Tiếng Việt

Trang nhà Quảng Đức

   Tiếng Anh 

qd.jpg (8936 bytes)

Tập san Phật Học


...... ... .

 

 

Đặc san Xuân Ất Dậu -2005

Giác Ngộ

Số 261 (27 .1.2005.)

 

 

Mục Lục

 

 

Mùa Xuân đi tìm dấu chân Đức Phật ^

HT Thích Trí Quảng

Nhớ nghĩ đến cuộc đời giáo hóa độ sinh của Đức Phật, chúng ta hình dung ra những phong cảnh từng lưu dấu ấn của Ngài, quả thật là trong lành, tuyệt đẹp vô cùng.

Thật vậy, xuất hiện trên thế gian này, Đức Phật đã chọn một cảnh thiên nhiên đơn giản, nhưng tràn đầy sức sống. Đó là khu vườn Lâm Tỳ Ni, Ngài đản sanh dưới cây Vô ưu trong vườn này. Khi phát tâm đi tìm chân lý, Ngài đã trải qua 11 năm thiết thân thể nghiệm ở núi rừng. Và phút giây mà Đức Phật chứng quả Vô thượng Chánh đẳng giác, sự thành đạo huy hoàng của Ngài cũng đã ghi dấu ở cảnh hùng vĩ của núi rừng, dưới cội cây Bồ đề.

Sau khi thành đạo, từ cảnh núi rừng bao la, Đức Phật khởi đầu bước chân cứu độ chúng sinh; Ngài đã đến vườn Lộc Uyển thuyết pháp. Bước chân du hóa của Đức Phật đã trải qua khắp vùng Ngũ hà Ấn Độ, soi sáng tâm trí cho mọi người, ban rải tình thương khắp mọi nơi.

Và khi mọi việc cần làm cho cuộc đời đã hoàn tất tốt đẹp, Đức Phật đi đến Câu Thi Na, thanh thản rời bỏ thế gian. Ngài nhập diệt trong khu rừng, trên chiếc võng giăng dưới tàng lọng của hai cây Sa la. Hầu như cả cuộc đời của Đức Phật, Ngài sống đơn giản với thiên nhiên, cỏ cây, núi rừng nhiều hơn.

Về Tổ đình Linh Sơn Bửu Thiền, sống trong cảnh núi rừng hùng vĩ, thở không khí trong lành và thanh tịnh kỳ diệu của đất trời bao la, tự nhiên gợi cho tôi liên tưởng đến cuộc sống trầm mặc của Đức Phật thuở nào. Ngài đã tham thiền nhập định và giảng pháp ở núi rừng thanh khiết.

Và nhất là trong cảnh núi rừng vắng lặng êm đềm vô cùng, sáng tinh sương thơm mùi cây cỏ hiền hòa vừa thức giấc, hay vào buổi chiều tà, ánh dương nhè nhẹ len qua cây lá, cũng thoang thoảng hương dịu dàng của đất trời, hoa lá. Từng bước chân hành Thiền trên con đường mộc mạc hoang sơ, trong không khí nhẹ nhàng tinh khiết, càng làm cho tôi thanh thản kỳ diệu, bắt gặp cái bản tâm mộc mạc, trong sạch như hiển hiện trước mặt một cách dễ thương.

Đức Phật cũng từ cõi thanh tịnh tuyệt vời của cái tâm trong sáng vô ngần ấy mà Ngài đã đến với chúng ta. Trong mối giao cảm sâu sắc tột cùng như thế ở núi rừng, trong tôi hiện hữu sáng ngời hình ảnh Đức Phật với từng bước chân đi trong tỉnh thức một cách thật nhẹ nhàng, thanh thoát.

Như đóa sen tinh khiết tỏa hương làm dịu lòng người, bước chân giác ngộ của Đức Phật đi mãi, đi mãi, không hề mỏi mệt. Ngài đi qua biết bao núi rừng, qua bao vườn cây, qua bao phố phường, làng mạc, đến tận hang cùng ngõ hẻm. Ngài đến nơi nào cũng chỉ để mang lại sự an vui, hạnh phúc, yên bình cho thế nhân, cho mọi người thăng hoa trí tuệ, đạo đức, phước báo. Chẳng những Đức Phật mang lợi ích đến cho mọi người sống đồng thời với Ngài, mà đến tận ngày nay, cả nhân loại vẫn còn hưởng thụ được sự lợi lạc vô cùng khi bước theo dấu chân Phật, sống trong giáo pháp của Ngài.

Hành Thiền trong núi rừng tĩnh lặng bao la diệu vợi, từng bước, từng bước, cảm nhận đang đi theo dấu chân Phật thuở nào; một cuộc hành trình về tâm linh khai mở cho hành giả. Mỗi bước chân trên cuộc hành trình tâm linh đưa hành giả đến gần với Tịnh độ của Phật hơn và thâm nhập vào thế giới tâm linh vượt ngoài tính toan, mới nhận được ý nghĩa chân thật của Tịnh độ như thế nào.

Đọc kinh Duy Ma, nghe Phật dạy rằng Ngài chỉ dùng chân ấn đất là cảnh Tịnh độ hiện ra. Hay trong kinh Pháp Hoa nhắc lại lời Phật nói rằng "Tịnh độ của ta chẳng hư, mà chúng thấy cháy rã". Nghe Phật nói sao mà đơn giản quá vậy. Chẳng lẽ Tịnh độ dễ có như thế hay sao và còn nhiều thắc mắc khác nữa.

Giờ đây, từng bước chân hành Thiền ở núi rừng tĩnh lặng trên Linh Sơn Bửu Thiền tự, một lần nữa đã mở ra cho tôi cảnh Tịnh độ mà Đức Phật đã dạy trong kinh.

Vâng, hành Thiền trong tỉnh thức, cảm nhận sự an lành kỳ diệu. Từng hơi thở, từng nhịp đập của trái tim, từng dòng máu luân chuyển trong thân, từng bước chân đi, tất cả đều bao phủ tràn ngập niềm an lành kỳ diệu. An lành trong ta, an lành trong núi rừng bao la hiền hòa, an lành trong cỏ cây hoa lá vô tư, an lành trong không khí thuần khiết, dịu dàng, an lành trong mọi pháp lữ đồng hành xung quanh ta, an lành trong ánh mắt ngây thơ của chú chim bé nhỏ hay chú sóc đang mở to mắt nhìn ta.

Sự an lành kỳ diệu của hành giả an trụ trong tỉnh thức, an trụ trong sự hài hòa với đất trời bao la, với những người cùng hạnh nguyện, với mọi sinh vật của núi rừng. Mùa Xuân của chúng ta đó, mùa Xuân của những hành giả đang đi theo dấu chân Phật, đang sống trong tỉnh thức.

Hãy cùng an trụ mùa Xuân ấy, hãy sống với Tịnh độ ấy, như hai câu thơ mà Hòa thượng Nhất Hạnh đã viết tặng tôi, khi tôi sang Pháp thăm ngài vào cuối năm qua :

Chẳng biết rong chơi miền Tịnh độ

Làm người một kiếp cũng như không.

 

Cơ hội của một nụ hoa ^

Thiền sư Nhất Hạnh

 

Em là một bé gái 13 tuổi bị cha mẹ "bắt" lên tu viện Lộc Uyển tham dự khóa tu của người trẻ, sau đó em về Làng... Dưới đây là câu chuyện của Sư cô Đẳng Nghiêm kể lại:

Sư cô có nhớ, trước khi Sư cô đi Trung Quốc với Sư ông và Tăng đoàn, Sư cô đã dặn con rằng: "Con ở nhà ráng giúp cô bé này giùm Sư cô. Đây là social work đó con". Thú thật thì con cũng ngán lắm. Nhìn em, đôi chân mày mỏng như hai chiếc lá, mắt liếc sắc như lá Nettles, miệng chu lên khi nói, đôi giày cao mấy tấc, áo quần bó sát người, con thầm nghĩ: "Ái dà, cô bé này không dễ đâu! Em có nhiều vấn đề lắm".

Nhưng chính em đã đến với con và hỏi: "Can I talk to you?" (Em có thể nói chuyện với Sư cô được không?). Trong buổi nói chuyện đầu tiên, em kể cho con nghe về những xung đột bạo động giữa em và bố của em, về những người trong băng đảng mà em đã bắt đầu có quan hệ từ lúc em 9 tuổi, về nếp sống tự do, không kỷ luật mà em đeo đuổi. Trong cái sành đời của em, con thấy sự ngây thơ, khờ dại. Trong cái thù hận của em đối với bố, con cảm thấy cái đau của một đứa trẻ từng bị thất vọng, và bị phản bội. Trong cái bất cần của em, con hiểu rằng em cần tình thương, sự vỗ về hơn ai hết. Trong em, lại cũng có một cái gì đó rất thu hút, khiến tất cả mọi người, từ già đến trẻ, từ quý sư cô, đến quý thầy, đến quý vị thiền sinh, ngay cả những vị thường ngày rất lặng lẽ, ai cũng đến với em, chơi với em, lắng nghe em, dạy em học tiếng Việt, tiếng Pháp, khuyên răn em. Con cũng ngạc nhiên khi nghe chính mình xung phong đến ngủ chung phòng với em mỗi tối, thay vì rút lui để được yên thân.

Từ giờ phút đó, cuộc phiêu lưu thám hiểm của chị em con bắt đầu. Đêm đầu tiên con vào phòng ở với em, em nói thao thao bất tuyệt như những cô chú chim trong bụi tre ở Xóm Mới lúc về chiều. Con chỉ biết ngẩn người ra nghe. Chín giờ tối, khi chuông vang báo hiệu giờ im lặng hùng tráng, con lấy tay ra hiệu, em ngừng lại đủ để nín thở, và khi hồi chuông vừa dứt, thì em tiếp tục nói. Thường thì con thực tập giờ im lặng hùng tráng rất nghiêm chỉnh, nhưng em thèm được có người lắng nghe, nên con không nỡ bắt em im lặng. Đến 11 giờ khuya rồi mà em vẫn nói một cách hăng say. Con phải năn nỉ em mấy lần: "Thôi mình ngủ nha, sư chị cần thức dậy sớm" thì cuối cùng em mới chịu im lặng, nằm xuống, nhưng cứ trăn qua trở lại. Con nảy ra ý kiến làm thiền buông thư để giúp em đi vào giấc ngủ dễ dàng hơn. Thở vào em biết em thở vào. Thở ra em biết em thở ra. Em buông thư những cơ bắp trên trán, trên mặt của em. Em mỉm cười... Em đã có một ngày thật vui, gặp nhiều người tốt, ai cũng lắng nghe em, vui cười với em... Em nuôi dưỡng tình thương trong em, để hiểu và tha thứ cho bố, cho meå... Sau hai ba câu nói, thì em đã thở đều và đi vào giấc ngủ, nhưng con tiếp tục ru em bằng những ý nghĩ tốt đẹp. Suốt đêm đèn để sáng, vì em sợ bóng tối. Mỗi khi có tiếng động, em ngồi chồm dậy, hốt hoảng: "What’s that? Who’ that?" (Cái gì đó? Ai đó?). Con lại phải trấn an em: "Chỉ là con mèo, con chuột đi ăn đêm, không sao đâu em". Trong lúc ngủ em đập đầu vào tường thình thịch, hoặc đá con ngang hông. Con dùng 4, 5 cái gối tấn sát tường để bảo vệ đầu của em nhưng vẫn không hiệu nghiệm, nên sau vài đêm thì con lấy luôn một tấm nệm chặn giữa em và bức tường. Con thường thức dậy mỗi khi em nói lớn, có vẻ sợ hãi hoặc giận dữ trong giấc ngủ. Cũng có những khi con thức dậy bất chợt, bắt gặp em đang nhìn con chăm chăm. Em hỏi con: "Do you always smile in your sleep?" (Sư chị lúc nào cũng mỉm cười trong khi ngủ hay sao?). Một đêm con nằm mơ thấy mình khóc thì nghe tiếng em vỗ về: "It’s O.K sister!". Sáng dậy, em hãnh diện lắm, vì chính em là người đã an ủi con. Có một đêm con rất mệt, Sư cô Đoan Nghiêm biết được, bảo em: "Con làm thiền buông thư cho Sư cô Đẳng Nghiêm đi, tối nào sư cô cũng làm cho con, thì bây giờ con cũng làm để chăm sóc cho sư cô". Em rất do dự, ngượng nghịu vì em đâu biết làm, nhưng rồi cuối cùng em cũng bắt đầu:

Thở dzô, tui biết tui thở dzô. Thở dza, tui biết tui thở dza.

Thở dzô, tui biết tui đang đội cái nón màu xanh.

Thở dza, tui biết tui đang mặc áo tràng màu xanh.

Thở dzô, I’m gonna be Miss America (tui sẽ trở thành hoa hậu của nước Mỹ).

Thở dza, I’m gonna win (tui sẽ đoạt giải hoa hậu).

Em nói với giọng Bắc, pha với giọng Nam và tiếng trẻ con, nghe thật dễ thương. Con cũng ráng "thở dzô, thở dza", muốn cười mà không dám vì sợ em phật lòng. Có lẽ đây là bài tập "thiền hướng dẫn" độc đáo nhất con từng nghe. Em khoe rằng em đang tập đọc tiếng Việt với sư chị Hỷ Nghiêm, nên thấy bút pháp nào của Sư ông, em cũng đọc. Nhân tiện hai chị em đang chải răng, con chỉ vào cái bảng gỗ nhỏ với dòng chữ: "Bây giờ và ở đây", bảo em đọc. Em đọc một cách trịnh trọng: "Bể dzồi, ở đây". Con bật cười. Em kiên nhẫn giải thích: "There was a mirror here, but it’s broken, so they put up this sign" (Chỗ này trước kia có cái gương, nhưng nó bể dzồi, nên họ để cái bảng này để mình biết). Sư cô có thấy lý luận của con nít dễ thương chưa?

Nhìn bề ngoài chắc ai cũng nghĩ rằng em cứng đầu, nhưng thật ra em nghe lời và chịu khó lắm. Em đi ngồi thiền hầu như mỗi sáng và mỗi chiều. Con thức dậy sớm. Chuẩn bị phần con xong rồi, thì đánh thức em dậy. Những ngày đầu, con rắc nước, xoa đầu, xoa mặt, dựng em ngồi dậy, xoa lưng, xoa chân để giúp em tỉnh dậy. Em năn nỉ để em ngủ thêm, nhưng con không cho, nên cuối cùng em cũng phải lồm cồm ngồi dậy. Nhưng từ khi em nghe quý sư cô nói về hungry ghosts (cô hồn- ma đói) thì em rất sợ. Sáng đó con vừa đứng dậy để chuẩn bị cho phần con, thì em cũng lật đật đi theo. Em hỏi con và những sư cô khác rất nhiều về ma đói. Rồi một đêm tự nhiên em nói với con: "I think I am also a hungry ghost, or I am going to become one" (con nghĩ rằng con cũng là một con ma đói, hay là con sẽ trở thành một con ma đói). "I don’t want to become a hungry ghost" (con không muốn trở thành một con ma đói).

Con nói: "Hầu như tất cả chúng ta ai cũng là những con ma đói, có người đói ít, có người đói nhiều. Bố của em cũng là một con ma đói. Em có thể tu tập để giúp cho bố của em".

"Never!" (không bao giờ) em quát lên. Mặt em đanh lại. Con biết những khổ đau trong em về bố vẫn chưa nguôi.

Con tiếp tục: "Nếu em không giúp bố bây giờ, thì khi bố chết, em cũng sẽ phải đối diện với bố trong em".

Em lắc đầu: "I don’t want him to haunt me!" (Con không muốn ông ta ám ảnh con).

Con thấy tội nghiệp em quá. Con nói: "Vậy thì em nên giúp bố. Hòa giải với người sống dễ hơn với người chết nhiều".

Trong tháng đầu tiên ở Làng Mai, sắc thái và thái độ của em hoàn toàn thay đổi mỗi khi tiếng bố được nhắc đến. Khi nghe tin bố em muốn qua Làng gặp em, em phản đối mạnh mẽ: "I’ll leave if he gets here. I’ll kill myself. You’ll see the ugliest side of me" (con sẽ rời Làng nếu ông ta đến đây. Con sẽ tự tử. Sư chị sẽ thấy cái bộ mặt xấu xa nhất của con). Rồi một tối em nói chuyện với mẹ trên điện thoại, và mẹ nói rằng bố mẹ sẽ gởi em vào một trường kỷ luật bên Mễ Tây Cơ. Khi em mới đến Làng, em khăng khăng nói rằng thà đi qua trường đó, hoặc ở với người bảo trợ, hoặc vào nơi dành cho những người trẻ phạm pháp, chứ nhất định không chịu về ở với bố nữa. Nhưng những ngày ở Làng đã làm thay đổi cái nhìn của em. Đêm đó khi con vào phòng, em ngồi trên giường, đầu gối co lên. Em cúi đầu, lặng thinh, chỉ có nước mắt là không ngừng rơi. Nước mắt lăn xuống má em từng hạt lớn. Con chưa từng thấy em khóc như vậy. Con nhẹ nhàng leo lên giường ngồi sát bên em, chậm những giọt nước mắt với cuộn giấy toilet, hết xấp này đến xấp khác. Con ôm em, chải tóc, em cũng không động đậy. Khi con mỏi chân, mỏi tay, chuyền em qua phía bên tay kia, em cũng không tự mình nhúc nhích. Con đặt em nằm xuống, em cũng vẫn lặng thinh. Chỉ có những giọt nước mắt cứ không ngừng rơi, em ngủ thiếp đi, và sáng dậy, một giọt nước mắt vẫn còn đọng trên hàng mi của em.

Ở Làng, em cũng đã học quay về với tổ tiên huyết thống của mình. Em nói em thấy ma trong phòng hai lần, sau khi em thực tập thiền lạy. Em sợ lắm, nhưng rồi em nghĩ, có thể đó là bà nội của em. Con nói: "Nếu đó là bà nội của em, thì không có gì phải sợ, vì bà nội đã có sẵn trong mỗi tế bào của em. Sợ bà nội, nghĩa là sợ chính mình sao? Chắc tổ tiên muốn em biết nhiều hơn về họ, và có thể họ đang rất khổ, và họ muốn em giúp họ được giải thoát, qua sự tu tập và chuyển hóa của chính em". Nghe vậy, tuy vẫn còn sợ, nhưng em không mất một buổi thiền lạy nào. Em cầu nguyện rằng nếu tổ tiên muốn dạy em điều gì, thì đến với em qua những tuệ giác, chứ xin đừng hiện ra làm em sợ lắm. Trong một buổi thiền lạy, em đã nói: "I’m sorry, ancestors, that I cannot help you liberate right now" (con xin lỗi là con không giúp tổ tiên giải thoát được ngay bây giờ).

Ở Làng, em học nói lời ái ngữ. Thay vì nói: "I hate..." (con ghét...), thì em nói: "It does not please me that..." (con không vui...). Thay vì nói: "He pisses me off" (bố làm con nổi khùng) thì em học nói: "He waters the seed of anger in me" (bố tưới tẩm hạt giống giận trong con), hoặc "He makes my seed of anger sprout into a tree" (bố làm cái hạt giống giận dữ của con nảy mầm thành một cái cây). Con hỏi: "Còn cái hạt giống tỉnh thức của em có lớn hơn chưa?". Em cười tươi: "You make it sprout into a tree" (quý sư cô đã làm hạt giống đó nảy mầm thành cây rồi).

Em tập đi lên xuống cầu thang chậm và nhẹ hơn được phần nào. Thay vì vất dép mỗi chiếc mỗi nơi, em xếp chúng lên kệ. Em tự động quét phòng, và lau phòng. Quần áo thì em vẫn còn quăng bừa bãi trên giường, nhưng mỗi khi con xếp lại thì em ý thức được, và cảm ơn. Một hôm nghe Sư cô Đoan Nghiêm nói sẽ lên phòng thăm, em hốt hoảng la lên: "Oh, no! Give us at least 10’ to clean up" (ồ không, cho chúng con ít nhất 10 phút để dọn dẹp). Em chạy lên phòng, và hai chị em xếp quần áo, nhận vào bao ni-lông những đồ không dùng, quăng rác v.v... Em thì thật sự lo, con thì giả bộ lo. Hai chị em vừa làm vừa cười rất vui.

Khi con nghe tin bố em sẽ đến trong vòng hai ngày, con nói với em: "Sáng nay sư chị ngồi thiền, tự nhiên sư chị thấy bố em ở Xóm Mới, đang đứng ở chỗ rửa ly thì em từ từ đi đến. Em biết em đã làm gì không?". "What?" (làm gì?). Em hỏi với mắt mở tròn. Con cười: "Em đến ôm bố, và trong vòng tay bố em trở thành một đứa trẻ khoảng chừng 4, 5 tuổi". "Oh, no, he’s coming for real? I have to leave!" (bố tới thật sao? Con phải đi thôi!). Em nói, nhưng giọng em không lớn và nặng như những tuần đầu em vừa về Làng. "Em nên tập thiền ôm với quý sư cô đi". Con vừa nói với em, vừa cười, bụng mừng thầm rằng ít nhất bây giờ em biết cái tin bố sẽ đến thật sự.

Cuối cùng thì cũng đến ngày bố em đến Làng, với em trai và vợ của chú. Hôm đó em tự động mặc bộ đồ nâu mà Sư cô Trúc Nghiêm đã cho em mượn. Em chạy trốn trong phòng, nhưng Sư cô Đoan Nghiêm gọi em xuống. Em chào chú và cô, nhưng không chịu đến gần bố, chỉ nhìn xuống đất. Sư cô Đoan Nghiêm nói với con: "Em vẫn không chịu ôm bố". Riêng con thì quá mừng là ít nhất, em chịu đứng cùng phòng với bố chứ không quyết liệt tránh mặt như em nói. Lúc ăn tối, con ngồi đối diện với bố của em, và em chịu ngồi kế bên con. Em nhất định không ăn, không nhìn lên, nhưng cũng không bỏ đi. Con ra hiệu em rót nước cho bố và cô chú. Ngoan ngoãn, em chịu đứng lên đi lấy nước, và lặng lẽ đặt ly nước cạnh bố. Em lại nghe lời đi tìm Sư cô Liễu Nghiêm để nhờ sư cô chuẩn bị phòng để bố và chú có thể cùng ở lại Xóm Mới đêm đó, thay vì đi qua Xóm Thượng. Phải nói là con không những mừng thầm, mà là rất ngạc nhiên bởi những hành động dễ thương này của em. Trái tim em lớn quá!

Sư cô có nhớ buổi họp đầu tiên mình với em và bố của em không? Sư cô đã nói về đức tính liêm khiết của ông nội của em, là một luật sư nổi tiếng từ Nam ra Bắc, nhưng nghèo vì ông không bao giờ chịu nhận tiền hối lộ. Nhờ đức của ông nội, mà bố và em hưởng được những phước lành. Con đã hỏi em rất nhiều câu hỏi, để giúp em có cơ hội nói ra trước bố những tri giác của em về những gì đã xảy ra giữa bố em và em. Bố em được dặn chỉ nên ngồi lắng nghe, dù ông có đồng ý hay không đồng ý với tri giác của em và những sự kiện em thuật lại. Bố em thực tập giỏi lắm, ngồi im lặng suốt hơn hai tiếng chỉ thỉnh thoảng đổi tư thế ngồi mà thôi. Sau đó, bố em hứa sẽ không bao giờ uống rượu và hút thuốc nữa. Bố em sẽ làm tất cả những gì em muốn. Con mừng lắm, nhưng em thuật với con rằng bố đã từng hứa như thế bao nhiêu năm rồi, với mẹ trước khi cưới, rồi với em. Và em đã mất niềm tin ở bố. Ngay hôm sau bữa họp đó, bố em bỏ đi suốt ngày với một thiền sinh nam khác. Em khóc, nói chắc bố đi ăn mặn rồi, vì bố không ăn chay nổi đâu. Sư cô có nhớ sư cô qua để nói chuyện với ông ta, nhưng đợi mãi không thấy về? Đến lúc về thì mặt đỏ gay, hơi thở nồng nặc mùi rượu. Con đến giáp mặt bố em ngay tức khắc, và bố em chịu trận, chỉ năn nỉ đừng để Sư cô Chân Không biết. Con nói đùa: "Bây giờ thì mình có thể hiểu bé đã nhận được hạt giống thiếu kỷ luật từ ai!". Bố em cười bẽn lẽn.

Sư cô dạy bố em nên vào ngồi thiền với đại chúng chiều đó. Nghe tin, em không muốn vào thiền đường, nhưng con nhắc em rằng quý sư cô đã nhờ em đọc giùm lời nguyện của Đức Bồ tát Địa Tạng bằng tiếng Anh trong giờ tụng kinh nên em không thể không vào. Con khuyến khích em: "Em đang giúp phá tan địa ngục trong em và bố như Đức Bồ tát đó". Em mỉm cười. Con đã ngồi giữa em và bố của em. Hơi thở của bố em ngắn và mệt nhọc. Mùi rượu vẫn nồng nặc. Bố em không quen ngồi dưới đất nên chuyển lên ghế, rồi lại ngồi bệt xuống, rồi lại dùng ghế. Còn hơi thở em thật nhẹ và đều. Mỗi khi bố em cử động thì em cũng xoay đầu nhìn. Lúc đi kinh hành thì bố em đi trước, rồi đến con, rồi đến em. Pháp Bụt mầu nhiệm quá! Tăng thân của mình thật sự là nơi nương tựa, để bố em và em – ngỡ rằng không nhìn được mặt nhau – mà lại được đi chung với nhau những bước chân thật chậm, thật lành!

Ngày hôm sau bố em cũng lại đi suốt ngày, và khi về phòng lăn ra ngủ ngay tức khắc. Cũng lại gần đến giờ ngồi thiền. Em chạy đến thiền đường tìm con, vừa nói vừa khóc: "He’s done it again! I am so stupid to believe him. He’s done it right in the monastery, twice now. That’s it. That’s it. Now I can do anything I want. I can drink, I can smoke, and he cannot say anything to me. He’s blown it". (Ông ta lại uống nữa! Con thật ngốc khi tin ông ta. Ông ta uống ngay trong tu viện, giờ là lần thứ 2. Vậy đó. Vậy đó. Bây giờ con có thể làm tất cả những gì con muốn. Con có thể uống rượu, có thể hút thuốc và ông ta đừng hòng nói với con bất cứ điều gì. Ông ta đã bị sa vào đó rồi - G.N) Con ôm em thật chặt: "Bố cần sự giúp đỡ của em. Sự thật là bố không thể tự thay đổi. Hãy tội nghiệp cho bố mà giúp bố đi em. Nếu không, bố sẽ trở thành một ông già nghiện ngập, cô đơn vì các con đều bỏ bố, và rồi em cũng sẽ trở thành như bố, nghiện ngập, cô đơn, tràn đầy những oán thù". Em vẫn khóc, tuy nhiên dần dần em trở nên bình tĩnh hơn nhưng em nhất quyết không chịu đi ngồi thiền. Con nhìn em: "Đây mới là lúc em cần ngồi thiền nhất. Em gọi ông bà nội và tổ tiên, xin họ giúp cho em có đủ kiên nhẫn và tuệ giác để giúp cho em, cho bố, và cũng là cho tổ tiên của em. Đây là một cơ hội tốt để tất cả có thể được giải thoát". Nghe chữ giải thoát thì em lặng thinh, và chịu đi ngồi thiền. Sau đó em đồng ý đi qua Đức thăm cô chú với bố em. Trước khi đi, em thức gần trắng đêm để viết thư cho từng sư cô. Không rành viết tiếng Việt, em đã dùng tự điển trong máy vi tính để viết tiếng Việt cho Sư cô Cơ Nghiêm.

Từ Đức, em đã gọi điện về Làng báo tin tới nơi và giọng em thật vui. Bây giờ thì em đã về ở với bố mẹ và ba đứa em nhỏ. Em cũng gọi thăm quý sư cô, xin lỗi rằng em bận học để theo kịp chương trình, nên chưa có dịp viết thư cho quý sư cô. Em báo tin rằng bố thực tập giỏi, không hút thuốc trong nhà hay trước mặt em nữa. Bố em cũng đã e-mail qua Làng hai lần, hứa rằng sẽ dẫn em và cả nhà đến Lộc Uyển để cùng tu tập chung với nhau.

Ngày tới, em già giặn như một cô gái hai mươi tuổi với son phấn, với áo quần bó sát người. Ngày đi, em tươi mát và xinh xắn như một đóa hoa mới nở. Sự chuyển hóa như một phép mầu. Cuộc hành trình chỉ mới bắt đầu. Em là điển hình của vô số người trẻ sinh ra và lớn lên ở Mỹ hoặc các nước Tây phương, không biết gì về gốc rễ huyết thống, thiếu sự truyền thông với cha mẹ, đi tìm một chỗ tựa trong băng đảng, bị lạm dụng, chỉ thấy lối ra trong những cuộc vui và trong cái chết.

Đóa hoa mai vừa hé nở, rất mong manh. Cầu mong cho gia đình và em tiếp tục nương tựa Tăng thân để cùng nhau chuyển hóa thì mới mong đóa hoa có đủ không khí trong lành mà cho hoa trái. Đóa hoa sẽ héo lại nếu lại tiếp tục đưa em ra gió bão cuộc đời. Con cầu mong Bụt, tổ tiên tâm linh và huyết thống độ trì cho em và gia đình của em, để mọi người được tiếp tục chuyển hóa, sống hạnh phúc với nhau, và giúp cho bao nhiêu gia đình khác cùng quay về nương tựa nơi đất lành của tâm.

 

 

Tinh thần giải thoát trong giáo lý Phật Đà ^

HT. Thích Thanh Từ

Nhân ngày đầu năm, chúng tôi xin nhắc lại mục đích tối thượng của người tu Phật. Nếu chúng ta không biết rõ và không nắm vững ý nghĩa thì trên đường tu khó đạt được mục đích.

Vậy mục đích tối hậu của Tăng Ni Phật tử là gì? - Là giải thoát khổ đau.

Nói đến giải thoát, chúng ta phải biết nghĩa trái của nó là triền phược, là trói buộc. Vì bị trói buộc nên mới cầu giải thoát. Giải thoát là mở trói, là tự do. Khi ở trong hoàn cảnh bị trói buộc mới khát khao được mở trói. Khi ở trong hoàn cảnh bức ngặt mới cầu giải thoát. Vậy ý nghĩa giải thoát là ra khỏi khổ đau. Có nhiều người nghĩ giải thoát là chuyện của những bậc Thánh, người thường không bao giờ với tới được. Muốn giải thoát mọi khổ đau phải nhờ Phật lực gia bị, chớ tự mình không thể thực hiện được. Đó là hiểu sai lầm về ý nghĩa giải thoát.

Xưa ngài Phú Lâu Na xin Phật dạy cho pháp yếu để đến chỗ vắng vẻ tu hành. Phật dạy mắt thấy sắc không chạy theo sắc, tai nghe tiếng không chạy theo tiếng là Niết bàn. Mũi, lưỡi, thân, ý cũng như thế. Ngược lại, mắt thấy sắc chạy theo sắc, tai nghe tiếng chạy theo tiếng rồi chấp chặt là xa Niết bàn. Mũi, lưỡi, thân, ý cũng như thế. Ngài Phú Lâu Na nhận được pháp yếu đến chỗ vắng vẻ tu trong vòng ba tháng chứng A la hán. Pháp yếu Phật dạy: Sáu căn tiếp xúc với sáu trần không chạy theo, không dính mắc là Niết bàn giải thoát. Nếu đuổi theo chấp chặt là sanh tử trầm luân. Trầm luân hay giải thoát không đợi kiếp nào khác mà ngay trong thực tại đời này. Mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý duyên pháp trần không đuổi theo, không dính mắc, ngay đây được giải thoát, chớ không có xa vời không với tới được. Chúng ta ai cũng có khả năng giải thoát cho chính mình. Ngược lại, trầm luân đau khổ cũng do chính mình.

Trong kinh A Hàm, Phật kể câu chuyện: Bầy khỉ đi ăn, khỉ chúa dạy các khỉ nhỏ không được tách đoàn đi ăn một mình e bị bẫy rập mất mạng. Trong đoàn có một con khỉ ngạo mạn lại tham ăn, tách đoàn đi ăn một mình để được no đủ. Một hôm, khỉ đến chỗ có bẫy rập, bên cái bẫy có miếng mồi ngon, khỉ mừng quá nhảy tới chụp mồi. Tay mặt vừa đụng miếng mồi thì bị dính nhựa. Tay trái đưa ra để gỡ, cũng bị dính nhựa. Nó đưa chân mặt quào bị dính chân mặt, đưa chân trái quào bị dính chân trái. Hai tay hai chân đã bị dính nhựa, nó cúi đầu xuống cạp cũng bị dính. Chỉ còn cái đuôi ngoắc ngoắc cố vùng vẫy để quật cái bẫy ra cũng bị dính luôn. Như vậy hai tay, hai chân, đầu, đuôi khỉ đều bị dính nhựa, khỉ không thoát thân được. Bấy giờ thợ săn bắt khỉ bỏ vô giỏ dễ dàng. Câu chuyên này ngụ ý Phật dạy người tu không thích sống trong khuôn khổ của Tăng đoàn, muốn được tự do thụ hưởng riêng, làm theo ý riêng, dù thiếu kinh nghiệm mà vẫn tách đoàn sống riêng. Khi ra ngoài, mắt thấy sắc liền nhiễm sắc, tai nghe tiếng liền nhiễm tiếng, sáu căn bị sáu trần cột trói. Lúc đó ma vương bắt đi dễ dàng như thợ săn bắt khỉ bỏ vào giỏ.

Khi sáu căn dính với sáu trần, là chúng ta đã lọt vào tay của ma vương, khó được giải thoát. Vì vậy người tu muốn được giải thoát phải gan dạ không để sáu căn dính mắc sáu trần. Dính mắc nhiễm trước là tham cầu, lúc ấy có vùng vẫy cũng không thoát được.

Tu giải thoát không phải chuyện mơ hồ xa xôi mà là chuyện thực tế ngay trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Tu không đợi phải có hào quang, hoặc biết quá khứ, vị lai mới giải thoát mà ngay trong sinh hoạt hàng ngày, sáu căn tiếp xúc với sáu trần không đuổi theo, không chấp chặt là giải thoát. Tại gia hay xuất gia đều tu giải thoát được. Sáu trần không quyến rũ, không cột trói ai cả. Do chúng ta mê lầm, mắt thấy sắc liền khởi phân biệt, sắc vừa ý thì thích, tham dấy khởi, chấp chặt, không vừa ý thì sân dấy khởi, chấp chặt. Tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị ... phân biệt, tham sân dấy khởi chấp chặt nên khổ đau. Phật dạy chúng ta phải dừng phân biệt buông xả mọi tham chấp thì hết khổ, giải thoát ngay trong hiện tại. Nhưng vì chúng ta cứ phân biệt, chấp chặt nên khổ rồi cầu Phật cứu. Làm sao Phật cứu? Phật dạy phải buông xả mọi chấp thủ thì giải thoát hết khổ, nhưng chúng ta không chịu buông, nên khổ hoài, giống như đứa bé thò tay vào hũ kẹo nắm đầy kẹo rút tay ra khỏi hũ không được, khóc kêu mẹ cứu. Mẹ dạy buông nắm kẹo là rút tay ra dễ dàng, nhưng đứa bé có chịu buông nắm kẹo đâu!

Phật dạy chúng ta đừng dính với sáu trần, các thiền sư cũng dạy chúng ta buông đi, hiện nay chúng tôi cũng nhắc quí vị đừng chạy theo sáu trần. Việc làm hết sức đơn giản mà kết quả rất thiết thực, giải thoát ngay trong hiện tại. Lý giải thoát của đạo Phật vừa cụ thể vừa thực tế mà cũng rất dễ thực hành, chỉ cần buông xả phân biệt chấp trước khi căn tiếp xúc với trần thôi. Đó là giải thoát theo tinh thần Phật giáo nguyên thủy.

Kế đến là giải thoát theo tinh thần Thiền tông. Có một thiền khách đến hỏi Thiền sư Huệ Hải: "Thế nào là giải thoát?". Ngài đáp: "Căn trần không dính nhau là giải thoát". Mới nghe qua thấy khó hiểu, nhưng thực tế thì quá đơn giản. Vì đa số người lầm tưởng phải có thần thông đến các cõi trời, ra khỏi trần gian ô trọc này mới giải thoát, nào ngờ sáu căn không dính với sáu trần là giải thoát.

Ngài Đạo Tín khi còn là Sa di đến thưa Tổ Tăng Xán: Xin Hòa thượng ban cho con pháp môn giải thoát.

Tổ hỏi: Ai trói buộc ngươi?

Ngài Đạo Tín thưa: Không ai trói buộc.

Tổ bảo: Đã không trói buộc, cầu giải thoát làm gì?

Ngài Đạo Tín liền nhận được ý chỉ. Ngài Đạo Tín lầm tưởng những tâm niệm xấu xa phiền não đang trói buộc mình nên mới cầu giải thoát. Nhưng khi Tổ bảo nhìn thẳng xem những tâm niệm xấu xa thật sự có trói buộc không. Khi nhìn thẳng chúng lặng mất, đâu có gì trói buộc mà cầu giải thoát. Ngay đó liền giải thoát.

Ngày nay chúng tôi hướng dẫn các vị tu bằng cách nào? Chúng tôi bảo các vị nhìn thẳng cái mà quí vị cho là phiền não trói buộc, nhìn thấy mặt thật của nó thì hết phiền não, hết khổ đau. Tinh thần giải thoát nằm ngay chỗ nhìn thẳng thấy mặt thật của phiền não. Nói buông là một lối nói, khi nhìn thẳng mặt thật của nó thì nó tiêu mất đâu có gì để buông. Đây là trọng tâm của thiền tông mà chúng tôi đã chỉ dạy quí vị.

Trong kinh Phật nói: Tất cả nước biển chỉ có một vị mặn, tất cả giáo pháp của Phật chỉ có một vị là giải thoát. Đoạn đầu Phật dạy sáu căn tiếp xúc với sáu trần không dính mắc là giải thoát, tu ngay nơi căn trần ở bên ngoài. Đoạn kế Tổ dạy nhìn thẳng tâm niệm chạy theo sáu trần biết chúng không thật là giải thoát. Tu ngay tâm niệm vừa móng khởi không đợi nó dính mắc với trần cảnh mới tháo gỡ. Như vậy giải thoát theo tinh thần nguyên thủy thì sáu căn không dính mắc với sáu trần. Giải thoát theo tinh thần nhà Thiền là nhìn ngay tâm niệm vừa móng khởi thì tâm đâu có đuổi theo trần cảnh; mắt thấy sắc không dính với sắc, tai nghe tiếng không dính với tiếng… vọng niệm sạch rồi, lo gì sáu căn chạy theo sáu trần! Đó là chủ yếu của pháp tu giải thoát.

Mỗi năm qua là chúng ta đi dần đến cái chết. Đời này chúng ta có chút duyên phước được gặp Phật pháp và được hướng dẫn tu hành để thoát khỏi khổ đau. Mong tất cả làm tròn bổn phận của mình là xoay lại sống với mình để không uổng một đời tu mà không tỉnh giác, cứ chạy theo cái giả dối tạm bợ bên ngoài, quên mất tâm chơn thật của chính mình. Được như vậy mới xứng đàng là đệ tử Phật, đã quyết chí đi theo con đường Phật Tổ đã đi.

Hôm nay là ngày đầu năm, chúng tôi chúc tất cả quí vị có sức tỉnh giác mạnh hơn nhận ra tâm chơn thật của chính mình để không chạy theo ngoại trần bị trầm luân, được giải thoát viên mãn.

 

 

Về một môi trường thích hợp cho sự tu tập ^

HT. Thích Minh Châu

Trong hơn 40 năm qua, chúng tôi đã nỗ lực để xây dựng một đường hướng giáo dục cho chư Tăng Ni và Phật tử Việt Nam dựa trên những lời dạy của Đức Phật. Con đường đã được mở ra và đã được vận dụng ít nhiều, tạo nên những hiệu quả thiết thực trong bối cảnh lịch sử văn hóa dân tộc. Chúng tôi cũng nương vào lời dạy của Đức Phật, kết hợp với truyền thống văn hóa nước nhà trong việc nỗ lực xây dựng các môi trường tu học cho Tăng Ni Phật tử, vừa đúng với tôn chỉ giác ngộ của Bậc Đạo sư, vừa hợp với truyền thống văn hóa của dân tộc.

Trong sự nghiệp thuyết pháp độ sinh của Ngài, Đức Phật rất quan tâm môi trường tu học thích hợp, không những cho các đệ tử của mình mà còn cho hết thảy mọi người. Trong bản kinh "Khu Rừng" thuộc Trung Bộ, Ngài nêu ra nhiều môi trường với các điều kiện khác nhau để nhấn mạnh tầm quan trọng của một môi trường thích hợp nhất cho sự tu học của các học trò mình. Theo Ngài, một môi trường thích hợp cho sự tu tập và phát triển hài hòa, toàn diện của con người phải hội đủ hai điều kiện thiết yếu, vật chất và tinh thần. Về phương diện vật chất, Ngài nói đến các điều kiện vật chất cần thiết hỗ trợ cho sự tu học của các cá nhân ở trong môi trường đó. Về phương diện tinh thần, Ngài nhấn mạnh các nội dung tu học dựa trên Giới, Định, Tuệ hướng đến giải thoát, giác ngộ. Đức Phật cho rằng khi người nào tìm thấy một môi trường tu học hội đủ hai tiêu chuẩn trên, thời người ấy cần phải bám trụ môi trường đó để tu tập trọn đời, không được bỏ đi, dầu cho có bị xua đuổi. Ngài dạy:

"Này các Tỷ kheo, vị Tỷ kheo sống tại một nơi nào hay sống gần một người nào, các niệm chưa được an trú được an trú, tâm không định tĩnh được định tĩnh, các lậu hoặc chưa được hoàn toàn đoạn trừ được hoàn toàn đoạn trừ, vô thượng an ổn khỏi các ách phược chưa được chứng đạt được chứng đạt; và những vật dụng cần thiết cho đời sống của người xuất gia như y phục, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị người bệnh, những vật dụng này kiếm được một cách không khó khăn, vị Tỷ kheo ấy cần phải suy nghĩ như sau: ‘Ta sống ở nơi này hay sống gần người này, các niệm chưa được an trú được an trú, tâm chưa được định tĩnh được định tĩnh, các lậu hoặc chưa được hoàn toàn đoạn trừ được hoàn toàn đoạn trừ, vô thượng an ổn khỏi ách phược chưa được thành đạt được thành đạt; và những vật dụng cần thiết cho đời sống của xuất gia như y phục, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh, những vật dụng này kiếm được một cách dễ dàng’. Này các Tỷ kheo, sau khi suy nghĩ như vậy, vị Tỷ kheo ấy phải trọn đời sống ở nơi ấy hay theo sát người ấy, không được bỏ đi, dầu cho có bị xua đuổi".

Đường hướng giáo dục của Đức Phật nhấn mạnh sự hoàn thiện hay giải thoát của con người trên cơ sở đánh thức, nuôi dưỡng và phát triển giới đức, tâm đức, tuệ đức của mỗi cá nhân. Do đó một môi trường tu học đáp ứng được mục tiêu trên cần phải có đủ Giới, Định, Tuệ và các điều kiện hỗ trợ cho việc phát triển giới đức, tâm đức, tuệ đức. Đạo Phật chú ý kiến tạo các môi trường giáo dục, khuyến khích sự phát triển giới đức, tâm đức, tuệ đức của cá nhân dẫn đến sự phát triển hài hòa của cộng đồng, và trong lịch sử các ngôi chùa Phật đã đáp ứng vai trò ấy.

Suy ngẫm nhiều về lời dạy của Đức Phật kết hợp với việc xem xét lịch sử văn hóa dân tộc, chúng tôi nhận ra rằng, ngôi chùa luôn luôn là một môi trường tốt và thích hợp nhất cho sự phát triển hài hòa của con người, đồng thời là nơi gìn giữ và phát huy bản sắc dân tộc, bởi cứ theo lời dạy của Đức Phật ở trên, thì ngôi chùa chính là nơi ươm mầm và nuôi lớn truyền thống đạo đức và trí tuệ của dân tộc.

Người Việt Nam chúng ta tiếp thu đạo Phật từ rất sớm và ngôi chùa đã trở thành trung tâm sinh hoạt văn hóa của cộng đồng. "Đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt" là hình ảnh rất gần gũi thân quen với người Việt. Làng là đơn vị hành chính nhỏ nhất của hệ thống quản lý nhà nước ở xứ sở ta từ xưa đến nay. Làng nào cũng có chùa. Chùa là của chung, mang tính cộng đồng, nên mọi người đều có thể đến chùa, không phải để tìm kiếm danh lợi mà để tìm lại chính mình, bởi ở đấy có đầy đủ các yếu tố cần thiết và thích hợp cho mỗi con người muốn tìm thấy chính mình thông qua việc học tập và phát triển hài hòa các phẩm chất giới đức, tâm đức, tuệ đức của bản thân. Chúng tôi cho rằng chư vị Tổ sư của chúng ta đã kế thừa đầy đủ lời Phật dạy trong việc xây dựng nên các thiền môn hội đủ hai tiêu chuẩn căn bản trên khiến trở thành các môi trường thích hợp cho sự phát triển hài hòa của cá nhân dẫn đến sự phát triển hài hòa của cộng đồng. Chính sự phát triển hài hòa, đồng bộ và thống nhất ấy của mỗi cá nhân và cộng đồng trong cùng một môi trường giáo dục đã tạo nên sắc thái văn hóa độc lập của dân tộc.

Đạo Phật đến Việt Nam, giúp soi sáng và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của người Việt, che chắn cho người Việt đứng vững và vượt qua mọi thử thách lớn của lịch sử. Có lẽ do hiểu rõ sự đóng góp thầm lặng nhưng hết sức thiêng liêng của đạo Phật đối với vận mệnh của dân tộc mà một thi sĩ đã thốt lên:

"Mái chùa che chở hồn dân tộc,

Nếp sống muôn đời của tổ tông".

Xã hội Việt Nam đang trải qua giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa; điều này đồng nghĩa với việc chúng ta thừa nhận nền văn minh khoa học kỹ thuật phương Tây trong điều kiện xây dựng và phát triển đất nước. Phát triển là bước tiến của lịch sử nhưng cần được xem xét và cân nhắc kỹ để có những bước đi hài hòa ổn định cho quê hương xứ sở. Chúng tôi nghĩ rằng càng theo đuổi sự phát triển mang tính hiện đại bao nhiêu, chúng ta cần ra sức gìn giữ và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống bấy nhiêu. Có như thế cuộc sống con người mới phát triển hài hòa, xã hội mới tiến bộ ổn định, văn hóa dân tộc mới không bị mai một.

 

(*) Tựa đề của Báo Giác Ngộ. Trích Diễn từ của HT. Thích Minh Châu đọc trong lễ khánh thành bảo điện TV Vạn Hạnh, ngày 24-10-2004.

 

 

Đôi điều về vai trò của người cư sĩ ^

Minh Chi

(Học viện Phật giáo Việt Nam)

 

Cư sĩ là ngoại hộ thiện tri thức, cho nên nếu cư sĩ có một nhận định đúng đắn về vai trò của mình, tu học và sống theo đúng vai trò đó thì chắc chắn Giáo hội PG sẽ có một bước tiến bộ vượt bậc.

1. Từ cư sĩ xuất hiện đầu tiên ở kinh nào?

Theo Hòa thượng Thánh Nghiêm, tác giả cuốn Phật giáo chánh tín thì từ cư sĩ xuất hiện lần đầu tiên trong kinh Duy Ma Cật. Trong kinh, ngài Duy Ma Cật được gọi bằng ba danh hiệu: một là Trưởng giả trong phẩm "Phương tiện", hai là Thượng nhân hay Đại sĩ trong phẩm "Văn Thù thăm bệnh", ba là Cư sĩ trong phẩm "Bồ tát".

Theo các ngài Cưu Ma La Thập, Huyền Trang, Trí Khải thì ngài Duy Ma Cật nguyên là một vị Bổ xứ Bồ tát (vị Bồ tát sắp chứng quả Phật) trên cõi Phật A Thiềm ở phương Đông. Để hỗ trợ cho sự nghiệp giáo hóa của Phật Thích Ca ở cõi Ta bà, ngài Duy Ma đã thị hiện thành một vị tại gia mà trình độ giác ngộ, giải thoát của ngài khiến cho một vị Bồ tát trí tuệ hàng đầu như Bồ tát Văn Thù cũng phải kiêng nể. Như vậy trong kinh Duy Ma, từ cư sĩ đồng nghĩa với từ đại Bồ tát.

Từ cư sĩ trong các kinh A hàm:

Trong kinh Trường A Hàm có từ cư sĩ báu, chỉ cho vị quan đại thần trông coi kho vàng bạc của vua Chuyển luân vương. Rõ ràng từ cư sĩ ở đây chỉ cho nhà quản lý được vua trọng dụng. Ở Ấn Độ ngày xưa đẳng cấp thứ ba sau hai đẳng cấp Bà la môn và Sát đế lỵ là đẳng cấp Vệ xá (Vaisyas) bao gồm các công thương gia, các nhà doanh nghiệp. Từ cư sĩ báu nói trên chỉ các công thương gia, các nhà doanh nghiệp thuộc đẳng cấp Vệ xá này.

Vào thời Phật Thích Ca, từ cư sĩ được dùng rộng rãi để chỉ các gia chủ có thể là Phật tử hay không phải là Phật tử. Trong kinh Giáo thọ Thi Ca La Việt (Trường A Hàm, từ Ca La Việt chỉ cho Cư sĩ. Kinh này ở tạng Pali, có tên là Singalovada, dịch ra chữ Hán là kinh Thiện Sanh). Như vậy, từ cư sĩ trong kinh Singalovada đồng nghĩa với từ gia chủ.

Sau này, trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, phạm vi từ cư sĩ thu hẹp lại để chỉ riêng cho những người Phật tử tu tại gia. Trong lịch sử Phật giáo Việt Nam đời Lý - Trần có những ông vua Phật tử tuy không xuất gia nhưng vẫn là những thiền sư lỗi lạc, nổi tiếng, những nhà Phật học uyên bác như Lý Thái Tôn, vua thứ hai đời Lý, đệ tử đắc đạo của Thiền sư Thiền Lão. Theo Thiền uyển tập anh, ngài được xếp là một vị Tổ thuộc thế hệ thứ 9 của phái thiền Vô Ngôn Thông. Vua Lý Thánh Tông, vua thứ 3 đời Lý, được công nhận là Tổ thứ 2 của phái thiền Thảo Đường (phái thiền thứ 3 của Việt Nam). Vợ vua là thứ phi Ỷ Lan được nhân dân tôn xưng là Quan Âm nữ cũng là một cư sĩ xuất sắc, có một bài thơ thiền được lưu lại trong sách Thiền uyển. Đời Trần, vua Trần Thái Tông, tác giả cuốn Khóa hư lục và Tuệ Trung Thượng sĩ đều là những cư sĩ nổi tiếng mà ngay các tu sĩ cũng đều tôn xưng họ là những bậc thầy trong đạo. Vua Trần Nhân Tông sau này xuất gia lập ra phái thiền Yên Tử cũng tôn xưng Tuệ Trung Thượng sĩ là đạo sư của mình.

2. Người cư sĩ với thân phận tại gia, có thể giác ngộ và giải thoát được hay không?

Theo tôi, người cư sĩ Phật tử Việt Nam ngày nay một mặt tiếp tục duy trì thái độ khiêm tốn truyền thống, tôn trọng Tam bảo, thân cận học hỏi nam nữ tu sĩ như là những bậc thầy tâm linh trong đạo. Nhưng mặt khác – và đây là điều quan trọng hơn – không có mặc cảm tự ti, phát tâm dũng mãnh tu học, mong cầu cũng được giải thoát và giác ngộ như các Tổ cư sĩ ngày xưa trong lịch sử Phật giáo nước nhà.

Trên bước đường tu học, cư sĩ Việt Nam ngày nay được động viên bởi lời khuyên của các vị Tổ như Trần Thái Tông:

"Mặc vấn đại ẩn tiển ẩn, bất câu tăng tục, hưu biệt xuất gia tại gia, nhi chủ yếu biện tâm, bổn vô nam nữ, hà tu trước tướng" – (Khóa hư lục)

Dịch nghĩa:

"Không phân biệt là sống ở đời hay sống trong rừng, không phân biệt tại gia hay xuất gia, chỉ cốt yếu là biện tâm, vốn không nam nữ, sao lại chấp tướng".

Tổ Trần Nhân Tông trong bài phú Cư trần lạc đạo hồi III lại còn khẳng định hơn nữa:

"Trần tục mà nên, phúc ấy càng yêu hết tấc

Sơn lâm chẳng cốc, họa kia thật cả đồ công"

Giải nghĩa:

"Là người tại gia mà tu học thành công được giác ngộ và giải thoát thì phúc đức ấy thật là đáng quý hết sức, còn tu ở núi rừng (xuất gia tu ẩn) mà vẫn không giác ngộ (cốc từ nôm nghĩa là giác) thì thật là uổng công".

Chúng ta thấy rõ qua lời dạy của ngài Trần Thái Tông, người cư sĩ (tất nhiên người xuất gia cũng thế) phải biết tu tập tâm. Trần Thái Tông nói biện tâm tức là tìm hiểu tâm mình, tu tập tâm mình.

Muốn tu tập tâm tất nhiên phải luôn luôn tỉnh giác quan sát tâm mình; trong tâm mình nảy sinh ra cảm thọ gì, ý nghĩ gì, quyết định gì chúng ta đều phải biết rõ. Đó là cảm thọ ý nghĩ quyết định đúng hay sai, tích cực hay tiêu cực, có lợi hay có hại cho mình hay cho người để kịp thời điều chỉnh uốn nắn.

Trong kinh Pháp Cú, phẩm "Tâm", Phật dạy nhiều về vấn đề tu tập tâm mà cư sĩ ngày nay nên luôn luôn suy ngẫm:

Kệ 33:

"Người trí làm tâm thẳng

Như thợ tên làm tên..."

Kệ 35:

"Lành thay, điều phục tâm

Tâm điều an lạc đến..."

Kệ 36:

"Người trí phòng hộ tâm,

Tâm hộ an lạc đến..."

Như chúng ta thấy, Đức Phật khuyên chúng ta luôn luôn tỉnh giác để uốn nắn tâm như thợ làm tên uốn nắn tên vậy, phòng hộ tâm, điều phục tâm khi chúng ta gặp phải các nghịch cảnh có thể làm chúng ta nảy sinh ra phiền não tham, sân, si v.v... Có thể nói đời sống người tại gia tạo ra cho họ nhiều cơ hội để hiểu biết tâm mình, rèn luyện tâm mình, bồi dưỡng những đức tính đáng quý như nhẫn nhục, kiên trì, tinh tấn.

 

Muà Xuân và niềm vui học pháp hành pháp ^

Thích Phước Đạt 

Không phải ngẫu nhiên, Thiền sư Mãn Giác đời Lý mỉm cười nhiệm mầu khi Xuân về hoa mai nở: "Đình tiền tạc dạ nhất chi mai" (Đêm qua sân trước một cành mai), còn Thiền sư Chân Nguyên, người có công chấn hưng Thiền học Việt Nam cuối thế kỷ XVII trong "Yên Tử sơn Trần triều Thiền tông bản hạnh" thì giãi bày:

"Hoa là vốn tính trạm viên

Bao hàm thiên địa dưới trên

cùng bằng"

Trong ý nghĩa đó, mùa Xuân là mùa muôn hoa đua nở, mùa kết tinh sự tinh anh trời đất, mùa biểu tượng của sự an vui, hạnh phúc qua một quá trình nỗ lực tự thân tu học, tự thân hành trì, tự thân giác ngộ của người con Phật.

Thế nên, trong niềm hỷ lạc vô biên của người con Phật, thấm nhuần Phật pháp, bạn sẽ thấy mùa Xuân ngập tràn cõi lòng bởi muôn hoa đua nở từ trong cõi lòng thanh tịnh của chính mình. Tại đây, bạn thật sự sống với tự tánh mùa Xuân Phật giáo thường trú, chứ không còn vui buồn theo mùa Xuân thời tiết biến chuyển. Bởi vì hơn ai hết, bạn là người thật sự an trú vào niềm vui Chánh pháp, khi tự mình đi theo Phật, đi theo Pháp, đi theo Tăng.

Đi theo Phật là đi theo tự tánh thanh tịnh thành Phật vốn có sẵn trong tự thân của bạn, nghĩa là đi theo con đường Đức Phật đã đi qua và giảng dạy cho đời. Chính Ngài đã trải nghiệm thực thi cuộc hành trình tâm linh này để nhận chân niềm hạnh phúc hỷ lạc bất tận này của một Bậc Giác ngộ. Đi theo Pháp là đi theo con đường thực nghiệm đời sống tâm linh của việc hành trì các pháp thiện, thực hành giáo lý Tứ đế, Duyên khởi, Giới định tuệ… cho đến khi thấy rõ sự thật các pháp, như Phật từng dạy: "Ai thấy Duyên khởi là thấy Pháp, ai thấy pháp là thấy Như Lai". Đi theo Tăng là đi vào đời sống hướng tâm theo cộng đồng Tăng già với bản chất hòa hợp, thanh tịnh, thực thi nếp sống lục hòa: Thân hòa đồng trú, khẩu hòa vô tránh, ý hòa đồng duyệt, lợi hòa đồng quân, giới hòa đồng tu, kiến hòa đồng giải, trên hết là tích cực thực hành pháp ly dục để giải thoát tự thân, chứng đạt Niết bàn.

Trong đời sống thường nhật, bạn là người Phật tử tại gia, có biết bao nhiêu vấn đề cần giáp mặt và giải quyết. Con người luôn đối diện với các vấn đề sinh tồn và các nhu cầu nảy sinh xảy ra trong hiện thực cuộc sống. Quanh năm suốt tháng, bạn luôn khát vọng mong muốn được sống bình an, được giàu có, được nắm giữ tài sản do mình làm ra, không bị nợ nần, không bị ai chê cười hay vi phạm pháp luật. Nhất là, trong thời buổi kinh tế thị trường, nhu cầu đời sống vật chất và tinh thần của con người không ngừng phát sinh và nâng cao để đem lại các giá trị thiết thực, hữu ích. Dưới ánh sáng của chánh tri kiến của mình, ắt hẳn bạn là người thực thi các hạnh lành, từ bỏ các điều ác, an trú trong Chánh pháp thì sẽ được hưởng được phước báu của bốn niềm vui mà Đức Phật từng dạy trong kinh Tăng Chi III:

"Thế nào là niềm vui có của? Ở đây, gia chủ có của cải nhờ phấn đấu tích cực, gom góp được bằng sức bàn tay, bằng mồ hôi, đúng pháp và tích lũy đúng pháp, có suy nghĩ như sau: Của cải này của tôi có được nhờ phấn đấu tích cực, tích lũy đúng pháp, cho nên niềm vui và thỏa mãn đến với tôi. Đó là niềm vui có của cải".

"Thế nào là niềm vui được giàu có? Ở đây, vị gia chủ được giàu có nhờ phấn đấu tích cực, vui vẻ, nhờ giàu có mới làm được nhiều việc lành. Vị ấy có suy nghĩ nhờ giàu có mới làm được nhiều việc lành, cho nên niềm vui và sự thỏa mãn đến với vị ấy. Đó là niềm vui được giàu có".

"Thế nào là niềm vui không có nợ nần? Ở đây, vị gia chủ không có nợ nần nhiều hay ít đối với bất cứ ai. Vì vị ấy có suy nghĩ, do không có mắc nợ dù nhiều hay ít đối với bất cứ ai, cho nên niềm vui và sự thỏa mãn đến với vị ấy. Đó là niềm vui không có nợ nần".

"Thế nào là niềm vui không bị chê trách, không có lỗi lầm? Ở đây, vị gia chủ Thánh đệ tử có niềm vui vì các hành động ở nơi thân, lời nói và ý nghĩ của mình đều không có gì đáng chê trách, đáng lỗi lầm. Với ý nghĩ: Tôi không có gì đáng chê trách, đáng lỗi lầm ở nơi thân, miệng và ý, niềm vui và thỏa mãn đến với tôi. Đó là niềm vui không bị chê trách, không có lỗi lầm".

Rõ ràng, bạn là người hạnh phúc nhất khi có niềm vui an lạc từ kết quả thực hành pháp học và pháp hành ngay giữa hiện thực cuộc đời đầy biến động. Chưa hết, bạn sẽ có bốn niềm vui (hỷ lạc) bất tận khi tự thân thực hành đời sống phạm hạnh, ngang qua bốn cấp độ thăng chứng từ sơ thiền đến tứ thiền:

Đó là niềm vui giải thoát đầu tiên khi bạn loại bỏ năm triền cái (tham dục, sân hận, hôn trầm, trạo cử, nghi), thành tựu năm thiền chi, chứng đạt sơ thiền. Một trạng thái hỷ lạc khởi lên do ly dục, ly bất thiện pháp, có tầm có tứ.

Một niềm vui giải thoát cao hơn, khi bạn diệt được tầm tứ, chứng và trú thiền thứ hai. Đó là trạng thái hỷ lạc có được do định sanh, không tầm không tứ, nội tỉnh nhất tâm. Xem ra, niềm vui giải thoát đầu tiên có được là do đoạn tận dục vọng và các pháp bất thiện thì niềm vui chứng đạt ở cấp độ thiền thứ hai là do định tâm sanh khởi với sự tinh tấn, tập trung vào một điểm.

Bạn còn an trú một niềm vui giải thoát sâu hơn nữa khi tâm chứng đạt thiền thứ ba. Một niềm vui do tự thân ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú. Xả ở chỉ một tâm trạng giải thoát không còn gắn bó gì hết, kể cả hỷ. Bởi vì, ở cấp độ này khi tâm đã trú xả thì không còn dao động bất cứ điều gì nữa.

Cuối cùng là niềm vui giải thoát khi bạn chứng đạt thiền thứ tư được giãi bày khi bạn thực sự xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh do thiền thứ tư đem lại. Tại đây, tâm trở nên thanh tịnh hoàn toàn, bạn an trú niềm vui của xả, của giải thoát.

Rõ ràng, mùa Xuân trở thành mùa hạnh phúc, ngập tràn niềm vui bất tận của giải thoát khổ đau. Từ "Cõi trường xuân" như hiện ra không phải từ trong tâm tưởng, hay trong tiếng kinh cầu mà ngay hiện thực giữa cuộc đời này nếu bạn thực sự hành trì đời sống hướng nội với tâm tỉnh thức dưới ánh sáng Tuệ giác bừng khởi:

"Pháp thí thắng mọi thí

Pháp vị thắng mọi vị

Pháp hỷ thắng mọi hỷ

Ái diệt, thắng mọi khổ"

(Pháp Cú 354)

 

Đêm viếng Lương Vũ Đế ^

Hạnh Huệ trích dịch

Trời đông năm 548 TL, là một ngày đông đích đáng. Nước Nam cũng thấy muôn dặm tuyết bay, dòng Trường Giang trôi qua thành Kiến Khang kinh đô nhà Lương, dường như đông cứng. Loạn binh do phản tướng phản phúc vô chừng Hầu Cảnh thống suất, đang ở ngay thành đô mà y từng quy thuận này, tiến hành cuộc vây quét đẫm máu cuối cùng. Tại Đài Thành (tương đương Tử Cấm Thành), cứ điểm cuối cùng của quân Lương, Lương Vũ Đế - vị chúa oai hùng ngày xưa từng thống trị Nam Trung Quốc đã nửa thế kỷ, một mình cô độc ngồi dưới thềm điện hoàng hôn, lặng lẽ chăm chú nhìn Hành Phương đang từ xa tiến đến gần.

Hành Phương vòng tay vái chào:

- Bệ hạ! Xin lượng thứ sự mạo muội của thần, thần thái của Ngài lúc này khiến người nhớ đến câu:

Tịch điện đom đóm bay lặng

như tờ

Đèn côi khêu hết giấc ngủ

chưa thành.

(Tịch điện huỳnh phi tư tiễu nhiên

Cô đăng thiêu tận vị thành miên.)

- Đương nhiên, không có thì giờ nào thích hợp hơn giờ khắc này để nhìn lại và phản tỉnh một đời của mình - Lương Vũ Đế bình tĩnh dị thường nói.

(Ngoài cung thành, tiếng trống dồn và tiếng giết truyền đến dồn dập).

- Nhưng ánh mắt của Ngài lại lộ vẻ Ngài đang "làm như có nhớ nhung quyến luyến". Ngài rốt cuộc mong đợi cái gì? Có thể cho thần hay được không?

Lương Vũ Đế nhìn Hành Phương, im lặng không nói, cuối cùng mở miệng:

- Chàng trẻ tuổi! Lịch sử Trung Quốc, từ quá khứ hiện tại và tương lai có các loại các kiểu đế vương: có người buông thả làm nô lệ cho thinh sắc; có người cố gắng mưu đồ thành tựu nghiệp bá; có người siêng việc triều chính, khéo việc giữ thành; lại có người mê tín đạo thuật thần tiên, chìm đắm vô độ. Các thứ mô hình đều có bao nhiêu tên dẫn chứng, nhiều cách phân tích có thể cung cấp cho người sau tường tận rõ ràng hơn. Nhưng, chỉ riêng mình ta ngoại lệ. Ta không thuộc bất cứ mô hình nào kể trên, ta không có bất cứ một cái chứng cớ phụ nào có thể tham chiếu so sánh, ta chỉ thuộc một mô hình riêng của chính ta, trước không cổ nhân, sau không người đến. Ta sẽ ở trong dòng thời gian trôi mãi trăm kiếp ngàn đời không người hiểu được, hoặc giả đau đớn nhất là sẽ bị lý giải phiến diện một cách triệt để…

- Thần nghĩ, Ngài muốn chỉ chính mình thuộc "Hoàng đế Phật giáo" chứ gì? - Hành Phương nói.

- Không! Chàng trẻ tuổi, đây chính là nguyên do ta kiên trì chờ đợi ngươi đến, nhất định trịnh trọng nói với ngươi. Ngươi sẽ hội ngộ bao nhiêu đế vương có thân phận là Phật giáo đồ, nhưng đế vương văn hóa Phật giáo, Trung Quốc chỉ có một người là Vũ Đế Tiêu Diễn mà thôi!

Hành Phương ngước nhìn Lương Vũ Đế, định đòi ông nói thêm một lần câu: "Đế vương văn hóa Phật giáo…"

- Đúng thế! Sự quang vinh và mộng tưởng một đời này của ta, sự nhục vinh khen chê sau ngàn thu muôn tuổi, hoàn toàn hệ thuộc sáu chữ này, nhất là trên hai chữ "văn hóa".

Hành Phương vừa nghe xong, không nín cười được:

- Văn hóa? Hai chữ này ở chỗ của thần có thể nói là bày đầy chợ…

Lương Vũ Đế cười nhẹ:

- Chàng trẻ tuổi, để ta nói cho ngươi hay, ta với các ngươi khác biệt: Các ngươi đang nhúng dấm "văn hóa" mà ăn, còn ta chế tạo một loại văn hóa chân chính.

- Sáng tạo văn hóa?

Lương Vũ Đế phát hiện Hành Phương hoàn toàn không hiểu nổi ý của lời mình một cách đúng đắn, không khỏi có chút cảm thán. Ông thấp giọng lẩm bẩm:

- Ta biết, ta chủ định sẽ làm một người ngu, một tên điên, thậm chí một tên dối trá, bị ghi vào sử sách, tạo ra một hài kịch náo nhiệt. Trên lịch sử đường đường hoàng hoàng, nhất định sẽ viết thế này: Lương Vũ Đế tại vị hơn bốn mươi năm, xả thân vào chùa làm nô dịch Phật bốn lần, đến nỗi khiến mỗi lần quần thần phải bỏ tiền chuộc cả ức vạn, lại sửa sang chùa lớn hào hoa tráng lệ vô số, lập Vô già đại hội hơn mười lần… Nhân đây vua mà không ra vua, nước không ra nước, rất là mê muội hoang đản, không xấu hổ.

- Chẳng lẽ điều này có giá trị gì mà khoe khoang? Đây là sáng tạo văn hóa sao? - Hành Phương hỏi.

Lương Vũ Đế nghe nói đột nhiên nổi giận:

- Chàng trẻ tuổi, không được ở đây nói lời hư vọng! Tiêu Diễn là nhân vật thế nào, há lại cho phép kẻ giả nhân giả nghĩa tầm thường đời sau bôi xóa sửa đổi! Những tên giả đạo đức tầm thường đời sau vô số người chửi ta, cười ta, khinh bỉ ta. Công danh tài tình, vinh hoa phú quý, nô lệ thanh sắc, phong lưu hào phóng mà họ ngày đêm mơ tưởng trọn một đời, mười phần không được một hai, thậm chí hoàn toàn chưa hề nếm qua; mà ta ngay lúc trẻ trung đã nếm no nê mọi thứ, chưa đến bốn mươi tuổi đã lên ngôi trị vì thiên hạ, trị nước gần năm mươi năm mà thần dân vui mừng tuân phục, có gì ngu đần dốt nát?

Hành Phương tranh biện:

- Đây với Phật giáo có can hệ gì?

Lương Vũ Đế đổi giận làm vui:

- Muốn khiến nhập vào trí Phật, trước lấy dục câu dắt, chỉ có ta từng trải và tài tình như thế, mới chân chính làm được "buông dao đồ tể, ngay đó thành Phật".

(Lúc này, dưới cung thành, tiếng chém giết lại nổi lên).

Lương Vũ Đế sầm nét mặt, tâm tình dần dần khôi phục bình tĩnh:

- Hai chữ thành Phật, đừng bao giờ vọng tưởng. Phật là giác ngộ, ta chẳng qua là sau khi giác ngộ, quả quyết buông bỏ hẳn nửa đời trước tung hoành mở đóng, quyền trá cơ biến, bắt đầu nửa đời sau sáng tạo mô thức thao tác văn hóa Phật giáo.

Hành Phương:

- Mô thức?

Lương Vũ Đế:

- Đúng! Thời trước ta, Phật giáo truyền vào Trung Quốc gần năm trăm năm, thành tích to lớn rất nhiều, nhưng rốt cuộc đã thiếu sự liên kết mật thiết với văn hóa cố hữu của Trung Quốc, và có thể độc lập thao tác mô thức văn hóa Phật giáo được Trung Quốc hóa.

Hành Phương:

- Thế rồi, Ngài bắt đầu sáng tạo?

Lương Vũ Đế lấp loáng ánh mắt, thần sắc dường như biểu lộ tình cảm của năm tháng tài hoa ngày trước:

- Từ khi mở đầu, ta bèn ý thức rằng ta đã khiêu chiến và mạo phạm nghiêm trọng đối với lịch sử. Thân làm một vị Quốc chủ, tợ hồ không lưu tâm đến chứng tích chính trị an dân, thậm chí ngay cả việc hưởng thụ ngũ dục bình thường ta cũng bỏ hết không đoái hoài, mà dốc lòng vào việc mà hoàn toàn cùng thế vụ chẳng tương quan. Nhiều lần tự lên pháp tòa giảng kinh Phật, thường thường hạ chiếu chỉnh đốn giới luật Tăng già, lập hội Vu lan bồn, Vô già đại hội, chế định nhạc Phật, cấm đoán rượu thịt, xác lập một hệ thống về chế độ Phật giáo mà người Trung Quốc nên có… Như thế vừa đưa ra, ta đã biết rõ ta sẽ bị hạng đồ Nho đời sau chẳng dung. Vì ở chỗ bọn họ nhìn đến thì nghiệp lớn tu tề trị bình cùng với việc lớn giải thoát sanh tử như nước lửa chẳng dung nhau. Nên làm một đế vương văn hóa Phật giáo, ta sẽ để lại danh xấu là kẻ điên rồ, ngu ngốc mà di xú vạn niên! Nội tâm ta đầy dẫy sợ hãi và thống khổ, đối với văn hóa Phật giáo Trung Quốc lập được càng nhiều, càng gần tuổi già, cái nghi sợ này cũng càng sâu nặng, do đó ta chọn sự xuất gia, cũng chính là ly khai ngôi báu, xả thân vào chùa chiền, chạy về con đường giải thoát vĩnh cửu mà ta để tâm duy nhất…

Hành Phương lặng lẽ nhìn Lương Vũ Đế, đáy lòng buồn rầu dâng lên một luồng cảm động:

- Bất kể thế nào, mô thức văn hóa Phật giáo do Ngài sáng tạo đã phong phú và viên mãn như thế, Ngài là người thành công.

(Ngoài cung thành, tiếng trống trận và tiếng hô giết càng lúc càng cấp bách...).

Lương Vũ Đế ngưng thần lắng nghe, sau đó cười nhạt nói:

- Chàng trẻ tuổi, ngươi lầm rồi! Ta đương nhiên thành công, nhưng thời khắc ta giao đứt giá trị một đời này cũng đến rồi!

Hành Phương:

- Giá trị?

Lương Vũ Đế tâm tình bình tĩnh như trước, ông ta nói:

- Ta lập văn hóa Phật giáo, chưa từng gây họa cho con dân của ta, năm mươi năm qua giang sơn an bình, quốc thái dân an, tức đã chứng minh. Hôm nay cái giá trị dùng để giao đền, chẳng qua chỉ là địa vị của ta, tánh mạng của ta thôi!

Hành Phương giật mình kinh hãi:

- Chẳng lẽ Ngài không có cách nào để đối phó với Hầu Cảnh ư?

Lương Vũ Đế nghe nói cười ha hả:

- Tên giặc nhỏ mọn, đâu đủ để lo! Ta ở đời đã 85 xuân thu, công nghiệp văn võ chẳng qua như khói mây, ngôi vua nghiệp bá sớm thành phẩn đất, cái hồn vướng mộng víu, chẳng qua để trợ giúp cho việc lớn giải thoát sanh tử của người Trung Quốc ngàn thu muôn đời. Công lớn ngày nay đã xong, chẳng về còn đợi chờ gì nữa!

Hành Phương cấp thiết nói:

- Thần vừa đi qua thành phố Kiến Khang bị tàn phá, thấy nhiều dân chúng cột diều một cách tự phát, chuẩn bị sớm ngày mai thả bay ra thành, tập hợp viện binh…

Lương Vũ Đế ngăn Hành Phương lại:

- Chàng trẻ tuổi, thế của ngày nay, ta nếu vãng sanh sớm một khắc, chúng sanh liền giải thoát sớm một khắc, việc thả diều, đừng nên nêu lên nữa. Ngược lại (chỉ về hướng Đông Bắc), ta phái sứ thần, cùng đi với học tăng Tân La là Giác Đức, hộ tống xá-lợi đến Tân La, tính đến ngày nay có lẽ cũng đến nơi rồi!

Lương Vũ Đế ngừng lại một chút, đứng lên sửa áo mão ngay ngắn:

- Người trẻ tuổi! Ta có một việc dặn dò ngươi cuối cùng: Vị lai, quan sửa chữa sử ắt sẽ nói ta bị giặc vây khốn, "tức mà chết" cũng xong, "chết đói" cũng xong! Đều chẳng ngại gì, chỉ cần có mấy chữ: "Một khắc cuối cùng không bỏ trai giới", xin chuyển đến sử gia, là ta mãn nguyện rồi - Mong mau về đi, chàng tuổi trẻ! Quay đầu là bờ, chớ lầm đường về.

Hành Phương nửa đêm tỉnh giấc, chẳng biết đêm nay là đêm gì, chỉ thấy ngoài cửa sổ, ngọn đèn tàn lụi, tuyết rơi khắp kinh thành lặng lẽ không một tiếng…

(Tạp chí Phổ Môn số 245)

 

Thiền Sư và Mùa Xuân ^

Như Đức

Đối diện mùa Xuân, các thiền sư cũng thường làm thơ. Thiền sư Thanh Viễn Phật Nhãn có tám câu:

Ngày xuân xuân trong núi

Việc xuân thảy đều xuân

Hồ xuân ánh xuân chiếu

Khí xuân kết mây xuân

Khách xuân lòng xuân động

Thơ xuân xuân càng tươi

Chỉ có người biết xuân

Muôn kiếp một mùa xuân.

Dàn trải nét hân hoan tươi mới khắp tận núi khe sông hồ, đâu đâu cũng thấy một màu xuân. Nếu để lòng buồn vui theo cảnh, đó gọi là khách của mùa Xuân, mãi mãi không tự dừng, nên bị gọi là xuân khách. Như giới trẻ chúng ta ăn mặc theo mùa gọi là thời trang, không biết trong cuộc chơi này mình là chủ thời trang hay bị thời trang làm chủ. Trước mắt là thấy mình luôn làm khách hàng vào mấy shop. Cần có một lời nhắc ở đây: Phải là người biết xuân. Người này nắm được nguyên lý tột cùng chi phối vũ trụ, người cùng vận hành với muôn vật, cùng tang thương biến đổi nhưng không bao giờ mất nét xuân xưa, nên gọi "Muôn kiếp một mùa Xuân".

Một năm trôi qua thật nhanh, mới thấy ngày mồng một Tết rộn rịp chúc tụng, người người nói những lời tốt đẹp, hy vọng một năm toàn là phát tài, hỷ sự. Ngày đầu năm mới, người ta thích tất cả đều mới. Nhà thơ Lâm Xuân Thi nói:

Nếu không phải ngày mồng một

Anh mặc chi áo mới may này.

...

Nếu không phải là ngày mồng một

Chưa chắc em nở nụ cười này.

Thiệt cũng có những nụ cười phải để dành cho ngày đầu năm, cũng như ngày đó đừng nói những chuyện xúi quẩy sợ "dông" cả năm, hay là đừng quét nhà sợ tiền tài bay hết. Bao nhiêu là chuyện cho ngày mồng một. Vậy mà, qua mồng hai mồng ba, cái mới tinh khôi đã phai nhạt, cái trang trọng bớt trang trọng, cái cũ dần dần chiếm chỗ. Thoắt cái đến rằm tháng Giêng đi chùa Bà Bình Dương; rồi xúm nhau đi Dinh Cô Long Hải, tháng Hai; núi Tà Cú Phan Thiết tháng Tư. Giới xe khách bận rộn vào vụ mùa. Sẽ thấy mùng năm tháng Năm, rồi rằm tháng Bảy, rằm tháng Tám trung thu trăng tròn. Khi rằm tháng Mười xuất hiện là người ta lo chạy tiền ăn Tết. Không thể đi, phải chạy mới kịp, dù biết chạy là thời gian cũng qua mau.

Hòa thượng Quản Giám nói kệ:

Năm trước gặp thanh xuân

Mặt hồng khoe đào lý

Năm nay gặp thanh xuân

Tóc bạc đầy cả mái

Người đời tuổi bảy mươi

Nhanh như dòng nước chảy

Chẳng ngộ tâm xưa nay

Sanh tử nào thoát khỏi.

(Thiền sư Trung Hoa,

HT.Thanh Từ dịch)

Những khứ niên (năm đã qua) kéo nhau đi mất, tuổi trẻ một thời trôi qua, mấy đứa trẻ hàng xóm ngày nào còn cỡi trâu, chăn bò đen nhẻm, thoắt một cái đã thành thanh niên thiếu nữ. Nhìn thấy nó lớn là biết mình đã già. Xuân năm nay rồi cũng thành khứ niên, tóc bạc không từng xanh lại - trừ khi nhuộm. Thiền sư nhìn một đời người chảy nhanh như nước cuốn ra biển, một đời như thế, trăm ngàn đời cũng thoáng nhanh. Có một người xưa nay y như vậy, không đổi khác, người đó rất gần với chúng ta.

Với năm mới, chúng ta nói là mình thêm một tuổi, Thiền sư Thiên Tùng nói là tuổi ta giảm một năm:

Sáng nay đều nói thêm một tuổi

Tôi bảo ngày này bớt một năm

Thêm bớt lại qua số khôn tính

Chỉ cần dứt sạch duyên thế gian

Cốt là biết được trong duyên chủ

Trăm ngàn ức kiếp thường

an nhiên.

Bốn mùa thay đổi là duyên của vạn vật. Tuổi trẻ sắc tươi, tuổi già khô héo là duyên của thân người, biết được người chủ trong muôn duyên biến đổi mới không bị biến đổi.

Thiền sư Pháp Diễn một hôm nói:

- Hôm qua sơn tăng vào thành thấy một đám múa rối, bèn đến gần xem. Thấy bọn họ có kẻ xinh đẹp phương phi, có kẻ xấu xí dị hình, cả đám tới lui đi đứng lăng xăng, điệu bộ ra phết. Xem kỹ té ra có người điều khiển sau tấm màn. Sơn tăng không nhịn được bước tới hỏi y: Ông tên họ gì? Y bảo: Hòa thượng già này, thấy rồi thì thôi hỏi tên họ làm gì?

Cái gọi là đời sống của chúng ta, gẫm ra là một tuồng múa rối lăng xăng, ngày lẫn đêm bị người giựt dây không thôi. Nhìn được người giựt dây này, không cần biết họ tên, bởi vì một khi gọi tên là từ đó tang thương đìu hiu.

Hỏi tên rằng biển xanh dâu

Hỏi quê rằng mộng ban đầu đã xa

Gọi tên rằng một hai ba

Đếm là diệu tưởng, đo là nghi tâm.

(Bùi Giáng)

Thiền sư và thi sĩ vốn ít lời, vì biết rằng khi lập danh là xa đạo. Nhưng chính vì chúng ta ngây ngô quá đỗi, hóa ra các vị lại là người nói nhiều hơn ai hết. Thử đọc ngữ lục của các thiền sư và các tập thơ của thi sĩ. Ngài Pháp Diễn có một đệ tử là Phật Quả Viên Ngộ, xuất thân Nho học, từ nhỏ mỗi ngày nhớ được cả ngàn lời. Làu thông kinh sử như vậy, khi đến học với ngài Pháp Diễn, nghe thầy nói chuyện với quan Đề hình về câu thơ Tiểu Diễm:

Từng kêu Tiểu Ngọc nguyên

không việc

Chỉ cốt anh chàng nghe được thôi.

Tiểu thư trong nhà luôn gọi người hầu Tiểu Ngọc, không việc gì khác ngoài việc ra ám hiệu cho anh chàng ngoài kia. Thời nay chắc không cần phiền phức thế, chỉ cần bấm di động là được. Ngài Pháp Diễn nói chuyện đó, có khi muốn nhắc thị giả Viên Ngộ, vốn là người hay thơ giỏi chữ. Quả nhiên sau chuyện này, Viên Ngộ chợt tỉnh, sư làm kệ trình thầy, một bài kệ như thơ, lời ý đẹp mơ màng.

Mùa Xuân lại về, người và vật thay áo mới. Thiền sư cũng theo nhân tâm khen ngợi mùa Xuân, nhưng chủ ý không phải khen suông, muốn nắm tay dắt chúng ta trở về chỗ mới mẻ nguyên sơ, chỗ Xuân bất tận ấy. Chỉ hiềm đời sống đa đoan, để bao nhiêu lần Tết đến Xuân về, chúng ta chỉ mãi là trẻ con mừng áo mới.

 

Từ  Đỉnh kê phong gà vàng ngậm thóc.^

Thích Nguyên Hùng

Nếu như dãy Himalaya (Hy Mã Lạp Sơn) hùng vĩ với hơn 40 ngọn núi cao trên 7.000m, được người ta biết đến với cái tên gọi nên thơ là "Lâu đài tuyết trắng" hay "Bông sen trắng vĩ đại", bởi nó sừng sững giữa ngàn mây, quanh năm băng tuyết phủ trắng ngần, án ngữ theo một vòng cung dài suốt 2.600km về phía Bắc tạo nên bức tường thành đồ sộ, một pháo đài kiên cố, ngăn cách Ấn Độ với phần còn lại của Á châu lục địa, thì dãy Kukkutapada (Kê Túc Sơn), nằm ở miền Trung Ấn Độ, lãnh thổ của quốc gia Magadha (Ma Kiệt Đà) xa xưa, có thành Vương Xá ở đó, được người Phật tử biết đến với nhiều truyền thuyết ly kỳ về sự truyền thừa mạng mạch Phật pháp, nơi ẩn chứa y bát cho vị Phật tương lai mà người gìn giữ nó là Sơ Tổ Ma Ha Ca Diếp.

Theo Đại Đường Tây Vực ký, quyển 9, thì: "Sông Mạc-ha chảy về phía Đông, xuyên vào rừng sâu, qua hơn trăm dặm, đến núi Quật-quật-tra-bàn-đà. Người dân địa phương gọi núi ấy là Kê Túc, hoặc núi Quật-lô-đá-bà" (Đại Chính tạng 51, kinh số 2087, [0919b24], bản điện tử). Sở dĩ núi mang tên ấy vì có ba ngọn núi hình dáng như chân gà nên được gọi là Kê Túc Sơn hay Kê Phong.

Tương truyền, Kê Phong là chỗ ẩn thân của Sơ Tổ Ma Ha Ca Diếp. Cảnh đức truyền đăng lục, quyển 1 (Đại chính tạng 51, kinh số 2076, [0206b05], bản điện tử), Ngũ đăng toàn thư, quyển 1 (Tục tạng chữ Vạn 81, kinh số 1571, [0405c21], bản điện tử) ghi: "Nói xong kệ, Ngài bèn cầm Tăng già lê vào núi Kê Túc". Đó là bài kệ truyền pháp cho Nhị Tổ A Nan, diễn ra ngay sau khi kết thúc đại hội kiết tập kinh điển lần thứ nhất tại thành Vương Xá, trong hang Pippala (Thất diệp). Bài kệ đó là:

Pháp pháp bổn lai pháp

Vô pháp vô phi pháp

Hà ư nhất pháp trung

Hữu pháp hữu bất pháp.

Tạm dịch:

Vạn pháp xưa nay vậy

Chẳng có cũng chẳng không

Vì sao trong pháp ấy

Lại phân biệt có, không?

Nói xong bài kệ ấy, Tôn giả Ma Ha Ca Diếp cầm y bát của ba đời chư Phật đi vào núi Kê Túc. Từ đó, nhân vật lịch sử đại Đầu đà Ca Diếp hiện hữu trong lòng người Phật tử như một nhân vật huyền thoại. Người ta nói rằng, Ngài nhập diệt trong núi ấy. Nhưng cũng có người tin rằng, Ngài chỉ vào đó ẩn thân để chờ Đức Di Lặc ra đời, nhằm hoàn thành sứ mạng cao cả của ba đời chư Phật giao phó, là trao y bát cho vị Phật tương lai. Rất nhiều truyền thuyết kể rằng đã có người tận mắt nhìn thấy Tôn giả mình hạc xương mai chống gậy lướt gió dạo chơi trong núi! Hơn thế nữa, có người còn được Tôn giả khai thị. Chẳng ai phủ định vấn đề ấy, vì ai cũng tin rằng trong cõi mênh mông hư thực này, không có chuyện gì là không xảy ra. Người ta tin chắc rằng, chuyện Tôn giả vào núi là có thực. Vì vậy, để tỏ lòng tôn kính, triều đại nhà Đường đã gọi núi ấy là Tôn Túc. Chưa hết, người dân Trung Quốc còn "đem" luôn ngọn núi ấy về xứ mình. Đó là ngọn núi thuộc huyện Tân Xuyên, tỉnh Vân Nam, nằm cách trung tâm huyện hơn 50km về phía Tây Bắc. Núi non nhấp nhô giống như 9 cánh hoa sen, nên gọi là "cửu trùng nham sơn". Đỉnh bằng hướng về Nam, 3 hướng còn lại mỗi hướng đều có một nhánh núi giống như bàn chân gà các ngón toẻ ra nên gọi là Kê Túc sơn. Trên đỉnh núi có "Ca Diếp thạch môn động thiên", tương truyền là nơi Ma Ha Ca Diếp giữ gìn y bát của Phật để chờ Đức Phật Di Lặc, nên núi này cũng được xem là đạo tràng của Tổ Ma Ha Ca Diếp, là trung tâm Phật giáo Vân Nam nên chư Tăng tụ tập rất đông. Thời Tam Quốc có dựng am nhỏ, đến đời Đường mở rộng thêm. Lúc hưng thịnh có hơn trăm ngôi tự viện lớn nhỏ, trong ấy có năm ngôi lớn nhất là Thạch Tông, Tất Đàn, Đại Giác, Hoa Nghiêm và Truyền Y. Ngoài ra các chùa khác như Tịch Quang, Chúc Thánh, cũng khá quy mô (Phật Quang tự điển).

Cho dù Kê Túc ở tận miền Trung Ấn Độ hay đã "dời" về Trung Hoa, thì đối với lịch sử Phật giáo, nó vẫn là ngọn "Kê phong tục diệm", truyền thừa ngọn đèn Thiền, khởi đầu là Ca Diếp, cho đến Đạt Ma. Rồi từ Đạt Ma đến Huệ Năng. Rừng Thiền từ Huệ Năng trở đi là một minh chứng hùng hồn cho sự truyền thừa bắt đầu từ ngọn Kê Túc ấy. Ngũ đăng hội nguyên, quyển 18, Tuyền Châu Nam Phong Vĩnh Trình thiền sư ghi: "Bắt đầu từ Ca Diếp, Thiếu Thất để lại tiếng thơm, trải khắp đám mây từ bi, mở rộng mặt trời trí tuệ". [thỉ tự kê phong tục diệm, thiếu thất lưu phương, đại bố từ vân, hoằng khai tuệ nhật] (Tục tạng chữ Vạn 80, số 1565, [0370a18], bản điện tử).

Quả vậy, Kê Túc đã nở ra 28 con "gà", mà con "gà" thứ hai mươi tám lại là con "gà vàng" (Kim kê). Cảnh đức truyền đăng lục, quyển 6, Hoài Nhượng thiền sư, đời thứ nhất: "Tây thiên Bát Nhã Đa La, ghi về Đạt Ma rằng: ‘Chấn Đán tuy rộng, nhưng không có con đường nào khác, phải đi dưới chân con cháu. Gà vàng nhỏ xuống một hạt thóc, cúng dường La hán Tăng mười phương". (Đại chính tạng 51, Sử truyện bộ 3, kinh số 2076, [0245c23], bản điện tử). Chấn Đán chính là Trung Hoa. Tổ Bát Nhã Đa La đã tiên liệu, sau này con "gà vàng" Đạt Ma mang hạt thóc từ ngọn Kê Phong sang Trung Hoa, tuy đất rộng mà chẳng có lối đi, phải quay mặt diện bích suốt chín năm trời! Vậy mà hạt thóc ấy không hề hư hao, lại còn sinh sôi nảy nở, đơm bông cúng dường mười phương La hán Tăng không hết. Học trò của Lục Tổ Huệ Năng có hai thiền sư là Nam Nhạc và Thanh Nguyên. Từ Nam Nhạc lại có Mã Tổ ở Giang Tây. Từ Thanh Nguyên lại có Thạch Đầu ở Hồ Nam. Nhờ hai sư này, thiền pháp tràn đầy thiên hạ. Đó là con cháu của Ngài sơ tổ Đạt Ma. Và gọi đó là con gà Tây Thiên ngậm tới một hạt thóc cúng dường La hán Tăng mười phương.

Từ "Gà vàng" vốn được lấy từ truyền thuyết "Kim kê tinh", một ngôi sao ở trên trời, sau này nó biến thành thuật ngữ nhà thiền. Tương truyền, mỗi khi con gà này ở trên thiên đình báo sáng, thì những con gà ở hạ giới cũng gáy theo. Tổ đình sự uyển, quyển 5 (Tục tạng chữ Vạn 113, 67 trên), ghi: "Nhân gian vốn chẳng có từ gà vàng, vì đó là một loài gà ở trên trời! Mỗi khi gà vàng trên trời báo sáng, thì mấy chú gà dưới nhân gian cũng gáy theo" (Phật Quang tự điển).

Chẳng biết con "gà vàng" trên thượng giới còn nhớ báo thức hay không, nhưng trong rừng Thiền, từ khi con "gà vàng" mang theo hạt thóc từ đỉnh Kê Phong sang Đông Độ, không biết bao nhiêu lần trong rừng Thiền ấy đã cất tiếng gáy vang, chấn động cả thiên giới!

Hỏi: Không tu giới định tuệ, làm sao thành Phật?

Đáp: Gà vàng chuyên báo thức. (Đại chính tạng 51, kinh số 2076, Sử truyện bộ 3, Cảnh đức truyền đăng lục, q.13, [0302b02])

Hỏi: Lúc gà vàng chưa gáy thì như thế nào?

Đáp: Chẳng nghe âm thanh gì cả.

Hỏi: Sau khi gà gáy thì sao?

Đáp: Ai cũng biết giờ. (Đại Chính tạng 51, kinh số 2076, Sử truyện bộ 3, Truyền đăng lục q.15, [0319a02])

Thật là:

Từ đỉnh Kê Phong

Gà vàng ngậm thóc

Nhảy vào phương Đông

Đơm hoa "ngũ diệp".

 

 

Người lắng nghe mình Kể Chuyện Dòng sông. ^

NSƯT Bạch Tuyết

Đành phải mượn tạm câu nói của người xưa "Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ" để lý giải cho sự ra đời của vở cải lương Câu chuyện dòng sông dự kiến sẽ được HTV phát sóng vào đầu năm 2005. Bởi ngay cả khi nhạc sĩ Kiều Tấn – Trưởng phòng Văn nghệ của HTV thông báo Ban Giám đốc Đài đã duyệt kịch bản và lên kế hoạch dàn dựng thì tôi vẫn còn ngờ ngợ. Ngay cả những ngày cặm cụi sửa tới sửa lui kịch bản rồi bước vào phòng thu tiếng, tôi vẫn hồi hộp. Nhưng khi cùng hơn 30 anh em trong đoàn làm phim cặm cụi, lỉnh kỉnh nào máy móc, đạo cụ rời Sài Gòn lên thành phố sương mù Đà Lạt tôi mới vỡ lẽ ra cùng Câu chuyện dòng sông.

Thế là từ chiếc nôi của triết học phương Tây – nước Đức, Hermann Hesse đã băng qua phương Đông để tìm lấy cho mình một "câu chuyện" về ngọn nguồn của triết lý nhân sinh. Thân phận con người – một đề tài quen thuộc của các nhà tư tưởng – văn học phương Tây đã được H.Hesse tiếp tục khám phá nhưng đến ông đã được soi chiếu dưới lăng kính của triết lý Phật giáo với thái độ đầy phản tỉnh của một người theo tư duy Trung đạo. Một tiếng OM vang lên trong H.Hesse cũng có nghĩa là khi sự hoàn thiện của nó được ông đặt ngang bằng với tính Nhất thể của cái Toàn thể như chính H.Hesse đã ghi lại trong tập nhật ký ngày 17-2-1921 sau khi từ Ấn Độ trở về: "Sự trở về của mỗi linh hồn cá thể (Tiểu ngã) với linh hồn toàn thể (Đại ngã), sự trở về với Đấng Tuyệt đối".

Câu chuyện về lương tri của con người – gọi tắt là Phật tánh ấy đã theo đuổi cả một đời văn nghiệp của H.Hesse và cũng chính nó đưa ông trở thành nhà văn nhận giải Nobel văn chương năm 1947.

Vâng, một tác phẩm văn học, tiêu biểu cho một nhà văn đoạt giải Nobel được đưa lên sân khấu cải lương – điều đó hẳn phải gọi là mạo hiểm, phiêu lưu như chính "bản chất" của người nghệ sĩ mà đạo diễn Hồng Phúc và tôi đã từng lao vào Diễn kịch một mình vào năm 1992. Nhưng lần này, Hồng Phúc chỉ góp mặt như một đồng tác giả rồi anh bặt tăm. Tôi nghiền ngẫm H.Hesse, và cứ thế, dòng sông ấy trôi cùng Tất Đạt, Thiện Hữu, Vệ Sử đi vào âm nhạc cải lương từ lúc nào chẳng rõ. Một vở ca kịch cải lương "phá vỡ" về cốt truyện, lấy sự chuyển biến tâm trạng của nhân vật làm mạch phát triển cho toàn bộ không – thời gian vở diễn. Những đối thoại không phải chỉ để hỏi – đáp mà có khi người hỏi tự trả lời mình; người đáp cũng nhằm để tiếp tục hỏi thêm. Cứ thế, "câu chuyện" về hành trình sống và tìm cho ra cái lẽ sống chân thật tự nơi mỗi nhân vật cũng chính là ba giai đoạn trong một con người.

Một Tất Đạt mang dáng dấp của chính H.Hesse luôn phản tỉnh; một Thiện Hữu đầy khổ hạnh và tư duy; một Vệ Sử là điểm khai phá cuối cùng để đạt đến cứu cánh cho đời, cho mình. Không ai tranh chấp để giành cái vị trí "nhân vật trung tâm" về phía mình, vì thế, cả NS tài danh Minh Vương, nhạc sĩ tài hoa Kiều Tấn và tôi đều uyển chuyển để đi vào ba nhân vật của mình như một lần được tắm mình trong dòng sông hiền hòa, nhân hậu đầy bao dung của đạo lý làm người hơn là một cuộc trình diễn.

Đạo diễn truyền hình Lê Thụy – trước giờ "chỉ đạo" bấm máy cảnh quay đầu tiên ở Suối Vàng – Đà Lạt thốt lên: "Lâu lắm rồi tôi mới đọc một lèo một kịch bản cải lương như thế này!". Cái vẻ ngạo nghễ nhưng rất tài hoa ở anh lại "hút" Câu chuyện dòng sông đến lạ, anh bảo: "Thời buổi này, mà dám chuyển thể, biểu diễn, dàn dựng một vở cải lương như thế này, e có người cho rằng chúng mình... không bình thường. Nhưng tôi chán lắm rồi những vở cải lương cứ mải mê thương vay khóc mướn. Tôi thích được đi trong một hoang mạc nắng rát như thế này, đầy thách đố và thi vị". Nhạc sĩ Kiều Tấn – lần đầu tiên làm... diễn viên bộc bạch: "Bác sĩ giới hạn sức làm việc của tôi dữ lắm nhưng tôi yêu Thiện Hữu quá nên cứ ca, cứ diễn". Họa sĩ Nguyễn Thị Minh Hải – người được mệnh danh là "phù thủy" của phim trường HTV gật gù: "Đây là vở cải lương khó làm nhất và cũng hấp dẫn tôi nhất!".

Cũng lần đầu tiên, một vở cải lương làm hao tốn nhiều kinh phí của Đài Truyền hình, mất hết 4 ngày cho quay ngoại cảnh cộng thêm nhiều thời gian cho kỹ thuật xử lý 3D. Từ góc độ của người chuyển thể và nghệ sĩ biểu diễn, tôi vui mừng, hồi hộp theo từng con sóng của Câu chuyện dòng sông. Những buổi dầm mưa để quay, nhìn hai "ông sư" Minh Vương và Kiều Tấn đang mải mê diễn xuất, tôi cứ ngỡ như mình đang đứng trên sàn diễn chứ không phải ở phim trường. Những phần cơm hộp, bịch nước trà đá chuyền tay nhau ăn vội vã giữa trưa, những đoàn xe băng băng qua đèo, vào rừng, xuống hồ, chèo chống nhau vào sâu trong khu vực hồ Tuyền Lâm... Ai đâu biết, để có một Câu chuyện dòng sông chỉ dài chừng 90 phút phát sóng với 3 nhân vật nhưng đó là công trình của trên 30 con người và hàng chục, hàng trăm giờ lao động cật lực.

Tự ngày xưa, Tản Đà đã viết: "Nước đi ra biển lại mưa về nguồn", đến ngày nay, Bùi Giáng viết tiếp: "Dòng sông chảy ai người xin níu lại...?".

Không ai có thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông cũng như không ai níu lại được một đời người. Chỉ có lương tri con người – cái tánh giác, sự lay tỉnh trước lẽ phải đường ngay muôn đời và diệu dụng ấy làm nên những kỳ tích vừa thiêng liêng vừa cao đẹp tuyệt vời trong muôn ngàn thế giới – đó cũng chính là dòng sông tâm thức – dòng sông vượt thời gian, không gian mà H.Hesse đã và đang gởi gắm cho nhân sinh. Nghệ thuật cải lương dân tộc khởi nguồn từ "miền sông nước dân ca" lênh đênh câu hò điệu lý, nay tiếp tục làm con đò nghệ thuật bềnh bồng trên dòng sông bất tận ấy... Sông vẫn đi suốt cuộc hành trình. Người lắng nghe mình kể chuyện dòng sông...

 

Miệt mài thơm nẻo sen ^

Hạnh Đạt

Khi mà những giọt lệ kêu thương vẫn tuôn trào giữa trùng dương sóng gió của kiếp tử sinh, chân thì hơ hải bỏng rát rách nhàu trên dặm trường sa mạc mênh mang chẳng biết đâu là chốn trở về, con người buồn bã thổn thức:

Sầu lên núi tiếp mây.

Chập chùng, chập chùng cứ bủa vây lan tỏa, biết mấy cho vừa. Ngửa nghiêng lảo đảo làm quên nhưng vẫn còn đó, rượu vào có cạn?

Say,

Say, không còn biết chi đời,

Đất trời nghiêng ngửa

Mà thành sầu chưa sụp đổ em ơi!

(Vũ Hoàng Chương)

Và từ đó nỗi sống là nỗi chết. Khát vọng là tuyệt vọng.

Để rồi, ý thức bừng cháy. Phải vượt dòng đau khổ:

Có một thiền sư vẫy gọi ta

Từ đâu thăm thẳm giữa sa bà

Hồi chuông giác ngộ lay trong máu

Rền khắp châu thân ta réo ta.

(Từ Nguyên Ủy)

Như Thắng Man, bỗng khổng lồ Phù Đổng, một lần đối diện tôn nhan Phật, đã phát khởi Bồ đề tâm mãnh liệt; quyết chí đập tan xích xiềng sinh tử, tiến lên trên con đường siêu thoát giác ngộ chơn thường. Phu nhân cảm thông sâu sắc tự tình chơi vơi, khốn đốn nghiệt ngã của mình lẫn tất cả bất cứ ai còn nổi chìm điêu linh vì vô minh che đậy nên dấn thân vào đại lộ Bồ tát với sức mạnh vô biên của trái tim người Mẹ. Đó là nguyên lý của Thắng Man, của tình yêu, của trái tim Bồ tát trong bản kinh về một người nữ Phật tử dũng cường tự xác nhận mình là đứa con chân thật của Như Lai, tiếp nối sự nghiệp Như Lai. Đó cũng là trường hợp đồng bệnh tương liên đối với mỗi một tâm hồn chúng sinh chúng ta đã từng đau khổ, an ủy nhau, thắp sáng nhau, nắm chặt tay nhau mà đi, mà cùng tới bến bờ giải thoát. Tiếng rống sư tử của Thắng Man là tiếng rống Đại từ, một nội lực vô song để từ đó đột phá vào trái tim tuệ giác. Khác nào:

Bi nguyện Như Lai rộng bằng pháp giới, vì thấy chúng sinh có các khổ, mới phát tâm tu thành Phật, để độ chúng sinh, như cha mẹ làm giàu là vì muốn con khỏi khổ, vì lo cơm áo cho con. Thế nên bi nguyện rộng lớn, không khi nào nhàm chán độ sinh, độ khổ, vô lượng chúng sinh, phát nguyện tu mười món đại nguyện vô tận. Biết chúng sinh chưa ngộ tự tâm, bị khổ ép buộc, người có lòng đại bi, làm sao xả được chúng sinh khổ.

(Lăng Già)

Vì vậy, bắt đầu lộ trình Quy, Giới, Nguyện và Hành; chấm dứt ở cứu cánh Nhất thừa đạo, tức Phật đạo. Thắng Man đề nghị một nhân cách thực tiễn hành động căn cứ trên Pháp thân Như Lai tạng. Từ gốc mà tu, từ tâm mà độ. Chánh tín thâm thiết. Tợ ngài Đại Mai sau trước một bề giữ vững lòng tin. Khi Tề An chợt thấy tông tích, Mã Tổ bèn sai một vị Tăng thăm dò. Tăng hỏi sư: Hòa thượng gặp Mã Tổ đã được cái gì về ở núi này? Sư đáp: Mã Tổ nói với tôi "Tức tâm là Phật", tôi bèn đến ở núi này. Gần đây Mã Tổ lại nói "Phi tâm phi Phật". Ông già mê hoặc người chưa có ngày xong, mặc ông "Phi tâm phi Phật", tôi chỉ biết "Tức tâm là Phật". Mã Tổ khẳng định trái Mai đã chín, ngụ rằng Pháp Thường thông tuệ. Đại Trí Độ nói: "Phật pháp như biển cả, có thể vào bằng tín, có thể vượt qua bằng trí..." Thế là QUY và Tự quy mở màn cho sự gieo xuống hạt giống Bồ đề với nhiệt thành ý chí thọ trì Bồ tát GIỚI bất tư nghì không cùng tận, phát tác Bồ tát NGUYÊåN vĩ đại cao xa "Con người chân thật này muốn làm con thuyền đại pháp đưa chúng sinh vượt qua đại dương. Với những kẻ chìm ngập trong bùn lầy của kiến chấp, người này muốn làm chiếc cầu đại pháp. Với những kẻ tối tăm ngu dốt, người này là ngọn đèn đại trí. Với những kẻ lạc lối trong sa mạc sinh tử, người này muốn làm kẻ chỉ bày lối đi của bậc Thánh...", nguyện cúng dường Phật, nguyện thọ trì Chánh pháp, nguyện nhiếp pháp Thượng thủ, tăng trưởng chúng sinh tâm hành, giáo hóa chúng sinh, rõ tường thế giới, tịnh Phật quốc độ... nguyện thành Bồ đề. Thực HÀNH tứ nhiếp pháp, lục ba la mật... chỉ vì một mục đích tối hậu là đem lại hạnh phúc đích thực cho chúng sinh.

Vậy đâu là nền tảng của tất cả hạnh phúc? NHẤT THỪA.

Tùy theo xu hướng khác biệt của chúng sinh, Đức Phật không chỉ giới thiệu một thừa mà là nhiều thừa khác nhau. Nhưng rồi cuối cùng chỉ còn thừa duy nhất là Nhất thừa trong kinh Thắng Man. Đây là cảnh giới chứng ngộ cứu cánh. Bồ đề tâm là chánh nhân, Nhất thừa là chánh quả trong quá trình Bồ tát đạo. Quá trình Bồ tát đạo cũng là quá trình săn đuổi hạnh phúc chân thật của tất cả mọi loài và của chính mình. Nhất thừa không chỉ dành riêng cho căn cơ ưu việt, chung với bất cứ ai trong nỗ lực kiên trì thể hiện trọn vẹn ý nghĩa sinh tồn của mình trong cuộc đời này.

Có đoàn người đi về phía trước

Áo vàng bay lấp lánh ánh ngời

Có đoàn người chưa bao giờ

lui bước

Bình thản băng qua ghềnh thác

núi đồi.

 

Có đoàn người từ chuyến

hành hương không dứt

Nối đời mình với tất cả con tim

Nối đời mình với tất cả bình sinh

Vào nhịp thở đã vươn thành

ngọn lửa.

 

Ngọn lửa ngút ngút cao lời

hiệu triệu

Của Như Lai Từ Phụ muôn đời

Của con đường cách mệnh

thiên thu

 

Một lần để không bao giờ còn khổ.

Một lần để sắt son lòng như thạch

Nở hồng hoa tươi thắm mắt

sen xanh

Thế giới hàm linh cha mẹ em anh

Liền núm ruột chẳng rẽ bờ

ngăn cách.

Và Bồ tát không phải ai đó xa xôi, vời vợi. Là người bạn quanh ta, gần ta. Là gương mặt thương đau rạng rỡ tia nhìn về tình yêu và tuệ giác. Là bàn tay trong những bàn tay. Tiếng nói. Nụ cười. Tấm lòng rộng mở.

Và này em,

Đến lượt chúng ta, những đứa con cùng tử quê hèn bỗng một ngày nhận ra giống nòi mình, thì chú sư tử trong bầy cừu gầm lên tiếng rống đầu sang sảng, dẫu âm ba chỉ thét nổi một vừng trăng non kiều mộng.

Em ơi đừng quên nhé

Ngọn lửa hồng trong tim

Đường ta đi lối mẹ

Chốn trở về quê sim.

 

Ngày mai sao sẽ mọc

Sá gì đêm không trăng

Một nụ hoa dường khóc

Âng ẩng sương long lanh.

 

Hoa đẹp, giọt sương đẹp

Nỗi đời là nỗi xuân

Bước đăng trình mộng khép

Người chiến sĩ ra quân.

 

Em ơi lòng biêng biếc

Tinh mơ mặt trời hồng

Tàu xe lăn Pháp chuyển

Áo nhật bình hương trong.

 

Tuổi xanh vời ngàn năm

Hài nhi bạc trán rằm

Bao giờ tàn son sắt

Chuyện tơ tằm tâm đăng.

 

Gió, gió gió cuộn lên

Bụi vấn vương vai gầy

Mưa tháng ngày gót chải

Miệt mài thơm nẻo sen.

 

Còi như tù và rúc

Chuông đổ nhịp chia xa

Đất ngã mình cho lá

Em ngã mình cho hoa.

 

Bồ tát Quán Thế Âm

Quán Thế Âm Bồ tát

Nghe kêu thương rào rạt

Lộng tà bay áo bay.

 

Giờ lên đường đã điểm

Em ơi dậy kiếm thiền

Một lần vung sáng loáng

Muôn kiếp mãi thần quang.

 

Em ơi đừng quên nhé

Ngọn lửa hồng trong tim

Đường ta đi lối mẹ

Chốn trở về quê sim.

 

Mình lên đường em nhé

Mình lên đường em nhé.

 

Xuân đến không ngờ ^

Hạnh Chiếu

Vừa rồi tôi có đọc đâu đó trong một tác phẩm của nhà văn ĐHN có đoạn này: Không có cái gọi là già, bởi vì khi 20 đến 30 tuổi người ta còn quá trẻ, 30 đến 40 tuổi đang trẻ, 40 đến 50 tuổi hãy còn trẻ, 50 đến 60 tuổi trẻ không ngờ, 60 đến 70 tuổi trẻ lạ lùng và trên 70 là… trẻ vĩnh viễn. Tôi thích. Thích lắm. Cả một đời xuân.

Không biết cái nhìn của tác giả về con người như thế nào khi viết lên những dòng trẻ ấy. Còn tôi, dĩ nhiên tôi thích theo cái nhìn của tôi. Tội gì mà mình không trẻ chứ, khi mà già trẻ đều là mộng như nhau, đều là một chút bụi hồng đùa vui trong sóng nắng ban mai. Bỏ qua những đường nét ngoại hình, còn lại thì ai muốn già cứ già, ai muốn trẻ cứ trẻ, chuyện tâm hồn mà. Và thật ra con người sống với nhau cần cái tâm nhiều hơn cần cái hình, cho nên một tứ đại sắc sắc không không có ngại gì đâu. Mặc nó biến chuyển ra sao, nhận ra tâm ta không đổi là được rồi.

Xin cảm ơn những tâm hồn trẻ trung đã làm cho cuộc đời này bớt cằn cỗi. Chỉ là cái xuân thế gian trong một ý niệm đẹp thôi mà con người đã tươi mát hơn, nói gì đến những mùa xuân không năm tháng, không ý niệm, không đến đi. Ai có thể ghé mắt vào, một chút thưởng lãm!

Xưa Thiền Lão Thiền sư ở núi Từ Sơn, một hôm có vua Lý Thái Tông đến viếng. Vua hỏi Sư:

- Hòa thượng trụ núi này đã được bao lâu?

Sư đáp: Đản tri kim nhật nguyệt/Thùy thức cựu xuân thu.

Dịch: Chỉ biết ngày tháng này/ Ai rành xuân thu trước.

Vua hỏi:

- Hàng ngày Hòa thượng làm gì?

Sư đáp: Thúy trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh/Bạch vân minh nguyệt lộ toàn chân.

Dịch: Trúc biếc hoa vàng đâu cảnh khác/Trăng trong mây bạc hiện toàn chân.

Vua lại hỏi:

- Có ý chỉ gì?

Sư đáp:

- Lời nhiều, sau vô ích.

Vua hoát nhiên lãnh hội.

Thiền sư không muốn nói, kẻ phàm phu làm sao dám giỡn ngươi. Thôi, mình nói chuyện khác. Chuyện nào nói được thì nói.

Chúng ta có một thói quen, chỉ cần ai đó gợi lại một chút năm tháng và đặc biệt là những năm tháng nặng lòng, kỷ niệm sẽ tràn về như lũ lụt. Chỉ cần một lời nói dịu dàng đặt xuống lòng ta: - Lúc này bạn ra sao, tới đây hồi nào… Là mình có thể òa vào dòng ký ức, nước mắt không cần chọn lựa thời gian và đối tượng, cứ tuôn ào ào một cách vô điều kiện: - Tôi khổ quá bạn ơi. Nhớ lại năm nào… Thế là tình trạng còn nguy ngập hơn cả những cơn bão giật trên cấp số báo động. Mà thật ra tất cả sự việc đã trôi qua hết rồi. Bây giờ trước mắt chỉ có bạn và ta ngồi bên nhau trong một khung cảnh yên ả. Chuyện này Đức Phật có nói, chúng sanh tự chìm đắm trong sinh tử khổ đau thôi, chớ chẳng có ai nhận mình xuống đó. Cho nên muốn không chìm đắm nữa thì tự thôi, cũng chẳng ai cản mình ngồi lên. Chúng ta sao cứ bao dung đón nhận những cái khổ đã qua đi và những cái khổ chưa biết có tới không, để rồi tự thương cảm cho đời mình thăm thẳm dòng trôi. Kỳ đặc đến lạ thường!

Thiền sư thì bình thường hơn nhiều, các ngài không hơi đâu mà nhớ nghĩ lung tung, vẩn vơ phí sức "Chỉ biết ngày tháng này, ai rành xuân thu trước". Mà như vậy mới chính xác chứ! Bây giờ thì biết bây giờ. Chính xác lắm. Ba nghiệp đều thanh tịnh, đều như thật, không nói thêm nói bớt, không thiếu không thừa. Mình thanh tịnh làm cho mọi thứ chung quanh cũng thanh tịnh. Nên "Trúc biếc hoa vàng đâu cảnh khác, trăng trong mây bạc hiện toàn chân". Trúc biếc hoa vàng cũng là đây, trăng trong mây bạc cũng là đây. Thiền sư không rớt một nhịp nào trong thực tại hiện tiền, cho nên quá khứ không chen vào, vị lại không trỗi dậy, dòng sanh tử chấm dứt, khổ đau có đâu còn. Ái chà! Tôi lại phạm môn quy nữa rồi. Thôi, không nói chuyện này nữa.

Chỉ mong sao, hôm nay vừa mở mắt bước xuống giường, chúng ta thấy đôi dép và cứ tự nhiên xỏ vào. Lòng không nghĩ ngợi lung tung, không viển vông mộng tưởng về một ngày mai, về một mùa Xuân sắp tới hay đã qua đi. Cứ tùy duyên nhậm vận. Chừng đó có thể ta không cần nhớ đến tuổi tác của mình mà vẫn tràn đầy sinh lực, tràn đầy sức sống. Bấy giờ muốn làm gì mà chẳng được, làm gì mà chẳng thanh tân, bởi vì trong ta có cả một trời xuân… Xuân đến không ngờ.

Rất mong là như vậy.

 

Ngày Xuân nói về lòng từ của "Bà" Tài thần. ^

Lý Lược Tam

 

Tết năm nào cũng vậy, cái điệp khúc "cung hỷ phát tài" là điều không thể thiếu trong lời chúc Tết. Ở đây chúng ta không thể không nghĩ đến ông thần "Tài". Tài thần, ông là ai? Theo tín ngưỡng dân gian, ông là một vị thần chuyên ban phát tài lộc cho bá tánh. Nghe nói từ xưa lắm rồi, lúc ấy Tài thần chỉ người giàu có tiền mới cung phụng (thờ) ông, người nghèo cho dù có cung phụng ông ta cũng không linh hiển được, bởi vì anh nhà nghèo vẫn là người nghèo! Cũng từ đó, trong dân gian có lưu truyền câu chuyện về Tài thần để (ly dị) vợ, bắt đầu từ nơi thờ tự vị thần này. Thuở ấy, các am miếu Tài thần bất luận tranh thờ hoặc tượng đều có kèm vị Tài thần nương nương (bà) thật mỹ mạo ngồi kề bên Tài thần "da" (ông), ngày nay chúng ta không còn thấy lối phối tự này nữa. Nguyên do cũng từ truyền thuyết trên (Tài thần để vợ). Tại sao Tài thần "da" bỏ vợ? Chuyện là như vầy: Bắt đầu từ một ngày cuối chạp năm nọ, có một người ăn mày, đi xin ăn suốt buổi mà không có ai cho, vì những ngày giáp Tết mọi người mọi nhà đều rất bận rộn lo dọn dẹp nhà cửa để tống cựu nghinh tân, còn thời giờ đâu nghĩ tới người ăn mày. Người ăn mày lòng buồn rười rượi, lủi thủi bước đi, bỗng nhìn thấy am Tài thần bên đường, anh ta liền bước vào am, một tia hy vọng nhỏ nhoi lóe lên trong đầu anh ta, vội vàng quỳ xuống trước bệ thờ hai ông bà Tài thần, miệng khấn vái đầu cúi lạy liên hồi, cầu xin Tài thần "da", nương (ông, bà), nhủ lòng đoái thương kẻ bần cùng mà ban cho ít đồng tiền để độ qua những ngày hết Tết đến của cái năm cùng tháng tận này. Tài thần "da" nghe thấy tiếng người khấn vái, từ từ nhướng một mắt nhìn xuống, thấy trước bệ thờ một tên ăn mày rách rưới đầu bù tóc rối dơ dáy, ông ta tự hỏi: cùng khổ đến mức một cây hương cũng không có để thắp cho ta, mà lại đến cầu ta ban tài lộc, thật không thể hiểu nổi trong thiên hạ sao lại có hạng người nghèo khó đến như anh ta vậy? Từ trước tới nay những kẻ đến đây đều đầy đủ nhang đèn bánh trái, rượu thịt, trà, nước, thậm chí còn đốt cho ta cả giấy tiền vàng bạc để tiêu xài, liệu ta ban cho gã cùng khổ này mấy đồng điếu mà đủ được sao? Rõ là vớ vẩn...

Nghĩ vậy, Tài thần "da" nhắm nghiền mắt lại tiếp tục kéo dài giấc mộng. Nhưng còn người ăn mày thì nghĩ ngược lại: chức năng của thần Tài là cứu tế người nghèo khó, còn bọn nhà giàu dư ăn dư để có cần gì phải đến cầu cạnh Tài thần... Anh ta tiếp tục miệng khẩn cầu, đầu cúi lạy không ngừng, còn thần Tài thì đã chìm sâu vào giấc ngủ ngáy khò khò. Tài thần nương nương ngồi bên thấy tình cảnh đó không chịu nổi, bèn đánh thức Tài thần "da" phát chút thiện tâm hỷ xả cho người ăn mày đáng thương qua cơn đói khổ, nhưng ông vẫn bất động, ngủ say như chết. Tình thế thật khó xử, Tài thần nương tuy là phu nhân của Tài thần "da", nhưng mọi quyền thu chi tiền bạc đều trong tay phu quân nắm giữ, ông chưa đồng ý thì bà không chi xuất được. Tiếng khấn vái như rên siết của người ăn mày càng lúc dồn dập khẩn thiết hơn, thôi thúc lòng bà. Động lòng trắc ẩn, không cầm lòng được nữa, Tài thần nương nương chỉ còn biết tự cởi đôi bông tai cưới của bà liệng xuống bệ thờ cho người ăn mày đáng thương đang vái van cúi lạy. Bỗng người ăn mày cảm thấy như có vật gì từ trên khảm thờ vừa ném xuống, anh ta quay đầu nhìn, thấy trên chiếu lạy có đôi bông tai vàng bọc hai viên hồng ngọc lấp lánh chớp lia theo ánh mắt long lanh của anh, biết ngay là Tài thần cảm ứng ban cho, không chần chờ liền chộp lấy đôi bông, dập đầu lớn tiếng khấu tạ Tài thần anh linh quảng đại, tay cầm đôi bông vàng tòn teng hai hột hồng ngọc giơ lên nhẹ bước thối lui ra cửa. Tài thần "da" giật mình mở hai mắt nhìn thấy tên ăn mày cầm đôi bông tai bước nhanh ra khỏi cửa, như chợt nhớ ra, ông nhìn sang Tài thần nương nương thấy đôi bông tai sính vật mà ngày trước ông cưới hỏi bà không còn nữa, biết bà đã lột cho tên ăn mày. Tài thần "da" nổi trận lôi đình, quát tháo xua đuổi Tài thần nương nương rời khỏi khảm thờ, Tài thần nương năn nỉ trần tình, khóc lóc van xin hết lời cũng không được, bà đành lột áo mão để lại trên khảm thờ lặng lẽ ra đi. Từ đó về sau, mấy trăm năm nay trên khảm thờ thần Tài tại các am miếu chỉ còn trơ trọi một mình Tài thần "da" chễm chệ trên ngai, còn bà Tài thần không biết đã đi đâu mất biệt từ đó, và cũng từ đó không hề có một người nghèo nào đến cầu xin Tài thần mà phát tài được. Sao kỳ vậy? Rất may gần đây chúng tôi đọc được một đôi câu đối dán trước cửa một cái miếu Tài thần để trả lời vấn nạn này, câu đối như sau:

- Chỉ hữu kỹ văn tiền, nhĩ dã cầu, tha dã cầu, cấp thùy thị hảo?

- Bất tác bán điểm sự, triêu lai bái, mộ lai bái, giao ngã vi nan.

Việt dịch:

- Chỉ có mấy đồng xu, anh cũng xin, hắn cũng xin, cấp cho ai mới phải?

- Không làm một việc gì, sớm đến lạy, chiều đến lạy, làm khó cho ta quá.

Năm mới nói chuyện xưa, có thể câu chuyện quá vô duyên lạt lẽo, nhưng không sao; cùng với không khí đầu Xuân, bên chiếc ấm trà chu sa dán trái lê hiệu Mạnh Thần, với những chiếc chén trà trắng mỏng vỏ trứng, trong đựng một thứ nước đăng đắng màu vàng xanh trà móc câu Thái Nguyên, cùng những miếng mứt gừng, mứt bí cay cay ngọt ngọt trong chiếc quả sơn mài vẽ rong và cá (tảo ngư = dư), chắc cũng phần nào đủ dư vị đậm đà trong buổi Xuân về.

 

Thiền kiếm trong phim "Anh hùng" 

Ẩn Không

Một trong những điểm son nổi bật trong phim "Anh hùng" của đạo diễn Trương Nghệ Mưu đó là kiếm thuật, mà đỉnh cao nghệ thuật đó là một phong cách của thiền, thiền kiếm. Thiền là để tâm chuyên chú vào một đối tượng. Nếu chỉ đơn thuần tập trung 100% vào đối tượng mà mình đang tiếp xúc thì gọi là Thiền chỉ. Có nghĩa là dập tắt mọi sự phân tán vào các đối tượng khác mà chỉ chuyên nhứt vào một mục tiêu. Ví dụ như mục tiêu chuyên chú vào là tách trà thì gọi là thiền trà hay mục tiêu chuyên chú vào là hơi thở thì gọi là thiền thở. Thiền có công năng đem tâm về lại với thân, kết thành một mối gọi là "thân tâm nhứt như". Khi thân tâm đã hòa quyện vào nhau thì năng lượng tự nhiên sẽ phát hiện ra bên ngoài bằng ánh mắt hay lời nói, nụ cười, dáng đi… Nhìn vào cách hành xử của một người thì mình có thể biết được mức độ tỉnh thức của người đó như thế nào. Cũng như khi mình nhìn vào bóng đèn đang sáng trưng hay tivi đang phát sóng rõ nét thì mình biết rằng nguồn điện đang biểu hiện rất mạnh trong căn phòng.

Khi kiếm khách ra chiêu mà có sự phân tâm thì đối phương sẽ nhận ra ngay. Điều này thấy rất rõ trong lúc Phi Tuyết so tài với Vô Danh. Phi Tuyết bị tổn thương sau khi phát hiện ra Tàn Kiếm vì hiểu lầm quan hệ tình cảm của mình với Trường Thiên nên đã đi ngủ với người học trò là Như Nguyệt. Vô Danh thông minh tìm cách làm cho những tay kiếm khách vang danh không thể điều phục tâm mình được nữa thì mới tự tin ra tay. Và Vô Danh đã hạ được Phi Tuyết cũng như Tàn Kiếm một cách không khó khăn gì. Người ta có thể chiến thắng đối phương bằng tài nghệ của mình như tuyệt chiêu kiếm pháp, nhưng thật khó có thể chiến thắng với trận giặc lòng. Dằn lòng trước sự mất mát, sự tổn thương, sự hủy nhục, sự phản bội là một sự thực tập trầy da tróc vảy suốt cả đời người. Không ai dám tự hào về chuyện này. Những kẻ càng chiến thắng với kẻ thù bên ngoài bao nhiêu thì lại càng thất thủ với chính mình bấy nhiêu, vì kẻ thù bên ngoài thì quá dễ nhìn thấy còn giặc trong tâm thì phải tinh tế xoay tìm thường xuyên mới phát hiện ra được.

Cho nên không để cho cơn giận hay sự quá khích xâm chiếm tâm tư, giữ được trạng thái bình ổn là sự thực tập của một tay kiếm giỏi. Bình tĩnh tức là cân bằng được nhịp đập của trái tim. Người vung gươm lúc này chỉ biết có mình và lưỡi gươm thôi, lưỡi gươm đưa tới đâu thì tâm mình đưa tới đó. Người ra chiêu dù đã xác định đối phương rồi nhưng không gửi tâm mình vào cử động của đối phương mà trở về với chính mình. Thu hết thần lực vào thanh gươm. Hợp nhứt với thanh gươm "nhân kiếm hợp nhứt", đây là cảnh giới thứ nhứt của kiếm pháp. Như Nguyệt vì quá căm hận Phi Tuyết đã ra tay giết chết thầy mà cũng là người yêu của mình nên Như Nguyệt đã hoàn toàn mất tự chủ khi lao tới đối phương bằng những đường gươm xáo trộn. Kết quả là Như Nguyệt bị cuốn theo đám lá thu vàng rơi lả tả mà không ngờ có một đường gươm bí hiểm ẩn tàng trong đó. Là một tay kiếm giỏi thì người ta có thể nhìn thấy mưu đồ của đối phương khi phát hiện bất kỳ một hành động nào. Cái đó gọi là Thiền quán. Nhìn sâu vào một đối tượng để thấy bản chất thực của nó. Nhưng muốn nhìn sâu thì phải đảm bảo đủ sự tỉnh táo. Phải thở cho sâu sắc từng hơi vào ra. Phải buông bỏ tất cả những hình ảnh lao xao chung quanh để đưa  tâm về lại với thân. Đó là khả năng nắm lấy chủ quyền của kiếm khách. Khi có chủ quyền rồi thì việc đứng trước một đối thủ cao cường cũng không có gì nao núng. Không thể chiến thắng nhưng cũng không bị thua thảm hại. Tại vì khi mình kiểm soát khít khao từng hơi thở, từng đường gươm của mình thì chung quanh sẽ tạo ra một vùng năng lượng vững chắc mà đối phương dù giỏi đến mấy cũng khó mà tấn công vào được. Chỉ khi nào tâm mình bị hở, bị phân tán theo cảm xúc trong khi giao đấu mà gặp phải đối thủ tinh xảo thì chắc chắn sẽ nhận ra điểm yếu này mà ra tay.

Điều này thấy rất rõ trong trận giao đấu giữa Trường Thiên và Vô Danh. Họ đối diện với nhau cả nửa canh giờ và không ai cử động, chỉ so kiếm trong tâm tưởng. Đây là cảnh giới thứ hai trong kiếm thuật. Chúng ta chẳng phải đã từng có những trận giao đấu bằng tâm tưởng với nhau như vậy trong đời sống hàng ngày sao? Những cú im lặng sấm sét có thể làm cho đối phương đau điếng đến vỡ cả tâm can. Không cần một cử chỉ, một lời nói nào mà đối phương có thể lãnh hội tất cả những tâm tư nguyện vọng của ta, mà có khi còn lãnh hội trọn vẹn hơn khi ta nói ra hay hành động nữa. Bản thân của hành động và ngôn ngữ luôn giới hạn, nó thường không trung thành tuyệt đối với tâm tư. Im lặng mà bao la. Vắng bặt mọi sự nói năng hay cử chỉ là hành động đích thực của thiền. Thiền kiếm là sử dụng kiếm trong sự tập trung cao độ của ý thức, mà sự tập trung ở đây được nuôi dưỡng trong không gian tịch mịch chỉ có tiếng mưa rơi tí tách và tiếng đàn trầm bổng du dương. Tiếng đàn tuy khác với kiếm thuật nhưng vẫn có nhiều điểm tương đồng, trong đó có sự tập trung cao độ là điều thiết yếu. Tiếng đàn là một trợ duyên cho trận đánh thêm màu sắc lung linh và huyền ảo. Tiếng đàn phải réo rắt trầm bổng, phải uyển chuyển tự do để hòa quyện với kiếm thuật trong tâm kiếm khách thì tiếng đàn mới là người bạn cần thiết xuất hiện. Như vậy trong trận đánh có tới ba người. Lão tiên sinh đánh đàn cũng bắt nhịp kịp tâm tư của hai đối thủ, nhưng rủi thay lão đã trượt tâm làm cho dây đàn bị đứt. Chính nhân duyên này làm cho Trường Thiên giựt mình vì định tâm chưa kiên cố nên đã tạo ra một chỗ hở giúp mũi gươm của Vô Danh nhanh như chớp lao tới đâm vào bụng. Trong khoảnh khắc (at the present moment) đó thôi mà Trường Thiên đã không kịp trở tay. Chúng ta có thể thấy sự tinh xảo của đạo diễn Trương Nghệ Mưu một lần nữa qua phim "Thập diện mai phục", khi Lưu bộ đầu tung hết dĩa hạt đậu vào dàn trống vì quá cảm hứng trước những điệu múa uyển chuyển đầy thông minh bắt kịp tâm ý đối phương của cô vũ nữ thì cũng là lúc tâm của chàng bị hở, không còn cẩn trọng phòng thủ như khi thảy ra từng hạt đậu nữa. Tiểu Muội là một tay kiếm giỏi nên chỉ chờ có thế mà tuốt gươm. Tinh tế như Tần Vương là cùng, nhìn hàng nến xao động xiêu xẹo trước mặt đối phương mà nhận ra kẻ đó đang bấn loạn rối trí hay đang có sát khí. Chúng ta đừng tưởng là mình có thể dễ dàng giấu nhẹm trước bất cứ ai điều gì mà mình đã từng làm trong bóng tối. Kẻ sắc sảo tinh tế sẽ phát hiện ra thôi. "Cái đuôi" sẽ bị lòi ra khi chúng ta không đủ sức kiểm soát tâm ý 24/24 giờ.

Cảnh giới thứ ba là cảnh giới cao nhứt của kiếm pháp, tay không kiếm tâm không kiếm. Cả thân lẫn tâm đều không có gươm đao. Mở lòng rộng rãi, bao dung, hòa đồng trong muôn vật vì thấy được sự tồn tại của mình cũng là sự tồn tại của muôn vật. Mình tương tức (inter-being) với vạn vật. Người giỏi kiếm thuật có khả năng nhìn sâu sắc với đối phương thấy họ cũng chính là mình. Nhìn dưới cặp mắt khoa học thì họ có 99,99% gien giống như mình. Nhìn dưới cặp mắt của thiền quán thì thấy họ cũng như mình có đầy đủ lòng thương yêu, bao dung, tha thứ, che chở, hiến tặng, chan hòa như mình. Họ có thể khác với mình về hình thức bên ngoài và chút ít nội dung bên trong vì sự đào tạo của môi trường. Họ có thể là kẻ sát nhân, trộm cướp, dâm dục, bạo động… nhưng trong bản thể họ có sự hiểu biết và thương yêu giống như mình. Sự hư hỏng của họ có một phần trách nhiệm rất lớn của mình. Thành ra kiếm thuật đi tới chỗ không còn thấy người kia là kẻ thù đáng giết nữa thì quả là vị trí xứng đáng để gọi là thiền kiếm. Đỉnh cao của kiếm thuật hay đỉnh cao của mọi hình thức chính trị quân sự đều nhằm chuyển hóa con người hay thay đổi hoàn cảnh thì nó trở thành phương tiện cần thiết, nhưng để phục vụ cho tự ngã bạo động, căm hờn thì nó trở thành một thứ vũ khí vô tình. Khi Tàn Kiếm nói với Vô Danh "Chúng tôi đã cùng luyện thư pháp lấy nguồn cảm hứng cho đường kiếm. Từ đó ngộ ra đường kiếm mới và khi giết được Tần Vương sẽ rút chân ra khỏi chốn binh đao", chứng tỏ Tàn Kiếm đã đạt đến trình độ sử dụng kiếm tự tại như một công cụ chuyển hóa tình trạng, chuyển hóa đối phương dù mức cuối cùng là phải tiêu diệt. Nhưng cho dù Tàn Kiếm có muốn giết chết Tần Thủy Hoàng đi chăng nữa thì Tàn Kiếm cũng nhắm tới mục đích chính là đem lại an bình cho nhân dân nước Triệu. Tàn Kiếm có thể không căm hận Tần Vương như Vô Danh ngót mười năm rèn gươm trong thù hận. Tàn Kiếm có thể đành lòng phải giết Tần Vương vì Tần Vương gây đau khổ cho nhân dân đất Triệu, chứ không phải giết để thỏa mãn cho cái căm giận, cái thù địch của riêng mình. Hai cái thật sự khác nhau. Một cái vì đại cuộc, một cái vì bản thân. Nếu mình đánh kẻ gây lầm lỗi kia roi thứ nhứt thì tay bỗng hăng lên và cơn giận bắt đầu sôi sục mà mình vẫn tiếp tục buông roi thứ hai, thứ ba thì đó không còn là sự dạy dỗ nữa. Nó không xuất phát từ tình thương. Nó đến từ sự thỏa mãn cơn giận của mình. Thành ra muốn kiểm chứng mình ra tay từ vạch xuất phát nào thì khi thấy đối phương đã hối lỗi hay phát hiện ra kẻ đó vô tội mà mình có đủ sức để buông roi xuống một cách nhẹ nhàng và dứt khoát hay không? Tàn Kiếm làm được chuyện đó. Tàn Kiếm xác định trách nhiệm của mình là giết Tần Vương vì ý thức mình là dân nước Triệu, nhưng bên trên đó Tàn Kiếm không hề say sưa trên chiến trận giết chóc. Tàn Kiếm đã lập nguyện sau khi giết Tần Vương xong sẽ giã từ chốn binh đao, nghĩa là quẳng đi cái phương tiện không còn cần thiết nữa đó là thanh gươm sát khí. Ta có làm được chuyện này khi bước vào cuộc đời không? Thanh gươm mà chúng ta đang cầm trên tay hay đeo sát trên người có thể là tiền bạc, địa vị, quyền lực, sắc dục làm cho ta quên mất mục tiêu ban đầu là bước vào cuộc đời này đi tìm cái gì. Thanh gươm mà ta yêu quý đó có ảnh hưởng tốt đẹp gì tới cái đích hạnh phúc hay không? Hay phản tác dụng? Ta có đủ hùng lực như Tàn Kiếm sẵn sàng buông bỏ những thứ phương tiện lỉnh kỉnh đó khi đã chạm tới mục đích hay sự cứu cánh không? Ở trong sự thực tập của đạo Bụt có câu " Thiện pháp ưng xả, hà huống phi pháp", nghĩa là giáo lý của Bụt cũng chỉ là phương tiện để dẫn dắt người học đạo đi tới chân lý và khi tiếp xúc được chân lý rồi liền lập tức buông bỏ mọi phương tiện dù đó là phương tiện tốt đẹp nhứt. Cũng như khi qua sông được rồi mà còn khư khư ôm lấy thuyền bè không dám buông bỏ thì quả là ngu dốt. Cái đó gọi là chết trên phương tiện. Mà cái hay ở đây là phương tiện đúng đắn còn phải xả bỏ huống chi là những thứ phương tiện giả dối đặt ra làm lầm lạc những kẻ ngu khờ.

"Tinh hoa của thư pháp là tâm linh và kiếm pháp cũng vậy. Cả hai đều hướng tới chân và chất. Dần dần ngộ ra được một lý tưởng cao hơn là không giết Tần Vương nữa". Câu nói này chứng tỏ Tàn Kiếm đã tới được bờ bên kia (paramita - đáo bỉ ngạn) của kiếm thuật. Tàn Kiếm đã thấy được Tần Vương là một phần của mình. Kẻ bạo ác đó chỉ là một phần trong một nhà lãnh đạo tài ba có khát khao thống trị thiên hạ. Thư pháp trở thành một trợ duyên rất lớn cho kiếm pháp của Tàn Kiếm khai thông và đạt tới đỉnh cao. Bút pháp mềm mại, uyển chuyển, nhẹ nhàng như một bài quyền nhu mà đã có thể gặp gỡ và hòa quyện được thế cương, rắn chắc, cứng nhắc của thanh gươm. Tại vì cả hai đều có chung cái bản tính chân thực, đều là phương tiện nghệ thuật hướng người sử dụng đến chỗ cao ráo của tâm linh. Cho nên nhìn vào chữ viết mà có thể thấy được tuyệt kiếm, cũng như nhìn vào kiếm thuật mà thấy được bút pháp. Đứng về hình thức thì chúng là hai, nhưng đứng về bản chất thì chúng chỉ là một. Người nam có thể đặc trưng cho phái cương và người nữ có thể đặt trưng cho phái nhu, nếu muốn sáp nhập đời sống của hai tập tính khác nhau thì phải tìm cho ra sợi dây kết nối. Hai người tuy khác phái mà vẫn hòa quyện thành một và chỉ một điều kiện duy nhứt đó là tìm thấy chỗ đồng điệu nhau của hai tâm hồn để có thể trở thành một khối vững chắc mà đồng hành về một hướng. Tại vì cuộc đời này có rất nhiều hướng đi.

 

Lối về mùa Xuân ^

Truyện ngắn Ngô Khắc Tài

 

Đôi lúc anh nhận thấy giữa mình với Sáu có điều khác biệt, nhưng không hiểu sao hai người lại thường đi chung với nhau. Vào quán cà-phê, trong lúc lỗ tai khổ sở vì tiếng nhạc ồn ào, mắt của anh vẫn thấy rõ chiếc lá cây gie sát thùng loa đang run rẩy vì tiếng động quá lớn và nhìn những giọt cà-phê rơi như những suy tư. Mỗi người phải biết rõ suy tư của mình bắt đầu từ đâu. Của ai nấy biết, riêng anh, anh nhớ mãi sư cụ ở ngôi chùa xưa quê nhà. Những ngày rằm thỉnh thoảng đi chùa đàm đạo với sư cụ rồi anh nhớ mãi . Ai nhanh ta cứ đi nhịp chậm rãi thong thả để nhận ra chân tướng của vô thường, tất cả như hạt bụi trôi qua kẽ tay. Lấy tịnh chế động để thấy thế giới của an lạc nơi đâu cũng có. Tâm thanh tịnh sinh ra tinh thần. Từ tinh thần sinh ra trí lực. Trí lực khác với trí huệ không, lúc đó anh không chú ý, định bụng khi nào về quê sẽ hỏi lại sư cụ. Giờ anh nhớ tới lời dạy kia và quan sát cô bạn gái ngồi bên cạnh. Sáu rõ ràng như bị phân tâm, cái đầu một đàng, tay lại đi một nẻo khiến Sáu cầm hụt ly cà-phê hai lần. Anh cắc cớ chế nước trà vô ly cà-phê, hỏi Sáu cà-phê pha ngon không. Sáu thản nhiên gật đầu.

Khi hai người ra tới đường, Sáu vẫn giữ thái độ lãng trí, bất ngờ đi ngang qua cửa hàng, cặp mắt Sáu trở nên sắc sảo, bước vô cửa hàng lẹ làng hỏi giá món này món nọ. Chiều hai mươi Tết, thành phố người và xe chen nhau khói bụi mịt mù như thuốc tán, anh hóa thành người giữ hàng hóa cho Sáu, dưới chân còn một bọc nylon to tướng.

- Em mua chi nhiều vậy?

- Thì mua để tặng người này người nọ, anh còn đi hỏi.

Anh thêm một thắc mắc. Hai đứa cùng quê lên đây trên mười năm, anh vẫn còn là một anh nhân viên quèn và mỗi lần trời đổi gió nhớ nhà không chịu nổi. Sáu đã thành dân kẻ chợ thị thành. Vậy trường hợp này giải thích sao. Mà làm sao Sáu biết được bà này thích cá mòi hộp Sumaco, bà kia thích khô cá đường, mù tạt… Té ra, cử chỉ nắm hụt ly cà phê với thái độ mua sắm tương phản mà lại tương khớp nhau. Anh vẫn là đứa chậm chạp trong thời buổi kinh tế thị trường. Mà tại sao Sáu lại yêu anh? Đêm cuối năm thành phố dưới ánh điện xanh vàng của đèn cao áp bỗng dưng hiu hắt, do anh cảm thấy buồn chăng?

Thôi thì cuộc đời vẫn luôn thay đổi, ai theo được thời nên mừng cho người ấy. Thời đại đã đi vào công nghiệp hóa, kinh doanh hạch toán, không cho phép cá nhân nào trễ tràng. "Tam thập tự lập - Tứ thập làm chi làm gấp - Ngũ thập tay chân run lập cập - Lục thập hơi sức đâu tri thiên mệnh". Cuộc đời diễn nôm na lời người xưa như vậy.

Còn anh phải tự biết mình, không có khả năng tranh đua thì tiếp tục cần mẫn với công việc. Như người họa sĩ cứ lo vẽ tranh, bác thợ mộc cặm cụi đóng bàn ghế. Một phút trôi qua chính là tiền. Nhưng anh vẫn linh tính được điều gì đó sẽ xảy ra giữa anh với Sáu…..

Hình như có những ngày, những tháng, buổi sáng mở cửa ra nghe bụng dạ bứt rứt, cãi vã với bạn bè luôn.

Và cũng có những ngày, những tháng, những buổi sáng nghe lòng lâng lâng, gặp người đẹp đầu ngày thiên hạ bảo xui vẫn nở nụ cười chào hỏi, mời bạn đi uống cà-phê, cho tiền con nít vung vẩy. Vì con người như vậy thầy bói mới có dịp kiếm ăn. Nói nhỏ với cậu năm nay có sao chổi đụng vào sao mộc, nên người ta hay sổ mũi nhức đầu, riêng tuổi của cậu đụng phải khúc đuôi của sao, may mà cậu có quới nhơn ủng hộ. Dạ tui xin cảm ơn thầy Hai, mỗi sáng thức dậy là do những suy nghĩ trong đêm để rồi người ta buồn hay vui. Thầy nói như vậy, đố thầy có biết đêm qua tui có ngủ ngon hay không, sáng nay tự nhiên tôi phấn khởi.

Anh đứng nhìn ra sân thượng, cách cửa sổ phòng anh độ vài thước. Buổi sáng chim sẻ ríu rít nhảy nhót tắm nắng sớm trên mái phố đỏ tươi, khi nắng gắt, một số con nhảy xuống sân vơ vẩn. Sân có trồng hoa hồng, mai chiếu thủy, mai vàng nên có được một khoảng mát xen giữa những ngôi nhà cao tầng đủ biết chủ nhân là tay nhà giàu, mặc dù không biết họ làm nghề gì. Người vợ mặc đồ ngủ màu hường bước ra, môi cô sơn màu tím. "A, mai nó nở thêm sáu bông nữa nè anh". Người vợ reo lên, anh chồng chạy ra : "Ồ đẹp quá, vậy tất cả là mười sáu bông". Bỗng dưng anh đâm ra xao xuyến trước hạnh phúc kẻ khác, mai mà đi đếm từng bông. Anh lại nhớ về quê vẫn là hình bóng ngôi chùa cổ kính rêu phong. Cũng cây mai trước sân nhà kia, sư cụ có lần hỏi anh, bông ra hoa lúc nào rụng đi từ lúc nào. Sự việc ngay trước mắt biến đổi mà người còn không để ý. Bông nở rồi bông rụng trong gió nhưng mùa Xuân ở đâu, tâm xuân ở đâu, có mất đi không. Hóa ra bông nở, bông rụng nhưng mùa Xuân lặn vô bên trong thân cây mãi mãi không mất. Niềm vui bắt đầu từ những cái thật gần gũi rồi mới đi xa hơn; nhưng tối hôm đó, bất ngờ nghe tiếng hai vợ chồng cãi vã, người chồng đánh người vợ bịch, bịch, bốp.

- Tiền đâu hết rồi?

- Con Oanh nó lấy đi rồi, em xin lỗi anh.

Người đàn ông đưa tay tát mạnh vô mặt người đàn bà.

- Tiền bạc mà, tao đã nói rồi, chẳng tin tưởng được ai.

Anh rời cửa sổ nghe lòng khắc khoải, cảnh tượng nhìn thấy hoàn toàn ngược với buổi sáng, những phút giây hiếm hoi của đời người. Cái gì đổi được giây phút vui vẻ êm đềm, nhưng vì sao người ta khi đạt tới lại buông bỏ dễ dàng. Những gì nhìn thấy, anh càng nhớ lời vị sư già. Như thấy Đức Phật từ trong mênh mông sâu thẳm đôi mắt hiền hòa nhìn về cõi nhân gian náo nhiệt và chẳng phải vô cớ mà anh thì thầm gọi khẽ tên, Sáu ơi.

***

Anh đã nhận thấy rõ giữa mình với Sáu có điều khác biệt. Một người thì con mắt sáng len lỏi giữa buổi chợ mai đông đúc người, một kẻ trái lại có lỗ tai thính đêm dõi theo tiếng kêu chim chíp của chim sẻ mới nở dưới mái nhà nghe lòng nao nao. Nhưng tại sao khi Sáu vắng mặt hai ngày thôi, anh lại nghe nhớ, nghe sốt ruột. Phần Sáu không có thời gian rảnh rỗi, tay liền tay, miệng liền miệng chạy liên tục đầu này, đầu nọ, nhiều lúc Sáu tạt qua thăm anh như chỉ để ngó mặt một cái rồi đi. Trường hợp giữa anh với Sáu kể ra đặc biệt, và như Sáu đã chú ý tới nét mặt của anh.

- Anh có điều gì mặt mày trông buồn xo vậy ? Sáu hỏi.

- Buồn, nhưng lại thanh thản dễ chịu.

- Cái gì ?

- Nếu người ta biết được mình buồn thì nghe thanh thản dễ chịu.

- Mốc xì, bày đặt hoài, sự khép kín chỉ làm cho đời ta không sáng hơn. Có tiền bụng dạ mới yên ổn nghe.

- Có lẽ cũng đúng.

- Sao cũng đúng, anh thật dễ ghét. Vắng em, anh có nhớ không?

- Hỏi hoài, anh còn hình dung ra cái thế lúc ngủ nằm co của em.

- Thôi mình đi chợ chơi. Tết nhứt ở nhà hoài sao.

Tự dưng anh thấy ngần ngại chợ búa trong những ngày giáp Tết đông đảo người, rồi những quán xá quen nhẵn mặt, quen đến độ không còn nhớ ra … Và rồi, chuỗi thời gian ngồi quán bên nhau và đã kết hợp nên quãng đời người. Về sau đó… Hình như khi gió lay mùa Xuân mới đáp từ động đậy, mọi vật có đường quỹ đạo riêng, tiếp tục quay cho tới khi gặp được mùa Xuân. Dĩ nhiên không tránh khỏi sự cọ xát, đan chéo vào nhau. Cuối cùng người nào cũng đứng được, không té sụm, nhờ đã chuẩn bị trước trong những đêm không ngủ.

Xanh, đỏ, tím, vàng. Những ngọn đèn màu chập lại với nhau, tiếng chen đua chạm leng keng, rồi nhạc Rap, mọi người nói với nhau như hét. Hai người đang ngồi với nhau, chợt một người thanh niên khác đã uống rượu nơi đâu mặt mũi đỏ ửng bước tới kéo ghế ngồi kế Sáu:

- Anh kiếm em suốt cả ngày nay! Ai vậy em?

- Giới thiệu với Sơn, đây là anh Lạc một cây hiểu biết.

- Hiểu biết về chuyện gì em? Có hợp đồng làm ăn không?

- Anh Sơn giỡn hoài. Anh Lạc không như mình đâu.

- Ha ha… Tôi thì không biết nhiều ngoài chuyện làm ăn, tôi chỉ biết thêm ông Đặng Thái Sơn vì nghe nói đâu mỗi lần biểu diễn lĩnh cả triệu đô-la, hơn nữa ông trùng với tên tôi - Đặng Hoài Sơn nghe cũng hay chứ?

Anh nghe máu nóng bốc lên mặt mũi. Nhưng Sáu lên tiếng:

- Thôi nghe Đặng Hoài Sơn, say rồi nghe.

- Say à, tôi nói chuyện này cho cô nghe, biết tôi say hay tỉnh. Người thanh niên nói khẽ điều gì đó với Sáu, con giận đã khiến lỗ tai của anh lùng bùng không nghe được họ nói gì với nhau, dường như hẹn hò đi đâu đó. Quyền tự do riêng tư của Sáu anh khó lòng xen vô, hơn nữa anh thường chứng kiến như thế này đã nhiều, anh không biết gì về công chuyện của Sáu.

***

Mãi tới ngày hai mươi tám Tết, Sáu vẫn chưa trở về thăm quê, Sáu đã từng nhiều lần ăn Tết xa nhà quen chăng. Anh không thể chờ đợi Sáu nữa. Bây giờ trước mắt anh là mùa Xuân quê nghèo trên bàn thờ đèn, khói nhang, mâm ngũ quả, với những hoài niệm về tuổi thơ nào luôn sáng mãi bên đời. Trái tim ai chưa hoen bởi bụi thời gian, ngày xuân hồn trong như ánh nắng đầu ngày chiếu từ hiện tại về quá khứ. Năm tháng nơi quê nhà trôi bên công việc đồng áng cần cù. Vẫn còn đó mẹ của anh. Lúc chiến tranh mẹ đã phải chịu biết bao mất mát, tới nay mẹ vẫn còn phải hết lo cho chồng, tới lo cho con, rồi tới lo cho bầy cháu. Buổi sáng mẹ vẫn tiếp tục dậy sớm, vẫn còn ra đồng nhổ cỏ, điều khiển con cháu. Anh vẫn chưa trả hiếu được cho mẹ, thật ra tiền của anh gởi về nhà, mẹ vẫn giữ nguyên đó, như cất giùm cho anh. Thôn quê không làm ra tiền nên không xài tiền dễ dàng như dân thành thị. Đời sống nơi khu phố anh đang ở so với quê nhà, khoảng cách xa lắc. Khi ngọn gió bấc rạt rào thổi từ ngoài sông vô tới vườn cây, bụi tre như rì rì cúi đầu chịu gió, làng quê êm ả đã chuẩn bị đón Tết rồi. Người dân quê đã nghĩ đến Tết từ cuối tháng mười một, lúc này nước rút nhanh giá cả rất rẻ, mẹ anh mua cá về xẻ khô để dành. Trong vườn ô môi đã khô treo lủng lẳng, những trái ô môi xấu xí ngâm rượu tháng sau là uống rất ngon. Đầu tháng mười hai, mẹ đem hột giống bông thọ gieo trên liếp, ép chuối phơi khô. Tháng này theo các ngả đường quê sáng lên màu trắng bánh phồng, bánh tráng. Bánh đã được trải ra trên mấy tàu lá dừa đan thành niểng đựng từ sân ra tới ngoài đường. Xoài đã bắt đầu trổ bông, trái lấm tấm như trứng cá. Thôn quê chuẩn bị đón Tết nhẹ nhàng từ từ không ồn ào, các thứ đâu vào đấy, ngày Tết chỉ còn mua thêm ít món gia vị, trà, câu đối, dưa hấu, nồi thịt nữa là xong. Thông thường mỗi nhà có hai thứ mặn, chay. Mặn dành cho lũ trẻ khách khứa đến chơi, riêng ba mẹ anh ba ngày đầu năm lại ăn chay. Về điều này anh cũng nhớ cũng chính do sư cụ dạy mọi người: "Nếu không ăn chay được, vào mỗi ngày rằm lớn, ba ngày Tết nên ăn chay vì đây là dịp nhìn lại thân tâm mỗi người về thể hiện lòng từ bi". Mùa Xuân vạn vật tràn trề sức sống phát triển giống nòi, theo anh, sư cụ dạy hai chữ từ bi vào lúc này phù hợp với khoa học. Anh có nhớ một năm ba anh lên chùa xin sư cụ hai câu đối, mãi về sau anh mới hiểu thẳm sâu lời sư cụ nhắn nhủ trong câu đối:

- Không than, không hãi, không dại, không lo, không cứng cổ, không hư khí tượng.

- Có phúc, có phần, có nhân, có quả, có lọt lòng, có nợ nước non.

Những con người hiền lành của đất đai xứ sở quê hương, mái chùa xưa cũng là hình ảnh tuổi thơ anh. Anh khó lòng quên hình ảnh đã ăn sâu trong lòng dù cho sống ở thị thành đã gần hai chục năm, anh vẫn còn là đứa trẻ thôn quê ra. Tết đến là phải lần về nhà.

***

Ngày hai chín, Sáu đang ở Sài Gòn. Trên này lỗ tai như lùng bùng, người và xe cộ quay cuồng. Sáu với bộ áo đầm thời trang, đang đi cùng với Sơn giữa phố xá tràn ngập hàng hóa. Chợt Sáu đột ngột dừng lại:

- Em thấy nhớ nhà.

- Nhớ nhà hay nhớ thằng cha cù lần đó?

- Ừ, thế mới là chuyện lạ.

- Cái gì mà kỳ vậy, giải thích coi.

- Em cũng khó giải thích cho anh hiểu, mình vật chất đầy đủ nhưng tâm hồn lại thấy trống trải, mệt mỏi, mình tiếp tục đi tìm để lấp đầy khoảng trống. Thằng cha cù lần ấy cho em thấy tâm hồn con người vẫn lớn hơn nhiều so với vật chất. Để sống, thật ra con người chẳng cần bao nhiêu. Có lẽ anh cũng phải về quê, ở đây còn cội nguồn mùa Xuân tình người chất phác.

Người thanh niên ngơ ngác nhìn Sáu. Giữa đường phố Sài Gòn buổi sáng xe cộ, người đi ì ầm nhưng tiếng thì thầm của mùa Xuân ngày một dâng lên. Và có kẻ đang lắng nghe…

 

Hằng thuận: nét đẹp trong đời sống lứa đôi ^

 

Quảng Kiến

Lễ hằng thuận là một "thuật ngữ" khá thông dụng dùng để chỉ cho nghi thức tổ chức lễ cưới ở chùa. Tại buổi lễ, nếu đôi bạn trẻ được vị chủ lễ trao truyền Tam quy, Ngũ giới thì buổi lễ sẽ được gọi thêm là Lễ hằng thuận quy y.

Hiện nay, đám cưới ở chùa không còn là một "hiện tượng lạ" khi ngày càng có nhiều bạn trẻ muốn khởi sự đời sống lứa đôi của mình bằng một lễ thức thiêng liêng thay vì một lễ hội. Hôn nhân, vì vậy, đã trở thành một lời phát nguyện dưới sự chứng minh của chư Phật và chư Tăng: một đời sống chung với ý thức và trách nhiệm được bắt đầu bằng hai chữ "hằng thuận"...

 

Lên chùa làm lễ thành hôn...

"Đây là điều rất mới đối với đạo Phật!", TT Thích Viên Giác, trụ trì chùa Từ Tân, khẳng định. "Từ ngày chấn hưng Phật giáo, một số Phật tử đã nghĩ đến việc lên chùa tổ chức lễ cưới cho con em mình dưới sự chứng minh của Tam bảo. Thế nhưng, cho đến nay, trải qua hai phần ba thế kỷ, có người vẫn cho rằng việc cử hành hôn lễ ngay trước bàn Phật là đi ngược lại với mục đích giải thoát của đạo Phật", TT cho biết thêm.

Tuy nhiên, trên thực tế, những suy nghĩ như thế không nhiều, vì vậy, nhiều Phật tử đã nghĩ đến việc lên chùa cung thỉnh chư Tăng hộ niệm cho hôn lễ của mình. Trong khói trầm ngào ngạt, trong lời kinh nhiệm mầu, trong sắc y vàng rực rỡ và lời khuyến nhủ của chư Tăng, hôn lễ diễn ra với tất cả sự trang nghiêm, thành kính - chắp cánh cho đời sống hôn nhân bay bổng giữa đôi bờ thiêng liêng và trần tục. "Hôn nhân là một bước ngoặt lớn trong đời; hạnh phúc là sự hòa hợp giữa đời sống tâm linh và vật chất, giữa tình thương yêu và sự hướng thượng… nên một buổi lễ phát nguyện hằng thuận tại chùa là điều cần thiết đối với một Phật tử", một bạn trẻ cho biết.

Quả thật, ngày càng có nhiều Phật tử lên chùa xin tổ chức lễ thành hôn. Đám cưới tại chùa trở thành một nét văn hóa đối với Phật giáo nói riêng và xã hội nói chung. "Chúng ta không nên áp đặt giới luật của người xuất gia lên hàng cư sĩ tại gia. Khi Đức Phật còn tại thế, chính Ngài cũng đã nhiều lần khuyến nhủ hàng Phật tử tại gia sống đời sống gia đình theo đúng Chánh pháp cũng như đạo đức xã hội qua qua các bài kinh Thiện Sanh, kinh Đảnh lễ sáu phương…", nhiều vị trụ trì cho biết như vậy khi chúng tôi đặt vấn đề: nên hay không việc cử hành hôn lễ cho Phật tử tại chùa? Các ngài còn cho biết: "Chứng minh và hộ niệm cho hôn lễ của Phật tử là việc làm tùy thuận của chư Tăng. Hơn nữa, việc làm này cũng chính là một trong những nhân tố quan trọng giúp cho người Phật tử tại gia Phật hóa gia đình, xây dựng đời sống gia đình hướng thiện".

Nghi thức hôn lễ tổ chức tại chùa được tiến hành như một buổi lễ cầu an với những tên gọi như: Nghi thức cầu an lễ thành hôn; Nghi thức lễ thành hôn; Nghi thức hộ niệm hôn lễ…; đơn giản hơn, nhiều người gọi là lễ thành hôn hay lễ đám cưới tại chùa. Trong nghi thức này, phần "lễ thức" thường được chú trọng hơn phần "nghi lễ" - phần chính của lễ hằng thuận chính là bài pháp ngắn của vị chủ lễ trước khi trao nhẫn cho cô dâu chú rể, khuyên đôi bạn trẻ sống đúng với Chánh pháp và đạo lý ở đời…

Thử truy tìm nguồn gốc và tên gọi của lễ hằng thuận

Ai cũng biết rằng nghi thức hằng thuận ra đời trong khoảng sáu, bảy mươi năm gần đây. Nhưng cụ thể, đó là vào thời điểm nào, do ai đặt ra, ai là người đầu tiên đến chùa làm lễ hằng thuận… thì điều đó, ngay cả những nhân vật gắn liền với Phong trào Chấn hưng Phật giáo như cư sĩ Võ Đình Cường, Tống Hồ Cầm,… vẫn không thể trả lời chính xác. Phải chăng, đó chỉ là những sự kiện nhỏ trong một thời kỳ đầy biến động nên đã mờ đi trong ký ức của mọi người?

… Trong số những người con của bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám, hiện chỉ còn duy nhất người con trai út là bác Lê Đình Lực, 72 tuổi, sống tại số 194, đường Giải Phóng, Q.Thanh Xuân, TP.Hà Nội. Trò chuyện với chúng tôi, bác cho biết: "Vào khoảng năm 1939 hay 1940 gì đấy, lúc đó tôi còn quá nhỏ, gia đình tôi ở Bến Ngự, tôi nhớ bố tôi đã tổ chức lễ cưới cho chị Lê Thị Hoành, chị đầu của tôi, tại chùa Từ Đàm. Nhưng bây giờ chị ấy mất rồi, chỉ còn lại anh Hoàng Văn Tầm, anh rể tôi, đang ở đường Trung Liệt, TP.Hà Nội…". Cụ Hoàng Văn Tầm, rể cả của cụ Lê Đình Thám, năm nay cũng đã 90. Hiện cụ rất yếu, giao tiếp khá khó khăn, nhưng trí nhớ của cụ vẫn còn khá tốt. Cụ cho biết: "Đó là ngày 3-3-1940, lễ cưới của tôi và cô Hoành được tổ chức ở chùa Từ Đàm. Tôi không khẳng định được chúng tôi có phải là người đầu tiên lên chùa làm lễ cưới vào thời ấy hay không, nhưng… có lẽ chúng tôi là người đầu tiên thật, bởi trước đó, tôi chưa nghe ai lên chùa làm lễ cưới cả!".

Là một trong những cư sĩ tiên phong và có công rất lớn trong công cuộc chấn hưng Phật giáo vào những thập niên đầu thế kỷ XX, người sáng lập nên Đoàn Thanh niên Phật học Đức dục - Gia đình Phật hóa phổ (1940), tiền thân của Gia đình Phật tử (1951), phải chăng bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám cũng chính là người nghĩ đến việc Phật hóa gia đình bằng cách cung thỉnh chư Tăng cho phép những cận sự nam, nữ được tổ chức lễ cưới tại chùa với sự chứng minh của Tam bảo, và người con gái đầu lòng của bác sĩ chính là người Phật tử đầu tiên thực hiện lễ thức này?

Riêng đối với hai chữ "hằng thuận", tuy được sử dụng khá rộng rãi, nhưng qua tìm hiểu từ sách vở cũng như tham vấn trực tiếp chư tôn đức và những cư sĩ lớn tuổi, chúng tôi vẫn chưa xác định được "hằng thuận" nguyên nghĩa là gì, do ai đặt ra? Bởi theo cụ Hoàng Văn Tầm và Lê Đình Lực thì: "Tôi chưa nghe đến hai chữ hằng thuận như thế bao giờ!". Cư sĩ Võ Đình Cường và cư sĩ Tống Hồ Cầm cũng cho rằng: "Tôi không nhớ rõ lắm… nhưng hình như vào thời điểm chấn hưng Phật giáo, chúng tôi chưa từng nghe đến hai chữ hằng thuận…".

Trong ba bản: Nghi thức lễ thành hôn của HT Thích Thiện Hòa, Nghi thức cầu an lễ thành hôn của HT Thích Trí Thủ và Nghi thức hộ niệm hôn lễ của HT Thích Nhất Hạnh mà chúng tôi hiện có được, bản của HT Thiện Hòa được viết và in thành sách sớm nhất, năm 1971, trong đó, hai chữ "hằng thuận" được HT nhắc đến một lần duy nhất ở phần hồi huớng: "Hằng thuận công đức thù thắng hạnh…", hai bản còn lại không hề nhắc đến chữ này. Vậy phải chăng HT Thiện Hòa là người đầu tiên xác nhận "hằng thuận" chính là nghi thức cử hành hôn lễ tại chùa bằng văn bản?

Về ý nghĩa của hai chữ "hằng thuận", qua tham vấn chư vị tôn túc, chúng tôi ghi nhận được hai quan điểm: 1. Hằng thuận nghĩa là tùy thuận chúng sanh mà thực hiện (theo hạnh Bồ tát của chư Tăng); 2. Hằng thuận nghĩa là thường sống với nhau hòa thuận (theo đạo vợ chồng). Trong Hoa ngọc lan, HT Thích Chơn Thiện viết: "nhà chùa đã phương tiện thực hiện theo yêu cầu của các gia chủ, và gọi đó là lễ hằng thuận. Hằng thuận vừa mang ý nghĩa phương tiện "hằng thuận chúng sanh" của nhà chùa, vừa mang ý nghĩa hướng dẫn người đời sống hằng thuận". Riêng TT Viên Giác còn đặt vấn đề: "Chữ hằng trong quẻ dịch là đạo vợ chồng. Hằng thuận, nếu hiểu theo nghĩa ấy chính là sống thuận theo đạo vợ chồng, một đạo lý sống chung hòa hợp. Đạo lý sống chung đó nhà Phật thiết lập để cung cấp cho những cặp vợ chồng sống chung hạnh phúc theo năm nguyên tắc đạo đức của người Phật tử (5 giới cấm). Tuy nhiên, theo tôi được biết, nhiều vị trụ trì vẫn ngại dùng chữ hằng thuận vì hiện nay từ ngữ này vẫn chưa được đặt một cơ sở lý giải vững vàng để trở thành thuật ngữ của Phật giáo".

Đôi điều suy nghĩ

Hằng thuận là một nét đẹp trong đời sống lứa đôi. Đối trước Tam bảo, đôi bạn phát nguyện sống chung hạnh phúc theo 5 nguyên tắc đạo đức cơ bản của Phật giáo, một mặt, tạo nền tảng tâm linh hướng thượng cho đời sống gia đình, mặt khác, "lời hứa" trước Tam bảo sẽ có sức mạnh nâng đỡ cho đôi bạn vượt qua những trắc trở trong đời sống sau hôn nhân. Đứng trên bình diện nào đó, việc làm này cần nên khuyến khích và vị trụ trì cũng nên tạo điều kiện cho Phật tử đến chùa làm lễ hằng thuận. Tôn giáo hợp thức hóa đời sống lứa đôi, tôn giáo giúp cân bằng đời sống tâm linh và vật chất, tạo nên một đời sống hướng thượng. Trong khi gia đình là một tế bào của xã hội - một tế bào tốt sẽ là điều kiện tốt để cấu tạo nên một cơ thể lành mạnh.

Tuy nhiên, hằng thuận chỉ thật sự có ý nghĩa khi đôi bạn trẻ cùng muốn hướng đến một đời sống hôn nhân tốt đẹp. Cùng với tình yêu thương, ý thức trách nhiệm và mục đích sống, đôi bạn trẻ cùng nhau xây đắp ngôi nhà hạnh phúc trên nền tảng đạo đức Phật giáo cho hạnh phúc được bền lâu. Nếu không như vậy, quả thật, hằng thuận chỉ là một việc làm "tùy thuận" theo xu thế thời đại, đánh mất đi tinh thần và trí tuệ của Phật giáo - hằng thuận, như thế, quả thật, không nên tổ chức ngay trước bàn Phật!

Xuất phát từ mục đích tốt đẹp đó, lễ hằng thuận là một cầu nối giữa đạo và đời, giữa hạnh nguyện giải thoát và ước nguyện xây dựng một xã hội tốt đẹp của chư Tăng và hàng Phật tử tại gia.

**********

 

Khi Tây đám cưới ở chùa Ta!

Đó là buổi lễ hằng thuận của anh John Matthews (người Canada) và chị S.R. Mills (người Anh) tại Ni viện Vạn Hạnh ngày 4-12-2004. Anh là giáo viên Trường Korea International và chị là giáo viên Anh văn Hội Việt-Mỹ, TP.HCM. Lễ cưới của John Matthews và S.R. Mills diễn ra tuy đơn giản nhưng rất trang nghiêm, đúng theo nghi thức lễ hằng thuận của Phật giáo dưới sự chứng minh của Ni sư trụ trì và Ni chúng Ni viện Vạn Hạnh cùng sự có mặt của khá nhiều bạn bè đồng nghiệp. Tuy không rành tiếng Việt lắm và cần phải có người phiên dịch những lời khuyến nhủ của Ni sư, nhưng anh chị vẫn cảm nhận được tất cả niềm hạnh phúc thiêng liêng trong một không gian ấm áp. Sau buổi lễ, anh cho biết: "Mặc dù tại quê nhà, tôi cũng đã nhiều lần đến chùa và đọc sách Phật, nhưng khi đến Vạn Hạnh, tôi mới thật sự thấy mình có duyên đối với Phật pháp. Ban đầu, tôi không nghĩ rằng chùa sẽ tổ chức lễ cưới và lại tổ chức tốt như vậy. Tôi thật sự xúc động và mong rằng sau lễ cưới này, chúng tôi sẽ trở thành những Phật tử thật sự".

Lễ cưới chín trăm nghìn!

Tức 900.000đ cho một lễ cưới với đầy đủ phần "lễ" và "tiệc" và cả một ban nhạc… sống! Đó là lễ hằng thuận của đôi bạn trẻ Vinh và Tuyết được tổ chức tại chùa Từ Tân (Q.Tân Bình). Rất có thể đây là đám cưới ít tốn kém nhất thành phố nhưng vẫn hiện diện đông đủ bà con hai họ cùng bạn bè thân hữu. Đôi bạn trẻ là thành viên của Gia đình Phật tử chùa Từ Tân, là những công nhân từ miền Trung xa xôi vào thành phố lập nghiệp. Chùa đã tạo điều kiện cho đôi Phật tử thuần thành này làm lễ hằng thuận với một bữa chay thân mật tại chùa - tất cả chỉ tốn kém 900.000đ. Ban nhạc của GĐPT cũng giúp vui cho buỗi lễ bằng những bài nhạc đạo và bài hát về lễ hằng thuận do các anh chị em Phật tử tự sáng tác. Thân mật, ấm áp, thiêng liêng nhưng vẫn không quá sơ sài cho một đám cưới nghèo - bởi vì đó là một lễ hằng thuận!

 

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao. ^

 

Huỳnh Kim Bửu.

 

Hoa đào, hoa mai, hoa thược dược... nở mùa Xuân, hoa sen nở mùa Hè... Đang mùa Xuân mà nói chuyện mùa Hè, e không hợp. Nhưng nghĩ cũng không sao, con người chia ra Xuân – Hạ – Thu – Đông là để cho tiện việc sử dụng, còn thời gian là một dòng chảy liên tục như sông trôi bất kể ngày đêm.

Ở vùng quê tôi có nhiều đầm sen. Người quê tôi lời ăn tiếng nói khá phong phú. Cũng cái vũng trồng sen mênh mông ở giữa đồng thì gọi là đầm sen hay bàu sen, vũng trồng sen ở trước đình chùa thì gọi là hồ sen, còn cái vũng trồng sen nho nhỏ ở bên nhà, bên đường cái quan gọi là ao sen.

Về màu sắc, hoa sen có nhiều loại: sen hồng, sen trắng, sen vàng; hồng thì phơn phớt, trắng thì tinh anh, vàng rực rỡ. Và dù cho là loại hoa sen nào, hương sen cũng là hương thơm ngát. Trong đầm sen thường mọc lẫn hoa súng, cùng một họ với hoa sen. Có người vì yêu quá đã gọi hoa sen là hoa "quân tử", hoa súng là hoa "tiên tử".

Tôi sinh ra và lớn lên ở một làng quê và có nhiều kỷ niệm với cái bàu sen ở làng quê mình. Cái bàu sen ấy rộng tới mấy mẫu đất, thông với một nhánh sông Côn chảy qua làng bằng một khúc mương nhỏ đầy bèo lục bình và lúc nào cũng nghe tiếng lách tách của đàn cá đớp bóng dưới chân bèo.

Mẹ tôi quanh năm cấy thuê cắt mướn trên cánh đồng làng. Buổi sáng, mẹ ra đồng, tôi và thằng út lên năm ra ngõ nhìn theo bóng mẹ đang liêu xiêu đi về phía bàu sen ở cuối đồng; buổi chiều, thằng út và tôi lại ra ngõ trông mẹ, nhìn bóng mẹ từ phía bàu sen trở về mà thương nỗi nhọc nhằn của mẹ. Mùa Hè, có hôm mẹ dẫn tôi ra đồng, cho tôi nhìn ngắm bàu sen đang nở hoa. Chân tôi dạo quanh bàu sen không biết mỏi, tôi nhìn thấy bàu sen rộng vô bờ, mênh mang một màu trắng tinh, sực nức hương thơm và biết mình đang tận hưởng một vẻ đẹp của đồng quê.

Tôi còn nhớ ngày thơ, ngày hai buổi tôi cùng lũ nhỏ đồng trang lứa trong làng cắp sách đến trường. Chúng tôi đi trên đường cái quan, mắt nhìn những ao sen ở hai bên đường nở hoa, rồi bảo nhau rằng hoa sen đang chào đón "những bước chân non chúng mình đi học". Rồi mùa Hè qua đi, sen tàn, ao sen trống trơn, lòng chúng tôi man mác buồn, chỉ còn biết chờ đợi mùa sen năm sau.

Lớn lên một chút, tôi ra khỏi làng, đi học trường huyện, đi theo mẹ về ngoại, theo mẹ về chùa trong những ngày lễ Phật... Tôi gặp rất nhiều bàu sen và không còn chỉ yêu cái bàu sen ở làng mình mà còn yêu những bàu sen ở làng khác. Tôi yêu nhất cái hồ sen ở trước cổng tam quan chùa Thập Tháp trên đất ngoại vi thành Hoàng đế cũ. Cái hồ sen hình vuông, rộng đến mười ngàn mét vuông, được bao quanh bởi một bờ hồ xây bằng đá ong, tương truyền là đá ong lấy từ dưới chân thành Hoàng đế. Bờ đá ong trông thật cũ kỹ và bám vào thành hồ là những cây dương xỉ và những con ốc sên di chuyển chậm chạp bằng cái lưỡi thè dài tí xíu. Trong hồ, thường đậu sẵn một chiếc thuyền con. Mùa sen nở, sáng tinh mơ Hòa thượng trụ trì bơi thuyền ra giữa hồ hái hoa sen nở. Hoa sen màu hồng phấn thắm tươi ngát hương thơm tinh khiết, ngài đem vào chùa dâng cúng Phật. Mùa sen tàn, mặt hồ như tấm gương soi, in hình trời xanh mây trắng và cổng tam quan chùa dưới đáy nước trông như một bức tranh thủy mặc in trên vải lụa của một danh họa nào đó bên Trung Hoa. Năm nào cũng vậy, đến rằm Vu lan tháng Bảy âm lịch, nhà chùa cũng tổ chức lễ hội phóng đăng tại hồ. Vô số những chiếc đèn lồng thắp sáng thả xuống mặt hồ, tạo nên một đêm hoa đăng lung linh huyền ảo trước hàng ngàn thiện nam tín nữ Phật tử xa gần đứng xem. Tôi bắt đầu cuộc sống xa quê từ tuổi đôi mươi và dù cho cuộc sống có tất bật đến mấy, tôi vẫn dành nhiều dịp về thăm quê. Lòng tôi thật tĩnh lặng, như đã tan biến đâu mất những phiền não đời thường mỗi khi tôi trở về đứng trước hồ sen chùa Thập Tháp. Không hiểu tại sao thế? Có phải chăng là do cảnh thanh tịnh nhiệm mầu của già lam đã tác động đến tâm hồn tôi, tôi được tắm gội trong cơn mưa mát lành của đạo Từ bi?

Văn chương vẫn thường tả vẻ đẹp của thiên nhiên, trong đó có vẻ đẹp của muôn hoa với muôn hồng nghìn tía khoe tươi. Và tôi phát hiện ra rằng, xưa nay văn chương viết về hoa cúc, hoa đào, hoa mai... thường là văn chương bác học, văn chương của người học thức, còn văn chương viết về hoa sen là văn chương của mọi giới, bác học có mà bình dân cũng có.

Người nông dân làm đồng tuy mệt nhọc nhưng cũng có giây phút nghỉ ngơi, thả hồn theo mây theo gió và đó là lúc lòng hứng khởi cất lên tiếng hát trước một vẻ đẹp của đồng quê:

"Trong đầm gì đẹp bằng sen/Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng/Nhị vàng bông trắng lá xanh/Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn".

Xa quê lâu, người ta nhớ quê, nhớ đầm sen, giếng nước của làng quê mình:

"Đầm Đại Từ hoa sen thơm ngát/Giếng Đại Từ nước mát trong xanh".

Con trai con gái làng tỏ bày tình yêu không thiếu hình ảnh hoa sen:

"Hôm qua tát nước đầu đình/Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen/Em được thì cho anh xin/Hay là em để làm tin trong nhà...".

Trong tâm tưởng người bình dân, hoa sen vẫn là biểu tượng của vẻ đẹp cuộc sống, của thế giới tâm linh.

Các nhà thơ, nhà văn xưa nay sáng tác nên không biết bao nhiêu thơ văn có liên quan đến hoa sen. Nhà thơ Trung Quốc – đời Đường khắc họa hình ảnh một thiếu nữ hái sen, cảnh xinh mà người cũng xinh đến "vô tư":

"Tiểu oa sanh tiểu đỉnh/Thâu thái bạch liên hồi/Bất giải tàng tung tích/Phù bình nhất đạo khai" (Trì thượng – Bạch Cư Dị)

Dịch thơ:

"Người xinh bơi chiếc thúng xinh/Bông sen trắng nõn trắng tinh thó về/Hớ hênh dấu vết không che/Trên ao để một luồng chia mặt bèo".(Trên ao – Tản Đà)

Ai chẳng tình cờ nghe thấy một hương sen đâu đó quanh mình để mãi thương nhớ:

"Hà hoa suy khởi bắc song hương"

(Hạ cảnh- Trần Thánh Tông)

"Mát dịu mùi sen thổi trước nhà" (Ngô Tất Tố dịch)

Người sành thú ăn chơi chọn cho mình mỗi mùa trong năm một thú riêng và không thể thiếu cái thú làm bạn với bàu sen:

"Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao" (Nguyễn Bỉnh Khiêm)

Ai chẳng gặp một hồ sen tàn, một cánh sen cô độc, lẻ loi còn sót lại để cho lòng mãi ngùi thương:

"Cánh sen chiều/Nở bên ga xép/Một niềm quạnh hiu" (Shiki – Thiền sư Nhật Bản)

Tôi đã thử nhặt trong Truyện Kiều xem có bao nhiêu câu thơ được tác giả mượn hoa sen để tả người, tả vật, tả cảnh, tả tình...

Tả hồn ma Đạm Tiên:

"Sương in mặt tuyết pha thân

Sen vàng lãng đãng như gần như xa" (câu 189-190)

Tả bước chân Thúy Kiều sang nhà Kim Trọng:

"Gót sen thoăn thoắt dạo ngay mé tường" (câu 378)

Thúy Kiều lại sang nhà Kim Trọng một lần nữa:

"Tiếng sen sẽ động giấc hòe" (câu 437)

Kim Trọng – Thúy Kiều thề nguyền:

"Vội mừng làm lễ rước vào

Đài sen nối sáp lò đào thêm hương" (câu 445-446)

Thúc Sinh chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, Thúy Kiều đang sống chung với Thúc Sinh:

"Hương càng đượm lửa càng nồng

Càng xôi vẻ ngọc càng lồng màu sen"

(câu 1383-1384)

Thời gian yên bình, hạnh phúc ít ỏi của Thúy Kiều sống chung với Thúc Sinh sau khi được Thúc ông thừa nhận là con dâu:

"Mảng vui rượu sớm cờ trưa

Đào đà phai thắm sen vừa nảy xanh"

(câu 1473-1474)

Chuỗi ngày dài, Thúy Kiều ở nhà Hoạn Thư:

"Sen tàn cúc lại nở hoa

Sầu dài ngày ngắn Đông đà sang Xuân"

(câu 1795-1796)

Khi làm vợ Từ Hải, Thúy Kiều nhớ nhà, nhớ Kim Trọng:

"Tiếc thay chút nghĩa cũ càng

Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng" (câu 2241-2242)

Kim Trọng, Thúy Kiều gặp nhau ở thảo am của sư Giác Duyên:

"Giác Duyên lên tiếng gọi nàng

Buồng trong vội dạo sen vàng bước ra"

(câu 3007-3008)

Sen trong đêm Thúy Kiều, Kim Trọng gặp gỡ, tâm tình sau 15 năm lưu lạc:

"Những từ sen ngó đào tơ

Mười lăm năm mới bây giờ là đây" (câu 3137-3138)

Tác giả Truyện Kiều đã gần gũi, đã yêu hoa sen đến nhường nào và đã "thiên biến vạn hóa" hình tượng hoa sen trong thơ của mình.

Hạt sen lấy từ trong gương sen ra, bóc vỏ, "nấu ăn như cơm cũng ngon lắm" (Nguyễn Khải – Nghề văn cũng lắm công phu, tr.111). Sinh thời, mẹ tôi vẫn nấu chè hạt sen cúng Phật nhân các ngày sóc vọng trong tháng. Anh em tôi được ăn chè hạt sen do mẹ nấu: ngọt, bùi, thơm, mát để nay còn nhớ nhung.

Thiền trà là một phong cách uống trà ở nhà chùa, cũng ít nhiều vương vấn với hương sen. Tôi có mấy lần được Hòa thượng Kế Châu, trụ trì chùa Thập Tháp, cho mời đến dự "thiền trà" với ngài. Trà Thiết Quan Âm Đài Loan được ngài chia thành túm nhỏ gói giấy trắng mỏng. Chiều hôm trước khi mặt trời vừa mới lặn và sương chiều bắt đầu buông xuống, ngài bơi thuyền ra giữa hồ, đặt những túm trà vào giữa lòng những búp sen hàm tiếu, để cho trà ướp cái hương sen phong nhụy ấy qua đêm. Sớm ngày sau, từ sau thời công phu sáng, ngài lại bơi thuyền đi thu lại những túm trà ấy và hứng luôn những giọt sương đêm đọng lại trên lá sen, lá súng đem về làm nước pha trà. Chờ khách đến, ngài đích thân quạt lò than đun nước, đích thân tráng bình độc ẩm, pha trà để tiếp khách. Trà sen rót ra chén độc ẩm màu nước vàng hơi ngả xanh, bốc hương thơm. Người uống trà cầm tách trà nóng lên uống, nghe thấy hết cái hương vị của trà, nhất là uống trong khung cảnh già lam thanh tịnh thì không thể tả được cho hết cái niềm cảm khái dâng lên trong hồn mình.

 

 

Con gà trong truyền thuyết phương Đông. ^

 

Nguyễn Duy Cách

 

Theo tài liệu của Tiến sĩ Sử học Đinh Công Vĩ, quan niệm phương Đông xưa kia, khi nhận thức về vũ trụ, người ta hay trở lại những hình tượng dính dáng đến gà. Như sách Trường Lịch của Từ Chỉnh ở Trung Hoa viết: "Trời đất hỗn độn như quả trứng gà". Nam Hoài Nhân – người truyền bá tư tưởng vũ trụ học phương Tây sang phương Đông, trong sách Khôn dư đồ thuyết đã ghi: "Đất với biển vốn là hình tròn hợp làm một quả cầu trong thiên cầu, thực như quả trứng gà, lòng đỏ ở trong lòng trắng".

Ý kiến đó của Nam Hòa Nhân không ra ngoài thuyết "Hồn thiên" của Trung Hoa xưa, một thuyết toán học cổ nói "hình quả trứng gà, đất là lòng đỏ, trời bọc ngoài đất". Những quan niệm ấy không hẹn mà gặp với Nguyễn Bỉnh Khiêm ở nước Việt Nam ta. Ông diễn tả cụ thể hơn trong bài thơ Vịnh trứng gà:

"Viên bất viên hề,

phương bất phương

Khước tương thiên địa tận bao tàng.

Ngoại trang thái tố song tằng bạch,

Nội trữ đan biêm nhất điểm hoàng.

Thái cực vị phân do hỗn độn,

Lưỡng nghi tương hợp vị khai trương.

Phê thành vũ dực xung tiêu hán

Chuyển tác kim kê phụ thái dương".

(Cũng chẳng tròn mà cũng

chẳng vuông

Một lồng trời đất nhốt vào trong,

Ngoài vòng thái tố hai lần trắng,

Trong chứa đan biêm

một điểm vàng.

Thái cực chưa phân còn hỗn độn,

Lưỡng nghi hợp lại mới khai trương.

Mọc ra lông cánh liền bay bổng

Biến hóa gà vàng giúp thái dương).

Đặng Huy Trứ, nhà canh tân thời Nguyễn, trong bài Văn kê (nghe tiếng gà gáy sáng) đã ví gà với Chu Công, vị hiền quan nổi tiếng ở Trung Hoa xưa đã giúp vua dẹp loạn, làm nên nghiệp lớn. Điểm này thống nhất với quan niệm của Trung Hoa từng coi con gà trống có mào đỏ như Chu Công. Nâng gà lên tầm vóc vũ trụ, quốc gia thì trong những quan niệm về Bái vật giáo xưa kia ở phương Đông, hiện tượng sùng bái gà có gì là lạ. Cho nên trong tín ngưỡng thờ linh vật thời Hùng Vương ở ta từng để lại dấu ấn của gà. Tượng gà bằng đất nung và đồng đã tìm được ở Gia Thanh, Chiền. Chuyện về thần gà trong truyền thuyết về An Dương Vương ở thành Cổ Loa cũng không xa lạ với chuyện người Trung Hoa sùng bái gà. Thần gà Mão Nhật Tinh Quân trong truyện Tây du ký rất phổ biến ở nước bạn. Trong giao tiếp, bên cạnh "tứ linh" (long, lân, quy, phụng), thì gà là một linh vật được nhắc đến nhiều nhất, có khi trở thành ngạn ngữ mà ở các nước phương Đông có thể tìm thấy quan hệ gần gũi. Chẳng hạn như sách Thái sử Công ký của Trung Hoa có câu "Ninh vi kê khẩu, vô vi ngưu hậu" (thà là mỏ gà, không làm đít trâu), thì ở nước ta trong lời "Hậu tự" sách Lĩnh Nam chích quái, Vũ Quỳnh, Kiều Phú đã ghi: "Thà làm đầu gà còn hơn làm đít trâu. Cho nên, con cháu họ Triệu chống lại Bắc triều...".

Gà có công báo sáng. Truyện cổ dân tộc Mèo ở nước ta còn kể rằng, sở dĩ gà có mào đỏ vì được trời thưởng để đánh dấu cái công gọi được mặt trời, mặt trăng trở lại sau 7 năm vắng mặt, làm trái đất khỏi lạnh lùng tăm tối. Trong quan hệ đối ngoại về việc sử dụng gà để tính lịch, ta cũng có thể tìm thấy những quan hệ gần gũi. Chẳng hạn sách Lĩnh Nam chích quái từng kể chim bạch trĩ – một loài gà trắng thời xưa do Hùng Vương sai tuế cống cho Thành Vương nhà Chu. Sách Tây kinh tạp ký của Trung Hoa ghi lại rằng: dưới thời Thành đế, Giao Chỉ hiến thứ gà gọi là Trường minh kê (gà gáy tiếng dài), cứ buổi sáng nó gáy là đồng hồ cạn, nghiệm với bóng mặt trời không sai chút nào. Nói về chim trách cô, hay gà gô, sách Quảng Đông tân ngữ cho biết: Chim trách cô là loài trĩ theo mặt trời của nước Việt. Khi nó bay tất theo hướng mặt trời, mỗi lần bay của nó là theo tháng thứ mấy... người miền núi cứ lấy số lần nó bay mà tính tháng: "Cánh gà đập vỗ mấy lần/Là bấy nhiêu tháng muôn phần khó sai".

Về thức ăn và làm thuốc uống, sách Lĩnh Nam bản thảo của Lê Hữu Trác đã tổng kết hàng loạt vị thuốc và thức ăn làm từ gà ở miền Lĩnh Nam (gồm phần Nam Trung Quốc và Việt Nam thời xưa), rất phổ biến ở phương Đông như Hùng kê nhục (thịt gà trống), Thư kê nhục (thịt gà mái), Kê quan huyết (máu mào gà)... Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du viết: "Nước vỏ lựu, máu mào gà" thì trong sách Bắc lý chí của Trung Hoa cũng có lời: "Những gái thanh lâu lấy vỏ quả lựu nấu lên pha với máu mào gà...". Trong bài Thiên nhiên kỳ thú, tác giả Lê Hương đã từng tả: "Những chú gà trống tây đến tuổi thành niên thường rủ nhau bỏ rừng đang trổ lá... Mỗi đoạn đường là một điệu múa náo nhiệt. Buổi diễu hành đó cũng là trình diễn để các cô gà mái chọn bạn, để sau đó các cô mái chủ động đi với chàng trai nào ưa nhất". Về chọi gà, ở nước ta trò chơi này phổ biến đến nỗi như nhà Trần ngay trong lúc lo chống giặc Nguyên, người ta vẫn ham thích quá mức, khiến Trần Hưng Đạo trong Hịch tướng sĩ phải có lời nhắc nhủ, phòng ngừa. Hoặc đời Lê Trịnh năm 1665, người người cứ lao vào chơi chọi gà khiến vua chúa phải có lệnh cấm. Còn ở Tây Sơn, Bình Định, chọi gà từng có lúc rất thịnh hành nên Nguyễn Lữ mới có nhiều dịp quan sát suy nghĩ để sáng tạo ra Hùng kê quyền, một thế võ đặc sắc của thời Tây Sơn. Ở Trung Hoa, chọi gà cũng rất phổ biến. Khi còn làm thái tử, Đường Huyền Tông đã rất thích xem chọi gà vào tiết Thanh minh (tháng 3 ÂL). Khi lên ngôi, vua sai đặt trại gà ở giữa hai cung; sai lùng tìm đến cả ngàn con gà trống chọi có lông vàng, cựa cứng như sắt, mào cao, đuôi dài; chọn 500 đứa trẻ nhà binh trông nom gà. Bấy giờ, có người vì gà mà khuynh gia bại sản, song cũng có người nhờ gà mà tiến đạt. Như Giả Xương, đứa trẻ nuôi gà thần, nhờ gà mà được hưởng mọi vinh hoa, đúng như lời vè dân gian bấy giờ: "Con trai chẳng cần hay chữ nghĩa/Không gì hơn cưỡi ngựa, chọi gà/Trẻ nhà họ Giả mười ba/Giàu sang lừng lẫy, vinh hoa khác đời/Luyện cựa vàng biết chơi thắng cuộc/ Áo chẽn theo xe ngựa tế thần/Cha băng muôn dặm Trường An/Sai phu đưa đón, xe tang chật đường".

Giao thừa từ Giáp Thân sang Ất Dậu, hẳn còn nhiều điều lý thú có thể nói về gà. Nhưng trời sắp sáng rồi... "Đông phương quan hệ đắc giai thú/Kê minh vạn tượng sinh hào đoan". (Quan hệ Đông phương nhiều thú đẹp/Gà gáy muôn vẻ nảy nở đầu ngọn bút).

 

Một vài phong tục trong ngày tết tại Trung Quốc.^

Bài, ảnh Viên Minh

 

Tính theo âm lịch, Xuân tiết là ngày đầu năm, đối với người Hoa ngày này rất quan trọng, là một lễ tiết cổ truyền của Trung Quốc, cũng gọi là Nguyên đán, Nguyên nhật, Tân niên. Theo sử sách ghi, lại tục này khởi nguyên từ đời nhà Ân và Thương, đó là ngày tế tổ tiên, trời đất và chư thần trong ngày đầu tiên của một năm mới. Ðến đời Tây Hán, thì ngày Tết lại được chỉ định vào ngày cuối Xuân trong tháng Giêng, nhưng đương thời thì ngày Tết không phải là ngày mồng 1 tháng Giêng mà là tháng 12, tức ngày mồng 8 tháng 12 gọi là Lạp nhật, Lạp tế hay Lạp bát.

Từ Nam Bắc triều trở về sau, dời ngày Lạp tế vào cuối năm. Thời cổ đại, Tết âm lịch không gọi là "Xuân tiết", vì thời gian xuân tiết là một khoảng thời gian trước và sau khi Lập xuân khoảng ngày 4 tháng 2 DL, tức 13 - 14 tháng Giêng ÂL. Sau Cách mạng Tân Hợi, từ 1912 trở về sau người Trung Quốc bắt đầu dùng ngày tháng dương lịch, và ngày mồng 1 tháng Giêng âm lịch mới chính thức được gọi là " Xuân tiết". Trước kia, ngày mồng 8 tháng 12, người Trung Hoa có tục lệ phải ăn cháo Lạp bát cũng gọi là cháo Thất bảo ngũ vị (là loại cháo nấu có 8 thứ đậu và gạo trộn lẫn), nên thời cổ Trung Quốc cũng dùng ngày 8 tháng 12 để tế thần, ngày ấy cung đình và dân chúng cúng tế thần linh, trời đất, mong mỏi đem lại sự bình an, vật chất đầy đủ, bệnh tật tiêu trừ nên nấu loại cháo này trước để cúng tế thần linh sau đó dùng, rất là bổ dưỡng; nếu dùng còn thừa lại vài ngày sau là biểu hiện năm đó của cải có dư thừa; nếu đem loại cháo đó bố thí cho người nghèo thì biểu hiện sự tích đức. 

Khi Phật giáo truyền đến Trung Quốc, ngày này cũng là ngày Đức Phật Thích Ca thành đạo nên là một ngày vía của Phật giáo, vì thế tục truyền của Trung Quốc và Phật giáo có quan hệ với nhau về ngày 8-12 ÂL là như vậy.

Ðời nhà Tống (960-1297), người dân dùng cháo lạp bát để cúng Phật trong ngày vía nên còn gọi là cháo Phật hay cháo Công đức. Tục này có hơn một nghìn năm trên đất Trung Quốc, đến ngày 8-12 ÂL thì từ cung đình đến dân dã đều nấu loại cháo này để dùng.

Ðời nhà Minh (1368-1644), vua dùng cháo này để trọng đãi những quan lại trong triều, nên ngày 8-12 ÂL được gọi là Thực phẩm tiết.

Ðến đời nhà Thanh (1644-1911), tục này rất thịnh hành trong dân gian, ngày ấy trong triều đình nấu một nồi cháo to và thỉnh chư Tăng đến tụng kinh để cúng tế, từ vua quan đến quan lại và cung phi mỹ nữ trong triều đình đều đi chùa cúng dường chúng Tăng gạo và thực phẩm; trong dân chúng cũng nấu loại cháo này để cúng tế trời đất và chư thần, tế xong mọi người cùng nhau dùng cháo hay mang tặng những người thân quen.

Từ đó trở về sau, người Trung Quốc đến ngày 8-12 ÂL, nhà nhà đều phải nấu cháo lạp bát, mỗi địa phương có khẩu vị khác nhau nên cháo này không những nấu bằng 8 loại đậu, gạo mà là hơn 20 loại ngũ cốc và các loại quả khô biểu hiện sự phong phú. Trước kia thời kỳ đồ điện gia dụng chưa phổ biến, người ta dùng củi để nấu, chiều ngày mồng 7 bắt đầu nấu đến sáng ngày mồng 8 thì cháo mới chín, nấu lửa thật nhỏ thì cháo mới ngon.

Tương truyền trong thời cổ, đến ngày 8-12 ÂL, các loại gia cầm cũng được cho ăn cháo lạp bát, và thiên đình phái người quản lý xuống trần gian kiểm tra đời sống của các loài động vật biểu hiện sự quan tâm. Tục dùng loại cháo này ngày nay vẫn còn duy trì.

Ðến ngày 23 tháng 12 tức là tế thần Táo, một trong những vị thần khác mang lại họa phước tốt xấu, mong mỏi năm mới đến được cơm no áo ấm. Trong thời gian này, mọi nhà đều quét dọn sạch sẽ, khử trừ cấu uế, đề phòng bệnh tật. Ðến ngày 30 tháng 12 thì nhà nhà dán liễn Tết, thần môn, hay dán chữ Phước, làm bánh Tết, ăn bánh sủi cảo, ăn chè ỷ, bắn pháo bông, trong đêm trừ tịch thì con cháu trở về nhà cha mẹ trước cúng tế thiên địa, thần linh, sau là bái tổ tiên, và dùng bữa cơm đoàn tụ. Ngày mồng 1 thì con cháu trong nhà phải chúc phúc cho ông bà cha mẹ, dần dần trở thành truyền thống, nên ngày Tết cổ truyền của Trung Quốc cũng là ngày để gia đình có dịp đoàn tụ, chúc phúc và hy vọng mọi điều tốt đẹp sẽ mang đến, và xuân tiết cũng là ngày tượng trưng cho sự đoàn kết và hạnh phúc của người Trung Quốc. Những tập quán này ngày nay ít nhiều có thay đổi theo từng địa phương.

Ngày nay, Trung Quốc, Ðài Loan, Việt Nam và Singapore dùng ngày mùng Một tháng Giêng làm ngày Tết truyền thống, và người Hoa gọi Tết là "Quá niên" tức là bước sang một năm mới. Có truyền thuyết liên quan đến chữ "Niên", tương truyền rằng: Ngày xưa có một loài thú quái lạ, tính rất hung dữ, người ta gọi là con "Niên", mỗi năm chúng xuất hiện vào những ngày cuối năm và làm tổn hại người dân trong làng. Một lần nọ, vào một đêm 30 tháng 12, con "Niên" xuất hiện trong làng, cũng là lúc trẻ con đang chơi trò đánh trâu, tiếng roi quất trâu phát ra tiếng kêu pằng pằng…, nó sợ quá và chạy một mạch đến làng bên cạnh lại thấy nhà kia phơi hai cái áo màu đỏ trước cửa, nó lại quá sợ và cắm đầu chạy tiếp tục đến làng khác, thấy người trong làng đốt đèn ánh sáng lấp lánh "Niên" lại sợ nữa và chạy mất. Từ đó người dân trong làng biết Niên sợ tiếng kêu như tiếng pháo nổ, màu đỏ và ánh sáng đèn, nên đến ngày ấy, tức ngày 30 tháng Chạp, người dân nhằm đề phòng con Niên xuất hiện nên nhà nhà đều treo lồng đèn màu đỏ, dán liễn đỏ để trong làng được bình an, biểu hiện mọi sự bất ổn đã đi qua và điều cát tường sẽ đến, tục này dần trở thành một phong tục.

Ngoài ra còn có truyền thuyết về bánh Tết " Niên cao", niên là năm, cao là loại bánh làm bằng bột nếp khuấy đặc lại, và đổ trong khuôn bánh sau đó cắt thành những lát mỏng và chiên lên, có hai vị mặn và ngọt, lớn nhỏ tùy theo sở thích mỗi người, sau này người ta pha chế thêm nên bánh có nhiều màu và hoa hòe nhìn cho đẹp mắt. Tục dùng loại bánh này bắt đầu thời đại nhà Ngô, tương truyền khi vua nước Ngô là Hạp Lư muốn xây dựng thành quách để bảo vệ bờ cõi, liền mệnh danh tướng Ngũ Tử Ðản xây dựng đại thành Hạp Lư, xây xong n hà vua vui mừng nên triều đình mở tiệc chiêu đãi quan lại và dân chúng, ngày ấy mọi người đều vui vẻ riêng Ngũ Tử Ðản thì buồn bã một mình trở về doanh trại, ông ta trong lòng không vui và dặn dò với mọi người xung quanh: "Sau khi tôi chết, nếu quốc gia gặp đại nạn, dân chúng đói khát không có thức ăn thì đến cửa Tương (một trong 6 cửa thành lớn ở Giang Tô), đào dưới chân tường sâu xuống 3 xích (khoảng 90cm) sẽ thấy thức ăn". Sau đó Ngũ Tử Ðản bị hàm oan nên tự vận chết, bấy giờ nước Ngô bị nước Việt đánh, dân chúng lâm và cảnh cơ hàn, lúc đó có người nhớ lại lời dặn của Tử Ðản mà đến cửa Tương đào tường thành, phát hiện tường không phải dùng xi-măng xây mà là dùng bột nếp trộn với đường làm thành gạch để xây tường, dân chúng liền dùng nó để giải trừ nạn đói. Từ đó, người tỉnh Giang Tô để ghi nhớ công lao của ông ta nên mỗi khi đến ngày Tết nhà nhà đều làm bánh "Niên cao" để tưởng nhớ Tử Ðản và cúng tổ tiên, sau là dùng trong những ngày Tết, về sau trở thành phong tục. Loại bánh này hiện nay cũng là một trong những đặc sản của tỉnh Giang Tô. Người Trung Quốc cho rằng loại bánh này ngoài việc tưởng nhớ công lao của tướng Tử Ðản còn mang lại cho người ta một vận mạng tốt đẹp, vì chữ "Cao" là bánh ở đây đồng âm với âm "Cao" với nghĩa đi lên hay ý chỉ sự phát đạt, nên Niên cao còn mang nghĩa là mỗi năm mỗi phát đạt, vận mệnh mỗi năm mỗi đi lên.

Ở Trung Quốc, người phương Nam thích dùng bánh Tết (niên cao) và chè ỷ(gọi là chè đoàn tụ), người phương Bắc thích ăn bánh sủi cảo (còn gọi là há cảo), âm Hán Việt gọi bánh này là "Giảo Tử", chữ Tử trong 12 con giáp đọc là Tý, giờ Tý là "O" giờ, là giờ giao điểm của một năm cũ và năm mới, ý nói tên loại bánh này tiêu biểu cho giờ giao nhau của hai năm, nên trong đêm trừ tịch giờ giao thừa phải ăn bánh này. Ngoài ra người ta còn nấu những loại thức ăn có hình tròn biểu hiện sự đoàn viên, còn hình dài thì biểu hiện sự trường thọ như loại cải có hình dáng dài, và màu đỏ tượng trưng cho sự cát tường.

Trong ba ngày Tết, người ta đi lễ tổ tiên hay mừng tuổi ông bà cha mẹ, thăm hỏi bạn bè. Con cháu phải mừng tuổi ông bà và phải có bao lì xì cho ông bà, ông bà cũng phải chuẩn bị hồng bao (bao lì xì màu đỏ bên trong có tiền) cho con cháu đồng thời chúc những lời tốt đẹp. Ngoài ra còn có tục tặng trái quýt, vì loại trái này người Trung Hoa gọi là trái cát tường, ngày Tết tặng trái này là biểu hiện mang lại điềm tốt lành cho người thân thích và bạn bè. Người Trung Quốc có tập quán là trong những ngày lễ truyền thống, là những ngày hân hoan vui vẻ họ muốn tưởng nhớ đến tổ tiên nên bất kỳ ngày lễ nào trước cũng phải bái tổ tiên, và ngày Tết cũng nằm trong thông lệ ấy.

Khách ngoại quốc khi đặt chân đến nhà người Hoa ai cũng ngạc nhiên với những chữ " XUÂN", "PHƯỚC"…. được dán ngược đầu trở lại, người Trung Quốc quan niệm rằng: dán ngược lại tức là đảo, âm tiếng Hán đọc chữ "Ðảo" đồng âm với chữ "Ðáo", mà đáo là đến, Xuân đảo đồng nghĩa với Xuân đáo tức là xuân đến, những chữ khác cũng có ý nghĩa tương tự như vậy.

Người Việt Nam ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc nên ngày Tết cũng dùng ngày 1 tháng Giêng âm lịch làm ngày Tết cổ truyền, là ngày kết thúc một năm cũ, bước sang một năm mới mong mỏi mọi điều tốt lành sẽ đến với mình. Những tập tục cúng tế trong ngày Tết cũng là để con người biểu hiện một ước mơ, nguyện vọng tốt đẹp trong cuộc sống hiện thực, là dịp để gia đình đoàn tụ.

 

Những lời cầu mong

Diệu Tịnh (dịch)

Xuân về, trước thềm năm mới, xin gởi những lời cầu mong tốt đẹp đến với mọi người trong từng phút giây, trong từng ngày, từng tháng năm và trong suốt cuộc đời; để người người được an lạc, để Tịnh độä ở cõi hồng trần này hiện hữu và nở hoa.

1 - Cầu mong bạn có được sự an lành và thanh thản trong một thế giới có nhiều điều mà chúng ta không thể hiểu được.

2 - Cầu mong sự đau khổ mà bạn phải gánh chịu, cũng như những xung đột mà bạn từng đương đầu sẽ cho bạn sức mạnh, giúp bạn vươn lên, đối mặt trước những thử thách với tinh thần dũng mãnh và lạc quan.

Hãy luôn nhớ rằng có một người hiểu và thương quý bạn. Người đó luôn ở bên cạnh bạn, ngay cả lúc bạn thấy cô độc nhất.

3 - Cầu mong bạn sẽ thấy được lòng tốt của người khác, để có được niềm tin vào một thế giới an lành.

4 - Cầu mong một lời nói dễ thương, một cử chỉ làm an lòng, một nụ cười ấm áp sẽ tặng cho bạn trong cuộc sống hàng ngày.

Và cầu mong bạn tặng lại những món quà giống như thế cho người khác khi bạn nhận được chúng.

Hãy nhớ rằng mặt trời vẫn tỏa sáng dù cơn giông bão dường như kéo dài vô tận. Hãy hiểu rằng một người thương quý bạn thật sự là khi họ không có mặt bên cạnh, nhưng bạn vẫn cảm nhận được tình thương và sự quan tâm của người ấy.

Hãy nhớ rằng những xung đột và khổ đau trong cuộc sống mà bạn phải chịu đựng sẽ ít hơn so với những mơ ước và hạnh phúc mà bạn sẽ có.

5 - Cầu mong những điều mà bạn cảm thấy mình bị khiếm khuyết sẽ trở thành thế mạnh của bạn trong tương lai.

Cầu mong bạn thấy tương lai của mình như là một người có đầy đủ triển vọng và đầy khả năng.

6 - Cầu mong bạn có đủ sức mạnh tinh thần để tự mình quyết định mọi việc trong những tình huống tệ hại, mà bất cứ người nào cũng không thể phê phán kết quả đó của bạn.

7 - Cầu mong bạn luôn cảm nhận được sự thương mến.

Diệu tịnh  biên dịch

 

- Thú vui ngày Tết: bài chòi, hát bội.^

 

Trà Kim Long

Hồi trước, ở quê tôi (Khánh Hòa) người ta gọi hát bội chứ không ai gọi hát bộ (có chồng say như trong chay ngoài bội), còn bài chòi thì gọi là hô chứ không gọi là hát hay ca (hô bài chòi). Cái nôi của bài chòi, hát bội ở Nam, Ngãi, Bình, Phú (Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên) nhưng không dừng ở đó, mà lan tỏa sang các tỉnh thành lân cận, tạo nên một sự say mê trong mọi tầng lớp nhân dân. Hát bội có thể chia thành nghiệp dư và chuyên nghiệp. Chuyên nghiệp thì có đoàn, có rạp hát, có sân khấu, có bán vé cho người xem, thường hay biểu diễn ở nơi thị trấn, thành phố... Còn nghiệp dư là những người sinh sống bằng đủ thứ ngành nghề trong xã hội. Vào những dịp Tết hay có hội hè, lễ lạt, được làng hoặc cá nhân, tổ chức mời hát giúp vui, họ mới tập trung nghệ sĩ lại. Nơi trình diễn thường vẫn là chốn chùa chiền, đình làng hay tại nhà phú hộ. Sân khấu lộ thiên và không bán vé.

Cũng như hát bội nghiệp dư, nhưng bài chòi có tính cách bình dân, đơn giản hơn nhiều. Vài người ngồi lại với nhau, chỉ với một cây đàn cò trợ lực, cũng có thể hô thành bài bản, không cần phải sân khấu, áo quần, đờn địch rườm rà. Khi nào cần mới tập trung đầy đủ bộ sậu.

Vào những dịp Tết, làng quê thường hay tổ chức hát bội, bài chòi để vừa góp vui, vừa "bói" may mắn đầu năm.

Hồi tôi còn nhỏ, Tết năm nào cũng được có dịp đi xem hát bội, nghe hô bài chòi, lấy làm thích thú lắm!

Hát bội được tổ chức ngay giữa sân chùa Ông (miếu thờ Quan Công người ta vẫn quen gọi là chùa Ông). Dĩ nhiên, toàn là nghệ sĩ nghiệp dư. Khán giả là những nông dân quanh năm đầu tắt mặt tối, thơi thả được mấy ngày Tết truyền thống, kéo nhau đến xem một cách háo hức.

Nói nghiệp dư nhưng cũng vẽ mặt, trang phục, kèn trống đầy đủ lệ bộ hợp với vai diễn, tuồng tích. Vở diễn thuộc về loại tuồng cổ (hồi đó, đề tài xã hội chưa được ưa chuộng) như: "San hậu", "Phụng Nghi Đình", "Chung Vô Diệm", "Tiết Đinh San cầu Phàn Lê Huê"... Mỗi vở tuồng đều kéo dài nhiều đêm, có khi đến cả tuần lễ, mười ngày chưa hết, tạo nên sự thu hút, khán giả khó có thể bỏ cuộc nửa chừng được.

Hồi trước ăn Tết không phải chỉ có 3 ngày, mà là 7 ngày. Có nơi kéo dài cho đến Tết Nguyên tiêu (rằm tháng Giêng) mới dứt. Dù nghèo khổ cách mấy cũng tạm thời để sang một bên, vui chơi cho thỏa thích cái đã! Ông bà ta bảo: "Tháng Giêng là tháng ăn chơi" mà!

Cứ mỗi buổi chiều, khi mặt trời vừa lặn, nghe tiếng trống giục vang ra từ giữa làng như mời gọi mà lòng nghe náo nức, vội vội vàng vàng lo thu xếp mọi công việc nhà, kéo nhau về hướng chùa Ông, tranh thủ đến trước để còn có thể tìm chỗ ngồi thích hợp, dù là ngồi bệt dưới nền đất. Một vài hàng ghế phía trước "sân khấu" để dành riêng cho những chức sắc hay người quyền quý trong làng. Ai đến trễ thì phải đứng chen chúc bên ngoài, nhón chân nhìn vô.

Tuy không ghế ngồi, nhưng khán giả đều giữ yên lặng thưởng thức điệu múa, lời ca hết sức trật tự.

Mỗi lần diễn thường đến nửa đêm mới dứt. Đến lúc vãn cuộc người xem vẫn còn thấy luyến tiếc nên trên đường về không ngớt bàn tán tài ba của nghệ sĩ, nhận xét các nhân vật trung nịnh, thiện ác trong vở tuồng... râm ran cả đường làng khuya.

Nếu hát bội được tổ chức hát vào ban đêm, địa điểm thường ở đình chùa, thì bài chòi lại tổ chức vào ban ngày, thường là mượn địa điểm nơi chợ trong những ngày chợ nghỉ bán. Các chức sắc trong làng trưng dụng lòng chợ dựng lên 12 cái chòi dã chiến nằm song song theo chiều dài. Ở giữa, trên mặt nền được trải chiếu làm "sân khấu" để nghệ sĩ trình diễn. Phía đầu chợ là nơi để cho các quan chức ngồi xem, đánh chầu... và là nơi dựng ống thẻ dùng để đánh bài chòi. Người ta dùng các quân bài tứ sắc để làm thẻ. Gồm có 12 thẻ cái lớn bằng cỡ hai ngón tay, viết chữ Nho lên đó bất kỳ 3 tên quân bài, đủ 4 màu: đỏ, vàng, xanh, trắng.

Số thẻ còn lại nhỏ hơn, chỉ bằng một nửa thẻ cái, và chỉ dán lên quân bài trong bộ tứ sắc, gọi là thẻ con. Số lượng thẻ con vừa đủ quân của bộ tứ sắc.

Mỗi đợt chơi có 12 người mua 12 thẻ cái ngồi trên 12 chòi. Số người còn lại đứng vòng quanh vừa để xem hô bài chòi, vừa nếu muốn, đợi đến phiên mình mua thẻ lên chơi, bói may rủi đầu năm. Có người mê đến nỗi ngồi mãi cho đến mãn cuộc mới chịu thôi. 12 người chơi mua 12 phần tiền, chỉ có một người trúng. Nhưng nếu trúng thì chỉ nhận được 10 phần, 2 phần còn lại dùng để sử dụng vào việc chi phí chung của cuộc chơi, kể cả tiền bồi dưỡng cho nghệ sĩ.

Trong khi giữa sân các nghệ sĩ trình diễn thì người "chạy hiệu" lắc lắc ống đựng thẻ, rút may rủi mỗi lần ra một thẻ, xướng lớn tên quân bài trong thẻ ấy. Người giữ thẻ cái nào có quân bài phù hợp thì gọi lại, nhận lấy thẻ con này. Khi nào thẻ cái đủ cả 3 thẻ con trùng hợp thì người ấy hô "tới". Người chạy hiệu để tiền trên một chiếc khay kèm theo một lá cờ bằng giấy hình tam giác đến cho người may mắn. Mỗi lần "tới" thì gọi là 1 cờ.

Như đã nói, hô bài chòi không cần phải có sân khấu. Họ trình diễn ngay trên những chiếc chiếu trải nơi giữa lòng chợ. Cả ban nhạc kèn trống cũng đều ngồi xếp bằng nơi đây. Áo mão cân đai, trang điểm... cho các nhân vật cũng có tính cách tượng trưng. Những vở diễn thường lấy theo tích xưa như "Thoại Khanh Châu Tuấn", "Ông Trượng Tiên Bửu", "Lâm Sanh Xuân Nương", "Phạm Công Cúc Hoa" v.v... Đoạn nào trình diễn hay, nghệ sĩ nào hô giỏi, người cầm chầu thấy thích thú thì vãi thẻ ra sân để thưởng. Nghệ sĩ cứ nhặt lấy thẻ ấy đến đổi số tiền tương ứng.

Thẻ thưởng khác với thẻ chơi bài chòi. Mỗi thẻ quy bằng bao nhiêu tiền thì do nơi sự quy ước từ đầu.

Người xem cứ xem, người đánh cứ đánh, nghệ sĩ hô cứ hô, thật là một cảnh vui ngày Tết chỉ thấy có ở thôn quê ngày xưa.

Nửa thế kỷ qua, bây giờ tôi không còn có dịp thưởng thức thú vui như hồi còn nhỏ nữa. Bài chòi, hát bội đã vắng bóng trên quê tôi. Ngày Tết, người ta tìm nhiều thú vui khác theo với trào lưu mới. Nhưng trong tôi, ấn tượng ngày xưa không thể nào quên được. Mỗi năm về quê ăn Tết, họa hoằn nghe được tiếng trống làng bên, lòng nao nao nhớ lại kỷ niệm của những ngày xưa cũ lạ thường.

 

Gió xuân.^

 

Tùy bút của Nguyễn Vĩnh Nguyên

 

Mùa Đông thả những giấc mưa lang lang qua trời thành phố chóng vánh như những cuộc ghé thăm vội vàng. Mặc. Đường phố vẫn thao thiết rộn ràng không một giờ an nhiên. Sáng sớm, bước ra có khi đã bực mình với những nút đường ùn tắc, phải ngửa mặt lên trời ngoi ngóp hít chút gió lành giữa đám tạp khí khói bụi ngờm ngợm… Gió. Cái khái niệm bình thường ấy thường bị quên lãng trong đầu óc kẻ nhàn rỗi bay bổng và thừa hơi tán hươu tán vượn. Gió. Hình như từ lâu lắm, người ta vô tình với nó khi cuộc sống có quá nhiều chuyện để nhớ.

Sáng. Đến cơ quan. Vào phòng, việc đầu tiên là bấm máy lạnh như một phản xạ, dù ngoài trời đang nắng hay mưa. Từ lâu, gió trời không còn ý niệm trong trí nhớ tôi. Vì từ lâu lắm rồi, không gian phòng máy lạnh đã trở nên môi trường sống thường trực. Nó làm cho cơ chế sinh học người ta cũng thay đổi để thích nghi dễ dàng. Ví dụ, ngoài phản xạ vào phòng là tìm chỗ bật máy lạnh ra, còn cảm thấy cái hơi lạnh phát ra từ chiếc máy trên đầu mình trở nên thân quen lạ, đến nỗi không có nó, là thấy không khí ngột ngạt và bức bối kinh khủng.

Máy lạnh làm chủ không gian sống: phòng ngủ máy lạnh, nhà bếp máy lạnh, cơ quan máy lạnh, phòng họp máy lạnh, tàu xe máy lạnh, toilet máy lạnh… Cứ đóng cửa lại và bật nút là có ngay chút ôn hòa cần thiết dù không biết ngoài kia đang là mùa gì, xuân, hạ, thu, đông… Nóng lạnh không còn là chuyện của thời tiết nữa mà là chuyện của con người ta. Về cơ bản, con người ta đã thay thế thiên nhiên khi chính thiên nhiên đang bất lực như một cỗ máy ngày càng thoái hóa trước sức tác động khủng khiếp của con người. Vậy, chắc gì cái không gian xuân hạ thu đông trong căn phòng máy lạnh kia sẽ thay được gió trời và không khí trong lành khi xui xẻo xảy ra một sự cố nào đó bất thường (đơn giản như cúp điện chẳng hạn?).

Bà tôi vẫn ngồi trên chiếc chõng tre, dưới mái hiên rợp những bóng xoài rậm tán, tay cứ lùa gió mùa thu bằng chiếc quạt mo cau mà hát ầu ơ. Bà vẫn ngồi đó. Bàn tay già nua cứ chập chờn trên vòng nôi cái nhịp điệu chầm chậm dịu êm. Gió mang hương vườn trưa hoang hoải thổi qua từng chiêm bao hồn hậu ngọt lành. Gió vẫn xối từ trên đỉnh trán ru tôi những giấc ngủ đầu tiên làm người. Rồi tôi đã níu ngọn gió ấy đứng lên, bước ra cuộc đời. Mười mấy năm gió quê cứ vi vút thổi những triền miên thơ ấu qua lòng. Bảy năm trời gió phố thổi miệt mài những bước chân tha phương cầu thực đầy trở trăn dặm trường. Gió. Và gió… Những ngọn gió đều thổi từ trên đỉnh trán tôi, hiu hiu khóe mắt vừa dùng dằng hoài niệm vừa đành đoạn lãng quên… Gió buông tuồng thổi giạt chiêm bao làm thâm sâu những cơn bão lòng. Gió dìu dặt thổi tràn ảo mộng những cuộc chồn chân. Gió ngả nghiêng du lãng trong cơn say dài ngày không hứa hẹn thời nguôi quên của tình yêu và thân phận…

Gió.

Và gió.

Mấy chục năm sau, gió từ bến sông ấy vẫn thổi hắt vào chiều quê mùi nồng nã bùn non từ rạ rơm phồn sinh, từ phiêu linh những cánh rong trôi lêu bêu, từ cao thấp những bước chân gái quê ngày biệt bến sang sông không hẹn lần về. Để bà có mẹ. Mẹ có con. Mấy chục năm sau, quạt mo cau vẫn ầu ơ khúc ru hời hởi ru tự thời nào xa lắc cánh cò, xa lơ cổ tích. Và mấy mươi năm sau, gió vẫn bồi hồi tóc mai thiếu nữ buổi đầu bâng khuâng mắt chạm mắt sững sờ tuổi yêu. Để một ngày hoài niệm đau đáu trôi về khi tôi đọc được đâu đó những câu thơ hoang hoải gió: "Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi/ Hổn hển như lời của nước mây/ Thầm thỉ với ai ngồi dưới trúc/ Nghe ra ý vị và thơ ngây" (Mùa xuân chín - Hàn Mặc Tử)...

Vẫn ngọn gió đồng kia miệt mài ngày ruổi phố xênh xang mà đôi khi tiếc ngậm tiếc ngùi một ngọn khói rạ ngun ngún cháy cuối đồng... Gió, vẫn xối từ trên trán tôi như một bàn tay ngọt ngào mà buồn bã bể dâu chi lạ. Mới chỉ mấy mươi năm thôi, gió thổi giạt mấy nẻo đời người rồi. Mấy mươi năm ấy có là gì trong thiên thu lộng gió này. Và một đời người trăm năm có là gì trong vô cùng những chuyến gió thổi qua trùng trùng vạn kiếp phù sinh…

Gió.

Và gió…

Tôi như đứa trẻ cầm đoạn cước hoài niệm lần về đồi xưa tìm lại con diều giấy đã gửi lại mấy tầng gió chướng. Đứa bé òa khóc khi cánh diều đã tự đốt mình thành khói mây trắng dật dờ trôi cuối trời xa. Và ngày hôm sau, qua một chuyến gió vội vàng, khói mây kia đã hóa giấc mộng ảo ảnh giữa tim người. Thực và mộng cách nhau cũng chỉ một cánh gió vô tình mà thôi…

Gió. Vẫn thổi từ đỉnh trán tôi làm bơ phờ mái tóc đã lấm tấm những sợi sương tâm tưởng. Gió đang chùng chình thổi theo từng cung bậc nhớ quên, yêu ghét, vui buồn … Gió bao dung. Và gió cũng lạnh lùng đến nghiệt ngã. Những cánh cửa sổ đều khép kín. Ngoài kia, trời đang lây phây mưa giêng. Gió trong tôi còn lạnh quá. Vẫn là gió xối từ đỉnh trán sao nghe đều đặn một hơi dài giá buốt nào đó tự thâm sâu ùa về. Gió vẫn thổi lòa xòa tóc xanh đỉnh trán tôi, bợt bạt những gam màu hoài niệm. Tôi phải mở tung cánh cửa kia ra để chờ đón vào mình những chuyến gió đồng rong ruổi phố. Tôi không thể bị chiếc máy lạnh vô hồn kia phả vào ý niệm mùa màng quá đỗi xa xôi!

Biết bao giờ ngồi lại đồi xưa nghe gió mây đi qua, lòng an nhiên như những chiều nằm nghe gió trời về phiêu dạt triền sông?

 

Vài nét về Đạo tràng Mai Thôn ^

 

Đạo tràng Mai Thôn là một trung tâm tu học quốc tế tại miền Nam nước Pháp, đã được Thiền sư Thích Nhất Hạnh thành lập cách đây 25 năm.

Đạo tràng ở cách thành phố Bordeaux một giờ xe hơi. Đạo tràng cũng có nhiều trung tâm tu tập tại các nước Tây phương.

Đức: Từ Thị (tại Hohenau Bavaria), Nguồn Chánh Niệm (tại Munchen), Nguồn Suối Thương (tại Berlin).

Mỹ: Tu viện Lộc Uyển (tại Escondido-California), các tu viện Thanh Sơn, Rừng Phong (tại Vermont).

Canada: Làng Cây Phong (tại Montreal).

Úc: Làng Sen Búp (tại Sydney).

Tại đạo tràng Mai Thôn, đại chúng tu tập dưới sự hướng dẫn của Thiền sư Thích Nhất Hạnh và sự hỗ trợ của các vị giáo thọ xuất gia và tại gia.

Giáo lý và pháp môn tu tập tại Làng Mai có gốc rễ truyền thống văn hóa và Phật giáo Việt Nam, nhưng đã được hiện đại hóa để thích ứng với hoàn cảnh, văn hóa, kinh tế, tâm lý và xã hội hiện tại. Pháp môn thực tập này có tính hữu hiệu, đáp ứng được nhu cầu của các giới trí thức và thanh niên Tây phương. Những khóa Thiền tập tổ chức hàng năm tại các nước châu Âu, châu Á, châu Mỹ và châu Úc được mọi người tới tham dự rất đông đảo. Tại các địa phương ở nhiều thành phố trên thế giới, thiền sinh đã tự đứng ra thành lập những nhóm tu học để có thể đến với nhau và duy trì sự thực tập.

Những người trẻ Việt Nam sinh ra và lớn lên tại hải ngoại nhờ pháp tu tập của Làng Mai đã tự hòa giải được với chính mình, với những người thân trong gia đình và có cơ hội trở về với văn hóa truyền thống dân tộc.

Sách báo và băng giảng của Thiền sư Nhất Hạnh đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và phát hành rộng rãi trên thế giới, kể cả Trung Quốc và Nga. Từ tháng 11 năm 2004, một số sách của Thiền sư đã chính thức được lưu hành trong nước, điều đó đem lại niềm vui rất lớn cho bạn đọc trong và ngoài nước.

Số lượng các vị xuất gia tại đạo tràng Mai Thôn là 250 vị, đến từ 20 quốc gia trên thế giới. Dòng tu Tiếp Hiện (thành lập tại Việt Nam vào năm 1966, được thể hiện trong 14 giới) có hơn 800 thành viên và đã trở thành một đoàn thể tu học quốc tế. Số lượng các vị giáo thọ xuất gia và tại gia đang giảng dạy tại Làng Mai và trên thế giới đã lên tới 156 vị.

Cùng với các vị giáo thọ tại đạo tràng Mai Thôn, Thiền sư Nhất Hạnh đã mở nhiều khóa tu tại nhiều nước Tây phương cho các giới văn nghệ sĩ, diễn viên điện ảnh, các nhà làm phim, bác sĩ, các nhà tâm lý trị liệu, thương gia, phụ huynh, thanh niên, nhân viên an ninh, dân biểu, tác viên xã hội về hòa bình và bảo vệ sinh môi... Đặc biệt cũng có các khóa tu cho nhân viên và các tù nhân trong một số nhà tù ở Pháp, Mỹ.

Từ năm 2000 đến 2004, Làng Mai liên tiếp mở những khóa tu cho nhiều nhóm người đến từ các nước Palestine và Israel.

Trong thời gian Thiền sư Nhất Hạnh và phái đoàn thăm viếng và thuyết pháp tại Việt Nam, quý vị sẽ có cơ hội làm quen với đoàn và những pháp môn thực tập của Làng Mai.

(Theo tư liệu Đạo tràng Mai Thôn)


 

---o0o---

Nguồn: www.chuyenphapluan.com

Trình bày: Nhị Tường

Cập nhật: 1-2-2005

 

Webmaster:quangduc@tpg.com.au

Trở về Trang Tập San Phật Học

Đầu trang

 

Biên tập nội dung: Tỳ kheo Thích Nguyên Tạng
Xin gởi bài mới và ý kiến đóng góp đến ban biên tập qua địa chỉ:
quangduc@tpg.com.au