Tiếng Việt

Trang nhà Quảng Đức

   Tiếng Anh 

qd.jpg (8936 bytes)

Tập san Phật Học


   

 

 

Tập san Pháp Luân

No.18 tháng 8 năm Ất dậu

 ---o0o--- 

Ngũ căn – Ngũ lực

Thích Đức Thắng
 

Ngũ căn và ngũ lực là hai hành pháp thứ tư và thứ năm thuộc bảy hành phẩm trong ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Năm căn và năm lực ở đây thuộc nền tảng căn bản thúc đẩy để từ đó phát sinh ra kết quả tùy thuộc vào tác nhân tạo ra chúng hoặc thiện hoặc ác, hoặc tốt hoặc xấu… Năm căn là nền tảng có khả năng sản sinh và tăng thượng các thiện nghiệp, thì năm lực chính là sức mạnh để chận đứng, triệt tiêu các thế lực vô minh phiền não bất thiện và tác dụng các khả năng tăng thượng các pháp lành.

- NGŨ CĂN (Pañcānām indriyāām) ở đây chỉ cho năm vô lậu căn, là năm nền tảng căn bản để đưa đến việc sản sinh và tăng trưởng thiện nghiệp, là con đường đưa về Thánh đạo; chúng câu hữu với tác dụng tăng thượng giải thoát cho hành giả, cho nên gọi là năm căn. Theo Luận Trí Ðộ 10, giải thì: “Năm căn này là nền tảng căn bản để phát sanh ra tất cả các thiện pháp, nên gọi là ngũ căn”. Và theo luận Câu-xá 3 thì: “Đối trong pháp thanh tịnh thì năm căn này có tác dụng tăng thượng. Vì sao vậy? Vì thế lực của chúng có khả năng hàng phục tất cả các thứ phiền não, đưa hành giả đến Thánh đạo.” Năm căn ấy là:

Tín căn (Śraddhendriya)

Tấn căn (Vīryendriya)

Niệm căn (Smtīndriya)

Ðịnh căn (Samādhīndriya)

Huệ căn (Prajñendriya).

1. Tín căn (Śraddhendriya): là lòng tin được đặt trên chiều hướng câu hữu với thiện pháp và đưa đến giải thoát, tức là tin một cách vững chắc vào Tam bảo, tin một cách như thật vào đạo lý Tứ đế. Lòng tin này được đặt trên nền tảng như thật không giống như lòng tin mù mờ, vô căn cứ, không thấy, không biết, không nghe mà vẫn cứ tin, đó gọi là tin mù quáng, mê tín dị đoan không có cơ sở, bất chấp sự thật của hầu hết các bộ phái ngoại đạo. Lòng tin ở đây là con đẻ của lý trí, là kết quả của sự suy luận so sánh đối chiếu sáng suốt, của sự quan sát tư duy kỹ càng chứ không phải của tình cảm đam mê lú lẫn. Ðức Đạo sư không bao giờ bắt buộc chúng ta tin một điều gì mà không tìm hiểu suy xét về nó, không giải thích tường tận rõ ràng về nó. Vì vậy cho nên, Ngài thường dạy cho các đệ tử của Ngài là: “Tin Ta mà không hiểu Ta, tức là hủy báng Ta!” Lòng tin của chúng ta phát khởi từ trí tuệ, có xét đoán tìm hiểu một cách rõ ràng minh bạch thì lòng tin đó nó mới vững chắc, mãnh liệt. Chính nó là nền tảng căn bản phát sinh các hạnh lành, Phật dạy: “Tin là mẹ vô lượng công đức”. Nhưng hành giả chúng ta tin cái gì cho đúng với thiện pháp, đúng với giải thoát? Đó chính là tin vào ba ngôi báu:

a) Tin Phật: Chúng ta biết rằng đức đức Đạo sư là bậc hoàn toàn giác ngộ và giải thoát tất cả mọi vướng bận của khổ đau thế gian. Vì vậy, hành giả chúng ta lúc nào cũng luôn luôn tin tưởng về Phật và hướng mục tiêu hoàn thành giác ngộ, cũng như giải thoát cuối cùng của chúng ta như chính đức Đạo sư đã thân chứng.

b) Tin pháp: Hành giả chúng ta tin vào Pháp là chân lý sống, là pháp như thật mà đức Ðạo sư đã thân chứng và truyền lại cho những người đi sau như chúng ta. Hay nói một cách khác, pháp đó chính là giáo lý chỉ cho bốn sự thật mà đức Đạo sư đã thuyết minh lần đầu tiên cho năm anh em Kiều Trần Như tại vườn nai. Chúng ta tin tưởng một cách tuyệt đối vào những giáo lý ấy, vì người nói ra là đức Đạo sư, Ngài đã tự thân tác chứng và giác ngộ được cũng nhờ vào giáo lý ấy.

c) Tin Tăng: Hành giả chúng ta tin tưởng vào Tăng là những người thật hành các giáo lý của đức Đạo sư, để tự thanh tịnh ba nghiệp thân khẩu ý, giác ngộ mình, giác ngộ người khác, là những vị đại diện cho đức Đạo sư đưa cao ngọn đuốc chánh pháp sáng soi cho mọi người đi theo. Nên hành giả quyết trọn đời phải tin tưởng và quy hướng về Tăng để thực hành giải thoát.
 

2. Tấn căn (Vīryendriya): Là sự nỗ lực siêng năng, tinh tấn dũng mãnh trong việc thực hành tu tập các pháp lành mà hành giả đã lựa chọn, không bao giờ để cho thối lui. Nếu hành giả đã có lòng tin chắc chắn vào pháp tu mà không nỗ lực siêng năng tinh tấn thực hiện, thì lòng tin suông trên lý thuyết đó sẽ trở thành vô dụng, không đưa hành giả chúng ta đạt đến cứu cánh giải thoát được.

Vì thế, hành giả nào đã tin tưởng vào Tam bảo, thì phải luôn luôn nỗ lực siêng năng, tinh tấn thực hành giáo lý của Phật mà mình đã chọn. Theo Nhiếp đại thừa luận, tinh tấn có ba:

a) Bị giáp tinh tấn: Mặc áo giáp tinh tấn, là một trong những thứ vũ khí lợi hại khi chiến đấu với các loại giặc, các loại ma trong đó có nội ma ngoại ma. Trong cuộc chiến đấu này, hành giả bắt buộc phải cần đến áo giáp tinh tấn, nó là một trong những lợi khí khi xông pha vào trận địa “phiền não”, nó luôn luôn động viên và thúc giục hành giả tiến lên phía trước một cách cam đảm dũng mãnh mà không còn sợ sệt ma quân hãm hại. Nhờ có áo giáp này, nó là một năng lực khiến chúng ta hùng dũng tiến tới, không sợ gian nan nguy hiểm, không lùi bước trước một trở ngại hay một địch thủ nào, nên siêng năng tinh tấn là một trợ lực rất có hiệu quả cho hành giả trên bước đường tu tập thực hành để đạt giải thoát.

b) Gia hành tinh tấn: Hành giả luôn luôn nỗ lực gắng sức không bao giờ lười nhác dừng nghỉ trên bước đường tu tập đi đến giải thoát. Với thứ tinh tấn này, nỗ lực của sức mạnh tiếp sức này tức là chỉ cho những duyên phụ thuộc kích thích hành giả chúng ta càng tiến lên càng tạo thêm sức mạnh càng hăng, càng kích thích phấn chí nhiều hơn và chúng sẽ làm cho hành giả không còn mệt mỏi biếng nhác nữa.

c) Vô hỷ túc tinh tấn: Là không vui sướng tự mãn với thành quả vừa đạt được trong lúc tu tập thực hành mà cho là vừa đủ, không cần cố gắng tiến lên nữa. Hành giả nào chưa vào được Thánh đạo thì dứt khoát phải còn gia công gắng sức tu tập mãi mãi, chứ không chịu dừng lại, mà hưởng vui với một quả vị thấp kém, tạm thời. Như người đi bộ khi chưa đến đích cuối cùng thì vẫn còn hăng hái tiến bước mãi càng nhanh càng tốt, chứ không chịu chấm dứt cuộc hành trình của mình với dạng lấy lệ, hay cho như vậy là đủ bằng cách an phận nghỉ ngơi mãi trong quán trọ bên đường, làm cho tiến độ càng ngày càng suy giảm tốc độ dần cho đến khi quên mất mục đích tối hậu của mình.
 

3. Niệm căn (Smtīndriya): Mục tiêu của niệm là nhớ nghĩ đến những pháp câu hữu với giải thoát, giúp hành giả nếu muốn đạt được mục đích thì cần phải nhờ vào những pháp phương tiện trợ duyên pháp hành của mình. Nhớ nghĩ ở đây liên quan đến:

a) Niệm thí: Là nhớ nghĩ đến việc tu tập bố thí. Hành giả ở đây ngoài việc tự làm lợi cho chính mình, mà còn phải lúc nào cũng phải nhớ nghĩ đến việc đem tài sản bố thí cho người nghèo khổ; đem hùng lực vô úy của chính mình cứu giúp cho những người sợ hãi nhút nhát; đem chánh pháp chỉ giáo bày vẽ cho người si mê, khiến họ hết khổ được vui như mình.

b) Niệm giới: Là nhớ nghĩ đến việc trì tịnh giới để đoạn trừ các phiền não nghiệp chướng mà hành giả đã lỡ tạo ra trong quá khứ gần hay xa và ngăn ngừa những nghiệp nhân ác bất thiện có thể xảy ra trong hiện tại, cùng làm tăng trưởng mọi pháp lành trong quá khứ qua những tác nhân trong hiện tại. Hành giả ở đây cũng vậy, ngoài việc tự lợi cho chính mình trong việc giữ gìn giới cho thanh tịnh mà còn ảnh hưởng hỗ tương đến mọi người chung quanh qua việc sống với người trong một cộng đồng cọng hưởng qua ba loại Giới:

- Nhiếp luật nghi giới: Những giới điều để ngăn cấm các tác nghiệp thô xấu qua các oai nghi có thể xảy ra trong hiện tại, đồng thời cùng lúc đoạn trừ các nghiệp chướng nơi thân tâm có thể xảy ra trong tương lai.

- Nhiếp thiện pháp giới: Những giới điều được đặt ra đúng pháp và lợi ích, chúng câu hữu với giải thoát. Hành giả tu tập thực hành giữ gìn theo nó, có thể thành tựu tất cả mọi pháp lành trong tương lai.

- Nhiêu ích hữu tình giới: Những giới điều đưa đến làm lợi ích an lạc cho tất cả chúng sinh khi hành giả thực hành tu tập giữ gìn chúng. Vì sự tương quan tương duyên sinh khởi nên một khi hành giả thành tựu pháp tu thì tất cả đều cùng lúc thành tựu trong sự hiện hữu đồng thời của chúng.

c) Niệm thiên: Lúc nào hành giả cũng nhớ nghĩ đến sự giàu sang vui sướng của chư thiên và bố thí trì giới để tạo ra các thiện nghiệp cho tương lai thì chắc chắn sẽ hưởng được mọi thứ công đức này khi thọ thân trời, phóng ra ánh sáng, không đâu là không chiếu tới. Như Kinh Tăng Nhất A-hàm 2, phẩm Quảng diễn, đức Đạo sư dạy: “Nếu có Tỳ-kheo nào, chánh thân chánh ý, ngồi kiết già, cột niệm phía trước, không tưởng nghĩ đến việc khác, chỉ nhớ nghĩ đến trời, thân khẩu ý thanh tịnh, không tạo ra các việc xấu. Giữ gìn giới, thành tựu thân giới thì thân phóng ra ánh sáng, không đâu không đến… lúc nào cũng nhớ nghĩ đến trời không bao giờ quên thì, sẽ thu được mọi thứ công đức thiện này.” Hay Nhiếp Ðại Thừa luận nói: “Niệm thiên là an trụ vào bốn món thiền định”. Vậy niệm thiên là nhớ nghĩ đến cách tu tập bốn thiền định, để thanh lọc hết tất cả phiền não mà giải thoát.

4. Ðịnh căn (Samādhīndriya): Ðịnh nói cho đủ là Chánh định, dịch nghĩa từ chữ Samādhi phiên âm là Tam-ma-địa. Ðịnh là khiến tâm hành giả trụ vào một nơi, một chỗ để lắng tâm yên tịnh, chuyên chú vào chánh pháp, không cho tâm hành giả tán loạn mà quán sát suy đạt thật nghĩa của nó. Còn căn phạn ngữ gọi là indriya bao gồm vừa có nghĩa tăng thượng, vừa có nghĩa sinh khởi. Do đó định căn có nhiệm vụ khiến cho tâm hành giả dừng lại một chỗ, không vì hoàn cảnh ngoại tại mà sức thiền định bị dao động; vì sức thiền định này có khả năng sinh khởi ra mọi thứ công đức và làm chúng tăng trưởng lên, cho nên gọi là căn. Theo Thành duy thức luận 9, trong Thập độ tam hành, độ thứ năm là Thiền độ tam hạnh thì tịnh lự (định) có thể chia làm ba bậc:

a) An trụ tịnh lự: Để tâm an trụ vào định, nên vọng tưởng không có cơ hội để khởi lên, nhờ vậy mà hành giả đi sâu vào trong thiền định và từ đó phiền não được diệt trừ.

b) Dẫn phát tịnh lự: Nhờ phiền não đã được đoạn trừ nên trí tuệ được hiện hữu phát sinh các thứ công đức thù thắng.

c) Biện sự tịnh lự: Nhờ đã phát sinh các thứ công đức viên thành, nên thường làm lợi ích cho tất cả chúng sanh; cứu độ chúng sanh giải thoát sanh tử, chứng đắc Niết-bàn.

5. Huệ căn (Prajñendriya): Quán trí phát sinh được nhờ trong định và cũng từ đó mà hành giả hiểu rõ được chân lý như thật của muôn pháp. Quán đạt chân lý gọi là tuệ; khi trí huệ đầy đủ thì tất cả mọi thứ phiền não tự tiêu trừ và các năng lực thiện pháp xuất hiện, thành tựu trọn vẹn mọi thứ công đức, cho đến lúc thành đạo. Cho nên gọi là Huệ căn. Theo Nhiếp Ðại Thừa, trí huệ có ba thứ:

a) Vô phân biệt gia hành huệ: Trí tuệ nầy không còn có sự phân biệt nữa, nhưng còn cần phải thực hành thêm, nghĩa là còn cần sự dụng công tu hành, để thành tựu hoàn toàn trí vô phân biệt. Vì thế, nên gọi là “vô phân biệt gia hành huệ”.

b) Vô phân biệt huệ: Trí huệ nầy không còn có sự phân biệt và cũng không cần phải thực hành thêm nữa vì nó đã đầy đủ và thuần phục. Nhờ trí huệ này, mà hành giả thể chứng Chân như một cách tự tại.

c) Vô phân biệt hậu đắc huệ: Còn gọi là hậu đắc trí, là trí huệ có được sau khi đã chứng được Chân như. Trí huệ này không còn phân biệt nữa, hoàn toàn sáng suốt, tỏ ngộ được thật nghĩa của các pháp. Chư Phật nhờ hậu đắc trí nầy mà thi tác vô lượng công đức, để cứu độ chúng sanh. Nói một cách tổng quát giản dị, huệ căn là trí huệ nhờ thiền định làm lặng sạch có được. Nó thông đạt được sự thật của các pháp; nó là nền tảng mà phát sanh ra mọi việc vĩ đại để giải thoát chúng sinh ra khỏi khổ đau.

Tóm lại, vì năm căn này là nền tảng có khả năng sinh sản ra tất cả các pháp thiện, nên gọi là năm căn. Hơn nữa ‘căn’ ở đây nó cũng mang ý nghĩa tăng thượng, như trên chúng ta đã biết, năm loại căn này cũng có thể khiến cho con người sản sinh ra Thánh đạo vô lậu nên cũng gọi là căn. Theo Đại thừa nghĩa chương 16 nói về ý nghĩa của căn “Vì sức mạnh của năm căn này nghiêng nặng hơn về việc sản sinh ra Thánh đạo xuất thế, nên gọi là căn.” Năm loại căn này còn có tác dụng dùng để đối trị với những người: không có lòng tin (bất tín), biếng nhác (giải đãi), buông lung (phóng dật), táy máy thân hình (trạo cử), phiền não vô minh, nên cũng gọi là căn. Ngoài ra theo phần một quyển 7, Chỉ Quán bổ hành truyện hoằng quyết, thì người tu hành tuy mầm thiện chưa phát, vì căn chưa sinh, song nay nếu tu tập năm pháp này thì sẽ khiến cho thiện căn sẽ sinh ra, nên năm pháp này được gọi là căn.

- NGŨ LỰC (Pañcānā balānām): tức là năm lực này có được nhờ vào năm căn tăng trưởng sinh ra trong lúc hành giả tu hành, chúng chính là sức mạnh duy trì sự liên tục đưa đến giải thoát cho hành giả. Đó chính là thần lực của năm căn, chúng có khả năng đối trị thế lực của năm chướng. Nói một cách dễ hiểu: Ngũ căn như năm cánh tay của chúng ta, còn ngũ lực như là sức mạnh của năm cánh tay ấy.

1. Tín lực (Śraddhā-bala): Tức là sức mạnh do tín căn sinh ra, với công năng là phá hủy tất cả mọi thứ tà tín.

2. Tấn lực (Vīrya-bala): Tức sức mạnh do tinh tấn căn sinh ra, có công năng phá hủy mọi sự lười biếng nhác nhớm của thân và lúc nào cũng siêng năng tinh cần trong việc chỉ ác hành thiện, trong việc thực hành tu tập Tứ chánh cần.

3. Niệm lực (Smriti-bala): Tức là sức mạnh do niệm căn sinh ra, hay sức mạnh lớn lao bền chắc của niệm căn, với khả năng phá hủy mọi thứ tà niệm và dùng pháp tứ niệm xứ để giữ gìn chánh niệm.

4. Ðịnh lực (Samādhi-bala): Tức sức mạnh do định căn sinh ra, với khả năng chống phá các thứ loạn tưởng, bằng vào chuyên tâm thiền định để đoạn trừ các dục phiền não.

5. Huệ lực (Prajñā-bala): Tức sức mạnh do huệ căn sinh ra, với khả năng phá hoại các hoặc của ba cõi, bằng vào quán ngộ Tứ đế, thành tựu trí tuệ, mà đạt được giải thoát.

Năm lực này vì chúng có công năng phá hủy mọi thứ ác pháp nên gọi là năm thứ sức mạnh. Theo Trí độ luận 19: “Năm căn tăng trưởng, không bị phiền não phá hoại, đó gọi là lực.” hay: “Thiên ma ngoại đạo không thể làm trở ngại, đó gọi là lực.” Nội dung ý nghĩa và công dụng của chúng cùng với năm vô lậu căn giống nhau, vì Phật giáo là một đạo thực tiễn nên việc thực hành những giáo pháp này là cần thiết theo thứ tự từ trước đến sau, từ trên xuống dưới. Những sức mạnh nầy là kết quả đã đạt được từ sự nỗ lực tinh tấn siêng năng tu tập của Ngũ căn. Nó như là một ngọn lửa được bật lên sau khi hành giả đã nỗ lực tinh tấn cọ sát hai cây gỗ vào nhau để có kết quả ngọn lửa được sinh ra. 

Tóm lại, năm căn là nền tảng có khả năng sản sinh ra và làm tăng thượng các thiện nghiệp, thì năm lực chính là sức mạnh để chận đứng, triệt tiêu các thế lực vô minh phiền não bất thiện và tác dụng của nó có khả năng tăng thượng các pháp lành. Qua những trình bày ở trên, chúng ta thấy ngũ căn và ngũ lực vừa là những nền tảng căn bản phát sinh các thiện pháp và làm tăng thượng vô lượng công đức thù thắng đưa hành giả đến Thánh đạo, vừa có khả năng chận đứng tiêu diệt các pháp ác bất thiện vô minh, giải thoát mọi thứ phiền não để đạt Niết-bàn an vui. Chúng là những nền tảng cơ bản để hành giả làm nhân tư lương tốt trong việc thực hiện giải thoát đưa về Thánh đạo.

 

Thiếu Niên Trong Phật Giáo Qua Hình Tượng Của Tôn Giả La-Hầu-La

Thích Trí Lộc

Cuộc đời của một kiếp người: sinh ra, lớn lên, làm ăn, sinh sống,… bất chợt có ai đó hỏi một câu rằng: Trong cuộc đời của anh (chị) thời nào đẹp nhất, vui nhất và nhiều kỉ niệm nhất? Hầu như ai trong chúng ta cũng trả lời rằng: Thời thơ ấu hay thời niên thiếu của tôi là đẹp nhất, vui nhất, và nhiều kỉ niệm nhất. Thời niên thiếu luôn để lại những dấu ấn khó phai trong lòng mỗi người: “Thuở thiếu thời vui lắm ai ơi!”, một nhạc sĩ nào đó đã để lại những lời nhạc êm đềm như vậy. Hơn thế nữa, thời niên thiếu còn ẩn chứa những tiềm năng, những tính chất tốt đẹp… hứa hẹn một tương lai tươi sáng đang mở rộng trước mắt mỗi người. Đây chính là một bước ngoặc để mỗi người chuẩn bị đi vào lứa tuổi thanh niên, vươn vai gánh vác những trọng trách của đời mình. Trong kinh A-Hàm, đức Phật dạy các Tỳ-kheo: “Này các thầy, có 4 điều không nên xem thường: một đốm lửa nhỏ, một con rắn con, một tu sĩ trẻ và một Thái tử”. Một đốm lửa nhỏ có khả năng thiêu rụi cả một thành phố, cả ngôi làng. Một con rắn nhỏ có thể cắn chết nhiều người; một vị Thái tử có thể làm vua quyết định sự tồn vong của một quốc gia và một tu sĩ trẻ hay một chú tiểu có thể trở thành những nhà hướng dẫn đạo đức, làm mô phạm cho trời người… Trong bài này, chúng ta cùng tìm hiểu đôi nét về thời niên thiếu của tôn giả La-hầu-la và cùng bàn luận về thời niên thiếu của mọi người.

Hình tượng của một Vương tử bé nhỏ từ bỏ hoàng cung, xa lìa vòng tay thương mến của mẹ hiền, từ bỏ tất cả những gì cao sang sung sướng nhất của đời người… từ bỏ ngai vàng quyền uy, danh vọng tột đỉnh của nhân gian đang hứa hẹn… để bước vào đời sống phạm hạnh, trở thành một Sa-di bé bỏng đầu tiên trong Phật giáo; đây là hình bóng đặc biệt, là biểu tượng không phai mờ trong khối óc và con tim của những người con Phật.

Tôn giả La-hầu-la là người con duy nhất của thái tử Tất-đạt-đa và công chúa Da-du-đà-la, là cháu đích tôn của vua Tịnh Phạn và là cháu ngoại của vua Thiện Giác. Thời thơ ấu, La-hầu-la được sống trong vòng tay hết mực yêu thương của người mẹ hiền, sự nuông chiều và kỳ vọng hết mực của Tịnh Phạn vương và cả hoàng tộc, là một bậc Vương tử được sự quí chuộng và sung sướng bậc nhất của vương thành Ca-tỳ-la-vệ. Năm La-hầu-la lên 10 tuổi thì đức Phật trở về cố hương để viếng thăm và hóa độ mọi người trong Hoàng tộc cùng dân chúng vương thành Ca-tỳ-la-vệ. Với tướng hảo quang minh, với tôn dung uy nghiêm và khả kính của đức Phật, vương tử La-hầu-la đã hoàn toàn bị chinh phục. Chính vì thế, vương tử La-hầu-la cứ đi theo chân của đức Đạo sư đòi xin gia tài theo lời chỉ bảo của mẹ mình. Đức Phật nói với La-hầu-la:  “Ta có hai gia tài quí giá, một là gia tài danh vọng và quyền lực tối cao của ngai vàng mà mọi người hằng mong ước, nhưng nó mong manh, vô thường ẩn chứa những khổ đau của tranh giành đầy phiền não… gia tài này Ta đã từ bỏ và Ta sẽ không trao lại cho con. Gia tài thứ hai là gia tài Pháp bảo vô giá mà Ta đã chứng ngộ được, gia tài này an lạc và giải thoát hoàn toàn mọi khổ đau… Ta sẽ trao lại cho con gia tài cao cả quý giá nhất này”. Nói xong, đức Đạo sư gọi tôn giả Xá-lợi-phất lại, giao La-hầu-la cho Tôn giả hướng dẫn. Tôn giả Xá-lợi-phất đã xuống tóc cho vương tử La-hầu-la và vương tử trở thành vị Sa-di đầu tiên trong Phật giáo.

Thuở thiếu thời, sung sướng danh vọng và cao sang của vương tử La-hầu-la nơi thế gian giả tạm đã bắt đầu khép lại. Từ đây, La-hầu-la chính thức bước vào thời niên thiếu trong Phật pháp, bắt đầu thực tập đời sống phạm hạnh gian khổ, một cuộc sống xuất trần thượng sĩ.

Tuổi thơ nào cũng nghịch ngợm hồn nhiên vô tư lự, và vị Sa-di bé bỏng mới mười tuổi đầu của chúng ta cũng không ra ngoài thông lệ ấy. Lúc bấy giờ, tôn giả Xá-lợi-phất cũng vừa được đức Phật cho phép thâu nhận chú bé thứ hai vào tu tập tên là Quân Đầu. Từ đấy, Sa-di La-hầu-la đã có bạn, với bản tánh hồn nhiên vui giỡn và được nuông chiều trong Hoàng tộc, Sa-di La-hầu-la thường cùng với Sa-di Quân Đầu hay vui đùa, chạy nhảy và hay chơi trò dối gạt những người khác để lấy làm vui. Lúc bấy giờ, Sa-di La-hầu-la thường ở với đại chúng Tỳ-kheo và đức Phật tại rừng Ôn Tuyền ngoài thành Vương-xá, nơi đây thường được các vua quan, đại thần, trưởng giả, cư sĩ… đến viếng thăm, đảnh lễ và tu học, các vị này thường hỏi La-hầu-la, đức Phật đang ở đâu? La-hầu-la chẳng những không chỉ mà còn cười giỡn trêu chọc hay chỉ lạc đường những vị này để làm trò chơi. Nếu đức Phật ở tịnh xá Trúc Lâm thì La-hầu-la bảo ở Kỳ-xà-quật, ngược lại đức Phật ở Kỳ-xà-quật thì bảo ở Trúc lâm… hai nơi này cách nhau đến mấy dặm làm cho mọi người đều bực mình, nhưng họ còn ngại chưa nói ra. Chuyện ấy rồi cũng đến tai đức Phật, Ngài liền đi đến rừng Ôn Tuyền để giáo hóa La-hầu-la.

Nghe đức Phật đến rừng Ôn Tuyền, La-hầu-la theo lời dạy của tôn giả Xá-lợi-phất múc một chậu nước mang đến để đức Phật rửa chân (thời xưa đức Phật và chư Tăng luôn đi chân đất, xứ Ấn Độ bụi rất nhiều…) khi rửa chân xong đức Phật hỏi La-hầu-la:

- Này La-hầu-la! Nước này có thể uống được không?

- Bạch Thế Tôn! Không thể uống được.

- Tại sao?

- Vì đây là nước rửa chân rất dơ không thể uống được.

- Này La-hầu-la! Con cũng giống như thứ nước đó. Thời gian xuất gia làm Sa-di khá dài, nhưng với lề thói xấu xa, con chưa dứt được. Nước ô uế không uống được, thân tâm những người còn ô uế các tập khí có khác gì đâu? Hình thức xuất gia mà thân, khẩu, ý còn trần tục tất không thể thăng hoa. Người rời bỏ thế tục phải giữ lòng thanh tịnh, hành vi cử chỉ nhẹ nhàng, lời nói phải chơn thật, lựa lời mà nói. Xuất gia mà không trừ bỏ ba độc uế, chẳng khác gì nước dơ. Nước không sạch người ta sẽ đem đổ. Con người mang nhiều tật xấu bị mọi người xa lánh, ắt sẽ sa đọa, tương lai mờ mịt đen tối.

Nói xong, Phật bảo La-hầu-la mang chậu đi đổ rồi mang chậu về. Khi trở lại, đức Phật hỏi:

- Này La-hầu-la! Bây giờ, con đem chậu này đựng thức ăn được không?

- Thưa không.

- Tại sao?

- Vì chậu này chỉ để rửa chân, lại bị bụi đất dơ bám đầy, không đựng thức ăn được.

- Này La-hầu-la! Chậu dơ không đựng thức ăn được, thân dơ cũng thế thôi. Con chỉ là một hình đồng Sa-di mà thân, khẩu, ý không đồng, không tu tập giới, định, tuệ, tâm không trong sạch, lời nói bông đùa nghịch ngợm, thân dính đầy cấu uế, mất hết oai nghi, thức ăn đạo lý làm sao chứa đựng vào tâm được; như thế, khác gì nước uế, chậu dơ. Chậu dùng không được thì giữ lại làm gì?

Nói vừa dứt lời, Phật lấy chân đá nhẹ vào chậu, khiến cái chậu lăn mấy vòng, La-hầu-la thấy thế hoảng sợ, Phật lại hỏi tiếp:

- Này La-hầu-la! Con có sợ cái chậu này bị đá bể không?

- Bạch đức Thế Tôn! Không sợ ạ. Vì nó là chậu rửa chân đã dơ bẩn, rủi bể cũng không sao.

- Này La-hầu-la! Con không tiếc cái chậu này, giống như mọi người không thương mến con, vì con còn nhiều lầm lỗi, kể cả việc nói để mà chơi. Mang danh xuất gia, ăn nói không được thật thà, oai nghi thiếu chuẩn mực, phỉnh gạt người khác, dẫu con có chết cũng không ai thương tiếc cả. La-hầu-la nghe Phật dạy toát mồ hôi, vô cùng hổ thẹn, chí thành sám hối, nguyện từ nay về sau sẽ cố gắng sửa đổi tâm tánh, không còn tái phạm nữa.

Đức Phật bèn kể cho La-hầu-la một câu chuyện: xưa kia có một ông vua nuôi một con voi chiến vô cùng dũng mãnh. Mỗi khi nhà vua ra trận liền mặc áo giáp cho voi, ngà voi nối giáo nhọn, bên tai voi giắt kiếm bén, bốn chân voi đều có dao sáng ngời, sau đuôi lại có cột thêm gậy sắt... Những lúc giao chiến quân địch đến gần đều bị voi giết sạch. Tuy dũng mãnh và trang bị đầy đủ vũ khí như thế, nhưng lúc giao chiến, voi đều cuốn vòi lại giấu kín bên trong, vì đó là chỗ nhược, nếu để trúng tên liền chết ngay. Phật khuyên La-hầu-la cần cẩn thận lời nói, giống như con voi bảo vệ cái vòi. Mở miệng nói dối, dù nói chơi, huệ mạng của ông sẽ mất. Con voi ra trận mà không biết bảo vệ cái vòi thì vô cùng nguy hiểm; Con người không cẩn thận, cân nhắc lời nói cứ nói láo, nói dối sẽ không có tàm quí và không chừa một việc xấu xa nào mà không làm, khi lâm chung sẽ bị đọa trong tam đồ, ác đạo.

Nghe qua câu chuyện, La-hầu-la tỉnh ngộ, phát nguyện sửa đổi oai nghi, bỏ lời dối gạt… tinh tấn tu học, âm thầm phát nguyện tu trì Mật hạnh.

Tuổi thơ hay thời niên thiếu nào cũng có những hồn nhiên và vui tươi. Đó là những nét đáng yêu của mọi người; nhưng sự nghịch ngợm dối gạt cũng luôn song hành tồn tại ở lứa tuổi này, đây là điều đáng trách. Phương pháp mà đức Phật đã dạy là một trong những phương pháp giáo dục tuyệt vời nhất từ xưa đến nay. Giáo dục trẻ thơ hay thiếu niên ta không nên đánh đập hay la hét mà phải có những phương cách hay đẹp, nhẹ nhàng mà sâu sắc như đức Phật đã giáo giới Sa-di La-hầu-la .

Đức Phật dạy có hai hạng người đáng quí: Một là hạng người không phạm lỗi  lầm và hai là hạng người phạm lỗi lầm nhưng biết sửa đổi. Sa-di La-hầu-la thuộc về hạng người đáng quí thứ hai. Là một vương tử sống đời cao sang, sung sướng nhưng khi bước vào cuộc sống phạm hạnh, thanh bần, đời sống xuất thế, Sa-di La-hầu-la phải gặp nhiều gian khổ. Công việc của chú Sa-di thời đức Phật là đuổi chim quạ, quét dọn sân chùa (tịnh xá), phòng ốc, hầu thầy, nghe đức Phật giảng pháp… Nhưng có lúc La-hầu-la phải nhẫn nhục những điều làm cho chúng ta vô cùng khâm phục. Một hôm sau khi thực hiện xong, những công tác hằng ngày, La-hầu-la vào giảng đường nghe đức Phật thuyết pháp. Mãi đến tối mới trở về phòng, La-hầu-la thấy một vị khách Tăng đã dọn y bát của mình để ra ngoài và nằm ngủ trong phòng, theo sự hướng dẫn của thầy quản lý (Sa-di phải nhường phòng cho Tỳ-kheo). Vì đã phát nguyện tu theo pháp Mật hạnh, La-hầu-la đành ôm y bát ra sân ngồi. Bất ngờ lúc ấy trời đổ mưa rất lớn, La-hầu-la lại ôm y bát vào nhà xí để trú mưa. Gần nhà xí, có một hang rắn độc. Vì trời mưa quá lớn, nước ngập hang, con rắn tìm nơi tránh nạn, bò vô nhà xí. Trời thì tối, mưa lại như trút nước, La-hầu-la ngồi bất động không thấy rắn. Ngược lại trong cơn nước ngập, rắn bò ra khỏi hang tìm chỗ khô ráo nên cũng không biết có người trong nhà xí. Ngay tối hôm đó, có người báo cho Phật hay La-hầu-la bị một khách Tăng chiếm phòng và có thể La-hầu-la đang ẩn mưa trong nhà xí. Phật liền cùng người ấy đến nhà xí đón La-hầu-la. Khi rọi đèn vào nhà xí, Phật thấy La-hầu-la ngồi bó gối trong một góc, con rắn khoanh tròn ở một góc. Thấy có ánh sáng, rắn nằm bất động, còn La-hầu-la được Phật gọi ra và dẫn về tịnh xá. Sáng hôm sau, nhân lúc chư Tăng đông đủ, đức Phật chế giới Sa-di có thể được ở chung với Tỳ-kheo trong vòng ba hôm.
Tuổi trẻ dù ở tại gia hay xuất gia cũng luôn cần có những nhu cầu về ăn mặc, ngủ nghỉ, vui đùa… Sa-di La-hầu-la thường theo chư Tăng đi khất thực. Vì tôn kính Tỳ-kheo hơn Sa-di, nên các đàn việt đem những thức ăn ngon cúng dường cho Tỳ-kheo, còn Sa-di La-hầu-la chỉ nhận được những thức ăn thô dở, ít chất dinh dưỡng khó lòng nuốt được. Tuy đã phát nguyện nhẫn nhịn, tịnh hóa thân tâm, nhưng khả năng tu tập chưa cao nên các tập khí bị dồn nén lâu ngày, giờ có thời cơ trỗi dậy. Những lần gặp trường hợp như thế, hồi tưởng lại thuở sung sướng nơi hoàng cung của mình… khi khất thực về La-hầu-la thường lộ nét u buồn trên gương mặt. Một hôm đức thấy được liền hỏi lý do, La-hầu-la xúc động trình bày sự việc qua tiếng khóc. Phật dạy La-hầu-la nên cố gắng chịu đựng, vì cuộc sống của một xuất trần ắt phải gặp nhiều gian lao, khó khăn và thử thách; vả lại thức ăn chỉ dùng để duy trì thân mạng, chúng ta ăn để sống chứ không phải sống để ăn. Bởi thế, Phật khuyên La-hầu-la nên chú trọng đến hạnh tu, không nên quá quan tâm đến ăn uống. Thức ăn chỉ là thuốc trị bệnh đói khát… Đồng thời, đức Phật cũng bảo tôn giả Xá-lợi-phất và chư Tỳ-kheo nên chăm sóc đến sức khỏe của các vị Sa-di bằng cách lưu tâm đến sự ăn uống cho đủ chất dinh dưỡng… Ghi nhớ lời dạy của Phật, La-hầu-la, không còn lưu tâm nhiều đến vấn đề ăn uống. Ngược lại, cũng từ đó chư Tăng lại rất quan tâm đến vấn đề ăn uống đủ chất dinh dưỡng cho các vị Sa-di.

Những khó khăn về ăn uống đã đi qua, nhưng những khó khăn và thử thách vẫn luôn giăng bủa trên bước đường xuất thế của vị Sa-di bé bỏng của chúng ta. Có lần La-hầu-la cùng với tôn giả Xá-lợi-phất đi khất thực trên đường gặp một tên du đảng, hắn chặn đường văng tục, chửi mắng và lấy các đồ dơ phẩn đất… bỏ vào bình bát của tôn giả Xá-lợi-phất và dùng cây đánh lên đầu Sa-di La-hầu-la đến chảy máu. Tôn giả Xá-lợi-phất đã chứng Thánh quả xem mọi việc như không có gì xảy ra, nhưng đối với Sa-di La-hầu-la còn nhỏ không chịu được nên rất tức giận và khóc thảm thương, tôn giả Xá Lợi Phất phải băng bó vết thương và an ủi khuyến khích La-hầu-la nên nhẫn tâm cố gắng học hạnh nhẫn nhục và hãy cố gắng trải lòng từ đến với hết thảy chúng sanh. Về đến Tinh xá, tôn giả Xá-lợi-phất đem sự việc trên thưa đức Thế Tôn, đức Phật dạy Sa-di La-hầu-la: Này La-hầu-la! Nhẫn nhục là hạnh vô cùng cao quý. Muốn thấy Phật, thuận Pháp, gần Tăng. Ông hãy tu hạnh nhẫn nhục. Người biết nhẫn nhục tâm hồn sẽ thư thái, an ổn, diệt trừ được các tai họa, trí tuệ phát sinh; trí tuệ là kiếm báu chặt đứt gốc rễ vô minh, tham ái, ngã chấp. Người có trí tuệ, dù có chung đụng với thế lực vẫn không bị ô nhiễm. Nhẫn nhục là điều kiện làm tăng thượng duyên, tuyên dương chánh pháp, là tư lương để sớm được giải thoát sinh tử luân hồi.

Nghe lời chỉ dạy vô cùng thâm thúy của đức Phật, Sa-di La-hầu-la như được truyền những sức mạnh vô biên, quyết tâm tu hạnh nhẫn nhục, đồng thời tu tập lòng từ đối với mọi chúng sanh, chuyên tâm tu tập mọi oai nghi tế hạnh… Không bao lâu sau đó Tôn giả thọ đại giới, nỗ lực tấn tu chứng đắc quả vị Vô sanh. Trở thành một trong mười đệ tử có năng lực đứng bậc nhất trong hàng vạn đệ tử xuất gia của đức Thế Tôn, được đức Phật và chư Tăng khen ngợi là bậc có mật hạnh đệ nhất; dự vào hàng “Thập đại đệ tử” của đức Thế Tôn.

Tuổi trẻ với những nhu cầu cuộc sống không phải chỉ được xã hội bây giờ quan tâm mà đã được đức Phật quan tâm đúng mực; đồng thời Ngài còn chỉ dạy những phương pháp giáo dục xuyên qua những tâm lý và nhu cầu của tuổi trẻ, chỉ dạy những phương pháp tu tập khuyến khích và nêu cao hạnh nguyện cao cả của một bậc thượng sĩ xuất trần trong buổi đầu đến với Phật pháp dưới danh xưng là “chú điệu, chú tiểu và chú Sa-di), sự quan tâm về mọi mặt của một vị xuất gia trong thời niên thiếu một cách đúng mức và sinh động được đức Phật dạy rõ qua hình tượng của Sa-di La-hầu-la.

Câu chuyện đức Khổng Tử phải bó tay trước những câu hỏi của những trẻ em đã đánh giá tầm quan trọng của trẻ em trong thời niên thiếu: Một hôm trên đường đi du thuyết, ngồi trên xe có người điều khiển, đức Khổng Tử nghe hai chú bé cãi nhau quyết liệt không phân thắng bại, Ông bảo người đánh xe dừng lại hỏi để hỏi rõ chúng cãi nhau về chuyện gì. 
Một em nói rằng: Con bảo mặt trời buổi sáng gần ta hơn mặt trời buổi trưa, vì con thấy mặt trời buổi sáng nó to hơn mặt trời buổi trưa nhưng thằng này không chịu. Em còn lại bảo rằng: Con nói mặt trời buổi trưa gần chúng ta hơn ví nó chiếu sáng và  nóng hơn, buổi sáng xa nên nó không làm nóng… vậy mà thằng này nó không chịu. Và cả hai em bé xin đức Khổng Tử giải thích giùm.

Đức Khổng Tử nghe xong toát mồ hôi vì nghĩ mình từng dạy hàng ngàn, hàng triệu người học tập mà không trả lời được sự thắc mắc của hai thằng bé, cảm thán ông thốt lên rằng: “ hậu sanh khả úy” rồi lên xe bỏ đi.

Các nhà giáo dục bây giờ đã nhận thấy được tầm quan trọng của tuổi thanh thiếu niên nên đã có những lời nhận định: “Trẻ em hôm nay thế giới ngày mai” hay “tuổi trẻ hôm nay là chủ của thế giới ngày mai”. Ông cha ta cũng đã khẳng định tầm quan trọng của tuổi thơ nên có những lời nhận định rất bình dị mà sâu sắc: “Tre già măng mọc”.

Đến với đạo Phật ngày nay, chúng ta sẽ thấy được hình bóng của hàng thanh thiếu niên được đề cao qua sự chú trọng phát triển các Gia Đình Phật Tử. Tuy nhiên điều này còn rất mờ nhạt chưa được quí thầy, giáo hội và các giới Phật tử… quan tâm đúng mức, nếu như lớp Phật tử trung niên hay lão thành đi qua mà không có hàng thanh thiếu niên Phật tử lên thay thế thử hỏi Phật giáo có bị mai một hay không? Truyền thống tâm linh sâu sắc, đạo đức cao đẹp ngàn đời có được nhiều người kế thừa hay không?

Quan trọng hơn thanh thiếu niên trong Gia Đình Phật Tử là hàng Sa-di và Tăng Ni trẻ cần phải được quí thầy và giáo hội quan tâm hết mình, bởi đây là điều kiện quyết định sự tồn vong, thạnh suy của Phật pháp trong tương lai. Xác định được tầm quan trọng là một phần, nhưng đưa ra đường hướng để giáo dục, hiểu được nhu cầu từng lứa tuổi… lại là vấn đề quan trọng hơn.

Cuộc đời của các bậc Thánh đi qua lặng lẽ như một dòng sông với nước sông tưới mát ruộng đồng, với phù sa vun bồi cho từng khu vườn, đồng lúa… nhưng hình ảnh của các Ngài, Thánh hạnh của các Ngài và nhất là  giáo pháp quí giá của quí Ngài, sẽ là những dòng suối thanh lương tưới tẩm cho mọi tâm hồn, mọi cuộc đời ngày càng thêm thăng hoa, tươi đẹp. Nhất là Thánh hạnh của tôn giả La-hầu-la một cuộc sống hy sinh vĩ đại thời thơ ấu tuyệt vời và cao cả: Từ bỏ những gì cao sang nhất sung sướng danh vọng nhất… để đón nhận những khổ đau nhọc nhằn nhất và thành tựu được Mật hạnh cao cả nhất. Xứng đáng là tấm gương tốt cho hàng Sa-di, hàng thanh thiếu niên Phật tử chúng ta rọi soi, học tập để làm thăng tiến cuộc sống, lý tưởng cao cả của mình ngay trong cuộc sống phồn hoa giả mộng như thế giới ngày nay.
 

Các Cảnh Giới Tái Sanh

Thích Nguyên Liên

(tiếp theo)

 

1. Ngạ quỷ đạo.

a. Định nghĩa.

Ngạ quỷ đạo còn gọi quỷ thần đạo. Quỷ có nghĩa là úy, là hay khiếp sợ; thần có nghĩa linh thông biến hóa. Trong kinh có nói loài quỷ do nhân tạo trung phẩm thập ác mà được sanh, và sắp quỷ đạo sau bàng sanh đạo. Nhưng đó là chỉ nói riêng về phương diện ngạ quỷ. Sự thật nếu nói rộng, ngạ quỷ đạo phải gọi là quỷ thần đạo, vì loài này chia làm hai hạng: hạng có uy phước và hạng không uy phước. Đây là những chúng sanh do tạo nghiệp nhân bất thiện từ thuở tiền sanh mà cảm lấy thân ngạ quỷ.

Loại quỷ thần uy phước cũng có cung điện, thân tướng trang nghiêm nhiều kẻ tùy thuộc, hoặc thọ dụng những trân vị cam lồ, hoặc được người thờ cúng. Loại này chia làm hai hạng: chánh thần và tà thần. Bậc chánh thần thì giữ lòng chân chánh hay giúp đỡ nhân gian, hạng tà thần tâm niệm quỷ quyệt không chân thật, hoặc đa dâm đa sát, thường làm tổn hại mọi người. Loài quỷ không uy phước thì vất vả, ở chỗ âm u, thường đói khát, hoặc ăn những đồ bất tịnh.

Xứ sở của quỷ thần có hai nơi: chánh trụ và biên trụ. Chánh trụ như trong kinh Chánh Pháp Niệm nói: “Có thành Diêm La, nơi ở chánh thức của vô số ngạ quỷ do Diêm La vương thống lãnh. Thành này ở dưới châu Diêm-phù-đề, chu vi rộng 7.500.000 dặm. Nơi đây không có ánh sáng mặt trời mặt trăng.” Biên trụ là những chỗ như mé biển, triền núi, rừng bụi, đình miếu, hang hố, mồ mả cho đến vườn nhà cùng các nơi bất định. Chánh trụ là xứ sở riêng của loài nghiệp nặng, thuộc về thế giới ngạ quỷ. Biên trụ là xứ sở của các quỷ thần nghiệp nhẹ hoặc có phước nghiệp, thuộc về hạng ở lẫn lộn trong nhân gian.

b. Thân tướng và thọ lượng.

Thân tướng chúng sanh, quỷ, thần, thú có tốt xấu, lớn nhỏ khác nhau. Đại khái hạng quỷ thần lớn nhất, thân hình cao một do tuần, hạng bậc trung thì thân hình không nhất định, hạng nhỏ hơn hết, thân hình như đứa trẻ mới vừa biết nói. Hạng quỷ thần có uy phước, thân hình cao lớn xinh đẹp như chư thiên. Các quỷ thần ở núi non, sông ngòi biển cả, phần nhiều thân thể đều trang nghiêm đoan chánh.

Hạng quỷ không uy phước, thân hình thô xấu không thể kể xiết. Có loại bụng lép như chó đói, chân như khúc củi khô, miệng mũi thường chảy ra nước mũi, nước dãi, lỗ tai sanh mũ, nơi mắt chảy ra máu. Có loại cao lênh khênh, bụng lớn như cái trống, cổ họng nhỏ như mũi kim, miệng thường phụt ra lửa, thân mình hôi hám, lông cứng như gai nhọn. Các ngạ quỷ khác thân thể còn ghê gớm xấu xa hơn nữa.

Thọ lượng của loài quỷ thần thú dài ngắn không định, hoặc trong sát na, hoặc muôn ức năm.

c. Cảnh giới thọ dụng.

Về khổ lạc thọ dụng, chúng sanh ở cảnh giới ngạ quỷ chịu nhiều phần khổ não về sự đói khát, chỉ có chút ít phần vui. Đại để loài ngạ quỷ phân thành ba loại: loại thứ nhất là quỷ đa tài, hạng quỷ này do đời trước có tu phước, nên hiện đời được ăn uống sung mãn có đầy đủ thần lực; loại thứ hai là quỷ thiểu tài, hạng quỷ này đời trước tuy có tu phước nhưng không nhiều, nên hiện đời tuy có đủ vật ăn uống, nhưng không được như ý và thần lực kém cỏi; loại thứ ba là quỷ hy tự, hạng quỷ này bụng to như cái trống, cổ nhỏ như cây kim, bởi do đời trước tham lam bỏn xẻn, nên hiện đời luôn phải chịu cảnh khổ sở đói khát liên tục…

Về ẩm thực thọ dụng, chúng sanh ở cảnh giới ngạ quỷ đều dùng thô đoạn thực, tức ăn uống những vật thực như con người. Có điều, loài quỷ hy tự (quỷ kém phước) chỉ ăn thuần đồ bất tịnh. Loài ngạ quỷ này khi thấy nước hay thức ăn, thì những vật này đều hóa thành máu lửa và cát sạn.

Về dục nhiễm thọ dụng, chúng sanh ở cảnh giới ngạ quỷ do vì có khổ vui xen lộn nên có sự dâm dục. Ở cõi này khi hai giống giao hợp, trong tâm khoái lạc tột độ liền có chất bất tịnh chảy ra.

d. Nghiệp nhân tái sanh và biểu hiện lâm chung.

d.1. Nghiệp nhân tái sanh.

Cũng theo kinh Biện Ý Trưởng Giả Tử, người nào hiện đời tạo năm nghiệp ác, sau khi chết sẽ đọa vào cảnh giới đau khổ này.

- Bỏn sẻn không thích bố thí.

- Trộm cướp bất hiếu với cha mẹ.

- Ngu dốt hẹp hòi không có lòng rộng rãi, xót thương.

- Chứa cất nhiều tiền của mà không dám ăn mặc.

- Có tiền của, song không cấp dưỡng cha mẹ, anh em, vợ con, tôi tớ.

d.2. Biểu hiện lâm chung.

Nếu người nào lâm chung đọa vào cảnh giới ngạ quỷ sẽ có những biểu hiện sau.

- Thân mình nóng như lửa.

- Lưỡi luôn luôn liếm môi.

- Thường lo nghĩ đói khát, hay nói đến việc ăn uống.

- Miệng hả ra không ngậm lại.

- Tham tiếc tiền của dây dưa khó chết.

- Mắt thường trương lên mà không nhắm.

- Đôi mắt khô khan như mắt chim gỗ.

- Không đại tiện nhưng đi tiểu tiện nhiều.

- Đầu gối bên phải lạnh trước.

- Tay bên phải nắm lại biểu hiện lòng bỏn xẻn.

- Lúc tắt hơi thở hai mắt vẫn mở.

e. Tiến trình thác sanh.

Thân trung ấm nào sắp đọa vào cảnh giới ngạ quỷ, tự thấy một bãi sa mạc rộng lớn mênh mông không cây cối, hoặc chỉ có những hang hố có cây khô héo. Lúc này tự mình bị sức gió nghiệp xô đến, liền thác sanh vào loài ngạ quỷ, chịu nhiều điều nóng bức đói khát vô cùng .

3. Bàng sanh đạo.

a. Định nghĩa.

Bàng sanh là loại chúng sanh có xương sống nằm ngang. Lại chữ “Bàng” còn có nghĩa là biến mãn, vì bàng sanh có nhiều chi loại, và ở các nẻo đều có loài này. Trong kinh Phật có chỗ gọi nẻo này là súc sanh đạo, nhưng danh từ súc sanh chỉ ở trong phạm vi loài sanh vật được con người nuôi dưỡng, vẫn không rộng rãi và đầy đủ bằng danh từ bàng sanh.

Chủng loại bàng sanh tuy nhiều nhưng đại ước có ba: loại bay trên hư không, loại ở trên mặt đất và loại sống dưới nước. Theo kinh Chánh Pháp Niệm, bàng sanh có đến 40 ức chi loại khác nhau. Duyên phận của loại này cao thấp không đồng, cao như kim súy điểu vương, long vương có uy thần phước đức; thấp như dòi, đĩa, côn trùng, sống trong một khung cảnh nhơ nhớp tối tăm, ngắn ngủi.     

b. Thân thể và thọ lượng.

Thân của chúng sanh ở bàng sanh cũng lớn nhỏ không định. Như Nan-đà và Bạt-nan-đà Long vương thân hình rất lớn, quấn núi tu di bảy vòng, đầu gác trên đỉnh núi, đuôi chấm xuống dưới biển. Loài chim lớn nhất là kim súy điểu vương. Chim này đầu và đuôi cách nhau tám ngàn do tuần, bề cao thấp cũng như vậy. Khi nó cất cánh thì bay luôn một mạch từ núi tu di này sang núi tu di khác, giữa chừng không nghỉ. Ở Đại hàm hải có loài cá ma kiệt, thân dài từ 300 đến 700 do tuần, mắt mũi cực to, miệng như hang máu.

Cũng như loài ngạ quỷ, thọ lượng của bàng sanh dài ngắn không nhất định, hoặc trong sát na như các vi trùng, hoặc là muôn ức năm. Các loài rồng và kim súy điểu thọ lượng một trung kiếp, cũng có khi giữa chừng chết yểu.

c. Cảnh giới thọ dụng.

 Về khổ lạc thọ dụng, chúng sanh ở cảnh giới bàng sanh chịu nhiều phần khổ vì ăn nuốt lẫn nhau, chỉ có chút ít phần vui. Chúng sanh ở cảnh này phải chịu sự đánh đập, cày bừa, bị banh da xẻo thịt và nấu nướng, bị người nhai nuốt… Nói chung, bàng sanh luôn sống trong tâm trạng si mê xen lẫn đầy nỗi sợ hãi.

Về ẩm thực thọ dụng, chúng sanh ở cảnh giới súc sanh đều dùng thô đoạn thực. Các loài rồng thường dùng rùa, cá, ếch, nhái… làm thức ăn, loài kim suý điểu dùng rồng làm thức ăn, những vị long vương có phước báo cũng thọ dụng các trân vị như hương phạn, cam lồ, nhưng miếng ăn sau cùng đều biến thành ếch nhái. Còn lại các loài bàng sanh khác đều ăn uống những vật bất tịnh.

Về dục nhiễm thọ dụng, chúng sanh ở cảnh giới súc sanh, do vì có khổ vui xen lộn nên có sự hành dâm. Ở cõi này khi hai giống giao hợp, trong tâm khởi niệm khoái lạc tột độ liền có chất bất tịnh chảy ra.

d. Nghiệp nhân tái sanh và biểu hiện lâm chung.

d.1.  Nghiệp nhân tái sanh.

Cũng theo kinh Biện Ý Trưởng Giả Tử, người nào hiện đời tạo năm ác nghiệp, khi chết sẽ đọa vào cảnh giới bàng sanh.

- Phạm giới, ngoại tình, trộm cướp, nhận của người khác không đồng ý cho.

- Mắc nợ mà lừa lọc, ngang ngạnh không chịu trả.

- Ưa sát sanh, ăn nhậu rượu thịt.

- Không chịu nghe kinh, học pháp.

- Say mê theo tục duyên, không thích trì trai, giữ giới, bố thí.

d.2. Biểu hiện lâm chung.

Nếu ai lâm chung đọa vào cảnh giới bàng sanh sẽ có những biểu hiện sau.

- Thân mang bịnh nặng, tâm mê mờ tán loạn như ở trong mây mù.

- Sợ nghe danh hiệu Phật, không chịu nghe ai khuyên bảo điều lành.

- Ưa thích mùi cá thịt.

- Sanh lòng yêu mến vợ con đắm đuối không bỏ.

- Các ngón tay và ngón chân đều co quắp.

- Cả mình toát mồ hôi.

- Khóe miệng chảy ra nước.

- Tiếng nói khò khè hoặc rít nóng khó nghe.

- Miệng thường ngậm đồ ăn.

e. Tiến trình thác sanh.

Trung ấm nào sắp đọa vào loài chó lợn, thường thấy nhiều cô gái đẹp, mình ưa thích chạy theo, do nhân duyên đó mà bị thác thai. Trung ấm nào sắp đọa vào các loài bàng sanh khác, cảm thấy có luồng gió mãnh liệt cuốn lôi không cưỡng bức được, hoặc thấy vô số quỷ thần cầm binh trượng đuổi theo, hoặc thấy lửa cháy lan tới rần rần, sấm sét phủ đầu dữ dội, sương mù phủ giăng khắp nơi, núi lở biển động ầm ầm, tự mình sợ hãi chạy vào rừng bụi, hang đá mà lẫn trốn; hoặc đang khi thấy ba cái hố trắng, đỏ, đen, liền nhảy ào xuống mà ẩn thân. Do nhân duyên đó mà bị thọ sanh vào dị loại như hùm, beo, nai, chồn, rắn, rít.

4. A-tu-la đạo.

a. Định nghĩa.

A-tu-la là loại chúng sanh nhiều sân hận, đa số có hình tướng không đoan chánh. A-tu-la cũng gọi là A-tố-lạc, dịch là vô đoan chánh, phi thiên. Hai danh từ này có nghĩa: không xinh đẹp, có phước trời nhưng đức không bằng trời. Trong các kinh luận có chỗ cho rằng loài A-tu-la do gây nhân hạ phẩm thập thiện mà được sanh. Nhưng đó chỉ là nói riêng về một phương diện, cho đến danh từ phi thiên cũng thế. Sự thật, phần chánh nhân là loài này do hay nóng giận, hiếu thắng ưa tranh cãi mà sanh.

A-tu-la chia bốn bậc, loài ở cõi trời thì giống trời, loài ở cõi người thì giống người, loài ở cõi quỷ thì giống quỷ, loài ở cõi súc thì giống súc. Vì họ không có chủng loại và trụ xứ nhất định, có thể nhiếp về các nẻo khác, nên trong kinh đối với lục đạo, có chỗ chỉ gọi là ngũ đạo hoặc ngũ thú.

A-tu-la ở cõi trời cũng có cung điện thất bảo, sự ăn mặc tự nhiên hóa hiện như chư thiên. Nhưng do nhân sân hận họ có ba sự kém hơn người, nên xếp loài người: - Loài này có ăn món ăn trân vị, song miếng sau cùng tự nhiên hóa ra bùn. - Ở cõi trời mưa hoa hoặc châu báu, nơi cõi người mưa nước, cõi A-tu-la mưa xuống những binh gậy. - Loài người tâm điềm tỉnh nên dễ thựt hành theo chánh pháp của Như lai, loài A-tu-la tâm sôi nổi hơn thua, nên khó tu đạo giải thoát.

b. Thân tướng và thọ lượng.

 Thân thể của A-tu-la tùy theo chủng loại không nhất định, hoặc giống người, hoặc giống quỷ, hoặc giống súc. Các loại A-tu-la ở cõi nhân thiên, người nam thì xấu trái lại người nữ rất xinh đẹp. Còn các bậc vua A-tu-la, bản thân cao từ một trăm đến bảy trăm do tuần, hóa thân cao mười sáu vạn tám ngàn do tuần, chân đứng dưới đáy biển, đầu cao bằng núi. Tu di A-tu-la vương có đại huyễn thuật, thường đánh với chư thiên, vì phước kém hơn trời nên thường bại trận.

Về thọ lượng loài hữu tình A-tu-la cũng không nhất định, tùy theo súc, quỷ, nhân, thiên mà có ít nhiều hơn kém. Thiên A-tu-la thọ lượng bằng chư thiên, như La hầu A-tu-la vương và thuộc chúng ở thành quang minh thọ 5000 tuổi, một ngày đêm nơi đây bằng 500 năm cõi người. Dõng kiện A-tu-la vương và thuộc chúng ở thành tinh mạng thọ 6000 tuổi, một ngày đêm nơi đây bằng 600 năm cõi người. Hoa mang A-tu-la vương và thuộc chúng ở thành Tỳ-xá-la thọ 7000 tuổi, một ngày đêm nơi đây bằng 700 năm cõi người. Tỳ-ma-chất-đa A-tu-la vương và thuộc chúng ở thành Xá-tỳ-la thọ 8000 tuổi, một ngày đêm nơi đây bằng 800 năm cõi người.

c. Cảnh giới thọ dụng.

Về khổ lạc thọ dụng, chúng sanh ở cảnh giới A-tu-la thọ sự khổ vui xen tạp, hoặc nhiều hoặc ít tùy theo tội phước hơn kém của mỗi người. Nói chung, A-tu-la tùy theo ở cảnh giới nào thì có sự khổ lạc thọ dụng tương tự như ở cảnh giới đó, vì thế họ không có chủng loại và trụ xứ riêng biệt.

Về ẩm thực thọ dụng, chúng sanh ở cảnh giới A-tu-la thọ dụng có thô đoạn thực và tế đoạn thực. A-tu-la ở trong súc sanh, ngạ quỷ và cõi người dùng các vật bất tịnh. Riêng loài thiên A-tu-la dù có ăn các món ăn trân vị, song miếng sau cùng tự nhiên hóa ra bùn hay sâu nhái. Về dục nhiễm thọ dụng, chúng sanh ở cảnh giới A-tu-la có sự hành dâm tương đồng như chúng sanh loài người, quỷ, bàng sanh.

d. Nghiệp nhân tái sanh và biểu hiện lâm chung.

d1. Nghiệp nhân tái sanh.

Người nào hiện đời tuy có tu ngũ giới nhưng tâm còn nhiều sân hận và lòng dục nhiễm, sau khi chết sẽ đọa vào cảnh giới khổ đau này.

d2. Biểu hiện lâm chung.

Có thể nói A-tu-la là một dạng khác của ngạ quỷ, do vậy biểu hiện lâm chung của người nào sắp tái sanh về cảnh giới A-tu-la, thời có những biểu hiện như chúng sanh tái sanh về cảnh giới ngạ quỷ.

e. Tiến trình thác sanh.

Trung ấm nào sắp sanh về cõi A-tu-la, thì sẽ thấy có những vườn cây khả ái và những vần lửa lẫn lộn chuyển xoay. Nếu thấy cảnh ấy sanh lòng vui vẻ đi đến đó, tức là thác sanh vào nẻo này.

** Sanh về thiện đạo

1. Nhân đạo.

a. Định nghĩa.

Nhân đạo là nẻo người. Nhân có nghĩa là nhẫn, chỉ  cho loài người khi gặp cảnh thuận nghịch đều có năng lực nhẫn nại an chịu với duyên phận. Luận Lập Thế nói: “Loài người do tu trung phẩm thập thiện mà được sanh. Trong ngũ thú chỉ có nhân thú là nhiều kiêu mạn, nhưng về phần trấn định tâm ý lại hơn các nẻo kia”. Chúng sanh cảnh này có hình tướng nam nữ, ở rãi rác khắp bốn đại bộ châu.

Chúng sanh ở trong bốn đại bộ châu phần nhiều theo đường dục nhiễm, song cũng có người trọn đời giữ nếp sống tu hành thanh tịnh. Luận về phước báo, người ở ba châu: Tây ngưu hóa châu, Đông thắng thần châu và Bắc câu lô châu thì thù thắng hơn, nhưng về nhân duyên giải thoát thì họ kém thua người Nam thiệm bộ châu.

b. Thân tướng và thọ lượng.

Thân tướng chúng sanh ở nhân thú Nam thiệm bộ châu tùy theo kiếp tăng giảm, lớn nhỏ không nhất định. Người Nam thiệm bộ châu cao ba chẩu rưỡi hoặc bốn chẩu. Người Đông thắng thần châu cao tám chẩu. Người Tây ngưu hóa châu cao mười sáu chẩu. Người Bắc câu lô châu cao ba mươi hai chẩu.

Người Bắc châu mắt có thể thấy suốt tường vách núi non, tai có thể nghe rõ ràng những tiếng hoặc lớn hoặc nhỏ ở xa hay gần. Người Đông châu mắt có thể thấy rõ ràng màu sắc hình dáng trong chỗ tối, tai có thể nghe tiếng cách xa một làn tên. Người ở Tây châu mắt có thể nghe được tiếng và thấy suốt tường vách núi non, tai nghe được những âm thanh ở các nơi xa xôi cách ngại. Nhân loại ở Nam châu có đủ các sắc da, ở hai châu Đông Tây cũng có các sắc da nhưng không có giống người da đen. Nhân dân ở Bắc châu chỉ toàn là người da trắng.

Chúng sanh ở nhân loại, thọ lượng tùy nơi có hơn kém. Người ở châu Nam thiện bộ thọ lượng nhất định, như ở vào lúc kiếp cực tăng thì sống đến 84.000 tuổi, ở vào lúc kiếp cực giảm thì sống chỉ 10 tuổi. Người ở châu Đông thắng thần thọ 250 tuổi. Người ở châu Tây ngưu hóa thọ 500 tuổi. Người ở châu Bắc câu lô thọ 1.000 tuổi. Nhân loại ở Bắc câu lô thọ lượng nhất định, không có chết yểu, còn ba châu kia thì có khi chết yểu giữa chừng.

c. Cảnh giới thọ dụng.

Về khổ lạc thọ dụng, chúng sanh trong cảnh giới nhân đạo thọ sự khổ vui xen tạp, hoặc ít hoặc nhiều tùy theo nghiệp nhân mỗi người đã tạo ra. Nói chung, bên cạnh sự hạnh phúc đôi chút con người phải bị chi phối tám nỗi khổ lớn. Đó là: sanh là khổ, bịnh là khổ, già là khổ, tử là khổ, cầu bất đắc là khổ, ái biệt ly là khổ, oán tắng hội là khổ và ngũ ấm xí thạnh là khổ.

Về ẩm thực thọ dụng, chúng sanh trong cảnh giới nhân đạo về ẩm thực thọ dụng có tế đoạn thực và thô đoạn thực. Tế đoạn thực là khi ở trong thai thọ dụng huyết phần của mẹ. Thô đoạn thực là ăn những thức ăn như: cơm, rau, cá, thịt… Nói rộng ra, các sự thọ dụng khác như: phòng nhà, chiếu, gối, tắm… cũng gọi là tế đoạn thực.

Về dục nhiễm thọ dụng, chúng sanh ở cảnh giới nhân đạo vì có sự khổ vui xen lộn nên có hành dâm. Sự hành dâm tương đồng như loài bàng sanh, quỷ, thần… khi hai thân khác giống giao hợp, trong tâm khởi niệm khoái lạc tột cùng, liền có chất bất tịnh chảy ra.

d. Nghiệp nhân tái sanh và biểu hiện lâm chung.

d.1. Nghiệp nhân tái sanh.

Cũng theo kinh Biện Ý Trưởng Giả Tử, người nào hiện đời thực hành năm việc, khi chết được sanh lên cõi người.

- Bố thí thi ân trạch đối với kẻ bần cùng.

- Giữ giới, không phạm mười điều ác.

- Nhẫn nhục không làm não hại người.

- Tinh tấn khuyến hóa kẻ giải đãi.

- Nhất tâm, trọn hiếu, tận trung.

Thực hành năm điều này, không chỉ được sanh làm người mà còn là người giàu sang, sống lâu, khỏe đẹp, có oai đức, hoặc làm vua chúa được mọi người kính mến thừa sự.

d.2. Biểu hiện lâm chung.

Nếu ai lâm chung được tái sanh vào cảnh giới nhân đạo sẽ có những biểu hiện sau.

- Thân không bịnh nặng.

- Khởi niệm lành sanh lòng hòa dịu, lòng vui vẻ ưa làm việc phước đức.

- Ít sự nói phô, nhớ nghĩ đến cha mẹ vợ con.

- Đối với việc lành hay dữ tâm không lầm loạn.

- Sanh lòng chánh tín thỉnh Tam bảo đến đối diện quy y.

- Con trai và con gái đều đem lòng thương mến gần gũi, coi như việc thường.

- Tai muốn nghe tên họ của anh em, chị em, bè bạn.

- Tâm tánh chánh trực không dua nịnh.

- Rõ biết bạn bè giúp đỡ cho mình, thấy bà con trông nom sanh lòng vui mừng.

- Dặn dò giao phó các công việc lại cho thân quyến rồi từ biệt ra đi.

e. Tiến trình thác sanh.

Loài người mạng chung sắp sanh trở lại châu Nam thiệm bộ, trước tiên thấy có tòa núi to như muốn rớt trên mình, tự tay đưa ra đỡ. Liền khi ấy lại thấy tòa núi đó đổi hình lại như giải nệm trắng, chính mình ngồi nơi nệm ấy mà bay đi. Trong khi bay lại thấy nệm hóa ra màu đỏ. Kế đó lại thấy ánh sáng, trong ánh sáng có nam nữ hội hiệp. Nếu sẽ sanh làm thân nam, thì tự thấy mình cùng mẹ giao hiệp, đối với cha cho là chướng ngại có lòng ghét, nếu sanh làm thân nữ thì trái lại. Bấy giờ hốt nhiên tướng trung ấm diệt, liền vào thai.

Chúng hữu tình ở châu Nam thiệm bộ sắp sanh về châu Đông thắng thần, khi lâm chung thấy tất cả đều màu xanh, có một giải nệm xanh rũ xuống, lúc đó do sợ giải nệm xanh rớt, tự đưa hai tay lên đỡ lấy, vẻ mặt dường như có sắc kinh hãi. Kế đó lại thấy có một cái hồ, bầy ngựa chạy giỡn trên bãi cỏ, cha là ngựa đực, mẹ là ngựa cái. Nếu trung ấm sẽ sanh làm người nam, thì tự thấy mình là ngựa đực, đối với cha sanh lòng ghét đối với mẹ sanh lòng thương yêu. Như trung ấm sẽ sanh làm người nữ, thì tự thấy mình là ngựa cái, đối với cha yêu mến, với mẹ lại ganh ghét. Lúc ấy liền được thọ sanh.

Chúng hữu tình ở châu Nam thiệm bộ khi lâm chung sắp sanh về châu Bắc câu lô, trước tiên thấy một giải nệm đỏ mịn màng, trong lòng ưa thích đưa tay khuấy động như muốn tiếp lấy. Kế lại trông thấy một hồ sen xanh, các loại bạch nga, hồng nhạn, uyên ương lội đùa trên mặt nước, mình cũng vào đó chơi giỡn. Khi ở dưới hồ bước lên, vừa lúc cha mẹ dục nhiễm bất tịnh, do nghiệp điên đảo thấy mình là chim ngỗng, cha là ngỗng trống, mẹ là ngỗng mái. Bấy giờ tùy nghiệp duyên sẽ sanh làm trai hay gái, đối cha mẹ sanh lòng yêu ghét. Trong khi đó liền được thọ sanh. 

(còn tiếp).

Chữ Hiếu trong Nho giáo và Phật giáo

Thích Đồng Thành
(tiếp theo)

 

Phật giáo được truyền đến Trung Hoa dưới triều Hán, một triều đại vốn xem trọng chữ hiếu như một nguyên tắc hành xử quan trọng trong triều đình cũng như ngoài xã hội. Lúc ấy Hiếu kinh là một trong những bộ sách chính được giảng dạy trong hoàng gia. Theo các tác giả của hai bộ Tiền Hán Thư và Hậu Hán Thư, các hoàng đế nhà Hán đều dùng chữ “Hiếu” để đặt danh hiệu của mình sau khi qua đời. Truyền thống này kéo dài từ thời vua Huệ Đế (trị vì từ 195-188 Trc CN) cho đến đời vua cuối cùng là Hiến Đế (trị vì từ 189-220 TL).14 Theo luật pháp thời ấy những ai bất hiếu thì bị nghiêm trị còn những tấm gương hiếu thảo luôn được mọi người nhắc đến. Đối với các viên chức của triều đình khi cha mẹ của mình qua đời thì vị ấy được nghỉ việc trong suốt thời gian tang chế. Sách Nhị Thập Tứ Hiếu cũng được phổ biến sâu rộng trong dân chúng vào thời đó. 

Khi Phật giáo xuất hiện tại quốc gia này, các nhà sư Phật giáo gặp phải một sự công kích mạnh mẽ của Nho giáo. Không những các nhà Nho mà ngay cả các đạo sĩ Lão giáo cũng cho rằng truyền thống Phật giáo tương phản với thánh điển của mình. Chương thứ 117 trong Thái Bình Kinh, một tác phẩm của Lão giáo, có nói đến bốn tà hạnh làm ô nhiễm đời sống cao thượng là: 1) bất hiếu; 2) sống độc thân, không duy trì nòi giống tổ tiên; 3) dùng phân và nước tiểu làm dược liệu; 4) khất thực để sinh sống.15 Rõ ràng Lão giáo có thể căn cứ vào điều thứ hai và thứ tư trên đây để phê phán Phật giáo. Các nhà Nho ở Trung Hoa thường chỉ trích Phật giáo ở ba điểm chính là: thứ nhất, kinh điển nhà Phật không đề cao chữ hiếu; thứ hai, các nhà sư Phật giáo đã cạo bỏ râu tóc, một việc làm trái với Hiếu kinh; và thứ ba, họ không lập gia đình để nối dõi tông đường. 

Để trả lời cho điều phê phán thứ nhất, trong quá trình phiên dịch kinh điển, các dịch giả Phật giáo đã cho phổ biến những bản kinh mà đức Phật đã dạy về công ơn cha mẹ và phương pháp để báo đáp thâm ân đó. Trong Đại tạng Trung Hoa, bản Kinh Thiện Sanh (Sigalovādasutta) được dịch ra nhiều lần bởi những dịch giả khác nhau như: Phật Thuyết Thi Ca La Việt Lục Phương Lễ Kinh do ngài An Thế Cao dịch vào đời Hậu Hán, Phật Thuyết Thiện Sanh Tử Kinh do ngài Pháp Độ dịch vào đời Tây Tấn, Trường A Hàm Kinh (quyển 11) do hai ngài Phật Đà Da Xá và Trúc Phật Niệm dịch vào đời Hậu Tần, Trung A Hàm Kinh (quyển 33) do ngài Tăng Già Đề Bà dịch vào đời Đông Tấn. Ngoài Kinh Thiện Sanh có nhiều bản kinh khác nói về chữ hiếu như: Phật Thuyết Vu Lan Bồn Kinh và Phật Thăng Đao Lợi Thiên Vị Mẫu Thuyết Pháp Kinh do ngài Trúc Pháp Hộ dịch vào đời Tây Tấn, Phật Thuyết Phụ Mẫu Ân Nan Báo Kinh do ngài An Thế Cao dịch vào đời Hậu Hán, Phật Thuyết Báo Ân Phụng Bồn Kinh (còn gọi là Báo Tượng Công Đức Kinh) và Phật Thuyết Hiếu Tử Kinh. Xuất Tam Tạng Kí Tập có nói đến các kinh khác như Hiếu Tử Báo Ân Kinh, Hiếu Tử Thiểm Kinh. Khai Nguyên Thích Giáo Lục có đề cập đến kinh Tịnh Độ Vu Lan Bồn… trong số này Phật Thuyết Vu Lan Bồn Kinh và Phật Thuyết Phụ Mẫu Ân Nan Báo Kinh là hai bản kinh phổ biến nhất. Ngoài việc phổ biến kinh điển nói về chữ hiếu, các tác giả Phật giáo cũng viết nhiều sớ giải cho những bản kinh này cùng những luận thư khác để giải trình ý nghĩa của chữ hiếu trong Phật giáo, chẳng hạn như đời Tấn có ngài Tôn Xước, đời Đường có các ngài Cát Tạng, Tông Mật, Pháp Lâm, Huệ Tịnh, Vương Minh Quảng, Minh Khái, đời Tống có các ngài Ngộ Vinh, Trí Viên, Nhật Tân v.v… Bên cạnh các bản sớ giải này trong dân gian còn lưu truyền một loại hình văn học mới gọi là biến văn nói về gương hiếu hạnh của ngài Mục Kiền Liên. Một số bản biến văn như thế được tìm thấy tại động Đôn Hoàng như: Mục Liên Biến Văn, Mục Liên Duyên Khởi, Mục Liên Minh Gian Cứu Mẫu Biến Văn Tinh Đồ v.v... Việc phiên dịch và trước tác về các bản kinh nói đến hạnh hiếu như thế đã phần nào chứng minh được kinh điển Phật giáo nói rất nhiều về chữ hiếu và những tấm gương hiếu thảo để người đời sau noi theo. 

Về khía cạnh thứ hai, điểm thứ chín trong sách Mâu Tử Lý Hoặc Luận đề cập đến việc Sa môn cạo bỏ râu tóc là trái với lời thánh nhân, không hợp với đạo hiếu như Hiếu kinh đã dạy. Để trả lời cho vấn nạn này, Mâu Tử đã dẫn một mẫu chuyện vào thời nhà Tề có hai cha con cùng qua sông, khi thuyền đến giữa dòng người cha bỗng té xuống nước, nhưng may thay người con đã cứu được cha và liền khi đó cậu ta bèn kéo ngược cha lên để nước trong miệng cha chảy ra ngoài. Nhờ sự thông minh đó của người con mà người cha thoát khỏi cái chết. Hành động kéo ngược cha như thế được xem là bất hiếu, nhưng trong trường hợp này thì thật đáng khen. Do vậy không nên hiểu chữ hiếu một cách giáo điều, cứng nhắc mà cần phải tùy thuận theo hoàn cảnh. Mâu Tử cũng dẫn gương Thái Bá cắt tóc, vẽ mình, tự theo tục của Ngô Việt, việc này trái với nghĩa lý trân quí thân thể, tóc, da vậy mà Khổng Tử lại cho đó là chí đức. Dự Nhượng nuốt than, sơn mình. Nhiếp Chính lột mặt, tự vẫn. Bá Cơ dẫm lửa. Cao Hạnh cắt mặt... những người này được bậc Quân tử cho là dũng bởi đã chết vì nghĩa, không ai dám chê bai về họ cả. Mâu Tử kết luận rằng so với hành động của những người trên thì việc sa môn cạo bỏ râu tóc có gì để gièm pha.  

Điều chỉ trích thứ ba của Nho giáo đối với Phật giáo được đề cập trong vấn nạn kế tiếp của sách Mâu Tử Lý Hoặc Luận, đó là việc sa môn xuất gia, sống đời độc thân không lập gia đình để sanh con nối dõi dòng tộc. Đáp lại lời phê phán này, Mâu Tử lấy gương Hứa Do, Bá Di, Thúc Tề là những người không sinh con để nói dõi tông đường nhưng lại được Khổng Tử tôn là hiền giả, là những người có lòng Nhân. Theo Mâu Tử, bậc sa môn từ bỏ niềm vui tầm thường của vợ con để vui với niềm vui tu dưỡng đạo đức thì đâu có chi là lạ.  

Trong phần đầu của bản sớ giải kinh Vu Lan Bồn, ngài Tông Mật, tổ thứ năm của Hoa Nghiêm Tông, đã xưng tán và viết về gương hiếu của đức Phật  như sau: “Kính lễ Bậc giáo chủ của ba cõi, đức đại hiếu Thích-ca, nhiều kiếp báo thân ân, tích nhân thành chánh giác…Thái tử Tất Đạt chẳng nối ngôi vua, từ giã song thân, rời xa vương quốc, quyết chí tu hành, thành tựu đạo quả để báo ân cha mẹ.”18 Nói về công hạnh của đức Mục-kiền-liên, ngài Tông Mật cũng viết rằng: “Tôn giả Mục-kiền-liên, tâm vốn hiếu thảo, muốn độ mẹ cha, báo ân bú mớm, nên đã xuất gia tu hành, thành bậc đứng đầu về thần thông. Ngài quán thấy vong mẫu đọa trong loài ngạ quỷ, biết tự mình không cứu được nên thỉnh Phật chỉ dạy pháp môn cứu độ, nhân đó đức Phật đã dạy pháp Vu Lan Bồn để cứu mẹ của Tôn giả đang bị tội treo ngược.”19 Qua hai tấm gương trên, ngài Tông Mật muốn chỉ rõ những nhận thức sai lầm của Khổng giáo đối với Phật giáo về quan niệm chữ hiếu. Trải qua nhiều kiếp đức Phật đã phụng dưỡng, báo ân cha mẹ và hạnh hiếu đó được viên thành khi Ngài thành tựu đạo quả để độ song thân và chúng sanh. 

Theo ngài Tông Mật, Nho giáo xem hiếu là hạnh đứng đầu trong muôn hạnh, là lý của trời, là nghĩa của đất, đạo đức do đây mà thành, giáo lý do đây mà sanh, vì thế từ vua quan cho đến thứ dân, ai ai cũng lập tông miếu để thờ cha mẹ, tổ tiên. Ngài cho rằng quan điểm này về chữ hiếu của Nho giáo không khác gì với quan niệm chữ hiếu trong Phật giáo. Giáo lý của đức Thích Ca gồm có kinh và luật, kinh lý giải về lý trí, luật lý giải về giới hạnh. Giới tuy gồm vạn hạnh, nhưng lấy hiếu làm tông cho nên đức Phật Lô Xá Na lúc mới thành Chánh giác liền thuyết đại kinh Hoa Nghiêm, đại giới Bồ tát. Còn theo Kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới, khi đức Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi dưới cội Bồ đề thành Vô thượng Chánh giác, đầu tiên Ngài kiết Bồ tát giới bổn và dạy: “Hiếu thuận cha mẹ, sư tăng, tam bảo, hiếu thuận pháp chí đạo, hiếu gọi là giới, cũng gọi là ngăn cấm.”20 Ngài Tông Mật cũng dẫn một đoạn trong Kinh Niết Bàn kể đến thâm ân sanh thành, nuôi dưỡng, chịu đựng muôn ngàn gian khổ của cha mẹ và khuyên hàng Phật tử phải ghi nhớ và cố công đền trả ân đức đó. Như vậy trong Phật giáo, hiếu cũng được xem là nguồn của đức, là gốc của muôn hạnh. 

Ngoài việc đả thông những nghi vấn của các nhà Nho về phong tục cũng như ý nghĩa đạo hiếu của Phật giáo, người Phật tử Trung Hoa còn chứng minh được rằng đạo hiếu trong Phật giáo siêu việt hơn đạo hiếu trong Nho giáo. Dưới mắt các tín đồ Nho giáo khi một vị tu sĩ xuất gia học đạo, người ấy đã cắt đứt mọi quan hệ với cha mẹ, gia đình, đó là bất hiếu. Song người Phật tử không đồng ý với quan điểm đó. Theo họ, khi gia nhập Tăng đoàn, đối với mỗi vị xuất gia, phần thì tu trì để hồi hướng phước báu cho cha mẹ, phần thì khuyến hóa cha mẹ tu tập theo chánh pháp hầu thoát khỏi sanh tử luân hồi đây mới là cách báo hiếu ý nghĩa nhất. Khi bàn về phẩm vị của người xuất gia trong tác phẩm Sa Môn Bất Kính Vương Giả, tổ Huệ Viễn cho rằng nếu người xuất gia sống có đạo hạnh thì những mối quan hệ trong gia đình (cha-con, anh-em, chồng-vợ) sẽ được tốt đẹp hơn nhiều.  

Trên một phương diện khác, các tác giả Phật giáo còn khẳng định rằng các nhà sư không những cứu độ cha mẹ mà còn giáo hóa muôn loài hữu tình khác, với việc làm này họ đã thực hiện được một phẩm hạnh mà người Trung Hoa gọi là đại hiếu, và tâm hiếu như thế siêu việt hơn khái niệm hiếu thông thường của Nho giáo. Ngài Pháp Lâm, một nhà sư đời Đường đã viết: “Kinh nói rằng: nghiệp thức luân hồi, chúng sanh trong sáu nẻo đâu chẳng phải là cha mẹ, sanh tử chập chùng, trong ba cõi làm sao phân biệt được kẻ oán người thân. Lại nữa trong kinh cũng nói: vô minh che lấp mắt tuệ, đến đi trong sanh tử, gây tạo nhiều hạnh nghiệp, nên cha con đổi vị cho nhau, oan gia trở thành bằng hữu, bằng hữu trở thành oan gia, do vậy bậc Sa-môn bỏ tục theo chơn… xem chúng sanh như cha mẹ của mình.”22 Sau khi Vệ Nguyên Tung công kích Phật giáo vào năm 567, Vương Minh Quảng, một trong những bậc thức giả Phật giáo lúc ấy đã khẳng định một cách minh bạch như sau: “Về hiếu đạo của bậc Sa-môn, trên thuận với chư Phật, kế đến là đền đáp bốn ân, dưới cứu độ hàm thức, khi ba điều này được thực hiện một cách nhiệt tâm thì đó chính là đại hiếu.”23 Vào năm 621, đạo sĩ Phó Dịch dâng biểu lên triều đình đề nghị nên giảm bớt số lượng chùa chiền, tăng ni, công khai phê phán Phật giáo và cho rằng người Phật tử thờ ơ với việc báo ân cha mẹ. Lúc ấy, ngài Minh Khái, trụ trì chùa Chấn Hưởng Miên Châu liền dâng bài “Quyết Đối Phó Dịch Phế Phật Pháp Tăng Sự Tịnh Biểu” để phản bác lại những điều gièm pha của Phó Dịch. Trong bài biểu này, ngài Minh Khái đã viết về hiếu hạnh của người xuất gia như sau: “Nếu những ai muốn trở thành bậc trung thần hiếu tử hộ nước trị dân thì chỉ cần đọc Hiếu kinh và hai chương trong sách của Lão Tử, chẳng cần phải xem nhiều kinh điển nhà Phật. Xem ra những kinh này (Hiếu kinh và hai chương của Lão Tử) chỉ minh giải về nghĩa trung hiếu của thế gian, chưa bàn đến trung hiếu xuất thế. Vì sao vậy? Người thế tục cày sâu cuốc bẩm để hết lòng phụng dưỡng cha mẹ, hàng xuất gia tu đạo kính pháp để phát khởi lòng từ. Người thế tục chỉ đáp được ân nhỏ trong hiện tại, còn những ai phát khởi lòng từ thì báo đáp được đức lớn trong tương lai. Mới xem qua thì dường như người xuất gia không tận lòng cung dưỡng song thân, nhưng chung cuộc họ lại cứu độ được cha mẹ mình, đây là điều chí hiếu.” 

Ngài Minh Khái còn giải thích thêm rằng bề ngoài người xuất gia có vẻ không hiếu thuận như quan niệm đạo hiếu thông thường, nhưng thật ra họ đang thực hiện những phẩm hạnh để mang lại lợi ích lớn nhất cho cha mẹ họ, đó là sự giải thoát tối hậu. Đây chính là ý nghĩa của đạo hiếu xuất thế. Trong Phá Tà Luận, ngài Pháp Lâm cũng đưa ra nhận định tương tự rằng nhìn bề ngoài thì người xuất gia có vẻ như không quan tâm đến cha mẹ, nhưng trong trái tim họ luôn khắc sâu thâm ân của song thân. Về lễ nghi họ có vẻ không gắn bó với nhà cầm quyền, nhưng lòng họ vẫn luôn biết ân, họ là những người đại hiếu thuận vì biết thương yêu cả kẻ oán người thân.

Sang đời Tống Nho giáo bước qua một chặng đường mới với những nỗ lực của các nhà canh tân nổi tiếng như Chu Hi, Trình Hạo, Trình Di. Nền Nho học lúc ấy không còn thuần túy là tư tưởng của Khổng, Mạnh mà lại có thêm phần tâm học được vay mượn từ Phật giáo và huyền học được vay mượn từ Lão giáo. Tuy vậy, các nhà Nho đương thời vẫn tiếp tục phê phán Phật giáo. Để phản bác lại sự công kích này ngài Khế Tung (1007-1072), một thiền sư thuộc tông Vân Môn, đã viết tác phẩm Phụ Giáo Biên để chỉ rõ những bất cập của sự công kích đó. Chủ đề đầu tiên mà ngài bàn đến trong tác phẩm này là chữ hiếu: “Xét về chữ hiếu, các tôn giáo đều tôn sùng, mà Phật giáo thì xem trọng hơn nhiều, tuy nhiên những kiến giải của Phật giáo về đề tài này chưa được phổ biến trong nhân gian.”26 Đây chính là lý do vì sao ngài Khế Tung viết về chủ đề này. Trong phần trình bày của mình Ngài chia ra mười hai phần để luận giải mọi khía cạnh của chữ hiếu theo quan điểm Phật giáo. Có thể nói cho đến thời ấy tác phẩm này của Ngài là một trong những tiểu luận sâu sắc nhất về khái niệm chữ hiếu trong Phật giáo.  

Theo ngài Khế Tung, hiếu là giới, nói cho đúng hơn, là cội nguồn của giới. Nếu một người không hiếu thảo, người ấy không thể giữ giới trọn vẹn và do vậy không thể gây tạo các pháp lành. Trong giới luật nhà Phật có nói đến giới không sát sanh, giữ được giới này cũng chính thực hiện hiếu hạnh bởi vì trong vòng luân hồi này có biết bao chúng sanh đã từng là mẹ, là cha ta, cho nên Phật giáo rất tôn trọng sinh mạng của chúng sanh, dù là một sinh linh bé nhỏ. Ngài Khế Tung cho rằng người đời gọi Nho giáo là đạo hiếu mà không gọi Phật giáo là đạo hiếu, đó là điều lầm lẫn vì chữ hiếu trong Phật giáo không chỉ giới hạn trong thế giới phàm tình như chữ hiếu trong Nho giáo mà còn lan rộng đến cảnh giới của tâm linh, đó chính là đại hiếu.27 Thông thường hiếu có thể chia làm hai loại: có thể thấy và không thể thấy. Hiếu mà ta có thể thấy được đó là “hạnh”, còn hiếu không thể thấy là “lý”, nhờ “lý” nên hiếu mới phát sanh, nhờ “hạnh” nên hiếu được hiển lộ. Người chỉ có “hạnh” mà không nương theo “lý” thì chỉ biết hiếu thảo với cha mẹ mà không thương yêu mọi người, còn người có cả “lý” và “hạnh” thì vừa thờ cha kính mẹ, vừa biết thương mọi người, công hạnh này có thể làm chấn động cả trời đất, cảm hóa được quỉ thần.

Việc lo tang chế cho người đã khuất cũng là bổn phận của một người con hiếu thảo. Theo Nho giáo khi cha mẹ qua đời người con phải tỏ lòng thương tiếc, lo tang lễ thật chu đáo và người có trách nhiệm chính cho việc tang chế hay thờ cúng tổ tiên sau này phải là người con trai nối dõi tông đường. Phật giáo cho rằng việc tang lễ hay thờ cúng tổ tiên là bổn phận chung của con cháu, không luận là nam hay nữ, đối với cha mẹ, ông bà của mình, và những lễ nghi như thế là vì lợi ích cho người đã mất. Ngài Tông Mật đã chỉ ra những điểm dị biệt trong tang lễ của Nho giáo và Phật giáo như sau: (1) tín đồ Nho giáo đặt thi thể vào quan tài, chôn xuống đất rồi xây mộ nơi ấy, nhưng người Phật tử chủ yếu lo tụng niệm và thiết lễ để tiếp dẫn thần thức người quá cố; (2) vào các ngày kỵ các nhà Nho thường để tâm hợp nhất với thân và quán tưởng đến lời nói và hình dáng người đã mất, nhưng người Phật tử thì lập đàn tụng kinh để cầu cho người mất tiêu trừ nghiệp chướng; (3) tín đồ Nho giáo thường giết súc vật trong bất cứ mùa nào để cúng tế cho người chết, nhưng người Phật tử thì thực hành hạnh phóng sinh và làm điều phước thiện đặc biệt là vào tháng giêng, tháng năm và tháng chín, ngoài ra họ còn tổ chức lễ Vu Lan Bồn để kỳ siêu cho tổ tiên.

Nhìn chung cả Nho giáo và Phật giáo đều xem hiếu hạnh là một phẩm hạnh đạo đức căn bản mà mỗi người cần phải luôn trau dồi trong cuộc sống của mình. Ngoài việc minh định ý nghĩa của đạo hiếu thế gian như là quyền pháp (phương tiện), Phật giáo còn hướng hành giả đến đạo hiếu xuất thế thuộc thật pháp (cứu cánh). Phật giáo cho rằng chỉ khi nào một người con biết sống hướng thượng, tinh tấn tu trì, thành tựu các cấp bậc giải thoát để có thể giáo hóa cha mẹ và chúng sanh thì đó mới thật là đại hiếu. Ta có thể hiểu được điều này qua khung cảnh trở về quê hương đầy huy hoàng của đức Phật sau khi thành đạo trong tác phẩm Dụ Đạo Luận của ngài Tôn Xước như sau: “Lúc bấy giờ trời trong đất nhuận, vạn vật đượm nhuần, côn trùng sanh ra hưởng vị linh diệu, cây cối héo khô trở nên tươi thắm, khi Ngài trở về tỏa sáng cố hương, rộng diễn pháp âm, phụ vương cảm ngộ, cùng lên đạo tràng (dự vào hàng thánh), vinh danh cha mẹ như thế, hiếu nào sánh bằng hiếu này?”

[14] J.Y. Hua, “The Role of Filial Piety in Chinese Buddhism: A Reassessment,” Buddhist Ethics and Modern Society, C.W.H.Fu and S.A. Wawrytko eds. Connecticut: Greenwood Press, 1991.
[15] K. Chen, “Filial Piety in Chinese Buddhism,” Harvard Journal of Asiatic Society 28 (1968), p. 82.
[16] Hoằng Minh Tập I, T52n2102, pp. 2c-3a.
[17] Sđd, p. 3a.
[18] T39n1792, p. 505a.
[19]  Sđd, p. 505a-b.
[20] .Sđd, p. 505b.
[21] Hoằng Minh Tập V, T52n2102, p. 30b.
[22] Biện Chánh Luận VI, T52n2110, p. 529b.
[23] Quảng Hoằng Minh Tập X, T52n2103, p. 158c.
[24] Sđd XII, T52n2103, p. 175b.
[25] Phá Tà Luận B, T52n2109, p. 489b-c.
[26] Đàm Tân Văn Tập III, T52n2115, p. 660a.
[27] Sđd, p. 661b.
[28] Sđd, p. 660c.
[29] Phật Thuyết Vu Lan Bồn Kinh Sớ A, T39n1792, p. 505c.
[30] Hoằng Minh Tập III, T52n2102, p. 17c.

Tài Liệu Tham Khảo:

Chen, K. The Chinese Transfomation of Buddhism, Princeton: Princeton University Press, 1973.
Fung, Yu-lan. A History of Chinese Philosophy, Tr. by D. Bodde , Princeton: Princeton University Press, 1952-53.
Malalasekera G.P. Encyclopadia of Buddhism, Vol. I,  Ceylon: The Government Press,1961.
Moore, C.A.(ed.) The Chinese Mind, Honolulu: University of Hawaii Press, 1967.
Teiser, S.F. The Ghost Festival in Medieval China, Princeton: Princeton University Press, 1988.
Zurcher, E. The Buddhist Conquest of China, Leiden: E.J.Brill, 1972.
 

 

Hoa Sen trước gió

Thẩm Phiếu Nhiễu

Có thể nói vạn vật hữu hình khó đứng vững và tồn tại trước những cơn thịnh nộ của bão tố. Thế nhưng, đôi khi đâu đó cũng có những cành hoa bé nhỏ yếu ớt đã sẵn sàng trụ lại sau những cơn cuồng nộ của tự nhiên. Nó vươn dậy trổ hoa, tỏa hương và làm thành “giới hương bất tử” lan tỏa vào không gian, đi vào trong sử sách. Đó là hoa sen, tên hiệu của một vị thiền sư nổi tiếng thời nhà Nguyễn, thiền sư Liên Hoa.

Thiền sư Liễu Đạt – Thiệt Thành, hiệu Liên Hoa (?- 1823), (hiệu này do vua Minh Mạng phong cho) tên họ là gì? Sinh năm nào và quê quán ở đâu thì không thấy sử sách ghi chép. Chỉ biết thiền sư “viên tịch” trong một hoàn cảnh hết sức đặc biệt, “tự thiêu” để bảo toàn phẩm hạnh của người xuất gia?

Thiền sư Liễu Đạt – Thiệt Thành thuộc phái thiền Lâm Tế, đời thứ 35, là đệ tử của thiền sư Minh Vật - Nhất Tri (?- 1786), có lẽ thiền sư xuất gia tu học với thiền sư Minh Vật - Nhất Tri ở chùa Kim Cang (Bình Thảo, Đồng Nai)? Do tư chất thông minh và phẩm hạnh nghiêm mật nên được vua xuống sắc, triệu ra kinh đô Huế để giữ chức Tăng cang chùa Thiên Mụ (1813-1823) và được cử làm pháp sư giảng thuyết Phật pháp trong nội cung của vua Gia Long. Và cũng chính từ đó nghiệp duyên cứ đeo đuổi và gây khá nhiều sự phiền toái cho thiền sư về sau này.

Sử truyện kể lại rằng, thiền sư là người rất hảo tướng, oai nghiêm, đỉnh đạc, thông minh, có tài hùng biện và thuyết giảng Phật pháp rất hay nên được đông đảo quần chúng và Phật tử mến mộ tài năng và phẩm hạnh của Người. Tiếng lành của thiền sư đã chinh phục khá đông đảo Phật tử trong nội cung và các quần thần của triều Nguyễn lúc bấy giờ. Thiền sư có rất nhiều đệ tử trong hoàng cung, trong số đệ tử đó có một vị Hoàng cô (cô của vua Minh Mạng) cũng quy y và thọ Bồ-tát giới, pháp danh Tế Minh, tự Thiên Nhựt. Do cảm mến và quá hâm mộ tài năng cũng như đức độ của Thiền sư nên đã có ý định ràng buộc duyên trần cùng với người. Do thiền sư luôn tỉnh giác và là người có trí tuệ nên đã chọn phương pháp “tránh duyên” bằng cách xin về trụ trì chùa Từ Ân ở Gia Định. Lúc này thiền sư Phật Ý Linh Nhạc (1725- 1821), trụ trì Sắc Tứ Từ Ân tự đã viên tịch. 

Thế rồi vào một buổi sáng đẹp trời tháng mười, năm Quý Mùi (1823), thiền sư đang uống trà và đàm đạo cùng với đồ chúng chùa Sắc Tứ Từ Ân, bỗng có tin từ quan trấn thủ Gia Định vào cho hay là Hoàng cô vâng lệnh vua (Minh Mạng) vào Gia Định để cúng dường chùa Sắc Tứ Từ Ân và chùa Quốc Ân Khải Tường . (Trước đây chùa có tên Khải Tường, trong thời gian (1789- 1802) Nguyễn Phước Ánh trung hưng ở Gia Định, Nguyễn Vương và triều thần ngụ tại chùa Từ Ân; các vương phi, công chúa… ngụ tại chùa Khải Tường. Năm 1791, hoàng tử Nguyễn Phúc Đảm - sau này là vua Minh Mạng- đã chào đời tại ngôi chùa này. Sau khi lên ngôi, vua Gia Long đã sắc phong là Quốc Ân Khải Tường tự). Nhận được tin này, thiền sư phần nào cũng lo âu, bởi lẽ “chúng sanh” bản tánh cang cường khó thay đổi (Hoàng cô) không biết chuyện gì sẽ xảy ra. Mặc dù, thiền sư đã biết mình uyên thâm Phật pháp. Nhưng đang sống trong một xã hội quân chủ, quyền sinh sát nằm trong tay một người, đó là thiên tử, cháu của “chúng sanh” cang cường này.
Thiền sư đích thân cầu thỉnh, vấn kế thiền sư Tổ Tông Viên Quang (1758-1827), trụ trì chùa Giác Lâm, Phú Thọ. Thiền sư Tổ Tông Viên Quang khuyên can và bảo rằng: nếu Hòa thượng lánh mặt bất ngờ thì sẽ mang tội với triều đình, làm cho chư Tăng cùng Phật tử xôn xao, nghi ngờ thắc mắc… sẽ gây nhiều dư luận không tốt và có thể gây nhiều biến động rắc rối hơn. Thiền sư Tổ Tông Viên Quang khuyên Hòa thượng hãy định tâm, cố gắng giữ cho tâm được bình thản và sinh hoạt tự nhiên như mọi ngày, cầu nguyện chư Phật hộ trì, giúp cho sáng suốt để giải quyết công việc hợp tình và hợp lý.

Thiền sư Liên hoa về chùa chuẩn bị đón tiếp Hoàng cô. Lễ tiếp đón và cúng dường diễn ra tốt đẹp và viên mãn. Hoàng cô ở lại chùa Sắc Tứ Từ Ân, mỗi sáng thiền sư Liên Hoa phải tiếp kiến và hầu chuyện bình thường. Nhưng đến sáng thứ ba không biết có sự việc đặc biệt khác thường gì không, mà đến sáng sớm ngày ấy Hoàng cô ở chùa, mà không thấy thiền sư đến tiếp kiến như mọi hôm. Hỏi Tăng chúng thì không ai hay biết, chỉ có Sa di Mật Dĩnh là thị giả của thiền sư biết nhưng không dám hé môi.

Do tâm bịnh nên sức khỏe Hoàng cô ngày một sa sút trầm trọng. Sợ nguy hại cho bổn tự nên Sa di Mật Dĩnh đành phải nói sự thật. Thiền sư đã lên chùa Đại Giác ở Cù lao Phố, tỉnh Biên Hòa để nhập thất hai năm. Được tin này, Hoàng cô thông báo với quan trấn Gia Định là mình lên chùa Đại Giác để cúng dường. Quan tổng trấn cử phái đoàn hộ tống Hoàng cô lên chùa Đại Giác. Sau khi đến chùa dâng lễ cúng dường và nhờ thị giả Mật Dĩnh đưa đến tịnh thất của thiền sư Liên Hoa.

Hoàng cô với tâm thành kính đảnh lễ trước tịnh thất và xin gặp mặt thiền sư lần cuối trước khi hồi kinh. Thiền sư không trả lời. Hoàng cô suy nghĩ kế khác, sau đó quỳ trước cửa thất thưa rằng: “ nếu Hoà thượng không tiện ra tiếp, xin Hoà thuợng cho con nhìn thấy bàn tay của Hòa thượng, đệ tử cũng hân hoan mà ra về”. Im lặng vài phút thiền sư đưa bàn tay ra cửa nhỏ nơi đưa thức ăn vào thất, Hoàng cô vội ôm bàn tay hôn một cách trìu mến, rồi sụp lạy xuống và khóc sướt mướt. Nhưng sau đó bà cho biết là ở lại chùa Đại Giác nghỉ ngơi vài ngày trước khi hồi kinh.

Đêm hôm ấy, vào khoảng canh ba, trong khi mọi người đang yên giấc, bỗng thấy tịnh thất của thiền sư phát hỏa, mọi người chạy ra dập lửa thì tịnh thất đã cháy rụi. Nhục thân của thiền sư cũng cháy đen. Mọi người đang bàn tán, xôn xao, có người phát hiện bài kệ của thiền sư viết bằng mực đen trên vách chánh điện:

THIỆT đức rèn kinh vẹn kiếp trần

THÀNH không vẩn đục vẫn trong ngần

LIỄU tri mộng huyễn chơn như huyễn

ĐẠT đạo mình vui đạo mấy lần.

Qua bài kệ trên chúng ta thấy rằng, thiền sư Liên Hoa là người rất uyên thâm Phật pháp, biết cuộc đời này là mộng huyễn ảo ảnh. Người đã dùng ngọn lửa để thức tỉnh và giáo hóa Hoàng cô. Nhưng có lẽ do duyên nghiệp nhiều đời nhiều kiếp giữa hai người, nên ngọn lửa ấy đã không đạt được kết quả như mong muốn. Tuy nhiên qua câu chuyện này, hàng hậu côn chúng ta cũng rút ra được bài học vô cùng quý báu. Một người vừa hảo tướng vừa tài năng đôi khi cũng dễ gặp những chướng duyên trên bước đường tu học. Điều này đã được báo trước và người nhận ra mối nguy hại ban đầu cũng như tiên đoán chính xác sự việc đó là thiền sư Phật Ý - Linh Nhạc. Ngài tiên đoán “ sư Liễu Đạt (Thiệt Thành, hiệu Liên Hoa) không tránh khỏi mối dây ràng buộc của nghiệp trần duyên vì thiền sư Liễu Đạt có tướng hảo, có tài thuyết giảng và khoa ăn nói, lại giảng giải trong nội cung, gần nhiều giới nữ sắc quyền quý”. Và điều đó đã ứng nghiệm như thật qua câu chuyện. Các vị thiền sư xưa kia, bằng công phu tu tập, năng lực thiền định đã nhận ra tương lai của một người nào đó đối diện với mình, phần còn lại chỉ do họ có nỗ lực để chuyển hóa và giải quyết sự việc đó đúng theo tinh thần nhân quả của nhiều đời, nhiều kiếp hay không?

Cuộc đời và sự nghiệp của một vị thiền sư tài năng, đạo hạnh nổi danh một thời như thế, nhưng phải nhờ ngọn lửa để giữ gìn giới thân huệ mạng là điều chúng ta ngày nay phải cần suy ngẫm. Có một vài người cho rằng cách giải quyết vấn đề như thế là tiêu cực, không lối thoát, chưa trọn vẹn với tinh thần chánh pháp… Phải chăng những nhận xét như vậy là quá gay gắt với tiền nhân?! Người viết cho rằng, khi mình đã là “thần tượng” của quần chúng Phật tử, nhất là thần tượng của giới trí thức quan lại triều đình thì việc “tự thiêu” không chỉ bảo tồn giới thân huệ mạng cho riêng mình mà còn là việc bảo vệ danh dự cho hàng vạn Tăng lữ và hàng triệu tín đồ đã một thời kính trọng và ngưỡng mộ tài đức của mình. Việc làm ấy cũng đủ để hậu thế đảnh lễ tán thán và noi gương theo công hạnh của Người.

Thời đức Phật còn tại thế, Ngài đã thuyết tam bất năng (bất năng miễn định nghiệp, bất năng độ vô duyên, bất năng tận sanh giới). Chính vì tam bất năng này mà hàng hậu học hôm nay hiểu được vì sao thiền sư Liên Hoa đã dùng ngọn lủa “thiêu thân” để bảo toàn phẩm hạnh của mình. 

Trước phong ba bão táp mọi vật có thể bị hủy diệt và cuốn trôi theo chiều gió, chỉ hương người đức hạnh mới trụ lại được và bay ngược lại chiều gió mà thôi. Hương của hoa sen thoang thoảng đâu đây, hình ảnh thiền sư Liên Hoa lại hiện về trong tâm trí của những người đang đi trên lộ trình giải thoát. Chấp tay búp sen con nhớ lại hình ảnh Ngài, cúi đầu đảnh lễ cành hoa sen trước gió.
 

 

Thế nào là Đại ý của Phật pháp?

Thanh Tâm
 

Con đường đưa về giải thoát theo những lời đức Phật dạy thì có muôn lối, vì tùy thuộc vào căn cơ, nên có muôn ngàn pháp môn, nhưng mục đích chung để hướng dẫn con người thể ngộ được giá trị an lạc của đạo Phật thì chỉ có một, đó là giải thoát. Cũng như nước trăm sông chảy về biển cả, khi hòa nhập vào biển cả chỉ có một dòng nước và chung một vị là vị mặn, con người dù màu da chủng tộc khác nhau nhưng cùng chung một dòng máu, dòng máu đó chung một màu đỏ. Trong mối tương giao đó, giáo pháp cũng cùng chung một vị là vị giải thoát, dù được trình bày dưới khía cạnh nào, phương pháp hay bộ phái nào, giáo pháp của đức Phật không ra ngoài mục đích là ly khổ đắc lạc, Niết bàn giải thoát.

Thật vậy, khi luận bàn tới vấn đề giải thoát trong đạo Phật, có nhiều người cho rằng, giải thoát là bỏ đi tất cả những vọng tưởng, những phiền não bấy lâu tồn đọng trong tâm. Cũng có người cho rằng giải thoát là cởi bỏ những trói buộc của danh lợi tiền tài, sắc đẹp của thế thường tìm nơi yên tĩnh để tu tâm dưỡng tánh; cũng có người cho rằng giải thoát là tự do, tự tại, là không ràng buộc bất cứ một khía cạnh nào, không nô lệ một người nào, kể cả không nô lệ ngay cả bản năng sinh tồn của mình. Nói tới giải thoát là nói tới một đề tài rất rộng, rất bao quát sâu xa. Thật ra, đề tài này đã được các nhà học giả hay hành giả Phật giáo bàn giải rất nhiều, nhưng vấn đề để có được giải thoát thực sự xảy ra đối với mỗi người đang tu tập hay không còn tùy thuộc vào câu trả lời của mỗi cá nhân có thực hành hay không mới là vấn đề quan trọng. Để thấu triệt vấn đề này một cách chính xác, không phải dễ dàng chút nào mà chúng ta cần phải trải qua một quá trình thể nghiệm tâm linh, nỗ lực chuyển hóa, tu tập và hạ thủ công phu trong từng giờ, từng phút. Có tu tập, có chuyển hóa, chúng ta mới thấy giá trị của những lời dạy của đức Phật một cách rõ ràng, còn không mà chỉ dựa trên những định nghĩa mang tính sách vở, mang tính lý thuyết để tìm hiểu không thôi thì không có lợi ích gì cho sự tu tập để đạt được sự giải thoát trong Phật giáo. Vì khi chúng ta kinh qua sách vở để tìm hiểu thì đó cũng chỉ là phần giải thích của người ta chứ đâu phải là của mình, chỉ là lý thuyết chứ đâu phải là thực tế. Cho nên nói tới vấn đề giải thoát, là mục đích của hành giả theo đạo Phật cần hướng tới là lẽ đương nhiên, nhưng trên căn để trước hết hành giả phải biết rõ ràng và chính xác trên mặt lý thuyết theo những lời dạy của đức Phật, sau đó đem ra thực hành những điều mà chúng ta đã hiểu biết về con đường giải thoát đó trong thực hành. Ở đây vấn đề tri và hành hợp nhất phải được coi trọng và được đặt lên hàng đầu trên bước đường thực hiện giải thoát.

Trong các kinh tạng Nikaya và Agama, đức Phật thường chỉ bày cho chúng ta thấy sự ra đời của Ngài không ngoài mục đích chính là chỉ bày cho chúng sanh thấy rõ thực tại hiện tiền về hiện trạng của khổ đau và con đường thoát ly khỏi những khổ đau ấy, con đường thoát ly những khổ đau ấy thì nhiều nhưng không ra ngoài ba tụ tịnh giới, định, tuệ, mà Phật giáo gọi là tam vô lậu học. Tam vô lậu học nghĩa là tu tập để tăng thượng giới học, tu tập để tăng thượng định học và tu tập để tăng thượng tuệ học. Ở đây, chúng ta chỉ tìm hiểu một vài khía cạnh của nó trên một định nghĩa căn bản mà ba đời chư Phật đều y cứ, các vị tổ sau học theo, hay cụ thể nhất là câu chuyện về ngài Ô sào thiền sư và Bạch Cư Dị, một nhà thơ nổi tiếng đã từng có một huyền thoại về sự đối đáp giữa hai nhân vật lừng danh này.

Như chúng ta biết, vào thời đại nhà Đường có thiền sư Đạo Lâm, xuất gia tu học tại Vọng Sơn Hàn Châu. Tuổi ấu thơ và tráng niên, Ngài sống bình thản trong bóng mát của tàng cây cổ thụ ở sân chùa. Sư đã tự làm cái tổ trên cội cây cổ thụ để ngồi thiền, dân trong làng rất thích Sư và hàng ngày đem cơm nước đến dâng cúng và nhờ sư chỉ bày thêm giáo lý để tu học. Tương truyền, lúc mẹ Ngài sanh Ngài ra đời không biết vì lý do gì mẹ Ngài đã bỏ Ngài ở trên gốc cây cổ thụ trước sân chùa rồi bỏ đi. Từ đó Ngài nương bóng mát ở chùa xuất gia, rồi tu thiền ở trên tàng cây nên người đời thường gọi ngài là “Ô Sào thiền sư”. Chỗ Sư tọa thiền cũng là nơi thường có chim chóc kéo đến làm tổ rất nhiều, cho nên có lúc gọi Ngài là “Điểu Sào thiền sư”. Ngoài ra, lúc Ngài đang tu tập tại cây cổ thụ do nơi đó có nhiều cây tùng, các loài chim Thước kéo đến chung sống làm tổ và sống rất thuần thục, vì thế người đời còn đặt biệt danh của Ngài là “Hòa thượng Thước Sào”. Cùng thời điểm ấy, có một văn hào thi nhân nổi tiếng trên thi đàn Trung Quốc (772-846) tên là Bạch Cư Dị. Bạch Cư Dị còn là người học Phật, ít nhiều cũng biết chút ít vấn đề Phật pháp. Trong khi được triều đình phái đến Hàng Châu để nhậm chức Thái Thú; sau khi ông đến nơi, do tính hiếu kỳ muốn tận mắt thấy hành động và muốn tìm hiểu về vị Cao tăng kỳ dị này, nên ông đã đến chỗ ở của Thiền sư, ông liền nói: “Chỗ ở của Thiền sư thật là nguy hiểm!” Ô Sào Thiền sư liền nói: “Thái thú, cảnh ngộ của Ông còn nguy hiểm hơn tôi!” Nghe câu nói này ông ta giật mình. Thật vậy, đây là lời cảnh tỉnh của vị Thiền sư đối với quan Thái thú mới nhậm chức, trên quan trường bao sự tranh giành đoạt lợi, được mất, hơn thua, gian thần nịnh hót, cổ kề gươm không biết lúc nào rơi, cảnh ngộ bị giáng chức, đỗ hỏng, cách chức, bị hãm hại, làm ma thế mạng v.v... lúc nào cũng đoanh vây đầy dẫy những loại nguy hiểm xung quanh mình. Bạch Cư Dị vì bị giáng chức nên mới được điều từ kinh thành đến Hàng Châu. Còn Thiền sư tuy sống trên cây nhưng lúc nào cũng an nhàn tự tại, làm bạn với cỏ cây chim chóc, sống tự do tự tại không bị ràng buộc hay lệ thuộc vào một thứ gì, không lo lắng thế đời mà sống tùy duyên theo đạo, “đói đến thì ăn mệt ngủ liền”. Nghe xong, Thi nhân giật mình, tính kiêu mạn của ông ta hạ xuống và thầm nói:

“Ông này! Thật lợi hại!”. Sau khi nghe xong câu nói của Thiền sư, Bạch Cư Dị đã chuyển câu chuyện sang một phương diện khác, lúc này ông ta hỏi về Phật pháp.

Thái thú hỏi: “Thế nào là đại ý của Phật pháp?”
Thiền sư: “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ý, thị chư Phật giáo”. Nghĩa, các điều ác chớ làm, các việc thiện nên làm, giữ tâm ý trong sạch, đó là lời dạy của chư Phật.
Thái thú nói: “Việc đó con nít ba tuổi cũng biết”.

Thiền sư: “Con nít ba tuổi biết, nhưng ông già 80 tuổi chưa chắc đã làm được”. Vấn đáp kết thúc, Bạch Cư Dị im lặng.

Qua đoạn đối đáp này, ta thấy sự chuyển hướng trong tâm thức của Bạch Cư Dị một cách đột ngột và rõ ràng, sau khi hỏi về vấn đề nguy hiểm, Bạch Cư Dị thấy lổ hổng của mình, thấy sự nguy hiểm về câu hỏi của mình đã bị thua nên chuyển hướng sang hỏi Phật giáo, vì Bạch Cư Dị muốn biết vị thiền sư này sự liễu ngộ đã đạt đến đâu. Thi nhân có ý trắc nghiệm vị thiền sư xem thế nào, trình độ hiểu biết ra sao?. Đây cũng là vấn đề thông thường mà giới Phật học vừa biết chút ít về giáo lý đạo Phật hiện tại thường đem hỏi quý Thầy, trắc nghiệm quý Thầy để xem các vị thầy có sở học và sở tu, sở chứng đến đâu, vô tình nhiều lúc làm cho tính tự kiêu, tự phụ của chúng ta càng ngày càng tăng trưởng mà không biết. Vì thế khi đọc đoạn văn đối đáp này, chúng ta thấy rất rõ sự nguy hiểm ở chỗ, học lý thuyết không phải là mục đích để đưa đến chỗ tột cùng rốt ráo như đức Phật đã từng giảng dạy là giải thoát. Nó chỉ là phương tiện giúp cho hành giả biết con đường đưa đến giác ngộ mà hành giả cần phải đạt đến để giải thoát. Chứ nó không phải là tự thân của giải thoát. Qua bài kệ này, hành giả muốn giải thoát khổ đau thật sự thì theo đức Phật phải trải qua ba giai đoạn: một tránh làm việc ác, hai thường làm các việc lành và ba muốn có sự giải thoát rốt ráo thì hành giả phải vượt lên trên cả hai việc lánh ác làm lành, là thanh tịnh tâm ý mình. Đó chính là con đường giải thoát thật sự của hành giả. Ở đây, đối với những người không học, không hiểu, không biết, vô minh mê mờ thì ta không nói; nhưng đối với những hành giả muốn bước lên trên con đường giác ngộ giải thoát thì trước hết phải học để biết (tri) đúng, chính xác, sau đó mới áp dụng cái biết vào trong thực hành. Nếu mình học mà hiểu sai, không hiểu đúng rồi đem thực hành thì mình sẽ rơi vào con đường tà kiến, rơi vào cực đoan, vô tình mình làm tăng thêm bản tính tự kiêu, ngã mạn của mình và chúng có cơ hội nổi dậy. Tính kiêu căng ngã mạn một khi sanh khởi lại là tiền tố chướng đạo, lúc ấy việc học đạo càng trở nên bế tắc, vì dưới con mắt của những người ấy không có ai hơn nữa nên chí đạo khó thành. Do đó, khi Bạch Cư Dị hỏi: “Đại ý của Phật giáo là thế nào?” Đây là một câu hỏi tuy thấy tầm thường nhưng mang một tâm ý thách thức đối chứng, nghĩa là nhà thơ cật vấn để xem Thiền sư tu học, liễu ngộ và thể nhập thế nào, không ngờ Thiền sư đã trả lời: “Chư ác mạc tác chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ý thị chư Phật giáo”. Đến đây, Bạch Cư dị giật mình, đại ý Phật pháp dễ dàng thế ư? Câu nói này ai cũng có thể nói được hiểu được, đến cả con nít ba tuổi nếu chuyên tâm học thì chúng cũng có thể thuộc. Ý nhà thơ ngầm bảo nếu sớm biết như thế thì đâu cần thiết phải lặn lội từ xa đến để hỏi nó làm gì. Nhưng cũng nhờ câu phản vấn như vậy, giống như một nhát búa đánh mạnh vào tâm thức của Bạch Cư Dị, làm cho Bạch Cư Dị phản tỉnh trở lại. Câu nói muốn nhắc nhở và khuyên răn Bạch Cư Dị rằng tất cả mọi kiến thức về cuộc sống mà ông ta có được đều không có bất cứ một giá trị nào nếu chỉ biết trên mặt kiến thức lý thuyết suông mà bỏ qua thực hành; hãy bỏ cái tâm cống cao ngã mạn ấy đi, chúng chỉ là vọng tưởng, đem lại cho mình phiền toái mà thôi, đừng có chạy theo ngoại duyên mà hãy bỏ ngoại duyên xuống, hãy bỏ cái tính lý thuyết xuống thì may ra Ông mới hiểu được lẽ đạo. Một câu nói tuy đơn sơ, con nít ba tuổi có thể học thuộc nhưng không dễ dàng gì ông già 80 tuổi có thể làm được. Thực vậy, một bài kệ tuy tóm gọn trong bốn câu, nhưng chứa đựng toàn bộ triết lý của Phật giáo. Nói về làm lành lánh dữ không ai không biết, thậm chí người làm việc xấu cũng biết nữa là khác, nhưng rồi họ vẫn cứ dính vào và tiếp tục làm huống chi người sống tốt không biết việc ác hay sao. Để tránh một việc ác không phải ai cũng có thể thực hành được, việc thiện cần làm chưa chắc ta hiểu một cách rốt ráo và làm theo. Nhưng vấn đề then chốt của Phật giáo không nằm ở ngay thiện và ác mà nằm ngay việc một hành giả phải giữ tâm ý trong hàng giờ, hàng phút cho trong sạch, an tịnh đó mới là thâm ý Phật giáo. Nghĩa là phải giữ trạng thái không nghĩ thiện không nghĩ ác đó chính là nền tảng căn bản như Tổ sư Huệ Năng đã từng dạy cho Huệ Minh thiền sư. Chính vì yếu tố này, chúng ta mới thấy rõ, Thiền hay bất cứ một đạo lý nào khác cũng đều dạy con người bỏ ác làm lành, sống cuộc sống thánh thiện, sống không có đem lại đau khổ cho mình và người. Chỉ một việc làm với ý nghĩ đơn sơ như thế nhưng suốt cả cuộc đời chưa chắc một hành giả hay bất cứ một người nào có thể thực thi một cách hoàn thiện.

Qua đó, chúng ta có thể hiểu một cách tóm gọn, đại ý về giáo lý của đạo Phật được đúc kết bằng bốn câu kệ “các điều ác chớ làm, các điều thiện nên làm, giữ tâm ý trong sạch, đó là lời dạy chư Phật”. Qua bốn câu kệ này, càng soi sáng rõ hơn cho chúng ta thấy, đạo Phật chủ yếu chú trọng vào việc chuyển hóa nghiệp ác thành nghiệp thiện và thanh lọc thân tâm trở nên thanh tịnh. Việc chuyển hóa nghiệp ác thành nghiệp thiện, đạo nào cũng dạy, nhưng mức độ chỉ dạy có nhiều phương diện khác nhau.

(còn nữa)
 

Con Bê và nắm cỏ

Lam Khê

Nằm trong góc sân chuồng, con Bê uể oải nhai lại mớ rơm khô mà mắt nó cứ ngó mông lung ra ngoài. Nơi ấy có mấy bụi tre già, thỉnh thoảng vang lên những tiếng cót két mỗi khi có cơn gió mạnh thổi qua. Một xe đầy cỏ tươi mà chủ nhà mới mua về đang chất đống ở đó. Dường như lâu lắm rồi, Bê chưa được lót dạ miếng cỏ tươi nào. Cơn nắng hạn kéo dài đã đốt cháy hết mọi cánh đồng… Rơm rạ giờ đây cũng trở nên khan hiếm.

Nhưng Bê biết mình chỉ hoài công mơ tưởng và chờ đợi vô ích. Nhà chủ có đến hằng tá bò sữa. Một đàn bò tơ và cừu tới lứa đang cần vỗ béo để bán thịt. Nên dù trời có hạn hán hay mưa bão, ông ta vẫn tìm mua cỏ tươi từ các nơi khác. Có lẽ vì lời hứa với Sư Ông, mà cho đến nay Bê vẫn chưa bị đem bán hay làm thịt. Chú Bê con, với bộ lông vàng óng ả non tơ, được người ta mang đến cho chùa nuôi để lấy phân bón cây khi mới mấy tháng tuổi. Từ đó, nó được Sư Ông đặt tên là con Bê Vàng. Cái tên ấy đã theo nó đến tận bây giờ, dù cuộc hồng trần đã bao phen xoay vần biến đổi.

Ánh mắt Bê lại mơ màng hoài tưởng. Nó bỗng nhớ đến một thời oanh liệt xa xưa. Một thời nó được tự do yên ổn bên mái chùa, cùng với bao tấm lòng người. Ngày ngày, Bê được thả rong nơi vườn chùa, được ăn toàn cỏ tươi, uống nước giếng mát lạnh. Là kiếp thú, nhưng từ tấm bé được nuôi dạy ở chùa, Bê đã biết tỏ ra quyến luyến lại nghe được tiếng người. Mỗi lần thấy dáng Sư Ông đi lại trong sân, Bê liền chạy đến… để được Sư Ông vuốt ve bộ lông và ân cần nói chuyện với nó như một đứa đệ tử nhỏ. Mấy chú điệu cũng thích chơi đùa, chăn giữ Bê, ai cũng xem nó như một thành viên trong chùa, dành cho nó mọi quyền ưu tiên chăm sóc. Thế mà… bây giờ trong kiếp đọa đầy cực nhục, nó chỉ mơ đến một nắm cỏ xanh. Một chút mơ ước nhỏ nhoi ấy nó cũng đã phải trả giá. Một lần Bê phản ứng lại chủ, vì bắt nó chở hàng quá nặng mà chỉ cho ăn toàn rơm khô. Thấy vậy, ông chủ bước lại vỗ về:

Có cỏ tươi đây ngon lắm… mày chở hàng tới chợ xong, tao sẽ cho ăn.

Rồi ông cột nắm cỏ tươi ngay đầu xe, chỉ cách mũi con Bê chừng nửa thước. Mùi cỏ thơm thơm làm tinh thần Bê hưng phấn lên. Nó ra sức kéo. Nắm cỏ cứ chập chờn trước mắt, chỉ cần một sải chân là có thể vớ tới. Vậy mà… nó cứ bước, từng bước nặng nề trên đoạn đường dài khúc khuỷu đầy dốc và ổ gà. Mấy lần Bê gần như ngã quỵ vì mệt lã vì đói khát. Nhưng nó vẫn phải cố… phải cố… vì chút mồi ngon đang ở ngay trước mắt và vì ngọn roi luôn chực hờ quất vào lưng từ phía sau. Trong nỗi đau đớn nhọc nhằn, Bê chợt nhớ đến một bài thuyết pháp mà có lần nó nghe Sư Ông giảng cho mấy chú Tiểu nghe. Trong đó có câu chuyện về con Lừa. Cảnh ngộ của con Lừa mới giống nó làm sao! Cũng vì nắm cỏ xanh làm mồi nhử mà nó phải vắt kiệt sức mình ra… chút dư vị hư ảo của cuộc đời đã lôi cuốn không biết bao nhiêu sinh vật tự nguyện làm con thiêu thân lao mình vào đó.

Từng cơn gió nhẹ thoảng đưa… mùi cỏ thơm hắt vào, nhưng cơn đói của Bê đã nhanh chóng tan biến. Nó không còn cảm thấy thèm khát hay mơ tưởng điều gì nữa. Ngày xưa, khi được sống trong cảnh ấm no an lạc, thì Bê lại ao ước mơ về những chân trời mới lạ. Một nơi chứa đầy mật ngọt yêu thương, một khoảnh trời xanh rộng lớn bao la đủ cho nó mặc sức tung hoành trong thế giới của riêng mình. Và cứ thế, ngày qua ngày, nó dẫm đạp trên đất chùa, tìm ăn những đọt cỏ xanh non còn đẫm hạt sương mai buổi sáng trong chốn thiền môn, mà tâm hồn nó thì mơ tưởng vọng cầu, thích dõi tầm mắt hướng tìm một cõi xa xăm nào khác.

Cho đến một hôm…, nó bắt đầu trở chứng, chạy nhảy phá phách khắp khu đất chùa và sang cả vườn rộng hàng xóm. Lúc này, mấy chú tiểu bận đi học xa, nên chẳng còn ai để chăn Bê nữa. Thế là… Sư Ông buộc lòng phải đem nó cho một trại chủ chăn nuôi đến xin. Khi trao con Bê cho chủ mới, Người không quên dặn dò:

Nó được ở chùa từ nhỏ, tánh tình tuy có phá phách đôi chút nhưng rất hiền lành. Thí chủ nuôi nó làm phúc, xin đừng làm thịt hay bán nó đi, tội nghiệp…
Dạ, chúng con hiểu thưa Sư Ông! Nhà con có cả cánh đồng cỏ để thả bò và cừu, lại có mấy mươi con Bò cái đang tơ. Con Bê này con nuôi dùm chùa, chỉ để thả chung đàn cho vui. Đến khi nào nó chết, con sẽ đem về chôn ở đất chùa.

… Có tiếng bước chân người đến gần, tiếng nói chuyện lao xao bên ngoài. Bê nằm bệt xuống đống rơm, thân hình nó gần như bất động.

Ba ơi! Con Bê có vẻ già yếu lắm rồi. Nó chẳng còn làm được tích sự gì nữa. Vậy mình làm thịt nó cho rồi.

Ậy! Chừng nào nó chết hẳn hay. Hơn nữa ba đã hứa với Sư Cụ trên Chùa…
Ôi chao! Một lời hứa suông thì có gì mà ba phải sợ. Chẳng ai còn nhớ tới đâu. Vả lại làm gì có chuyện bò chết đem về chôn đất chùa bao giờ.

Không biết có sức mạnh nào giúp cho con Bê vụt đứng dậy. Thoắt một cái nó đã phóng ra khỏi cửa chuồng. Bê ra sức chạy, chạy tung cả bụi mù. Xa xa bóng nó chỉ còn là vệt mờ thăm thẳm trong buổi hoàng hôn đang xuống.

 

Thưa Sư Ông! Con Bê đã trở về.

Tiếng chú tiểu vang lên bên ngoài tịnh thất. Sư Ông liền xả thiền rồi bước ra ngoài. Con Bê nằm gục bên thềm cửa, hơi thở gấp gáp mệt nhọc. Sư Ông đến gần, đưa tay xoa nhẹ vào bộ lông xác xơ của nó và nói:

Mô Phật! Cuối cùng thì con đã trở về được đây. Chút hương vị cuộc đời đã làm cho thân xác chúng sanh phải ra nông nổi như thế này, thật đáng thương làm sao. Thôi bây giờ con cứ yên tâm nằm tịnh dưỡng. Hãy buông bỏ hết mọi trần duyên, Sư Ông sẽ chú nguyện cho con…
Con Bê khẻ mở mắt nhìn lên. Hai chân trước nó đưa ra tựa như muốn chắp lại. Trên khóe mắt đọng lại đôi dòng lệ nhỏ. Nó đang sám hối, một lời sám hối muộn màng trong ánh nắng chiều vừa lịm tắt. Thế nhưng, Bê biết rằng ngày mai, khi vầng thái dương vừa tỏ rạng, thì một cuộc sống mới sẽ tiếp diễn, vạn vật lại sinh sôi nẩy nở hơn bao giờ hết. Dẫu sao thì nó cũng đã trở về. Lúc này lòng Bê mới cảm nhận hết sự thanh thản bình yên trong ánh đạo từ bi bất diệt.
 

 

Đạo Phật Với Giáo Dục Tuổi Trẻ

TÂM MINH

 

Kính thưa quí vị,

Gia Ðình Phật Tử (GÐPT) là một tổ chức giáo dục tuổi trẻ của Phật giáo. Ðoàn sinh GÐPT thoạt đầu là con em của các đạo hữu của các chùa, quí Thầy giao cho huynh trưởng GÐPT nhiệm vụ chăm sóc, giáo dục các em theo tinh thần Phật giáo. Ngoài những buổi học ở trường, ngày Chủ nhật, các em theo cha mẹ đến chùa; ở đó các em được chơi mà học và học mà chơi. Theo năm tháng, tổ chức lớn mạnh, phát triển cực kỳ nhanh chóng từ trong nước ra hải ngoại, đến nay GÐPT đã có mặt khắp nơi từ Âu Châu, Úc Châu đến Mỹ, Canada…

Trong GÐPT có đủ nam, phụ, lão, ấu; đứng đầu là bác Gia trưởng đến các anh/chị Huynh trưởng rồi đến Ðoàn sinh. Tuổi của các em đoàn sinh từ 5, 6 tuổi đến 18, 20 chia thành 2 Ngành: Nam và Nữ. Mỗi Ngành có 3 độ tuổi: Oanh Vũ (từ 6 đến 12); Thiếu (từ 13 đến 18) và Thanh (từ 18 trở lên). Như vậy, nói về giáo dục tuổi trẻ Phật giáo trong GÐPT là chủ yếu đề cập đến các em Oanh Vũ và các em ngành Thiếu. Ở cái tuổi “giao thời” 13, 14... các em chưa phải người lớn cũng không còn là trẻ con, cơ thể cũng như tâm hồn đang trải qua thời kỳ thay đổi rõ rệt, làm ảnh hưởng rất lớn đến tính tình, tâm tư, tình cảm… của các em. Do vậy, công việc của các anh chị huynh trưởng không phải dễ dàng, cần phải có đức tính yêu trẻ, hiểu trẻ, và rất nhiều kiên nhẫn nữa. Xin mời quí vị nghe cuộc mạn đàm giữa những Huynh trưởng trẻ A,B,C,D,E đang thao thức, băn khoăn, lo lắng về những biểu hiện của các em đoàn sinh của mình; liệu mình có đủ khả năng hướng dẫn tốt các em ở các độ tuổi phức tạp này hay không. A là Huynh trưởng lớn, B đang cầm Ðoàn Thiếu Nam, C đang cầm Ðoàn Thiếu Nữ, D đang giữ Ðoàn Nam Oanh Vũ (OV) còn E đang giữ Ðoàn Nữ Oanh Vũ.

A: Các em bảo rằng có chuyện hỏi anh phải không? Là chuyện gì vậy?

B: Dạ, các em của em đang độ tuổi teenager (1) thật là khó bảo quá Anh! Bên cạnh các em ngoan, có vài em cá biệt, em thật đau đầu, chịu hết nổi!

A: Tất nhiên rồi! Teenager thì chính phụ huynh cũng sợ, đừng nói là anh chị em huynh truởng chúng ta; còn C có chuyện gì không em?

C: Dạ, các em Thiếu nữ của em thì không nghịch ngợm nhưng khó hòa đồng và nhiều em suốt buổi họp Ðoàn không nói một tiếng; hỏi thì có em nói bực bội cha mẹ, có em nói bực mình với các anh chị em trong nhà, em thì nói “không biết tại sao chiều nay em thấy buồn quá!”

A: Cũng dễ hiểu thôi em à! Giữa cha mẹ và con cái, dù là ở trong nước cũng có “hố ngăn cách” nghĩa là lỗ hổng giữa 2 thế hệ (generation gap) cho nên có rất nhiều mâu thuẫn đã xảy ra, huống gì ra hải ngoại với tập quán phong tục Tây phương quá phóng khoáng mà bậc làm cha mẹ có người chưa hấp thụ và tiêu hóa nổi. Nhiều phụ huynh còn giữ thói quen “quân sư phụ” nghĩa là trong nhà thì ông cha là số 1, ổng nói gì cũng phải nghe, gần như không có quyền tự quyết định cho mình; nhiều em đoàn sinh của chúng ta còn bảo rằng “bị ba má bắt buộc mới đi chùa” đó em! !! Có nhiều em còn bị chứng trầm uất (to be gnawed by suppressed resentment and unable to confide to anyone) không biết tâm sự với ai, cứ chất chứa trong lòng, rồi sinh bệnh, trầm uất cũng là một căn bệnh nan y đó em!

C: Dạ, em hiểu chứ! Vì vậy đối với các em đó làm sao mà chữa đây!

B: Mình nghĩ là phải tìm cách để các em ấy cởi mở lòng mình ra, chịu tâm sự với bạn, từ đó bạn sẽ hiểu được nguyên nhân của vấn đề và mình mới tìm thuốc chữa được, có phải không thưa Anh?

A: Đúng vậy, chuyện này không phải dễ đâu… mặc dù trong lòng ai cũng có những hạt giống thương yêu và muốn được thương yêu, các em này cũng có nhưng đã bị những người thân bỏ quên không tưới tẩm nên bây giờ những hạt giống ấy đã bị chôn vùi quá sâu, khó nẩy mầm lại được (these seeds were unable to sprout because people forgot to water them).

C: Dạ, em cũng hiểu những điều Anh và bạn B chỉ điểm nhưng làm cách nào cho em ấy chịu mở miệng, em cứ suy nghĩ hoài!

A: Điều này thì em giỏi hơn anh và B đấy em à, vì em là Chị trưởng, em có nhiều tình thương, bao dung, có nhiều lời nói, cử chỉ dịu dàng, thân ái, biết chăm sóc người ta một cách tỉ mỉ,… Đó chính là những lợi khí để thu phục nhân tâm, để xoa dịu lòng người, dễ gần gũi người ta, dễ cho người ta chịu tâm sự, cái này chính là nghề của huynh trưởng Nữ đấy, em tự lo liệu đi nha! Còn D coi sóc bầy Oanh Vũ Nam cũng có vấn đề sao?

D: Dạ, thưa Anh, hầu hết các em OV Nam của em rất ngoan nhưng cũng như chị C tâm sự với chúng ta vừa rồi, tương tự tình hình của Ðoàn Thiếu Nữ, OV Nam của em cũng có vài em cá biệt, nghĩa là quậy phá kinh khủng, không chịu đứng ngồi cho yên trong lớp học, trong vòng tròn, thậm chí trong các trò chơi! Em thấy mệt mỏi quá!

B: Có em không chịu nói tiếng Việt trong giờ Việt ngữ phải không? Có em không chịu đứng vào vòng tròn phải không? Lại có em nói chuyện liên tục trong giờ Phật pháp nếu mình không nhìn chăm chăm vào nó phải không?

D: Sao Anh biết hay vậy?

B: Thì anh đã từng gặp những em cá biệt như vậy rồi!

A: Trong những trường hợp đó, em xử sự thế nào?

B: Dạ thưa Anh, thường em gọi riêng các em đó nói chuyện, hỏi lý do tại sao không chịu nói tiếng Việt, tại sao không thích vào trong vòng tròn, tại sao nói chuyện phá các bạn trong khi các bạn đang học v.v… Thường thì những nguyên nhân cho chúng ta thấy các em cố chấp vào một điều gì đó, hay không ưa một bạn nào đó, hay không có sách vở để theo dõi nên không hiểu rồi muốn chọc phá các bạn “cho vui” thôi! Hầu hết các nguyên nhân đều sai nên mình có thể thuyết phục em chấm dứt những hành vi tiêu cực của mình.

A: Còn nếu nguyên nhân bất mãn của các em có lý do chính đáng (ví dụ bắt các em ngồi trong phòng quá lâu, nhồi nhét vào đầu óc (ta thường gọi là “nhồi sọ”) các em nhiều quá, vòng tròn quá rộng và nhiều thành phần, nhiều lứa tuổi… làm các em thấy không thoải mái tự nhiên thì chúng ta phải cải tiến phương pháp truyền đạt của chúng ta, làm sao để các em “học mà chơi” và trong chơi vẫn học được.

D: Anh có thể cho em một ví dụ không?

A: Được chứ! Ví dụ học bài lịch sử đức Phật Thích Ca, nếu các em không thích phương pháp thuyết giảng thì chúng ta chiếu phim cho các em xem-phim nói tiếng Anh nhưng sau khi xem xong, chúng ta hỏi bằng tiếng Việt và tập cho các em trả lời bằng tiếng Việt; mỗi buổi học chiếu một đoạn ngắn thôi, để bảo đảm giờ học và chương trình cũng như gây sự hứng thú cho các em đoàn sinh. Trò chơi trong vòng tròn phải được giải thích rõ ràng và thu hút sự chú ý của đoàn sinh, nghĩa là phải chọn trò chơi mới một chút và giới thiệu một cách hấp dẫn… Ủa, thế còn E, đoàn Nữ OV của em cũng có chuyện nữa sao?

E: Dạ phải đó Anh! Các em Nữ OV sắp tới đây sẽ được cắt dây (2) lên Ðoàn; phần nhiều cũng được vui nhưng có vài em khóc không chịu lên Ðoàn Anh à, cứ đòi ở lại OV để được vòi vĩnh các chị, được cưng chìu… làm sao đây hở Anh?

C: Thì chúng ta hồi đó cũng vậy; ai cũng nuối tiếc tuổi thơ của mình, đó là tâm lý chung mà em! Em phải chịu khó dỗ dành, hứa hẹn là “mấy chị H.Tr. đoàn Thiếu Nữ cũng sẽ cưng các em lắm, chưa gì đã sắm quà lên Ðoàn cho các em rồi, các em ngoan và giỏi, chị nào lại không thương, Ðoàn nào lại không hân hoan đón tiếp”.

A: Đúng vậy đó E, các em nữ, nhất là OV nữ thích được dỗ ngọt, nuông chiều… lắm! Nhưng cưng vừa vừa thôi nha, không khéo cứ làm nũng làm nớt hoài không ai ưa đâu!

E: Dạ, còn nữa, em quên nói với Anh trong bài báo Ðoàn em, vào dịp Vu Lan này có một em viết về cha mẹ, mà viết “…They are stupid…”(3) Em ấy bảo rằng ba má không hiểu nó nên mới la rầy nó… Em bảo dù sao đi nữa, em ấy phải bỏ mấy chữ đó em mới cho đưa vào tờ báo của Ðơn vị mình nếu không thì thôi! Em giảng cho em ấy hiểu rằng nói cha mẹ mà nói là “stupid” thì đó là vô lễ, là bất hiếu nhưng em ấy nói “không, em thương ba má, em không bất hiếu nhưng họ stupid thì em nói là stupid chứ đâu phải là vô lễ?” Bây giờ em sẽ phải làm sao?

A: Em nói với em ấy rằng: em thương ba má, em có hiếu với ba má thì em đâu có làm cho ba má buồn? Ba má la rầy em là có lý do, nếu em không hiểu mà trách ba má thì chính em mới là stupid đó; làm sao em nói ba má “stupid” được?

B: Con nít ở đây tức cười lắm, nó thấy bạn nó là người Mỹ, Mễ v.v… kêu cha mẹ, cô chú… bằng tên thì nó cho rằng những người ấy cũng như bạn bè, ngang hàng, muốn nói gì thì nói!

C: Đúng vậy! Vì thế chúng ta chắc phải có một buổi họp chung Oanh Vũ Nam Nữ lại, nói về ngày Hiếu và nhấn mạnh thêm về phong tục tập quán của người Việt Nam mình đối với ông bà cha mẹ v.v… mới được!

D: Điều này thì đâu có năm nào mình không làm đâu?

E: Nhưng mỗi tháng lại có các em mới vào, nhiều em giống như “Mỹ con” vậy, hoàn toàn không biết phong tục Việt Nam là gì, thậm chí có hôm có một em còn hỏi em rằng : “Chị ơi, em là người nước nào?” (What’s my country?) nữa chứ! Đủ biết ở nhà phụ huynh không bao giờ nghĩ rằng mình phải dạy cho con biết nó là người Việt Nam!”

A: Thế đấy các em ạ, cho nên trong những giờ học tiếng Việt mình phải bồi dưỡng thêm cho các em những thiếu sót này, chứ không cần đợi Vu Lan mới nói đến chuyện hiếu thảo với cha mẹ đâu!

B: Tóm lại, nhiệm vụ của chúng ta rất nặng nề! Vừa làm huynh trưởng, vừa làm babysit.(4) Ðối với các em bình thường ngoan hiền siêng năng thì công việc của chúng ta tương đối dễ dàng còn đối với các em cá biệt thì thật là khó lắm.

A: Đúng vậy, chúng ta cần truyền đạt, hướng dẫn các em sao cho các em thích các môn học với những trợ huấn cụ ví dụ như phim ảnh, băng vidéo, DVD, Cassette, TV… để trong khi học các em có cảm tưởng như được giải trí (học mà chơi). Các em cũng đừng quên khung cảnh thay đổi cũng tạo được hưng phấn trong lòng các em đoàn sinh nha! Thỉnh thoảng cho các em học dưới bóng cây, đi dạo rồi sau đó sinh hoạt trong những công viên có nhiều hoa đẹp v.v... Gần gũi với thiên nhiên, các em dễ mở rộng lòng mình ra hơn, bớt căng thẳng hơn, vừa có lợi cho thân và tâm của các em nữa.

C: Và em nghĩ rằng nếu mỗi huynh trưởng chuyên chăm sóc từ năm em trở lại thì dễ thân với các em hơn, có thì giờ để tìm hiểu, thân cận, từ đó các em mới có thói quen nói chuyện với huynh trưởng, dễ tâm sự khi cần thiết.

B: Em nghĩ tập cho các em sống trong tinh thần đồng đội cũng giúp các em cởi mở, không chỉ với huynh trưởng mà cả với các bạn đồng đội nữa!

A: Phải rồi, và anh tin rằng tất cả các em đều sẽ thành công vì các em rất lo lắng cho đàn em của mình, hiểu biết và thương yêu là hai yếu tố quan trọng nhất trong việc giáo dục tuổi trẻ đấy các em ạ! Buổi mạn đàm đã dài rồi đó, các em nghỉ ngơi nha! Tạm biệt các em, tuần sau gặp!
B,C,D,E: Dạ, chúng em xin chào tạm biệt Anh! Tuần sau gặp!

 

(1) Teenager = lứa tuổi dậy thì của các em, từ 12 đến dưới 18
(2) Lễ cắt dây = còn gọi là lễ lên Ðoàn của một em Oanh Vũ (Y phục của OV là áo chemise lam và jupe xanh (có dây). Trong lễ Lên Ðoàn dây treo jupe được cắt bỏ đi, ý nói em sẽ không mặc Jupe nữa mà mặc quần trắng áo dài Lam.
(3) They are stupid = họ dốt nát
(4) Babysit = giữ trẻ
 

 

Vấn Đề Vô Ngã

Thích Thông Trí
 

HỎI: Theo nhận thức của con, ngã là chủ thể, bản năng sinh tồn của động vật. Ngã chính là tâm lý, động lực thúc đẩy người ta hoạt động để đáp ứng nhu cầu tự thân. Nhưng theo Phật giáo cho rằng cơ thể này là vô ngã, tức có nghĩa là phủ nhận động lực, vậy lấy gì thúc đẩy để con người tích cực hoạt động?
(Dũng - Giáo viên trường PTTH)

ĐÁP: Ở đây, chúng tôi xin trình bày khái quát, nhằm gợi ý để người học Phật nghiên cứu, nhận thức hoàn chỉnh về giáo lý vô ngã. Bởi vì, vấn đề này đã có nhiều vị tư vấn chúng tôi qua từng góc độ và những khía cạnh nhận thức khác nhau. 

Theo Phật giáo, Vô Ngã được dịch từ thuật ngữ Anātman (skt.) - Có nghĩa là khẳng định về cái tôi không có một chủ thể nào tồn tại độc lập. Sự hiện hữu của nó do năm thủ uẩn (skt. pañca upādāna-skandhāḥ) kết hợp tạo thành, nên còn duyên chúng nhóm, hết duyên chúng hoại. Đó là sự biến dạng sinh ra và chết đi của một đời sống, đạo Phật gọi đó là một kiếp.

Thế nhưng, chúng ta thử tách năm uẩn: sắc uẩn (rūpa) - yếu tố sinh vật lý; Thọ uẩn (vedanā) - yếu tố cảm giác; Tưởng uẩn (saṃjñā) - yếu tố tri giác; Hành uẩn (saṃskāra) - yếu tố tâm lý hoạt động; Thức uẩn (vijñāna) - yếu tố nhận thức, phân biệt. Khi tách thành từng thành phần riêng lẻ, phân tích để tìm ra bản chất của ngã (cái tôi) sẽ hoàn toàn tuyệt vọng, vì các yếu tố đó không có một tự thể cố định nào. Do đó dưới lăng kính của tuệ giác, quan niệm về ngã chỉ là ảo ảnh của nhận thức, hợp thể của duyên sanh. Sự đau khổ nẩy sinh trong mỗi chúng ta chính là nhận ảo ảnh làm chân, huyễn hóa làm thật để từ đó chấp thủ, hành động vị kỉ, tạo ra những nghiệp nhân khổ đau.

Cái tôi (tự ngã) càng lớn bao nhiêu sẽ làm cho tâm hồn chúng ta nhỏ lại bấy nhiêu. Vì trong cái tôi, tình yêu được bao bọc bởi những chất liệu khát ái, chiếm hữu nô lệ và ích kỷ. Động lực cái tôi (tự ngã) có khả năng gây nhiễm ô, biến tâm hồn đạo đức thành những gam màu đen, vẫn đục. Mọi tệ nạn xã hội đều bắt nguồn từ cái tôi này.

Người chấp thủ quá về cái tôi (tự ngã), suốt đời họ sẽ nô lệ, khổ đau không bao giờ có an lạc hạnh phúc.

Trong xã hội, nếu chỉ phụng sự vì cái tôi (ngã) thì lòng dạ hẹp hòi, hiệu quả công việc thấp, cống hiến xã hội sẽ không cao. Những nhà khoa học đã hy sinh cả cuộc đời vì ai để có thể phải tiều tụy, có khi chết vì sự cố trong nghiên cứu? Tất cả vì nhân loại. Động lực của họ là lòng đam mê cống hiến những công trình, những học thuyết cho thế giới, cái tôi ở họ chỉ còn phần nhỏ.

Từ điểm này, chúng ta thấy đạo Phật rất tích cực. Động lực để con người hành động trong Phật giáo không phải là cái tôi mà chính là tâm Bồ-đề, là tuệ giác tình thương cứu khổ muôn loài. Sự an lạc và hạnh phúc của mọi chúng sinh là niềm vui của những người dấn thân phục vụ và xây dựng. Đó là những vị Bồ-tát sống đang phụng sự muôn loài, không cần trả ơn báo đáp. Hành động vì mọi người, phục vụ để phục vụ, không mong cầu sự đáp lại của đối tượng.

Người Phật tử nếu sống được với tinh thần vô ngã, tấm lòng sẽ bao la, tình thương yêu cảm thông, tha thứ hy sinh, giúp đỡ cho mọi người sẽ tròn đầy. Từng bước chân an lạc hạnh phúc đi vào cuộc đời gieo mầm sanh, ươm sự sống dưới ánh mắt và hành động thênh thang đây đó.
 

Góp ý viết chữ Hoa chữ thường

Bình Anson
 

Kính thưa quý vị,

Chúng tôi nhận thấy có khuynh hướng viết chữ "phật tử" với "p" trong dạng chữ thường (lower case), không viết "P" hoa (capital, upper case), trong một số tài liệu, sách báo xuất bản gần đây. Chúng tôi rất ngạc nhiên và hoàn toàn không đồng ý cách viết này.
"Phật tử" nghĩa là "con của Phật, đệ tử của Phật", trong đó, chữ "Phật" là một danh từ riêng (proper name) lúc nào cũng phải viết hoa. Chúng ta viết "đức Phật, đạo Phật, Phật giáo, Phật học, tu Phật, v.v." với chữ P hoa, thì chữ "Phật tử" cũng phải viết với chữ P hoa trong cùng một ý nghĩa.

Theo thiển ý, viết "phật tử" (chữ thường), không viết "Phật tử" (chữ hoa), là vô tình, chúng ta không kính trọng, hạ thấp ý nghĩa và giá trị của chữ "Phật", mà lại không nhất quán với các cụm từ khác có liên quan đến từ "Phật". Chúng tôi mong rằng các tác giả lưu ý đến vấn đề này và viết chữ "Phật tử" một cách nghiêm túc và cẩn trọng hơn.

Vài hàng thô thiển, rất mong nhận được ý kiến của quý vị.

Kính,
Bình Anson
Perth, Western Australia
23-08-2005
 

 

Ấn Độ: Các nhà khảo cổ công bố rằng đức Phật đã từng viếng thăm và thuyết pháp tại Orissa
Diệu Hảo

 

KOLDATA- Vào ngày 7 tháng 8 năm 2005, các nhà khảo cổ học ở viện Orissa và viện nghiên cứu Đông Nam Á đưa ra các chứng cứ đã khai quật được ở Tarapur, Deuli, Kayama và Radhanager ở quận Jaipur, tiểu bang Orissa về những mảnh khắc chạm của các bình, lọ, cũng như phát hiện ra những ngôi tháp vuông được làm bằng đá tổ ong, gạch nung, những cột trụ hành lang, các thanh xà ngang và các chỉ dụ của vua A Dục. Những chứng cứ đó cho thấy cách đây hơn 2500 năm trước, đức Phật đã viếng thăm và thuyết pháp tại Orissa. Chính điều này phủ nhận lại các giả thuyết trước đây đã cho rằng đức Phật chưa một lần đặt chân đến khu vực này.

Cuộc khai quật còn là bước đột phá trong quá trình khảo cổ học, một lần nữa khẳng định rằng, những di tích mà vua A Dục để lại có liên quan đến Phật giáo đều là minh chứng hùng hồn cho quá trình hình thành và phát triển Phật giáo có mặt tại Orissa, đồng thời đó là một trong những khám phá đầy ngạc nhiên trong lãnh vực nghiên cứu lịch sử cổ.

Bộ trưởng văn hóa của Orissa, ông Darmodar Rout nói: “Cuộc khai quật ở quận Jaipur đã mang lại một sự khám phá đầy ngạc nhiên trong lãnh vực nghiên cứu lịch sử cổ và nghiên cứu lịch sử Phật giáo mà sự việc này đã giải quyết những điều bí ẩn của lịch sử và đặt ra những đề mục mới”. Trong một cuộc họp báo, ông Darmodar Rout lại nhấn mạnh: “Những sự khám pháp hiếm hoi này có thể giải quyết nhiều vấn đề khảo cổ của Ấn Độ và của lịch sử Phật giáo. Những điều tìm thấy đã gây sự thích thú vô cùng và có tầm quan trọng đáng chú ý cho toàn thể thế giới. Chúng tôi xin mời các nhà học giả, các vị Tăng sĩ và các nhà chuyên môn đến thăm viếng những vùng đất này, cũng như góp phần vào việc nghiên cứu xa hơn nữa”.

Còn ông D.R. Pradhan, thành viên bộ khảo cổ học Orissa, đã nói trong cuộc phỏng vấn báo chí hôm chủ nhật: “Theo lời của ngài Huyền Trang, vua Asoka đã xây dựng các ngôi tháp ở những nơi đức Phật đã thuyết pháp. Do đó chúng ta có thể xác nhận rằng đức Phật đã viếng thăm Orissa vì những ngôi tháp tưởng niệm này đã được xây cất bởi vua Asoka. Ngài Huyền Trang nói có 200 Phật tích ở Orissa. Đến đây chúng ta đã kiếm được 139 vị trí.”

Ông Prahan nói thêm: “Trong tiến trình khai quật, chúng tôi đã khám phá những ngôi tháp vuông được làm bằng đá to ong, gạch nung, những cột trụ hành lang, các thanh xà ngang, và các chỉ dụ của thời Asoka.” Ông nói tiếp: “Các lò sành sứ và gốm còn lại của thời đại Asoka cũng được tìm thấy trong khi khai quật. Kích thước của những viên gạch đã chứng tỏ nó thuộc về vương triều Mauryan. Không có những tượng thần được tìm thấy ở những ngọn đồi này, do đó có thể chắc chắn rằng những ngôi tháp này được xây dựng vào thời kỳ đầu của hệ phái Tiểu Thừa (Hinayana) hoặc hệ phái Thượng Tọa Bộ (Theravada) của Phật giáo trong thời hoàng đế Asoka trị vì.”

Ông Prahan lại nói: “Những câu khắc chữ cổ ở Tarapur đã cho thấy hai nhà buôn ở Ukkala (Utkala hay là Orissa) trên con đường đi đến Madhyadesa (phía Bắc Ấn Độ) cùng với 500 xe hàng hóa đã gặp được đức Phật ngay sau ngày thành đạo. Họ dâng cúng đức Phật gạo và mật ong. Đức Phật đã trao cho họ 8 nhúm tóc của Ngài. Sau đó, hai thương gia tôn trí những nhúm tóc này trong ngôi tháp Kesa ở trú xứ của họ tại Asitanjana”.

Tháp Kesa đã được phát hiện cùng với các vị trí Phật tích gần đây ở Tarapur, có thể xem như là ngôi tháp đã được xây dựng bởi Tapusa, một trong hai vị thương gia.

Ngoài ra, những chữ khắc cổ ở trên các mảnh vỏ sò lớn được giao cho giáo sư B.N. Mukherjee ở viện đại học Calcutta, đã giải mã và đưa ra giả thuyết rằng đức Phật đã viếng thăm nơi này.

Qua đó chúng ta có thể thấy, ngành khảo cổ học có những đóng góp rất tích cực trong quá trình truy nguyên tìm về những di tích của Phật giáo, thẩm định lại sự hiện hữu của đức Phật tại Orissa, đặc biệt là những dấu ấn kiến tạo còn để lại của vua A Dục qua những bảo tháp giúp cho Phật giáo càng ngày càng sáng tỏ hơn. Hầu hết những sự khám phá này gợi ý cho chúng ta thấy còn có nhiều vấn đề sẽ được khảo cứu trong tương lai.

Diệu Hảo

 

Khóa tu học Phật Pháp Âu châu kỳ 17
Tiểu Quyên

 

Khóa tu học Phật Pháp Âu châu kỳ 17 khoảng 500 tu sĩ và cư sĩ Phật giáo từ các quốc gia Đức, Đan Mạch, Hà Lan, Thụy sĩ, Na Uy, Thụy Điển, Anh, Phần Lan, Canada, Mỹ, Việt Nam và Pháp tham dự khóa tu học Âu Châu lần thứ 17 được tổ chức 10 ngày (từ 21.07.2005 đến 31.07.2005) tại trường La Providence, thành phố Amiens, nước Pháp.  Khóa tu học năm nay, chư Tôn đức đặc biệt quan tâm đến thế hệ trẻ, nhất là thế hệ được sanh trưởng tại hải ngoại với những chương trình vui chơi và tu học riêng do tăng ni và cư sĩ Phật tử trẻ thực hiện.

Thời khóa tu học được chia làm ba buổi mỗi ngày. Lớp học được chia theo giới phẩm, lứa tuổi và trình độ. Chương trình học được tổ chức từ Phật học phổ thông cho đến chuyên sâu, phương pháp dạy cụ thể tùy từng lớp. Đặc biệt nhất là lớp dành cho các em thanh thiếu niên sinh ra ở hải ngoại không rành tiếng Việt. Lớp học của các em được chia ra nhiều nhóm nhỏ, các giờ học được tổ chức trong lớp cũng như ngoài trời, kết hợp vừa học vừa thảo luận với nhau bằng tiếng Anh, Pháp, Đức và Việt. Bài thi cuối khóa được dùng bằng các ngôn ngữ khác nhau tùy theo ngôn ngữ mà các em đang sử dụng để đọc hiểu, và khuyến khích các em học tiếng Việt bằng cách phải trả lời câu hỏi bằng tiếng Việt.

Tại đây, tăng ni trẻ đã có 3 buổi hội thảo để nói lên chí nguyện của mình trong việc hoằng pháp và đã đề ra nhiều dự án khả thi cho thời gian tới. Trong đó có 2 nội dung đáng chú ý: Điểm thứ nhất tổ chức trại hè ở từng địa phương tại các quốc gia cho các thanh thiếu niên chưa tham gia sinh hoạt GĐPT để có điều kiện gần gũi, làm quen với những sinh hoạt Phật giáo. Điểm thứ hai Tăng ni trẻ cần trau dồi thông thạo ngôn ngữ bản xứ để giảng dạy Phật pháp cho các em người Việt sinh trưởng tại hải ngoại cũng như cho người bản xứ tiếp thu được dễ dàng hơn.

Khóa tu học kết thúc với những thành quả cao trong việc giảng dạy thanh thiếu niên. Sau buổi bế giảng khóa học các em được viếng chùa và đi tham quan những thắng cảnh nổi tiếng của kinh đô ánh sáng Paris. Sau đó các em chia tay với chư Tôn đức cùng các bạn đạo thân thương để trở về nước của mình và hẹn gặp lại nhau trong khóa học thứ 18 sẽ tổ chức tại Đức quốc vào mùa hè năm tới.

Tiểu Quyên

 

THƠ

Tôi Biết Em

Huỳnh Khải Nguyên

 

Hạnh phúc, khổ đau
Tôi biết em đi
trên con đường vô minh hay tuệ giác
Có những điểm nhìn bao nỗi đời lầm lạc
Mất đi rồi hy vọng được gì đâu!

Từng tâm hồn trôi về những hố sâu
Mâu thuẫn, xung đột, tranh nhau
Niềm đau thế kỷ
Cung bậc tâm linh vẫn muôn đời giá trị
Thắp sáng nguồn chuyển hóa niềm tin.

Ánh sáng tương lai mở hướng những điểm nhìn
Từ vấp ngã đứng lên trải nghiệm
Đưa mùa xuân thay màu tang tóc tím
Đàn trẻ thơ còn nhớ tổ tiên mình.

Từ nguồn vui sống với lời kinh
Thế hệ ngày mai huy hoàng Việt tộc
Để dòng đời không còn nghe tiếng khóc
Bước thênh thang ấm áp những mầm xanh!
 

 

Hóa Thân Mẹ
Hạnh Phương
 

Con yêu bà của con

Bóng hình muôn thuở:

Đầu Tròn Áo Vuông.

Tiếng bà đầm ấm giọt chuông

Khơi mây cho nước suối nguồn từ bi.

Mẹ thương con chẳng quản gì

Con thương mẹ nghĩ lấy chi đáp đền.

Mẹ khuyên lấy ĐẠO làm nền

Nhiếp tâm chánh niệm cho bền tháng năm.

Cái tâm của mẹ: Trăng rằm,

Của dâu xanh lá, của tằm nhả tơ.

 

Mẹ là mẹ của Ban Sơ

Của câu kinh Bụt của tờ ca dao

Của hương hoa bưởi hoa ngâu

Của tâm vô ngại, của câu vô đề

Của đi mà cũng của về

Của sau của trước đề huề hôm mai.

Kiều Đàm Di ấy mẹ tôi

Hai nghìn năm lẽ…

Luân hồi hóa thân

Mỗi thân mẹ mỗi trong ngần

Mỗi lời mẹ mỗi tiếng ru ngân đời.

Lang thang con vẫn luân hồi

Nào hay mẹ vẫn ra đời vì con

Ứng thân đâu quản mỏi mòn,

Hiện chân ni lại Đầu Tròn Áo Vuông.

Sợi Chỉ

Chỉ tình kết nợ xe duyên
Chỉ đời trăng trở khắp miền tử sinh
Chỉ khâu vạt áo ngày xanh
Ủ hương hoa bưởi mẹ dành tóc thơ
Chỉ thêu sắc bướm ước mơ
Lượn câu lục bát cánh cò đa đoan.

Chỉ còn sọi bạc tơ giăng
Nửa lay gió bấc, nửa khoan nhặt tình.


Chớp bể mưa nguồn

Chớp rẻ đường mây nghiêng số phận
Bể giăng lưới gió ngợp trùng dương
Mưa bay nghìn cõi hồn ru mộng
Nguồn bạc đầu sông nhớ núi thương.
 

Thấy Rồi
Diệu Trân

 

Thấy rồi,
Mây ngũ sắc
Thuyền Bát Nhã ra khơi
Biển trầm luân khô cạn
Thuyền trôi trên mây trời

Thấy rồi,
Giọt nước mắt
Tuệ nhãn bừng tâm si
Tóc râu Xá Lợi Phất
Rụng trên đường Phật đi

Thấy rồi,
Tâm sám hối,
Từ vết chém giây oan
Là nợ duyên tiền kiếp
Vay, trả, đều hân hoan

Thấy rồi,
Sương giốc núi
Phủ một trời hoa bay
Tạ ơn người đã mở
Vòng tay lóng xương gầy

Thấy rồi,
Ai thấy tôi?
Chân trần, áo rách vai
Lành lặn tâm an tịnh
Là cùng Phật, không hai.

 

Thánh Ngã

SƯƠNG 1

Trầm ngâm
nghìn hạt trầm ngâm
Hạt tình chiếu dọi hạt tâm rơi ngoài
Có con chuồn át lay phay
Cắm hạt sương vỡ trên tay cỏ thiền.

SƯƠNG 2

Ứa ra từ mắt cỏ xanh
Nghìn năm lấp lánh mà thành tinh khôi
Vi von có kiếp luân hồi
Tiếng buông rơi thót cõi người hồn nhiên.

THIỀN SƯ

Trăm năm phất chéo áo thiền
Ta và đứa trẻ hồn nhiên mỉm cười
Chắp tay lạy Phật xinh tươi
Cà sa xướng họa tát vời chúng sinh...
 

NGUYÊN THỌ

Vườn tâm

Thuyền đạo sắc không vừa cập bến
Luân hồi muôn nẻo khói trầm xông
Con nghe dòng suối từ bi chảy
Nở giữa vườn tâm một đóa hồng...

Biển tuệ

Biển tuệ đã hòa trong cuộc sống
Xóa tan muôn kiếp của mê mờ
Như người cầm đuốc soi đêm tối
Dẫn bước ai về thỏa ước mơ...

Cội nguồn

Thoáng nghe trong gió giọng cười
Tiếng chuông ngân xuống cõi đời rưng rưng
Thiền hành lưu dấu Thầy thương
Chùa xưa lấp lánh cội nguồn tâm linh...

 

---o0o---

Nguồn: thuvien.phatviet.net

Trình bày: N.Tường

Cập nhật: 1-1-2006

 

Webmaster:quangduc@tpg.com.au

Trở về Trang Tập San Phật Học

Đầu trang

 

Biên tập nội dung: Tỳ kheo Thích Nguyên Tạng
Xin gởi bài mới và ý kiến đóng góp đến ban biên tập qua địa chỉ:
quangduc@tpg.com.au