tại Mỹ, và chống lúc thầy dẫn đoàn đệ tử về thuyết
giảng tại Việt Nam năm 2005. Còn Hồng y Crescenzio Sepe cũng dẫn
phái đoàn Vatican đến Việt nam thì tất cả đều im phăng phắc.
Chức sắc của các tôn giáo khác xuất ngoại như đi chợ, ra nước
ngoài quyên tiền, ngay cả tiền của Phật tử, để về làm công tác
đổi đạo nhưng không thấy 4 nhà sư và số Phật tử nói trên lên án
họ là Cọng sản hoặc chụp bất cứ một loại mũ nào.
Lớp
trẻ mới xuất gia:Sau những năm kinh tế nước nhà bắt đầu phát
triển thì đợt sóng con em Phật tử trẻ xuất gia đầu Phật cũng gia
tăng. Trong lớp tuổi xuất gia nầy có nhiều em xuất thân từ Gia
đình Phật tử, họ mang một hoài bảo rất lớn, tràn đầy đức tin và
nhiệt huyết muốn hộ đạo giúp đời, mang giáo pháp của đức Như Lai
đến vớitha nhân và đồng loại. Bên cạnh đó cũng không thiếu những
em xuất gia vì lý do kinh tế gia đình. Vị trú trì trong một số
tự viện lại thu nhận người xuất gia quá tải nên không đủ thì giờ
để giáo huấn, không đủ khả năng kinh tế để nuôi dưỡng và không
đủ điều kiện để gởi đến trường mà phần lớn phải đi làm rẫy, làm
nhang đèn ... để có cái ăn cái mặc. Thành phần Tăng Ni thiếu tu
và nhất là thiếu học nầy vô tình là nạn nhân của một vài vị trú
trì do lòng từ bi nên thu nhận điệu chúng vượt ngoài khả năng
nuôi dưỡng và thiếu phương tiện để cung ứng một nền giáo dục cần
thiết. Thành phần tu sĩ đáng quí và cũng đáng thương nầy sẽ trở
thành những tai hại cho Phật giáo. Hệ quả thất học thiếu tu của
một số ít Tăng Ni trẻ cũng có thể tạo ra tình trạng đường đường
tăng tướng hành động khả nghi. Một số hành vi nhỏ của vài Tăng
Ni tội nghiệp nầy sẽ tàn phá niềm tin của tín đồ và tạo sự đàm
tiếu xấu xa từ quần chúng trong xã hội.
Một
mặt khác, hiện nay chương trình cao đẳng và cao cấp Phật học
chưa được công nhận tương đương với văn bằng tú tài hoặc cử nhân
bên ngoài nên một số Tăng Ni phải ôm đồm một lúc hai chương
trình học vấn, một trong đạo và một ngoài đời. Kinh nghiệm cho
thấy, muốn biết thì cần phải học. Nhưng học quá nhiều thì cái gì
cũng biết, nhưng không biết được cái gì cả. Tình trạng bằng cấp
không tương đương sẽ tạo ra một khó khăn tâm lý xã hội rất tai
hại khác. Một số tăng ni trẻ, sau khi đỗ cao đẳng hoặc cao cấp
Phật học, nhưng không đủ cơ duyên để tiếp tục đường tu, họ muốn
trở về đời sống của một người cư sĩ tại gia bình thường, nhưng
vì nhiều năm miệt mài trong những trường lớp của giáo hội với
bằng Cao Đẳng và Cao cấp Phật học là những văn bằng rất quí,
kiến thức rất cao,thậm chí có thể cao hơn trình độ tương đương
học vấn bên ngoài, nhưng chưa được thừa nhận như học trình của
Bộ Giáo dục và Đào tạo, nên những vị ra đời nầy không thể xin
một chức thư ký trong các cơ sở hoặc một chức giáo viên tiểu học
hay giáo sư trung học mà phải lao động chân tay để nuôi sống bản
thân. Nhưng loại lao động chân tay như phụ thợ hồ hay đạp xích
lô thì không những không có sức mà còn thấy hổ thẹn nữa. Mặc dù
biết rõ mình thiếu duyên để tiếp tục đường tu, nhưng những vị
nầy vẫn cố bám vào chốn thiền môn, thân thì ở trong đạo, nhưng
tâm đã dong ruổi bên ngoài. Sự phá giới phạm trai không thể
không xẩy ra. Hành động lẻ tẻ nầy cũng đủđể mang uy tín của giới
Tăng bảo xuống tận bùn đen và làm lung lay niềm tin kính của tín
đồ đối với Giáo hội, với Tăng bảo mà họ hằng ấp ủ.
Gia
đình Phật tử:Đây là thế hệ con em kế thừa mạng mạch của Phật
giáo để truyền trì chánh pháp. Nếu vắng bóng thành phần nầy Phật
giáo Việt nam không những giống như một gia đình thiếu người nối
giỏi tông đường mà còn là một gia đình bị tuyệt tự và bị xóa tên
trong sổ bộ đời. Thế nhưng nhiều năm qua có không ít đơn vị GĐPT
đã không thể sinh hoạt trong khuôn viên của nhiều tự viện ở
trong cũng như ngoài nước.
Ở nước
ngoài, một số GĐPT, nhất là thành phần huynh trưởng, vì không
đứng trong Giáo hội nầy hay Giáo hội khác nên bị chụp mũ là Cọng
sản. Cái mũ rách nầy cũng có sức tàn phá sự nhất quán đã xuyên
suốt trong tình áo lam muôn thuở. Hệ quả là thay vì dùng thì giờ
nghiên cứu đường hướng để dẫn dắt các em trong một xã hội mới,
trong môi trường và thời đại tin học toàn cầu, thì một số huynh
trưởng “nằm ngủ”, số khác phải mất công cải chính luận tà vì bị
chụp mũ Cọng sản nên phải cầm cờ chạy theo người khác, chống
Cọng chết bỏ để minh oan mà họ lại không biết là đã trúng kế.
Thật
ra, chống cọng cũng dể hiểu, tại sao không? Lúc ra chợ mua một
vật nhỏ như trái cam, trái chanh cũng phải đắn đo cân nhắc giá
trị trước lúc bằng lòng trả tiền. Thế nhưng sau ngày 30 tháng 4.
1975, nhiều người phải mất xe hơi, nhà lầu, chức tước địa vị,
mất người thân yêu mà còn bị tù, có người bị đi cải tạo học tập
hơn cả chục năm nữa. Thời gian trôi qua sẽ mang theo cả ân lẫn
oán, cả bạn lẫn thù đối với một số người, nhưng những người khác
lòng hờn oán chưa quên oan khiên chưa trả, chúng ta nên thông
cảm và chia xẻ quan điểm chống cọng của họ. Vua Trần Nhân Tông,
thay vì phải cắt da xẻ thịt đám tù binh người Nguyên Mông cho hả
giận vì chúng sang cướp nước ta, nhưng ngài sai các quan cho họ
ăn uống đầy đủ, cấp lương thực và hộ tống ra biên giới để trở về
với cha mẹ, vợ con đang đêm ngày mỏi mòn đợi chờ. Vì lòng từ bi
vô lượng nầy của nhà Vua, nên hai lần quân giặc xuất binh kế
tiếp để chinh phạt nước ta, các cựu tù đó người thì trốn khỏi
hàng ngũ, kẻ thì rã rời tay chân không có tinh thần chiến đấu vì
nghĩ đến đức độ chưa từng có của một ông vua nước Nam. Vua Trần
Nhân Tông là bậc đại Thánh, là một vĩ nhân đầy đức từ bi hỹ xã
mà không phải ai cũng có thể làm được như ngài. Dó đó, chúng ta
nên hiểu tâm tình của cả người thắng trận lẫn người thua trận,
và cũng nên thông cảm thành phần chống Cọng vì họ cảm thấy quá
uất ức không thể chịu nỗi.
Thành
phần chống Cọng khác thì nghĩ rằng chủ nghĩa Cọng sản không tốt
và bộ máy hành chánh có nhiều trì trệ tiêu cực. Có kẻ thì hoài
Ngô, thương nhớ VNCH. Đây cũng là tâm trạng của nhiều người sau
những triều đại bị phôi pha trước cảnh vật đổi sao dời. Chính bà
huyện Thanh Quan, một nữ sĩ tài hoa, cũng đã không dấu nỗi tâm
tình hoài Lê lúc bước đến đèo Ngang trong buổi chiều tà. Do đó,
chúng ta nên thông cảm tâm tình của tất cả các nhóm người chống
Cọng nêu trên.
Mặt
khác, nạn tham nhũng, hối lộ, cửa quyền, bất chấp pháp luật và
thể diện quốc gia của một số ít cán bộ, viên chức Nhà nước cho
nên họ chống và cũng cần phải chống, chống vì cảm thấy sự vinh
nhục của tổ quốc nghìn đời yêu dấu cũng là sự vinh nhục của
chính mình. Chống để góp phần trừ quốc nạn tham nhũng.
Nhưng
chúng ta, những người Phật tử theo cái tôn giáo trí tuệ thì phải
hiểu rằng ngoài những khuynh hướng chống Cọng cần thông cảm và
cần có nêu trên, cũng có không ít những người luôn luôn muốn
Việt nam nội chiến để bán khí giới và can thiệp vào nội tình của
tổ quốc ta. Lúc nước mất nhà tan thì họ sẽ viện trợ và đổi đạo
để biến những người Việt nam yêu nước trở nên kẻ cuồng tín, ly
khai với tổ quốc để làm tay sai cho họ. Cuối cùng là thành phần
chống tổ quốc, chống dân tộc núp dưới chiêu bài chống Cọng thì
Phật tử nên cảnh giác, phải biết rõ chủ trương và mục đích của
họ, đừng để bị trúng kế.
Căn cứ
trên thực tế và đứng trên quan điểm giáo lý đạo Phật mà nói, thì
người Phật tử, nhất là chư Tăng Ni, không bao giờ nên chống ai,
không bao giờ tạo sự đối kháng hoặc đối đầu mà cần đối thoại,
cần thông cảm. Hằng chục năm trời thiếu cơ hội để cầm bút mà
phải cầm súng để đánh đuổi ngoại xâm, thống nhất đất nước nên
một số ít viên chức nhà nước chắc chắn không tránh khỏi những
điều bất cập. Nhưng nếu chúng ta ở trong hoàn cảnh ấy, chưa ai
đoán được tình huống sẽ ra sao. Để xây dựng, chúng ta nên khách
quan phê bình những việc sai trái của nhà cầm quyền tại bất cứ
quốc gia nào mà chúng ta đang sống, nhưng bên cạnh đó, chúng ta
cũng nên ca ngợi, tán thán công đức những việc làm đúng đắn của
bất cứ chính quyền nào của bất cứ quốc gia nào mang lại ích lợi
cho người dân.
Nhưng
rất tiếc trong nhiều năm qua, trong nước cũng như tại hải ngoại,
có một số ít tăng ni và Phật tử đã bị vài “cậu ấm” có tâm nhưng
thiếu trí cố vấn sai lầm dẫn theo con đường đối kháng không cần
thiết. Có người thì lợi dụng Phật Giáo, họ muốn quý thầy phải
nằm vạ chính phủ Việt nam để khai thác cho mục tiêu chính trị
đen tối có lợi cho ngoại bang, kẻ thì đưa tin thất thiệt thổi
phồng vụ việc để kiếm sống bằng ngân khoản của CIA Mỹ (1). Trong
nhiều buổi lễ Phật Đản, ta thấy một không khí đối kháng chống
Cọng chết bỏ. Một vị tăng trọng tuổi, hơn ba mươi năm sống ở
nước ngoài, Phật tử chưa thấy ngài đóng góp được gì đáng kể cho
Phật giáo, nhưng cứ luôn luôn hô hào phải “Giải thể đảng Cọng
sản”. Thử hỏi, trong ba tạng kinh điển, có chỗ nào Phật dạy một
vị tỳ kheo phải giải thể đảng nầy, phải tiêu diệt nhóm khác
không? Chưa nói tới ngày lễ trọng đại của đấng Từ Phụ bị nhuốm
màu sắc chính trị.
Vị Hòa
thượng thứ hai, không có chùa riêng sống ở bang California,
chuyên môn đón xe buýt đi đến những chùa nào không có sư trú
trì, thay vì để hướng dẫn Phật tử tu học, an ủi và dắt dìu họ
vượt qua những khủng hoảng trong gia đình và những cơn bệnh của
thời đại, thì ngài lại ép buộc Phật tử phải gia nhập với một
Giáo hội chống Cọng. Nên có nơi đã xẩy ra những vụ va chạm bằng
lời: chúng tôi là những quân nhân đã từng mang súng ra chiến
trường cũng như cựu Tổng thống VNCH, ông Nguyễn Cao Kỳ, đã từng
lái máy bay đi oanh tạc Bắc Việt mà chưa hề ép buộc và kêu gọi
ai chống Cọng vì ý thức rằng quan nhất thời dân vạn đợi, tổ quốc
và dân tộc là trường tồn. Còn những kẻ trốn quân dịch hoặc tránh
quân dịch thì không có tư cách gì để buộc ai phải chống Cọng,
hãy cút đi.Có nơi thì ngôn ngữ hết sức tục tỉu phát ra từ phía
những cựu quân nhân Phật tử đối với vị sư nầy (2).
Xin kể
thêm một vị sư thứ ba, sư Thích T.U., cũng ở Nam California.
Trong một thư mời Phật tử dự lễ, ông hô hào tổng nổi dậy, lời lẻ
giống như những tên khủng bố mà thế giới đang kinh tởm.
Chúng
ta không thấy chính phủ Nam Hàn trước đây công khai xin lỗi nhân
dân Việt Nam về việc quân đội Nam Hàn tham gia cuộc chiến Việt
Nam như là một đồng minh của Mỹ. Cựu Bộ trưởng quốc phòng Mỹ ông
Robert McNamara, một trong những nhân vật chủ chốt quyết định
đường lối chiến tranh Việt Nam, cũng đã công khai bày tỏ sự hối
hận về những quyết định sai lầm của ông và của chính phủ Mỹ về
cuộc chiến. Thế mà vài tu sĩ chúng ta thay vì để thì giờ tu và
học và truyền trì chánh pháp thì lại có những quan điểm và hành
động chính trị còn hung hăng hơn so với những người chuyên
nghiệp. Cư sĩ có thể làm chính trị vì ngoài bổn phận Phật tử, họ
còn có trọng trách thế sự đối với quốc gia nhiều hơn Tăng Ni. Do
đó, có người đề nghị ai thích làm chính trị thì nên hoàn tục.
Cũng vì quan điểm chính trị chưa đi sát với thực tế mà nhiều khi
còn bị trúng kế người ta, nên đa số những Phật tử trí thức ít đi
chùa ít gần gủi quý thầy, họ sinh hoạt trong những đạo tràng
hoặc những nhóm riêng rẻ.
Hơn 15
năm trước, tôi có dịp tâm sự với bạn bè rằng “tôi không sợï Cọng
sản còn mà sợ Nhà nước bị sụp đổ”. Có người chê tôi là nhận xét
ngây thơ vì họ nghĩ rằng chính phủ Việt nam có đến hằng chục
triệu đảng viên và cả triệu quân đội, ai có thể đủ sức đảo
chánh. Tôi trình bày, người ta không đảo chánh bằng khí giới và
quân đội mà bằng con đường giáo dục, xã hội và văn hóa rất tinh
vi và hiệu quả. Thật vậy, nhiều chục năm cầm súng để đánh đuổi
ngoại xâm, giành độc lập và thống nhất đất nước nên một số cán
bộ cao cấp trình độ văn hóa chưa đạt tiêu chuẩn thời đại. Trình
độ văn hóa của con cháu quý vị đó lại càng bất cập hơn nữa. Lúc
ra nước ngoài học tất cả các ngành quân sự, chính trị, kinh tế,
ngoại giao... thì thành phần du học sinh (con cháu của các viên
chức cao cấp) nầy rất dễ bị văn hóa Côca Côla đầu độc, rất dễ bị
kẻ khác gài người như họ đã từng gài cô Nguyễn Thị Lan (Nam
Phương Hoàng hậu) cho vua Bảo Đại để biến ông vua Việt nam tương
lai thành người Công giáo nhằm phục vụ cho Vatican và đế quốc.
Cũng thế, biết đâu chương trình gài người lại đang tiếp diễn.
Những con cháu của cán bộ cao cấp sau khi đỗ đạt về nước, tre
già măng mọc. Họ sẽ là thủ tướng bộ trưởng...là người Việt nam
dĩ nhiên, tự xưng là Phật tử, có thể, nhưng phần hồn đã pha lẫn
người da trắng, người mũi cao và cổ đeo chữ thập. Cọng sản sụp
đổ bằng cách đó, dân tộc bị đồng hóa bằng cách đó, tổ quốc bị
lâm nguy qua con đường đó. Dovậy, chúng ta không nên ngây thơ
cúi đầu cắm cổ chống Cọng chết bỏ để sa bẩy thế nhân.
Mặt
khác, giả thiết nếu Nhà nước Việt nam nói rằng “chúng tôi bất
lực, Phật giáo nên đứng ra thành lập chính phủ”, thử hỏi chúng
ta có làm được không? Đối với tôn giáo khác, đó là dịp may và là
niềm vui, vì họ luôn chuẩn bị sẵn sàng để thế chỗ và cướp chính
quyền với sự hỗ trợ của ngoại bang. Còn Phật tử chúng ta không
phải là thành phần mà người ngoại quốc dễ sai dễ bảo, nói rõ hơn
tinh thần phi dân tộc và phản dân tộc trong giới Phật tử rất
thấp, nên ngoại bang khó lợi dụng. Hai thời kỳ Đệ nhất và Đệ nhị
VNCH, tín đồ Công giáo chỉ chiếm 4-5% dân số nhưng tổng thống là
người Công giáo, chủ tịch Thượng iện, Hạ viện cũng thế. Còn giới
Phật giáo cũng ra ứng cử, Tăng Ni được huy động đi cổ vỏ tín đồ
bỏ phiếu cho nghị sĩ nầy, dân biểu nọ để người ta có thể trình
bày với thế giới một bộ mặt tự do dân chủ nhân quyền giả hiệu ở
miền Nam Việt Nam. Nói thế, không có nghĩa là tôi có tư tưởng cổ
vỏ một sự bất hợp tác hoặc ly khai, nhưng để nói lên cái số phận
của một quốc gia phải trải qua bao phen chinh chiến. Những mỹ từ
Tự do, Dân chủ, Nhân quyền, những nhãn hiệu Công bằng, Bình
đẳng, giải Nobel ... rất có năng lực hấp dẫn những dân tộc bị nô
lệ ngút ngàn và những người nhẹ dạ cả tin, và chúng cũng là cái
thòng lọng để xiết cổ những kẻ ngây thơ. Một nước Tahiti với
tổng thống là Linh mục Aristide do ngoại bang đưa lên trong
nhiều năm trước để dễ sai bảo, nhưng nạn nghèo đói và bất ổn vẫn
gia tăng. Bán đảo Đông Timor, đa số là tín đồ Công giáo và được
ngoại bang hỗ trợ độc lập tự trị tách rời ra khỏi Indonesia, là
một quốc gia nghèo khổ nhất thế giới và nay đang nỗi loạn. Một
Iraq sẽ còn kinh khiếp điêu linh chưa biết lúc nào chấm dứt. Đó
là vài thí dụ để thấy rằng hơn ba mươi năm qua, chúng ta, nhất
là nhiều Phật tử hải ngoại, đã dấn thân tranh đấu trong chiều
hướng nào, chúng ta có rút tỉa được một bài học nào từ các quốc
gia vừa kể? Chúng ta đã thực hành đúng hay sai lời Phật dạy
trong những cuộc dấn thân đối kháng?
Nhiều
GĐPT trong nước cũng không thể đến sinh hoạt ở một số chùa vì vị
trú trì nghi ngờ họ thuộc Giáo hội khác, hoặc vị trụ trì bị áp
lực giải tán GĐPT nếu đơn vị đó không chịu tham gia GHPGVN dưới
sự kiểm soát của ban Hướng dẫn Nam Nữ Cư sĩ. Một số huynh trưởng
khác thì không những nằm đợi chờ GHPGVNTN được phục hoạt mới
chịu dấn thân, mà còn dèm pha và cản trở những huynh trưởng biết
áp dụng khế lý khế cơ và khế thời trong một bối cảnh mà đất nước
đã trải qua biết bao chinh chiến điêu tàn cùng khắp trên vạn nẻo
đường quê hương. Thành phần còn lại cũng không sinh hoạt được vì
một vài nhận thức hạn hẹp của vài viên chức chính quyền địa
phương trong những vùng xa đô thị.Nếu tình trạng nầy vẫn còn
tiếp tục thì không những Phật giáo Việt nam như người tuyệt tự
mà quốc gia cũng thiếu đi những công dân sẵn sàng đem xương máu
để bảo về giang sơn, đánh đuổi ngoại xâm mà trong suốt chiều dài
lịch sử mở nước, dựng nước và bảo vệ tổ quốc qua các triều đại
Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê và thời kháng chiến chống thực dân đế
quốc đã cho thấy. Đó là một thực tế mà lịch sử đã minh thị không
ai có thể chối cải.
Giáo
dục hàng Phật tử tại gia: Phật giáo Việt nam từ trước đến nay
không có một cơ quan kinh tài để cung ứng cho các nhu cầu sinh
hoạt của giáo hội như xây dựng tự viện, mở trường đào tạo tăng
ni tín đồ, tổ chức cứu tế xã hội v. v. , ngay cả cái ăn cái mặc
của những vị xuất gia nhất nhất đều trông cậy vào sự cúng dường
của hàng Phật tử. Tuy thế, người Phật tử tại gia ở nhiều nơi đã
không được Giáo hội có chương trình săn sóc an ủi về mặt tinh
thần lúc ma chay cũng như hoạn nạn bệnh tật, thất nghiệp, khủng
hoảng gia đình v. v. Ngay cả cho đến đã hơn hai ngàn năm kể từ
ngày đạo Phật truyền vào Việt Nam nhưng Phật giáo chưa có một
cuốn giáo lý căn bản thực dụng và giản dị để người Phật tử tại
gia hiểu một cách rõ ràng cặn kẻ về giá trị của một tôn giáo mà
mình đang theo. Chúng ta thường nói, Việt Nam có 80% dân số là
Phật tử, điều đó không sai. Nhưng hầu hết Phật tử nầy được mệnh
danh là Phật tử truyền thống chung chung; cha mẹ đi chùa dẫn con
theo trong những buổi sám hối ngày mười bốn, rằm hay ba mươi,
mồng một, hoặc những buổi tụng kinh Pháp hoa cho có phước, tụng
Địa Tạng để cầu siêu, tụng Dược Sư để cầu an, tụng Thủy sám tiêu
trừ tội lỗi. Nhưng lúc bị hỏi về căn bản giáo lý của đạo Phật
thì nhiều người quả thật không trả lời được. Vì thế, lúc cưới
hỏi người khác tín ngưỡng, thì hầu hết các cô dâu chú rễ Phật tử
đều bị cải đạo, ngay cả bị cải đạo trên giường bệnh và lúc lâm
chung vì họ chỉ suy nghĩ giản dị là đạo nào cũng tốt cả, đạo nào
cũng dạy con người ăn hiền ở lành, chứ không biết rằng nhận xét
ấy cần được đánh giá lại. Thật vậy, những cuộc chiến tranh lớn
nhỏ, từ xưa cũng như bây giờ hầu hết đều phát xuất từ các tôn
giáo (3) mà Phật giáo là một ngoại lệ. Đạo Phật truyền đến đâu
nếu chưa tạo được an lạc cho con người và quốc độ nơi đó thì
cũng chưa bao giờ và sẽ không bao giờ làm đổ một giọt máu của
bất cứ ai. Vì thế, các nước tân tiến ngày nay đã áp dụng giáo lý
đạo Phật vào trong tất cả các ngành nghề, từ tâm lý trị liệu,
bệnh tim mạch, mất ngủ, hôn trầm đến các cách giải quyết ngay cả
về môi sinh, kinh tế, thương mãi, chính trị, v. v. Cũng vì thế,
mà Liên Hiệp Quốc chưa bao giờ đứng ra tổ chức kỷ niệm sinh nhật
cho một vị giáo chủ của bất cứ một tôn giáo nào, nhưng từ hai
năm trước đây, lần đầu tiên trong lịch sử, một định chế uy tín
nhất của thế giới đã ra quyết nghị hằng năm tổ chức kỷ niệm ngày
ra đời của đấng Thế Tôn và gọi đó là ngày Đại Lễ Tôn Giáo Của
Thế Giới. Đặc biệt năm nay, Thái lan bảo trợ và tổ chức ngày
Vesak (Phật đản) do LHQ yêu cầu. Qua hệ thống truyền thông điện
tử ta đã thấy một ngày hội Phật đản vô cùng vỹ đại, với sự tham
dự của 46 quốc gia, với nội dung “Phật giáo và nền Hòa bình nhân
loại” bao gồm nhiều chủ đề hiện thực và sâu sắc chưa từng có
trong lịch sử.
Ước
mong thay, Phật giáo Việt nam nên có những chương trình học hàm
thụ cụ thể từ thôn quê đến thành thị, có sách giáo lý căn bản,
giản dị để tô bồi kiến thức cho người Phật tử để họ không những
xử dụng giáo lý của Phật vào cuộc sống hằng ngày trong việc giúp
đối trị các bệnh tật các khủng hoảng trong gia đình cũng như xã
hội, mà còn tạo cho đất nước thêm những con người biết phụng sự
tổ quốc, phụng sự tha nhân như phụng sự cha mẹ và phụng sự cho
chính mình.
3. Ước
mơ thứ 3: Sự liên hệ giữa nhà nước và Giáo hội:
Tất cả
các đoàn thể sống trong một quốc gia nào cũng phải tôn trọng
pháp luật của quốc giá đó, nếu không thì sẽ tạo ra tình trạng
nhiều quốc gia nhỏ trong một quốc gia lớn nếu không muốn nói đó
là tình trạng Thập nhị Sứ quân. Trước lúc trở thành một tín đồ
hoặc một tu sĩ, người đó đã là một công dân. Một tôn giáo không
thể đi vào cuộc đời nếu không có một quốc gia mà trong đó tôn
giáo sinh hoạt. Do đó, tôn giáo là một bộ phận, một cá thể trong
một quốc gia. Đối với nhiều nước Tây phương, trong các thế kỷ
trước, chịu ảnh hưởng của Kitô giáo, thế quyền phải phụ thuộc
giáo quyền. Một ông vua phải được Giáo hoàng thừa nhận trong lễ
Đăng quang mới được lên ngôi. Nói cách khác, tôn giáo đứng trên
quốc gia, giáo quyền trên thế quyền, Giáo hoàng có thể chọn lựa,
duy trìhay truất phế một ông vua. Tình trạng nầy đã tạo ra những
cuộc tranh chấp đẫm máu giữa giáo quyền và thế quyền. Vì thế, mà
các tổ phụ lập quốc Hoa kỳ đã chủ trương tách rời quyền lực và
quyền lợi tôn giáo ra khỏi thế quyền. Trên nguyên tắc, tại Hoa
kỳ cũng như các quốc gia tân tiến khác như Anh, Gia nã đại, các
định chế và chức sắc tôn giáo không có quyền khuynh loát hoặc
xen vào nội bộ các ngành lập pháp, tư pháp và hành pháp. Vì vậy,
tại Hoa kỳ, Anh, Canada không có các chức sắc tôn giáo trong
quốc hội cũng như các đảng chính trị (có thế lực) trong lòng
quốc gia như đảng chính trị Công giáo, đảng Tin lành, đảng Hồi
giáo hoặc đảng Phật giáo. Nhưng trong thực tế, các tôn giáo có
số lượng tín đồ đông đã ảnh hưởng rất lớn đến các sinh hoạt
chính trị của quốc gia qua lá phiếu. Tại Nhật, có đảng chính trị
Phật giáo Komeito (Quang Minh đảng), nhưng không có nhiều ảnh
hưởng đáng kể.
Việt
nam là một nước bị chiến tranh lâu dài, trình độ dân trí còn
thấp, chưa đồng bộ và chưa tân tiến lắm. Nếu hiểu chính trị là
phải thủ đọan, phải gian manh, phải sắt máu, thì riêng hàng tu
sĩ Phật giáo không nên tham chính hay làm chính trị và không nên
có mặt trong Quốc hội. Sự hiện diện của vài tu sĩ Phật giáo
trong Quốc hội không những không tạo được một bộ mặt đa diện
biểu trưng cho sự đoàn kết quốc gia mà còn có hại. Vì người Phật
tử không những được dạy, chư tăng là người từ bỏ tất cả chức
tước địa vị của thế gian mà còn từ bỏ một lọai tình yêu giới hạn
trong khuôn khổ cha mẹ và bà con, để theo đuổi một chức năng cao
hơn là làm người đạo hạnh giúp đời và theo đuổi một tình yêu bao
trùm cả đồng loại. Đo đó, những người Phật tử bình thường rất
xem nhẹ, nếu không nói là khinh thường, lúc thấy một vị Tăng Ni
có chức trong Quốc hội, trong Chính phủ. Nhưng người cư sĩ là
một tín đồ của Phật giáo, và trước hết họ là một công dân. Do
đó, họ có quyền tham chính với tư cách một người dân.
Rút
tỉa kinh nghiệm của các nước tân tiến và qua lịch sử truyền bá
đạo Phật, không những tại Việt nam mà còn nhiều quốc gia trên
thế giới, thì Giáo hội Phật giáo Việt nam (tôi chỉ muốn nói đến
PGV N mà thôi) không nên, không cần và không được là một thành
viên của Mặt trận Tổ quốc, và tu sĩ Phật giáo không nên, không
cần và không được có mặt trong quốc hội. Dẫu thế, nhưng trong
suốt chiều dài hơn hai ngàn năm trên quê hương, Phật giáo chưa
bao giờ và sẽ không bao giờ sống bên lề hay bên trên luật pháp
quốc gia cũng như sống biệt lập với cọng đồng nhân loại.
4. Ước
mơ thứ tư: Một đạo Phật nhập thế
Nếu
không có một sự tinh tấn dũng mãnh trường kỳ trong 49 năm truyền
bá thì giáo Pháp của Phật đã bị mai một. Sau khi nhập niết bàn,
nếu không có các đệ tử noi gương Phật để chuyển Pháp luân thì
ngày nay có thể không có một tôn giáo có tên là đạo Phật trên
thế giới nầy.Các vua như A-Dục vương đại đế ở Aán độ, các vua
thời nhà Đường Trung hoa, các triều đại Lý Trần của Việt nam là
những tiêu biểu cho một đạo Phật nhập thế, và đã đem lại những
thời kỳ vàng son cho ba quốc gia vừa kể. Một Trần Nhân Tông đã
tâm sự với các quan trong triều “Trẫm yêu dân như yêu con trẫm”.
Một ông vua đã từng rời cung điện để vào các thôn ấp chỉ dạy cho
muôn dân, biết đem đức từ bi để làm phương châm hành động, biết
lấy trí tuệ để làm đuốc soi đường và dũng mãnh để làm nhựa sống.
Đó là một trong những yếu tố để giải thích tại sao quân Nguyên
Mông từng chiếm cứ cả thiên hạ, nhưng đến lúc đem binh xâm lăng
Việt nam thì không những đạo quân bách chiến bách thắng nầy thua
trận một lần mà thua trận đến ba lần.
Ý niệm
một đạo Phật nhập thế hay đạo Phật đi vào cuộc đời không phải là
một ý niệm mới hoặc ý niệm từ ba triều đại vàng son vừa kể,
nhưng nó đã có từ lúc Phật tại thế. Trong câu chuyện đối đáp
giữa Phật và tôn giả Phú Lâu Na, người dự định đi đến một nơi vô
cùng nguy hiểm cho tánh mạng để giáo hóa những người hung dữ, là
một bằng chứng. Phật giáo khởi nguyên từ Thượng tọa bộ (Nguyên
Thỉ) qua Đại chúng bộ rồi đến Đại thừa đã cho thấy tính nhập thế
của đạo Phật. Ngay cả lời nguyện “Ngũ trược ác thế thệ tiên
nhập” trong phần đầu của buổi công phu khuya tại các thiền môn
mà từ một chú tiểu cũng đã thuộc lòng. Nhưng vì quên hoặc không
để ý, hoặc gặp những nghịch cảnh trong những thời buổi chiến
tranh nên phần lớn người Phật tử quên hẳn hạnh nguyện dấn thấn.
Thực
vậy, Thái lan là một quốc gia mà Phật giáo là quốc giáo (95% dân
số là Phật tử). Chư tăng qua nhiều thế hệ đã đi vào cuộc đời,
ngay cả gánh vác phần lớn công việc giáo dục từ các miền quê xa
xôi hẻo lánh. Nhưng trong vài thập niên qua, vì kinh tế thị
trường, vì sự phát triển đô thị nên phần lớn lớp trẻ di dời lên
thành phố, để lại miền quê một sự trống vắng không những từ
thành phần giáo chức trong các trường tiểu học và trung học do
chư tăng điều khiển, mà chư tăng cũng lên đô thị,cũng di chuyển
về thành. Sự trống vắng của một đạo Phật nhập thế ở thôn quê là
cơ hội ngàn vàng cho các tôn giáo khác xâm nhập và phát triển.
Hệ quả vô cùng tai hại là hiện nay số lượng tín đồ các tôn giáo
khác, nhất là Hồi giáo, gia tăng quá mức đã tạo tình trạng bất
ổn ở các tỉnh miền Nam nước Thái. Tin lành và Công giáo ở Thái
chưa có dấu hiệu gây bất ổn cho quốc gia, nhưng vấn đề chỉ là
thời gian, vì qua các kinh nghiệm tại các nước Nam mỹ, Phi châu,
Aùi nhĩ lan, đảo Đông Timor cho phép chúng ta tiên đoán như thế.
Tại
Nam Hàn, trong Thế chiến thứ hai phần lớn Tăng Ni chạy lên núi
tu, để lại những người bệnh tật, những nạn nhân chiến tranh,
những thương binh quả phụ cho Tin lành săn sóc. Hậu quả của vấn
đề là hiện nay số lượng tín đồ Tin lành giáo (30%) xấp xỉ gần
bằng số lượng tín đồ Phật giáo (36%). Nhưng Nam Hàn chưa xẩy ra
bạo loạn như Aùi nhĩ lan hoặc bạo động như Thái Lan vì Bắc Hàn
là một mối đe dọa mà Nam Hàn phải biết đoàn kết để sống còn.
Nhưng nếu ngày nào Bắc Hàn không còn là mối quan tâm cho nền an
ninh của Nam Hàn thì tình trạng bất ổn tại Nam Hàn khó lòng
tránh khỏi.
Tình
trạng Việt nam chúng ta. Như tôi đã trình bày sơ lược trong lần
Đại hội Phật giáo Việt nam tại Hà nội tháng 12. 2002 rằng tổ
chức Phật giáo trong cũng như ngoài nước giống như cái ghế một
chân. Tự thân cái ghế đã không đứng vững nói gì đến nhập thế
hoặc vào đời.
Thiếu
một chân ghế đã yếu, thiếu hai chân ghế sẽ ngả, và thiếu đến 3
chân thì ghế không còn là ghế nữa. Nhưng thực tế cho thấy, nhiều
năm qua ở trong cũng như ngoài nước, Giáo hội như cái ghế chỉ
còn một chân. Hàng Tăng giới cáng đáng hầu hết công việc. Ba
giới còn lại chỉ để làm kiểng hay để sai vặt mà thôi. Ngay cả
hàng Tăng giới có nhiều vị đạo cao đức trọng nhưng năm tháng đã
chồng chất tuổi đời cần phải được tĩnh dưỡng nghỉ ngơi thì quí
ngài lại bị giao phó quá nhiều chức vụ, nhiều lúc bất kham mà
cũng phải gánh vác trọng trách. Tình huống nầy không những đưa
Giáo hội đến sự bế tắc về tất cả mọi mặt, mà còn làm cho giáo
hội hầu như chỉ còn là một tổ chức hư danh và tê liệt từ công
việc hành chánh trung ương đến việc thi hành chương trình của
giáo hội tại địa phương. Phật giáo không còn là Phật giáo của cả
nước mà Phật giáo hầu như chỉ còn là Phật giáo của đô thị, còn
thôn quê và miền cao nguyên bị bỏ ngỏ cho Tin lành và Công giáo.
Hệ quả của vấn đề là số lượng tín đồ Tin lành sinh sôi nẫy nở ở
các tỉnh Cao nguyên Trung Phần đủ để họ nỗi lọan đòi độc lập tự
trị thành lập một quốc gia Dega mới trên lãnh thổ Việt nam vào
năm 2002.
Song
song với tình hình thiếu nhập thế của Phật giáo Việt nam ngày
nay ở một vài đô thị trong cũng như ngoài nước, tình trạng phân
hóa giữa các tổ chức Phật giáo bên ngoài về quan điểm và khuynh
hướng chính trị lại càng tệ hại hơn nữa. Thay vì hỗ trợ nhau để
truyền trì chánh pháp, để dấn thân vào đời cứu độ chúng sinh,
thì một số đã để luống thì giờ trong tình huống phe ta đánh phá
phe mình. Đó cũng là một trong những lý do mà một số Tăng Ni
chán nản, sống riêng không tham gia tổ chức nên thay vì thi đua
tu, học và truyền trì chánh pháp, thì lại thi đua làm chùa để có
một cuộc sống thoải mái, độc lập và tự do hơn. Một trong những
hệ quả của vấn đề đã và tiếp tục xẩy ra tại nam California là
phần lớn đồng tiền mà Phật tử cúng dường đều được xử dụng để trả
nợ tín dụng nhà băng cho việc mua nhà làm “chùa” mà có nhiều nơi
không cần thiết. Đó là chưa nói đến tình trạng có nơi chỉ cách
nhau từ 3-5 km mà có đến từ 5-7 chùa. Có vùng chỉ cần từ 3-5
phút lái xe mà có đến 3 ngôi chùa do một thầy làm chủ, để chứng
tỏ ta có nhiều chùa, và số tín đồ mỗi lần lễ sám hối trong các
ngày 14 rằm, 30, mồng một đã không qui tu,ï có lúc, quá 20
người. Mỗi tháng, mỗi “chùa” cần có khoảng trung bình 2.500 Mỹ
kim để duy trì một căn nhà gọi là chùa mà nhiều nơi thực ra
không cần thiết phải có một cơ sở như thế vì số Phật tử không có
bao nhiêu.
Một
hôm, tôi rủ người bạn đi dự buổi cơm chay gây quỷ làm chùa được
tổ chức do một thầy mới đến cư ngụ tại Mỹ. Bạn tôi nói, nếu gây
quỷ để bỏ bớt chùa thì tôi ủng hộ, còn vùng Nam California nầy
chùa dư quá, làm thêm gì nữa. Thật vậy, trong lúc cọng đồng Thái
lan với tổng số 36.525 người (4) mà phần lớn cư trú tại nam
California nhưng chỉ có một chùa tại vùng North Holywood, cọng
đồng Cam Bốt tại bang California gồm 70.232 người cũng chỉ có
một chùa duy nhất tại tỉnh Long Beach. Cọng đồng Việt nam tại
Calfornia có 447.032 người (ước lượng có 280.000 tại nam
California, trong đó có khoảng 150.000 Phật tử) nhưng có đến 80
ngôi chùa. Nhiều Phật tử than phiền gọi tình trạng nầy là chùa
bị “lạm phát”ù.Lúc mua nhà ở hay mua lại nhà thờ Công giáo để
làm chùa, không ai có tiền để trả hết một lần mà phải vay nợ nhà
băng với phân xuất lời khoảng 6% và trả góp hàng tháng khoảng 30
năm. Lúc nào không trả được thì nhà băng tịch thu (foreclosure).
Trong 80 ngôi chùa nầy, thực sự thì chỉ có vài cái được xây cất
tương đối quy mô, có cái thì còn rất thô sơ. Số còn lại chỉ là
những căn nhà ở. Chùa Việt trên đất Mỹ trong vòng 15-20 nữa sẽ
không còn được bao nhiêu vì hoặc phải bán để trả nợ, hoặc bị
tịch thu vì không có tiền trả hằng tháng như các chùa người Hoa
trên đất Mỹ hơn 100 năm trước đây. Nếu ngôi chùa nào đã được xây
cất và trả hết nợ thì sẽ biến thành cảnh du lịch như các chùa
Nhật còn lại tại đảo Hilo, Hawaii (Hạ uy-di). Lý do không thể
cưởng chống được là vì những Phật tử lớn tuổi sẽ qua đời, thế hệ
con em mới lớn không đến chùa vì những Phật tử trẻ nầy không nói
được tiếng Việt còn sư trú trì người Việt thì không thông thạo
tiếng Anh, kiến thức lại chênh lệch không thích hợp, bất tương
đồng.
Hiện
nay cũng như nhiều năm qua, Phật tử hàng tháng đều cúng dường
Tăng Ni để trả nợ nhà băng trong việc mua nhà để cải gia vi tự,
nên Phật giáo nơi “thủ đô của người Việt tỵ nạn” nầy không huy
động được tài chánh để làm bất cứ một việc gì khác. Không có đài
truyền thanh, đài truyền hình ngay cả không có lấy một tờ báo để
thông tin ngôn luận hướng dẫn Phật tử. Trong lúc đó, các tôn
giáo khác làm chủ hầu hết các hệ thống truyền thông. Túi Phật tử
đã cạn tiền để trả nợ chùa nên Phật giáo chỉ có tai để nghe
nhưng không có miệng để nói, phần lớn ở thế bị động, bị lép vế
và bị xuyên tạc, nhiều lúc không những như người bị câm bị điếc
mà còn bị xỏ mũi phải chạy theo, con trâu họ nói con bò cũng
nghe nhất là về quan điểm chính trị. Ai không hùa theo họ chống
Cọng, họ dùng phương tiện truyền thông chụp cho cái mũ Cọng sản
nên phải chống Cọng hơn cả họ để minh oan. Trước một vài biến
cố, Phật giáo như một đàn ong vỡ tổ, trống đánh xuôi, kèn thổi
ngược, loạn xà ngầu, chẳng biết đâu là diện, đâu là điểm, trúng
kế toàn bộ.
Quyên
tiền gởi về Việt nam làm nhà thờ thì không ai cáo buộc gì cả,
còn gởi về làm chùa thì bị gán cho cái mũ nuôi chế độ Cọng sản
sống còn. Từ đó để thấy, mặc dù tín đồ ít, nhưng các nhà thờ dọc
xa lộ Biên hòa, Dầu giây, Định quán, Bà rịa...được chỉnh trang
đồ sộ do tiền quyên góp từ nước ngoài, mà trong đó đôi lúc cũng
có tiền Phật tử đóng góp nữa. Cũng thế, miền nam California được
gọi là thủ đô Việt kiều tị nan, có khoảng 280 ngàn người Việt cư
ngụ. Trong hai trận bảo lụt 1997 và 1999 tại Việt nam, cọng đồng
Phật giáo nam California có cổ động quyên tiền gởi về cứu trợ.
Nhưng vì quan điểm bất đồng của một số người trong ban tổ chức
là nên gởi tiền về cho giáo hội thân chính hay giáo hội đối
chính. Đó là một trong những lý do chính để hiện nay có đến 80
ngôi “chùa” Phật giáo trong vùng mà không có một tổ chức từ
thiện. Ba lần bảo lụt tại Việt nam gần đây, không thấy bất cứ
một chùa nào ở nam California công khai tổ chức quyên góp cứu
trợ, nên nhiều Phật tử nóng lòng đem tiền đóng góp, hơn cả trăm
ngàn Mỹ kim, vào các tổ chức từ thiện của các tôn giáo khác.
Nhưng cũng lại bị một vài người không có chức năng và tâm huyết
của người làm từ thiện mà làm việc bất thiện và vi phạm nhân
quyền. Tiền Phật tử ngoài nước được người ta dùng để đổi đạo
những Phật tử trong nước. Đúng là “phe ta giúp tiền để đổi đạo
phe mình” !!!
Từ
việc thiếu phương tiện thông tin ngôn luận, thiếu điều nghiên
trong việc có nhiều “chùa” và nhất là thiếu am tường tình hình
chính trị trong nước và thế giới, và quan điểm chính trị chưa
thông thoáng nên đã hơn 30 năm, một số Tăng Ni và Phật tử chưa
hề về thăm quê cha đất tổ để biết thực hư thế nào. Họ bị ám ảnh
là chùa bị bao vây, Tăng Ni bị tù tội, hình ảnh một nước Việt
nam “nghèo nhất thế giới” hình ảnh của một “đảng Cọng sản sắp
sụp đổ” đến nơi rồi, nên nhanh chân xuống đường chống Cọng để
tránh muộn màng.
Những
thông tin sai lạc nầy lại được vài phương tiện truyền thông nhắc
đi lặp lại nhiều lần cũng lung lạc được một số người. Cũng vì sự
tuyên truyền sai lạc và một chiều nầy mà có không ít Tăng Ni và
Phật tử Việt kiều đã không thể tích cực ủng hộ các công tác Phật
sự trong nước, các di tích văn hóa trong các ngôi chùa ở miền
quê bị bỏ quên, các chương trình cho một đạo Phật nhập thế khó
thực hiện. Một ngày nào vấn đề truyền thông tại Việt nam được
nới rộng, thì Phật giáo cũng chỉ cótai mà không có miệng.
Ngay
cả lễ Phật đản năm nay tại thành phố HCM, Thành hội chỉ cần một
số tiền nhỏ 2 ngàn usd để có một chương trình văn nghệ Phật đản
đơn sơ trên hai đài truyền hình của thành phố, nhưng ban phụ
trách chương trình lễ cũng khó lòng kiếm người tài trợ trong một
đất nước đang trên đà phát triển. Còn chư Tăng Ni và Phật tử hải
ngoại, hoặc vì quan điểm chính trị chưa thông thoáng, hoặc đã
cạn túi vì những dịch vụ làm “chùa” nên không thể bảo trợ cho
một chương trình văn nghệ Phật đản cần thiết như thế. Trong lúc
đó, nhiều năm qua, ngày Noel, Kitô giáo bỏ tiền tài trợ chương
trình đủ mọi mặt, nên ngày lễ vui nhộn có vẻ như quốc lễ. Còn lễ
Phật đản trông nghèo nàn, buồn bả. Ngay cả cuộc hội thảo hôm
nay, chỉ cần khoảng 25 ngàn usd để trang trải các phí tổn, nhưng
ban tổ chức cũng khó kiếm người bảo trợ cho một cuộc Hội thảo có
tầm vóc quốc tế và thời đại như thế nầy.
Nói ra
thì bị phạm thượng và đôi khi bị trù dập, nhưng thực tế phải
thừa nhận rằng đạo Phật Việt nam ngày nay đang có khuynh hướng
thiếu nhập thế. Một linh mục hay một mục sư cai quản một nhà
thờ, một họ đạo, mỗi ngày có 24 giờ thì họ làm việc đến “25”
giờ. Còn chúng ta, một vài chùa có số lượng Tăng Ni chúng đến
vài chục người, nhưng mỗi người chỉ làm việc được vài giờ trong
một ngày như hai thời công phu bái sám, chấp lao phục dịch. Thì
giờ còn lại, có một số vị, không phải để đọc sách, nghiên cứu,
tham thiền mà để nghe nhạc, xem tivi, tán ngẩu, dạo phố, hoặc
nằm ngủ. Sự biếng trể (cần khắc phục) của một số nhỏ tăng ni như
thế cho thấy tính nhập thế của một đạo Phật Việt cần được ý thức
đúng đắn và có kế hoạch triển khai cụ thể trước lúc quá muộn và
trở thành thói quen.
5. Ước
mơ thứ năm: Vấn đề hoằng pháp:
Tại
sao Phật giáo Việt nam từ sau 1966 đến nay vấn đề hoằng pháp
chưa đạt hiệu quả? Chúng ta thường bảo 80% dân Việt nam là Phật
giáo, nhưng thật tế rất ít người hiểu về đạo Phật. Thậm chí, có
người tự nhận là Phật tử cũng chỉ là đạo thờ cúng truyền thống
của ông bà, ít đi chùa, không biết tụng kinh, lại càng không
biết vận dụng giáo lý vào cuộc sống. Những Phật tử đi chùa cũng
chỉ tụng kinh, cúng dường rồi ra về, không được thầy giảng pháp,
thỉnh thoảng có những buổi giảng chung chung tại những ngày lễ
lớn dưới lễ đài công cọng, mà đáng lẽ ra, mỗi chùa sau khóa lễ
hoặc những ngày sóc vọng đều phải giảng giải cho tín đồ hiểu ít
nhất là căn bản giáo lý đạo Phật.
Nhiều
năm qua, ban Hoằng pháp của Giáo hội có tổ chức nhiều khóa diển
giảng, đào tạo giảng sư, nhưng ít hiệu quả. Chương trình đào tạo
và diển giảng chưa được cải tiến đúng mức, những bài giảng thiếu
thực tế nên khó đi vào lòng người. Lúc ra trường, quý vị giảng
sư không được gởi đến các vùng sâu, vùng cao, vùng xa.
Hoằng
pháp là công tác mũi nhọn để truyền bá chánh pháp, cần quan tâm
đặc biệt. Các buổi giảng phần lớn tập chú tại TP Hồ Chí Minh,
còn các tỉnh miền Trung, miền Bắc và miền Tây Nam bộ, thỉnh
thoảng mới có vài buổi giảng do ban Hoằng pháp tổ chức, chỉ là
mưa bụi không đủ thấm vào đất đã khô hạn hán lâu ngày. Chính
việc Hoằng pháp thiếu năng động mà Phật giáo đã bỏ trống nhiều
diện rộng cho ngoại đạo tự tung tự tác, nhất là các tỉnh cao
nguyên miền Trung và vùng núi Cao bằng Lạng sơn ở Tây nguyên.
Tình trạng nầy nếu không thay đổi, thì trong vòng 20 năm nữaan
ninh quốc gia bị lung lay và Phật giáo sẽ mất thế đứng trong
lòng dân tộc.
MƯỜI ĐIỀU CẤP THIẾT MÀ PHẬT GIÁO VIỆT NAM KHÔNG
THỂ THIẾU
Thế
giới ngày nay đang đi vào những khủng khoảng trầm trọng, chiến
tranh xẫy ra giữa những người cùng thờ một Chúa, cùng đọc và học
một giáo thư. Nạn ô nhiễm môi sinh làm cho địa cầu tăng nhiệt
độ, tạo những trận bảo lụt kinh hoàng và những cơn sóng thần tàn
nhẫn, bệnh tật và nghèo đói giết chết hằng triệu người vô tội
mỗi năm.
Về tôn
giáo, các tôn giáo Tây phương đang đi vào sự khủng hoảng chưa
từng có. Chiến tranh giữa Hồi giáo và Kitô giáo vẫn tiếp diễn
liên hồi chưa có dấu hiệu thuyên giảm. Nền thần học của các tôn
giáo độc thần bị thoái trào, đức tin đang nghiêng ngả, đạo đức
giả hiệu bị phơi bày, tín đồ đi lễ nhà thờ chỉ còn chưa đến 10 %
tại Âu châu (5), Thiền Phật giáo, Yoga Ấn độ được biến chế và
đổi tên thành Thiền Kitô (Christian Meditation), Yoga Kitô giáo
(Chirstian Yoga) để ngăn chận làn sóng bỏ đạo hàng loạt, nên
chính sách cải đạo Á châu là một nổ lực đã được họach định và
đang thi hành để thế vào chỗ trống.
Trong
lúc các phương trời Aâu Mỹ, Phật giáo tăng trưởng rất nhanh, thì
Phật giáo Việt nam có khuynh hướng co cụm tại thị thành còn thôn
quê, vùng sâu, vùng xa bị bỏ trống. Tôn giáo Tây phương bị khủng
hoảng thì Phật giáo không những là một biệt lệ mà còn được xem
như là một đáp án cho những cuộc khủng hoảng của thế giới ngày
nay. Phật giáo thế giới đang thong dong thả buồm ra khơi, thì
Phật giáo Việt nam, một vài nơi, đang bơi lội trong chậu, nhiều
lúc tự làm cho nước chậu vẫn đục rồi ngồi nguyền rủa bóng trăng.
Một
cách đại thể, ngoài những ưu điểm có thực rất đáng được tự hào
sau những năm dài chinh chiến với bao khó khăn, nhưng Phật giáo
Việt nam, trong cũng như ngoài nước, vẫn chưa vững trên bước
đường hoằng Pháp độ sinh. Về mặt tổ chức chúng ta chưa có sự
nhất quán, thiếu chương trình thiết thực và khả thi hơn, thiếu
một đội ngũ tứ chúng năng động và tích cực hơn để đáp ứng nhu
cầu của một quốc gia đang trên đà phát triển và của một thế giới
đang hướng về Đông phương với những giá trị thiết thực, trí tuệ,
nhân bản và khai phóng.
Sự
tiến bộ của khoa học ngày càng đẩy dần các tôn giáo Tây phương
vào bóng tối thì những mũi nhọn được họ hướng về Á châu và có
sức cải đạo nhờ sáu yếu tố sau đây: được huấn luyện, có tổ chức,
nhiều tiền, cuồng tín, đế quốc yểm trợ và chiêu dụ lớp người
cùng đinh thiếu học.
Phật
giáo không nên bắt chước những kế sách thiếu luân lý và vi phạm
nhân quyền của tôn giáo khác, nhưng muốn Thành Tựu (TT) bất cứ
một chương trình nào thì phải hội đủ ba chữ T: Tâm, Trí, Tiền
(phương tiện). Nếu đặt vào phương trình toán học thì chúng ta sẽ
có: TT = T1+T2+T3.
Từ
ngàn xưa, Phật Giáo Việt Nam không có một ban kinh tài để có
phương tiện hành hoạt, nhưng hàng cư sĩ chưa bao giờ bỏ đói chư
Tăng Ni, chưa bao giờ làm ngơ trước sự kêu gọi tùy tâm của Giáo
hội. Vì thế, một vài tổ chức của Giáo hội không thành tựu như ý
muốn vì không phải thiếu chữ T thứ ba, mà thiếu hai chữ T
đầu.Nhất là thiếu chữ T thứ nhì, nên một vài công việc chúng ta
đã trở thành những kẻ dọn cỗ cho thiên hạ xơi, múc nước cho
người rửa chân.
Thực
tế, nhờ có đại bi Tâm biết hộ quốc an dân, thương mến quần chúng
nên hơn 30 năm qua, hầu hết chư tôn đức Tăng Ni và thiện hữu tri
thức Phật tử biết hân hoan đón mừng đất nước độc lập và thống
nhất, biết sống trong an bình lạc đạo, biết áp dụng khế lý khế
cơ vào hoàn cảnh của một đất nước sau thời hậu chiến. Quý ngài
đã đồng lao cọng khổ chia xẻ với dân với nước. Nếu không có
những hy hiến quý báu đó, Phật giáo Việt nam cũng đã mai một
theo với các vết hằn đau thương sau những năm dài chinh chiến.
Cũng
thế, mặc dầu có vài nơi chùa bị lạm phát, vài việc làm thiếu
chín chắn như đã trình bày ở trên, nhưng một cách tổng thể, nếu
không có Tâm Trí của chư tôn đức Tăng Ni và Phật tử hải ngoại
biết lập lên những đạo tràng cho Phật tử có nơi tu học, biết
chịu khó đi diễn giảng, hướng dẫn các khóa thiền, in ấn kinh
sách ... để Phật tử khỏi bơ vơ trong một quốc gia xa lạ đủ mọi
mặt thì ngày nay cọng đồng Phật giáo Việt nam ở nước ngoài cũng
đã mai một. Mặc dầu không thiếu những tuyên truyền sai lầm có
hậu ý của thế nhân, nhưng qua những đạo tràng và những ngôi chùa
ở hải ngoại nầy, Phật tử tới lui lễ bái đã đóng góp gởi tiền về
nên nhiều chùa mới ở Việt Nam được xây cất, nhiều chùa khác được
trùng tu, những chương trình từ thiện v.v. vẫn được tồn tục.
Để bù
đắp những gì còn trì trệ chưa thực hiện được trong hơn 30 năm
qua, để kiện toàn những gì chưa chu tất hoặc những gì còn thiếu
tinh thần khế lý khế cơ khế thời và sai lời Phật dạy, chúng tôi
xin đạo đạt mười điều cấp thiết mà Phật giáo Việt không thể
thiếu. Mười điều đó là:
1. Bỏ
những vướng mắc dị biệt: Chư Tăng Ni cũng như Phật tử nên đổi
mới tư duy, bỏ qua những quá khứ sai lầm, hoặc những bước đi
lệch lạc, hướng về hiện tại và tương lai để xây dựng một cọng
đồng Phật giáo hòa hợp và bổ ích trong quốc độ mà chúng ta đang
sống.
2. Tổ
chức giáo hội: Phật giáo Việt nam cần có một Giáo hội gồm các
ban ngành quy tụ đầy đủ tứ chúng. Một giáo hội trong nước, một
giáo hội ngoài nước, hai mà một, để hỗ trợ cho nhau trong việc
tuyền trì chánh pháp, hộ quốc an dân. Tu chỉnh hiến chương, bầu
lại nhân sự, trẻ trung hóa giáo hội. Giáo hội muốn thành tựu bất
cứ một chương trình nào cũng cần hội đủ 3 chữ T như đã nói ở
trên.
3. Thu
nhận chúng xuất gia: Thỉnh cầu quý vị trú trì của tất cả các tự
viện nên tùy theo khả năng, tài chánh và phương tiện mà cẩn thận
thu nhận đệ tử xuất gia để tránh nạn tăng ni lạm phát và thiếu
phẩm chất.
4. Vào
thực tế: Các ban, ngành và chương trình tổng quát của Giáo hội
sẽ được quy định trong hiến chương, phải thực tế, khả thi và đáp
ứng nhu cầu của quốc gia và thời đại.
5. Ban
tham vấn: Giáo hội phải có một ban tư vấn về các chương trình
sinh hoạt của Giáo hôi. Ban nầy cũng thường liên lạc với Nhà
nước để trao đổi một số vấn đề liên hệ giữa Chính quyền và Phật
giáo nhằm tránh những hiểu lầm nếu có.
6.
Giáo dục và hoằng pháp: Giáo hội nên đặt nặng chương trình đào
tạo tăng ni, hướng dẫn tín đồ, tổ chức GĐPT, hoằng pháp sâu rộng
từ thành thị đến thôn quê, từ Bắc chí Nam từ trong ra ngoài.
7.
Tăng Ni hải ngoại: Khuyến cáo Tăng Ni ở nước ngoài cố gắng tu và
học để đủ đức độ và khả năng truyền bá Phật pháp không những cho
người Việt mà cho cả người nước ngoài như chư tăng Tây Tạng và
Tăng Ni người bản xứ. Chỉ nên lập chùa ở những nơi cần thiết nếu
có đủ số lượng tín đồ được qui định.
8.
Kinh tế Phật giáo: Giáo hội không nên trông cậy hoàn toàn vào sự
cúng dường của Phật tử như từ trước đến nay, mà cần có kế hoạch
kinh tế để có phương tiện chu toàn các chương trình hoằng pháp
lợi sanh, cũng như có chương trình cố vấn hướng dẫn và trợ giúp
vốn với lãi suất thấp để những gia đình nghèo có phương tiện
buôn bán, canh tác nhằm xóa đói giảm nghèo và có một cuộc sống
tương đối an lạc.
Thiếu
ban kinh tế tài chánh là thiếu mất một chữ T, Giáo hội khó lòng
thực hiện các chương trình đã hoạch định. Ban kinh tế tài chánh
sẽ nghiên cứu cách thức kinh doanh trong khuôn khổ luật pháp
quốc gia và phù hợp với Bát chánh đạo mà Phật đã dạy. Ban sẽ học
hỏi thêm kinh nghiệm của Phật giáo Đài loan, và Nhật bản về
chương trình kinh tế để thực hiện.
9.
Truyền thông: Nhân loại đang đi vào một thời đại tin học triệt
để. Một biến cố vừa xẩy ra từ chân trời nầy thì góc biển kia đã
biết tường tận. Do đó, Giáo hội nên khuyến cáo tất cả các tự
viện phải có hệ thống tin học để liên lạc, để nhận và gởi đi
những bản tin và những bài giáo lý cần thiết. Giáo hội phải
chuẩn bị, huấn luyện người và phải có ngân khoản để giảng kinh,
đưa tin tức qua các hệ thống thông tin hiện đại lúc hoàn cảnh
cho phép.
10.
Không làm chính trị: Hiến chương giáo hội phải minh thị là Giáo
hội và Tăng Ni không làm chính trị và không tham gia chính quyền,
nhưng cư sĩ có quyền tham chính với tư cách một người dân.
Trên
đây là bản đề nghị mười điều cấp thiết, tổng quát và khả thi, mà
Phật giáo Việt nam không thể thiếu được.
Trân
trọng kính chào liệt quý vị.
California 31.5.2006
Chú thích
(1&2)
Trần Đức Viết “Giao điểm dưới con mắt của hai tri thức nước
ngoài”, TP HCM, hè 2005.
(3)
Ngoài những toa rập trong các phong trào đi chiếm thuộc địa,
tiêu hủy các tôn giáo và nền văn hóa khác, còn có các tòa án
Công giáo (Inquisitions) để giết những người khác tín ngưởng, có
hơn 8 cuộc cái gọi là Thánh chiến giết hơn 100 triệu người cùng
thờ một Chúa, cùng học và đọc chung một giáo thư. Riêng năm
2005, trên thế giới có 12 cuộc đụng độ vũ trang mang màu sắc tôn
giáo thì các tôn giáo cùng thờ một Chúa chiếm đến 11 cuộc “thánh
chiến” như: ở Palestine (Do Thái giáo và Hồi giáo), ở Balkans (Công
giáo với Chính Thống giáo, và Chính Thống giáo với Hồi giáo), ở
Bắc Aùi nhĩ lan (Công giáo vàTin Lành), ở Kashmir (Hồi giáo và
Ấn giáo), ở Sudan (Tin Lành và Hồi giáo), ở Nigeria (Tin Lành và
Hồi giáo), ở Ethiopia (Tin Lành và Hồi giáo), ở Sri Lanka (Nhóm
Ấn Độ giáo Tamil ly khai chống lại thành phần đa số Phật giáo
Sinhalese), ở Indonesia (Tin Lành và Hồi giáo), ở Caucasus (Chính
Thống giáo với Hồi giáo và Công giáo với Hồi giáo) {Sam Harris,
The End of Faith, W.W. Norton & Co., New York, 2005, trang 26.
(4)
Google. Vienamease in Califronia (447.032 người). Cambodian
(70.232 người). Thai (36.525 người). Những con số tôi dùng trong
bài là ước lượng từ nguồn thông tin diện tử Google năm 2000.
(5)
Nhật báo USA Today, 11. 8. 2005.
|