Tiếng Việt

Trang nhà Quảng Đức

   Tiếng Anh 

qd.jpg (8936 bytes)

Tập san Phật Học


...... ... .

 

 

TỈNH HỘI PHẬT GIÁO KHÁNH HÒA

BAN HOÀNG PHÁP

 

PL 2548 - 2005

Nội san
 PHẬT THÀNH ĐẠO

1

Mục Lục

 

- Lời giới thiệu. HT  Thích Thiện Bình

- Lời nói đầu

- Một kiếp bềnh bồng.  Thích Trí Viên

- Người chiến thắng. Thích Thông Huệ

- Thành Đạo (Thơ).  Như Minh

- Kinh Cứu La Đàn Đầu. Thích Thiện Tấn

- Sự khác nhau giữa giới luật và luật pháp. Thích Tâm Hạnh

- Ý nghĩa Đức Phật Thành đạo. Thích Tâm Minh

- Theo bước chân Phật. Thích Nhật Hiếu

- Ánh trăng với ý nghĩa chân lý trong đêm Thành đạo. Thích Tâm Tôn

- Đức Phật - Bậc Giác ngộ với hạnh Bồ Tát.Thích Tâm Tri

- Ngày Thành đạo và con đường của Đức Phật. Giác Nghiêm

- Sóng vô thường .Nguyên Chơn 

- Tìm hiểu ý nghĩa Thành đạo của Đức Phật. Thích Thánh Minh

- Giấc mơ ngày Thành đạo. Phúc Châu

- Thâm tín chư Phật giai sung mãn. Thích Nữ Diệu Vân

- 32 tướng tốt của bậc Đại nhân . Thích Thông Huệ

- Phật giáo thời hiện đại. Nguyên Chơn dịch

- Lá Thư không gửi . Nguyên Tịnh

- Nếp sống của người Phật tử đúng chánh pháp. Thích Tâm Minh

- Cảm ơn tứ đại (Thơ) .Thiện Năng

- Tìm hiểu ý nghĩa Tam chuyển pháp luân thập nhị hành. Thích Thánh Minh

- Pháp dược (Thơ) .Thiện Năng

- Đường lầy, Một tách trà (sưu tầm).Diệu Vân

- Ngẫm…! (Thơ).Huyền Chi Hựu Huyền

- Như một thông điệp (sưu tầm).Nguyên Tịnh

 

Lời giới thiệu ^

 

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT 

Cùng với các Ban Ngành trong Giáo Hội, Ban Hoằng Pháp tuy nhân sự không nhiều, nhưng với trách nhiệm và sự cố gắng của mình, quý vị trong Ban đã đóng góp công tác Phật sự thật đáng tán dương.

- Ban đã phân công các vị giảng viên đến thuyết giảng các cơ sở trong thành phố vào những ngày sóc vọng và các Đại lễ: Phật đản, Vu lan, Thành đạo, khánh thành Tự, Viện… các Đạo tràng Pháp Hoa, thọ Bát…

- Giảng dạy cho lớp học Phật pháp Cư sĩ Áo lam TP Nha Trang liên tục trong nhiều năm qua.

- Đã hoàn thành bốn tập Giáo trình, làm tài liệu giảng dạy cho Ban Hoằng Pháp.

- Mỗi năm thực hiện “Nội san Vu lan” vào rằm tháng bảy.

- Năm nay cho ra mắt số đầu tiên “Nội san Phật Thành đạo” nhân kỷ niệm ngày Đức Từ phụ Thành đạo PL 2548.

Đây là những việc làm đáng tán thán. Tôi xin có mấy lời giới thiệu đến Chư Tôn Đức Tăng, Ni cùng toàn thể Phật tử.

Rất mong được sự quan tâm giúp đỡ của Chư Tôn Tôn Đức và Tăng, Ni, Phật tử để Ban Hoằng Pháp hoàn thành được trọng trách của mình, pháp âm được đến với mọi người.

 

TM. THƯỜNG TRỰC BTS TỈNH GHPG KHÁNH HÒA

TRƯỞNG BAN

HT. THÍCH THIỆN BÌNH

 

Lời nói đầu ^

“Chiến thắng vạn quân không bằng chiến thắng chính mình. Chiến thắng chính mình là chiến công oanh liệt nhất”. Trong Đêm Huyền Diệu, một người bình thường vừa lập nên chiến công oanh liệt, trở thành bậc Tôn sư được Trời người kính ngưỡng. Đêm đánh dấu bước chuyển mình vĩ đại ấy được gọi là Đêm Thành đạo, khởi đầu một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên của trí tuệ và từ bi, của Giác ngộ và Giải thoát.

Đã hai mươi lăm thế kỷ trôi qua, ánh sáng giác ngộ của Đức Bổn Sư vẫn còn rạng ngời trong lòng những người con Phật, pháp âm vi diệu của Ngài vẫn còn vang vọng khắp cõi Diêm-phù-đề. Biết bao cuộc đời đau khổ nhờ lời dạy của Ngài đã được bình an, biết bao tập thể tu hành theo giáo pháp của Ngài đã tự xây dựng Tịnh độ ngay trong trần thế. Và trên tất cả, đã có biết bao vị chân tu thực học, theo đúng con đường Ngài đi, đã vượt thoát nỗi khổ triền miên của luân hồi sinh tử. Nếu không có thời điểm sao Mai vừa mọc trong Đêm Huyền Diệu ấy, Sa-môn Cồ-Đàm đã không trở thành Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, không có giáo pháp lưu truyền và không có Tăng đoàn hoằng dương chánh pháp. Cho nên có thể nói, Đêm Thành đạo là đêm khai sinh của Tam Bảo trên thế gian này.

Hàng tứ chúng con Phật chúng ta hôm nay, cùng lắng sâu tâm thức, hướng về thời khắc thiêng liêng ấy, nhớ nghĩ về nhân cách vĩ đại của Đức Bổn Sư, nguyện đời đời tu hành theo lời Ngài chỉ dạy. Để rồi, một ngày nào đó đủ duyên lành, khi hoa tâm khai mở, ta chợt nhận ra rằng Bồ đề Đạo tràng - nơi Đức Phật thành đạo ngày xưa, cũng là vườn tâm của chính ta hôm nay. Và thời khắc trọng đại khi sao Mai vừa mọc ngày nào, cũng chính là thời điểm hiện tại - một sát na mà vĩnh cửu!

Để kỷ niệm và tôn vinh Đêm Thành đạo của Đức Bổn Sư, Ban Hoằng Pháp Tỉnh Giáo Hội Phật Giáo Khánh Hòa xin gửi đến quý vị tập san này. Do những ngòi bút không chuyên viết ra, nhưng tất cả đều muốn thể hiện tấm lòng thành kính của những người con dâng lên Đấng Cha lành. Những bài viết như là những đóa hoa, những cọng cỏ nhỏ nhoi, nhưng cũng xin góp phần tô điểm cho khu vườn Đạo pháp thêm đậm đà hương sắc. Lực bất tòng tâm, kính mong chư tôn thiền đức, chư vị độc giả hoan hỷ chỉ bảo những thiếu sót trong tập san này, để những tập san tiếp theo có thể được hoàn thiện hơn. 

Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật

-Ban Biên Tập-

 

 

Một kiếp bềnh bồng. ^

-Thích Trí Viên- 

 

Lăn lóc mãi nơi thế giới ngũ trược nầy, mỗi chúng sanh, mỗi con người đèo bồng một hành trang khá nặng nề, nhiêu khê và khá âu lo.

Rồi: “Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua”.

Sông ái hà, đèo khổ ải, mỗi chúng sanh tự gắng sức vượt dốc lội rừng. Đường trường ai hay, quên cả thời gian và thân phận, đôi lúc ngất lịm nơi chốn tha ma cũng phải gắng dậy mà đi. Kiếp nhân sinh là thế đấy! Một chặng đường phải qua. Biết bao giờ vượt khỏi lằn vết tử sanh, sanh tử. Thân phận chúng sanh cứ:

“Xuất thử một bỉ,

Thăng trầm bì cực

Vị miễn tam luân

Hà thời hưu tức?”

(Ra đây đến kia, xuống lên cực nhọc, ba cõi chưa thoát, bao giờ mới thôi?)

Ôi! đau thương, áo não nào bằng! Làm sao kể xiết!

Ba cõi là bản địa, là quê hương của chúng sanh luôn luôn bị thiêu đốt, bị khuấy động bởi nhiều loại phiền não và tham luyến. Đã tham luyến là đau khổ. Người tu Phật nên quán chiếu các pháp để nhận định rõ: khổ đau đang có, sẽ có do sự tiếp xúc của tham luyến. Vì vậy, người tu theo Đức Phật, nghĩa là không chấp nhận quanh quẩn ba cõi sáu đường, hãy thực tập tích cực những lời Đức Phật dạy:

“Chư ác mạc tác

Chúng thiện phụng hành”.

(Điều ác không làm,

Vâng làm điều lành.)

Điều ác là vô minh tham ái, là lực cuồng loạn tạo dựng sự sống tối tăm nơi ba cõi, là kẻ xây nhà sanh tử. Cho nên, trong giờ phút thiêng liêng nhất, trọng đại nhất, sau khi đoạn tận mọi hoặc lậu, tâm Đức Phật sáng ngời như gương, Ngài đã tuyên bố với muôn loài chúng sanh: “Ta lang thang mãi trong vòng luân hồi sanh tử, qua bao kiếp sống tìm mãi mà chẳng gặp kẻ làm nhà (vô minh tham ái). Khổ thay! Kiếp sống cứ tiếp diễn mãi. Ôi! kẻ làm nhà kia, nay Ta đã nhận rõ ngươi rồi. Ngươi không còn cơ hội xây nhà mà bấy lâu nay ngươi mong ước. Tất cả rui mè, đòn tay, kèo cột ngôi nhà của ngươi đều mục nát. Tâm ta đã vắng lặng, mọi ái nhiễm đoạn tận.” (PC 153-154). Bậc Thiện Thệ (bước qua) đã tuyên bố cho đội quân vô minh ngay trong giờ phút chứng quả. Cho nên, tham luyến ái nhiễm là cội nguồn sanh tử, kéo chúng sanh rơi rớt mãi ba cõi sáu đường, chịu bao nhiêu cực hình đau khổ bềnh bồng một kiếp. Do vậy ngài Linh Hựu khuyên nhắc chúng ta sớm ý thức: “Tảo phỏng minh sư, thân cận cao đức” (gấp gấp cầu học Thầy giỏi, gần gũi bậc đạo đức cao) mới dẫn dắt chúng ta xa lìa biển ái sông mê. Nếu không nương nhờ như vậy thì:

Kim sanh không quá,

Lai thế thất tắc

Tùng mê chí mê

Gian nhân lục tặc.

(Đời này luống qua, kiếp sau bế tắc, mê rồi lại mê, đều do sáu giặc)

Tự cứu lấy mình là yêu cầu cấp bách ngay trong đời nầy, như “cứu gấp đầu mình đang bị lửa cháy.” Ấy là giác trong mê. Đức Phật cũng thế, Ngài giác ngộ trong thế giới mê mờ, nên ngày Thành Đạo của Ngài là ngày Đại Giác. Đây là sự giác ngộ trong quá trình tư duy tu tập. Ngoài quá trình tư duy tu tập, không thể có giác ngộ. Mà tu tập tư duy phải có nghệ thuật. Giống như chúng ta chăm sóc (tu tập) cái mụt lở lói nơi thân ta. Chúng ta dùng phương tiện y khoa chăm sóc đúng nghệ thuật, tức đúng phương pháp thì mụt sẽ lành, hết đau. Cho nên, sự sống tu tập có nghệ thuật thì cuộc sống có tư cách, có an bình, lợi lạc. Nếu tu tập không có nghệ thuật thì không chuyển hóa được nghiệp lực mà bị nghiệp lực đồng hóa người tu. Ngài Pháp Đạt bị tổ Huệ Năng quở cũng vì chưa chuyển hóa được tánh ngã mạn, dù ngài Pháp Đạt đã tụng 3.000 bộ kinh Pháp Hoa. Tổ Huệ Năng đã quở Ngài Pháp Đạt: “Dù ông đã tụng 3.000 bộ kinh Pháp Hoa mà ông chưa thực hành tinh thần Pháp Hoa cũng không ích lợi gì”. Vì vậy, chúng ta là những người học Phật, tu lâu mà chưa chuyển hóa nghiệp lực thì chưa gọi là Phật tử chân chánh, chưa gọi là Trưởng tử Như Lai.

Muốn chuyển hóa được nghiệp lực phải có quá trình tu học mọi pháp lành. Như chuyện kể rằng:

Một người ăn xin nhặt được giấy rơi bên vệ đường. Trong tờ giấy có ghi 2 hàng chữ ngoằn ngoèo. Người ăn xin không đọc được. Chiều xuống, người ăn xin đang lang thang những lối mòn dẫn về thôn xóm để kiếm xin bữa ăn cuối trong ngày. Bỗng gặp một đạo sĩ đang trên đường về núi. Người ăn xin mừng quá. Ông ta đến thưa chào đạo sĩ, rồi nhờ đạo sĩ đọc và giải thích những câu ấy trong mãnh giấy đã nhặt được. Sau khi đọc xong, đạo sĩ nói:

“Tích thiện chư gia, tất hữu dư khánh.

Tích bất thiện chi gia, tất hữu dư ương”.

- Như vậy, nghĩa là thế nào, thưa đạo sĩ, người ăn xin thưa.

Đạo sĩ: Người nào, nhà nào tích lũy điều lành, pháp lành sẽ được phước báo vinh hoa, sang giàu.

Người nào, nhà nào tích lũy điều ác, pháp ác thì nghèo đói, tai ương sẽ đến (Minh Tâm Bảo Giám).

Qua câu chuyện nhỏ ở trên, Phật tử chúng ta cần tư duy để tu tập.

Nhân ngày Thành Đạo của Đức Từ phụ Thích Ca, tôi xin góp một vài ý niệm tâm thành khuyến khích nhau trên đường tu học. Mong được sự cảm thông cùng đón nhận hoan hỷ của chư huynh đệ và quý Phật tử như sự vui mừng của chúng ta đón chào ngày Thành Đạo của Đức Thế Tôn.


 

Người chiến thắng.^

-Thích Thông Huệ-

Một. Hai. Ba… Mười! Trọng tài đã dứt tiếng đếm mà người võ sĩ đang nằm trên sàn đấu vẫn chưa gượng dậy được. Không khí sau phút lặng yên nín thở, bỗng vỡ òa những tiếng vỗ tay, la hét, hoan nghênh người võ sĩ vừa hạ gục đối thủ bằng cú nốc-ao (knock-out) sấm sét. Người chiến thắng vui cười hỉ hả với đám đông cuồng nhiệt vây quanh, kẻ bại trận thất thểu lê từng bước rời khỏi đấu trường!

. . . Tiếng còi của trọng tài chính vang lên chấm dứt hiệp hai. Cả khán đài như rung chuyển vì sự phấn khích của hơn bốn vạn khán giả. Lá cờ của nước chiến thắng phần phật tung bay. Cả đội bóng và huấn luyện viên đang công kênh chân sút chủ lực, người vừa mang về bàn thắng vàng làm nên chiến thắng chung cuộc. Ống kính camera đưa nhanh một vòng và dừng lại ở góc sân: hình ảnh cận cảnh của khuôn mặt thủ môn đội bạn, người bắt hụt trái bóng quyết định. Những giọt nước mắt hiếm hoi lăn trên đôi má dạn dày sương gió, làm người xem cảm thấy thắt lòng!

. . .  Những thước phim đang kể lại một trận thắng lẫy lừng của Đại Hãn Mông Cổ. Trên chiến trường, thây người ngựa ngổn ngang. Có những xác người chồng lên nhau, tựa đầu vào nhau trong giấc ngủ ngàn năm thân ái, dường như hận thù không còn tồn tại ở thế giới bên kia. Một ngọn cờ gãy cán cắm chơ vơ cạnh một bánh xe gỗ dính máu nằm lăn lóc trên đất, lá cờ phất phơ trước làn gió lạnh lùng. Đại Hãn cưỡi con ngựa chiến lông đen mượt, đầu ngẫng cao, mặt rạng rỡ. Người chiến thắng bằng vó ngựa trường chinh, đang nuôi mộng bá chủ thiên hạ, xây dựng “sự nghiệp thiên thu” trên những xác người.

 

Trong thế giới nhị nguyên chúng ta đang sống, có thành tất nhiên có bại, có người chiến thắng phải có kẻ thất trận. Bên cạnh bài ca khải hoàn của người nầy, cũng có những giọt lệ chiến bại của người kia. Niềm vui chiến thắng nào cũng được xây dựng trên sự đau khổ, thậm chí trên tính mạng tài sản của kẻ khác. “Nhất tướng công thành vạn cốt khô”. Một viên tướng sau trận công thành, hàng vạn bộ xương khô sẽ là chứng nhân lịch sử.

Nhưng niềm vui chiến thắng có bền vững mãi không? Người thắng trận có thật sự là người hạnh phúc?

Trong những cuộc so tài trên sàn đấu, trong vận động trường và cả trong chiến trường, sự chiến thắng cũng chỉ có tính nhất thời. Danh tiếng của người thắng trận chỉ tồn tại trong thời gian họ còn duy trì được ngôi vị. Sau thời gian ấy, họ sẽ bị chìm vào quên lãng, vì thay vào đó đã có những tên tuổi khác sáng chói hơn. Trên trường chính trị càng khắc nghiệt hơn, chạy đua giành chiếc ghế cao nhất nước là một cuộc thi vô cùng gian khổ. Bao nhiêu công sức, tiền bạc, mưu trí đổ ra lúc vận động tranh cử; đến khi đắc cử rồi, đâu phải được an hưởng vinh hoa phú quí, trái lại còn phải làm việc cật lực, chịu bao điều tiếng khen chê của công luận. Để rồi sau nhiệm kỳ ngắn ngủi 4-5 năm, nhìn lại chỉ còn le lói một dấu vết của hào quang đang tàn lụi!

Như vậy, những chiến công theo ý nghĩa thế tục đều được xây dựng trên sự khổ đau - khổ đau cho người thua cuộc và cả cho người chiến thắng. Bởi vì, mọi sự đấu tranh trên đời đều phát xuất từ lòng tham: tham danh, tham lợi, tham sắc… Tham cho cá nhân mình, cho người mình thương và cho tập thể mình đang sinh sống. Vì tham nên không từ một thủ đoạn nào để dành phần thắng về mình, vì tham nên khi đạt được điều mong muốn, lại ước muốn nhiều hơn. Ước vọng dần dần được nuôi lớn nhờ những lần thành công, trở thành cao vọng, và cuối cùng là cuồng vọng điên rồ. Thành-Cát-Tư-Hãn ở phương Đông, Napoléon và Hitler ở phương Tây là những nhân vật một thời lừng lẫy, vì cuồng vọng bá chủ thiên hạ nên đành chịu chết thảm, lại còn lưu xú vạn niên. Chưa nói đến những người chẳng hề bại trận trước đối phương, lại không thể giữ mình trước ánh mắt mỹ nhân, để đến nỗi thân bại danh liệt. “Nhất tiếu khuynh nhân thành, Tái tiếu khuynh nhân quốc”. Nụ cười của người đẹp có thể làm nghiêng thành đổ nước. Những thiên tình sử Trụ Vương - Đắc Kỷ, Lữ Bố - Điêu thuyền, César - Cléopâtre như những bài học về kẻ chiến thắng người khác mà không tự thắng lòng tham của chính mình.

Cách đây hai mươi lăm thế kỷ, có một vị Thái tử đang độ tuổi thanh xuân, sống trong hạnh phúc cao sang, trong sự quý kính của triều thần, đột nhiên vượt thành bỏ trốn. Dân chúng bàng hoàng, phụ vương tuyệt vọng, người vợ trẻ biếng ăn bỏ ngủ, ôm con thơ làm kiếp vọng phu. Có lẽ nào như thế? Thái tử là người tài đức vẹn toàn, phong thái siêu tuyệt, văn võ hơn người. Ngay lần thi đấu tại nước láng giềng, Ngài đã vượt qua bao nhiêu anh tài, trở thành người xuất sắc nhất, được quốc vương ban gả cô công chúa cưng quý của mình. Ngài đã thành công trên mọi lĩnh vực, đã hưởng thụ mọi lạc thú trên đời; vậy Ngài còn mong cầu điều gì mà hy sinh tất cả, một mình sống đời tu sĩ nơi rừng núi thâm u?

Chỉ có Thái tử tự biết, mình chưa đúng nghĩa là Người chiến thắng. Ngài không hiểu từ đâu mình sinh ra, lúc chết đi về đâu, tại sao phải chịu cảnh sinh già bệnh chết, và có cách nào thoát khỏi vòng sinh tử? Đó là những câu hỏi lớn mà chỉ có Ngài mới biết đặt ra và tự tìm lời giải đáp, vì trong sách vở, trong kiến thức Ngài thu thập được từ những vị thầy lỗi lạc, không đâu có thể trả lời.

Trong những năm ròng rã tìm thầy học đạo, Thái tử - giờ thành Sa-môn, đã nhiều phen chiến đấu với những chướng ngại bên ngoài và bên trong thân tâm. Có lẽ nhiều phen Ngài nhìn lại đời mình, tự hỏi việc làm của mình có đúng đắn không? Có lẽ một lúc nào đó, nỗi đau khổ chưa tìm được hướng đi, đồng thời ùa đến, nhận chìm Ngài trong cùng cực của tuyệt vọng. Sự đấu tranh nội tâm thật là mãnh liệt, nhưng rồi Ngài vẫn vượt qua được, cố gắng vươn lên, tiếp tục thực hiện chí nguyện lớn nhất của đời mình. Ngài đã chiến thắng tất cả, để cuối cùng hát lên khúc ca khải hoàn: “Ta đã được giải thoát, sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc làm đã xong, đã đặt gánh nặng xuống, không còn trở lui trạng thái nầy nữa!.” Đó là cuộc đời tu hành của Thái tử Sĩ-Đạt-Ta ngày xưa và Đức Phật Thích Ca Mâu Ni của ngàn đời sau.

 

Chúng ta có thể đúc kết những chiến công của Đức Bổn Sư như sau, để làm bài học cho đời tu của chính mình:

Một là, sự dằn vặt trong tâm Ngài khi còn ở cung son. Một bên là cuộc sống tột đỉnh quyền uy với hạnh phúc gia đình hoàn hảo, một bên là lý tưởng cầu đạo vô thượng. Trong nhiều ngày đêm, nội tâm Ngài là một trường tranh đấu, nhất là khi nghĩ đến phụ vương già yếu và người vợ trẻ hiền thục, sẽ cô đơn đau khổ biết chừng nào nếu Ngài ra đi? Chữ hiếu chữ tình đều không trọn, có thể hi sinh tình riêng mà hoàn thành đạo nghiệp được chăng? Câu trả lời xin hẹn ở tương lai, nay nhất quyết quay lưng với ngũ dục. Như thế, Ngài đã chiến thắng trận đầu, một trận tuyến vô hình với những viên đạn bọc đường, sức cám dỗ mãnh liệt mà không mấy ai thoát nổi.

Hai là, sự khó khổ về vật chất và nỗi cô đơn hiu quạnh trong rừng sâu. Từ mức độ cao tột về vật chất và lừng lẫy về danh vọng, không qua một giai đoạn chuyển tiếp nào, đột nhiên Ngài tự nguyện rơi xuống mức tận cùng của cuộc sống: làm một Sa-môn không tên tuổi, sống qua ngày bằng những bát cơm tín thí. Đường đi thì gian nan diệu vợi, hướng đi chưa phân định rõ ràng, Ngài như người trong bóng tối mò mẫn từng bước độc hành độc bộ. Có lúc nào Ngài thấy lòng chùng xuống, nhớ những ngày êm ấm thuở xưa mà hối tiếc về sự phiêu lưu táo bạo của mình? Chúng ta chỉ biết, Ngài vẫn tiếp tục con đường đã chọn, đi không mệt mỏi dù không rõ bao giờ mới đến nơi. Một lần nữa, Ngài lại chiến thắng.

Ba là, khi đến cầu đạo với Tiên nhân Uất-Đầu Lam-Phất (Uddaka Ramaputta), chỉ một thời gian ngắn Ngài đã học xong tất cả tinh hoa của thầy. Giá như người khác, đã có thể tại đây an thân lập mệnh, cùng thầy “chia nửa tòa ngồi” để được người đời tôn kính. Nhưng riêng Ngài, tự thấy quả vị Phi tưởng Phi phi tưởng xứ chưa phải là cứu cánh giải thoát, vì còn trong vòng kềm tỏa của luân hồi. Ngã phàm đã dứt, ngã Thánh cũng phải xa lìa. Ngài mạnh dạn dứt áo ra đi sau khi từ biệt vị thầy khả kính. Sự xả ly những quả vị đạt được không phải là điều dễ dàng trong tâm thức hành giả, cho nên lần chiến thắng nầy thật vô cùng vẻ vang.

Bốn là, lúc nhận thấy pháp tu khổ hạnh không đưa đến giác ngộ giải thoát, Ngài quyết định theo con đường trung đạo. Sự khinh chê từ bỏ của những người từng tôn kính Ngài hết mực, đối với người đời hẳn là vết thương lòng đau đớn không gì sánh nổi. Chỉ riêng Ngài tự biết sự lựa chọn của mình là đúng đắn, nhưng không nên biện bạch mà chỉ nên trả lời bằng kết quả tu hành. Ngã chấp đã buông nên không động tâm đối với tình cảm của người khác, pháp chấp cũng buông nên không dính mắc với một pháp nào. Ngài chiến thắng trên cả hai mặt trận ngã & pháp, hiểu rằng chính mình là vị Thầy thực sự của mình. Từ đó mới có lời thề sấm sét dưới cội Tất-bát-la: “Dù thịt nát xương tan, nếu chưa tìm được đạo vô thượng, ta quyết không rời khỏi chỗ này!”

Trận chiến thứ năm, trận cuối cùng, cũng là trận chiến quyết định của Người chiến sĩ Vĩ đại. Bốn mươi chín ngày đêm thiền định, một mình đối diện với chính mình, tâm Ngài chuyển biến ra sao, đấu tranh với những cám dỗ Ma Vương thế nào, chỉ có Ngài hiểu thấu. Chúng ta chỉ biết rằng, khi sao Mai vừa mọc vào đêm 49, Ngài hoàn thành đạo nghiệp. Đối thủ lần nầy của Ngài - và của tất cả chúng sanh - là Quỷ vô thường, là vòng xóay luân hồi, là ma trận sinh tử. Chỉ có Ngài là người duy nhất chiến thắng, nên đây là chiến công oanh liệt nhất. Và cũng vì thế, Ngài trở thành Bậc Đại Giác Ngộ, Bậc Thầy của ba cõi Trời người. Cũng vì thế, đêm cuối cùng nầy được gọi là Đêm Thành đạo, đêm khai sinh của Phật Bảo, tiền đề cho Tam Bảo sau nầy.

Câu chuyện đời của Đức Bổn Sư như một trường thiên tiểu thuyết, mà người văn sĩ, dù tài hoa đến bậc nào cũng không thể tưởng tượng được hết. Vậy mà, đó lại là sự thật, vì Đức Phật Thích-Ca-Mâu-Ni là một nhân vật lịch sử. Ngài cũng là con người bằng xương bằng thịt như mọi người, nhưng Ngài phi thường ở ý chí nghị lực, ở lòng thương bình đẳng vô bờ đối với chúng sanh. Bằng nghị lực phi thường và tâm từ bi cao tột ấy, Ngài đã chiến thắng mọi cám dỗ của ngũ dục bên ngoài và phiền não tham sân si bên trong tự thân, cuối cùng vĩnh thoát sinh tử. Chiến công nầy không làm ai đau khổ, không gây tổn hại tính mạng tài sản của ai; mà trái lại, mang đến an lạc hạnh phúc cho con người, mang tình thương vô ngã vị tha chan rải khắp cùng pháp giới. Chiến công nầy không chỉ có giá trị trong một thời gian nhất định, mà vĩnh viễn làm lợi ích cho chính mình và cho chúng sanh vạn loại. Trên tất cả, trận thắng cuối cùng của Đức Bổn Sư chỉ rõ cho con người thấy rằng, mỗi chúng sanh đều có mầm mống giác ngộ, đều có khả năng giải thoát. Chỉ có Đức Phật mới tuyên bố tất cả chúng sanh đều có đức tướng Như Lai, chỉ có đạo Phật mới đặt mọi loài ngang hàng với vị Giáo Chủ. Bởi vì, bằng trí tuệ vô sư xuất thế, Ngài thấy chúng sanh bình đẳng nhau ở Tánh giác. Đây là cái thấy như thị, cái thấy không còn kẹt vào tứ tướng ngã nhân chúng sanh thọ giả, cái thấy thấu suốt tột cùng bản chất của muôn sự muôn vật.

Những người con Phật chúng ta, theo gương sáng của Đấng Từ phụ, không cầu hơn thua phải quấy, không màng sự đấu tranh để gây đau khổ cho mình và cho người. Chúng ta chỉ nguyện, luôn xoay lại soi sáng chính mình, luôn chiến đấu với lũ giặc phiền não tự tâm, biết chế ngự ngũ dục thế gian, thắp sáng trí tuệ nhận rõ thân-tâm-cảnh đều do duyên hợp giả có. Biết tất cả các pháp đều vô thường hư dối, nhưng trong đó vẫn có một điểm linh quang thường hằng bất biến, luôn tĩnh lặng mà chiếu soi, luôn tịch tịnh mà sáng ngời. Đó là Phật tri kiến, là Bản lai diện mục, là Đức A-Di-Đà Vô lượng quang Vô lượng thọ Vô lượng công đức. Nhận ra Tánh giác sẵn đủ và hằng sống với Tánh giác, hành giả chiến thắng được kẻ thù Tam độc ngay chính bản thân, chiến thắng cả Quỷ Vô thường, chặt đứt mắc xích của vòng luân hồi sinh tử. Đó mới thật là chiến thắng tuyệt đối, vĩnh cửu, mới thật sự đem lại lợi ích cho mình và cho tất cả chúng sanh. Người chiến thắng ấy mới thật sự là Bậc đáng được Trời người cúng dường tán thán, mới không cô phụ bản hoài của chư Phật và tánh linh của chính mình!


 

Thành Đạo ^

 

-Như Minh-

 

Thành đạo về đây giữa tháng đông

Giữa cơn giông tố vạn cõi lòng

Ánh sáng từ bi xin chiếu diệu

Cho đời sưởi ấm chút tình trong

 

Ngày xưa Bồ-tát Tất Đạt Đa

Bảy thất tham thiền hàng phục ma

Cái đêm lịch sử vô cùng ấy

Khắc đậm tâm con chửa xóa nhòa

 

Mồng tám (tháng) mười hai lại trở về

Cho lòng nhân loại bớt tái tê

Đêm dài ma quỷ thôi không nhát

Mở mắt nhìn nhau một lối về

 

Pháp luân chuyển bánh mấy ngàn năm

Văng vẳng bên tai tiếng thì thầm

Khổ đế muôn đời chân lý ấy

Lộc Uyển diễn bày đạo thậm thâm

 

Hình ảnh người xưa chưa xóa mờ

Vẫn còn hiện rõ đến ngày nay

Kiều Trần năm vị tỳ kheo ấy

La Hán quả đầu chứng từ đây

 

Rồi mỗi đông sang nhớ lại ngày

Ôi ngày thành đạo vẻ vang thay

Chiến thắng ma quân thành chánh giác

Thức tỉnh bao người khỏi cơn say.

 

Bồ đề ươm giống sẵn nơi đây

Hội đủ cơ duyên đủ tháng ngày

Hoa trái nẩy mầm trên tâm địa

Xanh tốt muôn đời hoa quả sai

 

Theo dấu người xưa con thề nguyền

Cho dù khổ não có triền miên

Cũng xin giữ vững cây đạo thọ

Ươm trái nẩy mầm vạn vạn niên


 

- Kinh Cứu La Đàn Đầu. ^

 

-Thích Thiện Tấn-

A- Giới thiệu:

Đạo Bà-la-môn ở Ấn Độ rất coi trọng việc cúng tế, coi đây là một pháp tu, cho nên họ thường xuyên tổ chức các cuộc tế đàn rất lớn, giết hại nhiều trâu dê để tế lễ mà cho là có công đức lớn. Đức Phật không bài bác việc tế lễ nhưng hướng dẫn một lối tế lễ không có sát hại sinh vật, với từ tâm bình đẳng. Kinh Cứu La Đàn Đầu sau đây là kinh số 23 trong kinh Trường A Hàm sẽ đề cập vấn đề trên đây.

B- Tóm lược nội dung:

Một thời Đức Phật tại nước Câu-tát-la cùng với 1.250 vị đại Tỳ-kheo đi du hành khắp nơi, đến trú tại rừng Thi-xá-bà phía bắc thôn Khư-nậu-bà-đề. Đại danh của Phật đồn khắp thiên hạ. Có nhiều Bà-la-môn, trưởng giả, cư sĩ cùng đi đến thăm hỏi Sa-môn Cù-Đàm. Bà-la-môn Cứu-la-đàn-đầu là người thông tuệ có 500 đệ tử, biết được tin này cùng với Bà-la-môn, trưởng giả, cư sĩ rũ nhau đến yết kiến Đức Phật vì Ngài thành tựu các công đức sau đây:

1- Cha mẹ bảy đời của Sa-môn Cù-Đàm đều chân chính, không bị người khác khinh hủy.

2. Sa-môn Cù-Đàm xuất thân từ dòng Sát-đế-lợi, dung mạo đoan chính.

3. Sa-môn Cù-Đàm sinh trong nhà giàu sang phú quý lại đi xuất gia.

4. Sa-môn Cù-Đàm đầy đủ trí tuệ, dòng họ chân chính.

5. Sa-môn Cù-Đàm sinh trong nhà giàu sang, có oai lực lớn, lại xuất gia tu đạo.

6. Sa-môn Cù-Đàm đầy đủ giới hạnh hiền thánh, đạt được trí tuệ.

7. Sa-môn Cù-Đàm khéo léo trong lời nói, dịu dàng hòa nhã.

8. Sa-môn Cù-Đàm là bậc Đạo sư của đại chúng, chúng đệ tử rất đông.

9. Sa-môn Cù-Đàm vĩnh viễn diệt trừ ái dục, không còn dao động, lo sợ… khéo giảng về nghiệp báo, không hủy báng Đạo khác.

10. Được vua Ba-tư-nặc và vua Bình-sa lễ kính, cúng dường, được các đại danh Bà-la-môn cung kính cúng dường.

11. Sa-môn Cù-Đàm được các đệ tử Thanh văn tôn kính cúng dường. Lại được chư Thiên, quỷ thần, các dòng họ tôn phụng Ngài.

12. 13. 14. Sa-môn Cù-Đàm truyền Tam quy ngũ giới cho vua Ba-tư-nặc và vua Bình-sa, cho Bà-la-môn Phất già La-sa-la, cho đệ tử, cho chư Thiên, dòng họ Thích, cho Mạt-lê v.v…

15. Sa-môn Cù-Đàm đi đến đâu cũng được hết thảy mọi người cung kính cúng dường.

16. Sa-môn Cù-Đàm đến các thành quách thôn ấp nào thì mọi người nô nức cung kính cúng dường.

17. Sa-môn Cù-Đàm đi đến đâu thì các loại phi nhân, quỷ thần không dám quấy phá.

18. Sa-môn Cù-Đàm đi đến đâu thì người dân nơi đó thấy ánh quang minh, nghe được thiên nhạc.

19. Sa-môn Cù-Đàm đi đến đâu, hễ Ngài rời nơi ấy thì mọi người mến mộ, khóc lóc tiễn đưa.

20. Sa-môn Cù-Đàm lúc mới xuất gia, cha mẹ thân quyến khóc lóc thương tiếc.

21. Sa-môn Cù-Đàm xuất gia khi còn trẻ, xả bỏ các thứ trang sức, ngũ dục, anh lạc v.v…

22 Sa-môn Cù-Đàm xả bỏ ngôi vị của bậc Chuyển Luân Thánh Vương mà xuất gia tu đạo.

23. Sa-môn Cù-Đàm hiểu rõ pháp của Phạm Thiên, có thể giảng dạy cho người, cũng có thể cùng Phạm Thiên lui tới đàm luận.

24. Sa-môn Cù-Đàm hiểu rõ 3 cách tế tự và 16 thứ lễ vật mà các vị kỳ túc của Bà-la-môn không thể biết được.

25. Sa-môn Cù-Đàm đầy đủ 32 tướng tốt.

26. Sa-môn Cù-Đàm có trí tuệ thông đạt, không có khiếp nhược.

Bà-la-môn Cứu-la-đàn-đầu thưa hỏi Đức Phật về 3 cách tế tự và 16 loại tế vật, được Đức Phật giảng như sau:

“Về thuở quá khứ có một vị vua có đất nước hùng mạnh, dân chúng giàu có, muốn lập lễ tế đàn để được quả báo lớn nên triệu tập Đại thần để hỏi về cách thức tế lễ.

Vị Đại thần thưa rằng: “Nhà Vua không nên dùng quyền lực để giết chóc trừng phạt mà nên chu cấp cung phụng thức ăn cho các quan lại để họ khỏi tham nhũng. Cung cấp tài sản cho những người buôn bán, cấp trâu bò, hạt giống cho người nông dân để họ doanh, sinh sống, không làm tổn hại lẫn nhau.

I/- 3 Tế pháp và 16 tế vật:

Vua hỏi các vị Đại thần về cách thức tế lễ. Các vị Đại thần cố vấn tế lễ tâu với vua rằng: Cần nên phải thực hành 3 tế pháp và 16 tế vật.

1/ Tế pháp thứ nhất: Vua muốn tế lễ cần phải báo cho nội cung biết, báo cho Thái tử, Hoàng tử, Đại thần, Tướng sĩ biết để 4 chúng này tán thành và cung cấp vật tế.

2/ Tế pháp thứ hai: Gồm 8 đức tánh của Vua và 4 đức tánh của Bà-la-môn chủ tế.

* 8 Đức tánh của Vua:

1- Bảy đời cha mẹ của Vua đều chân chính, không bị người khác khinh hủy.

2- Có dung mạo đoan chính, thuộc dòng Sát-đế-lợi.

3- Có giới đức tăng thịnh, trí tuệ đầy đủ.

4- Thành thạo các khoa kỹ thuật, các pháp cưỡi voi, dùng đao, cung, tên…

5- Có đại oai lực, nhiếp phục các Tiểu vương.

6- Thiện xảo về ngôn ngữ, lời nói nhu nhuyến.

7- Có nhiều tiền bạc của báu, nhiều kho lẫm.

8- Có mưu trí dũng cảm, không yếu kém sợ hãi.

* 4 Đức tánh của Bà-la-môn chủ tế:

1- Bảy đời cha mẹ của Bà-la-môn đại thần đều chân chính.

2- Đọc tụng thông thuộc ba bộ Phệ Đà, hiểu rõ các thứ kinh thư.

3- Thiện xảo về ngôn ngữ.

4- Có mưu trí dũng lược, không yếu kém sợ hãi.

3/. Tế pháp thứ 3: Không hối tiếc khi làm lễ tế đàn.

Nhà Vua không nên hối tiếc nói rằng vì ta đã lập tế lễ lớn, đang lập tế lễ lớn và sẽ lập tế lễ lớn mà hao tốn tài sản báu vật. Vị Đại thần chỉ bày hướng dẫn cho nhà Vua hoan hỷ không khởi tâm hối tiếc.

4/- Mười sáu loại tế vật:

Các vị Bà-la-môn đại thần nói rõ 16 điều cao quý mà nhà Vua và Đại thần đã đạt được, không bị khinh hủy, không bị ô danh để cho vua không còn nghi ngại. 16 loại tế vật đó là 8 đức tánh cao quý của vua Sát-đế-lợi; sự chấp thuận của 4 thành phần: nội cung, Thái tử, Hoàng tử, Đại thần,Tướng sĩ và 4 đức tánh cao quý của các Đại thần.

II/- Bố thí từ tâm bình đẳng:

Bố thí bình đẳng đối với 10 hạng người như người sát sanh, không sát sanh, người trộm cắp, người không trộm cắp v.v…

Khi vua Sát-đế-lợi làm lễ bố thí thì có các phu nhơn, thể nữ, Thái tử, Hoàng tử, Đại thần, Tướng sĩ đều mang các báu vật đến xin trợ giúp cho vua tế lễ. Khi tế lễ nhà vua không giết trâu dê và các sanh vật… mà chỉ dùng bơ sữa, dầu mè, mật, đường. Trong lúc tế lễ và sau khi tế lễ, mọi người đều hoan hỷ nên gọi là thành tựu pháp tế.

Vị vua Sát-đế-lợi làm lễ tế đàn chính là tiền thân của Đức Phật.

III/-Những tế đàn khác có lợi ích lớn hơn:

Đức Phật dạy rằng ngoài 3 pháp tế tự và 16 thứ tế vật ấy còn có việc làm sau đây đem lại công đức nhiều hơn, như thường xuyên cúng dường chư Tăng, xây cất Tăng phòng, Tăng đường, quy y Tam bảo, từ tâm đối với chúng sanh, xuất gia tu hành.

IV/- Bà-la-môn Cứu-la-đàn-đầu quy y Tam bảo:

Qua câu chuyện tế đàn đã được Đức Phật khéo thuyết giảng làm cho Bà-la-môn Cứu-la-đàn-đầu tỏ niềm tịnh tín, trọn đời quy y Tam bảo.

C- Kết luận:

Đạo Bà-la-môn ở Ấn Độ xem việc tế lễ là một pháp tu quan trọng, họ giết hại nhiều sanh vật để cúng tế.Đức Phật không phủ nhận hẳn việc tế lễ nhưng hướng dẫn họ tổ chức một tế đàn chay thanh tịnh, không có sát sanh, các tế vật là các đức tánh cao quý của những người tổ chức tế lễ. Đức Phật cũng hướng dẫn cho họ làm các việc công đức, quy y Tam bảo, xuất gia, tu giải thoát. Nhân dịp này, Đức Phật cũng gián tiếp trình bày quan niệm về cách trị nước an dân để đất nước được thanh bình.

 

Sự khác nhau giữa giới luật và luật pháp.^

 

Thích Tâm Hạnh

 

 

Để trở thành một Phật tử, tất cả chúng ta đều phải phát nguyện thọ trì ba quy y và năm giới cấm, học tập về nhân quả, luân hồi, mười nghiệp đạo v.v… và vv… Quy y Tam bảo và sự chấp thuận gia nhập đoàn thể nào đó, giữa giới luật và luật pháp thế gian, giữa năm giới và mười nghiệp đạo, giữa định luật nhân quả và nghiệp báo, khác nhau như thế nào về nội dung, hình thức, sự vi phạm, sám hối, kết quả là những điều mà chúng ta phảI hiểu rõ.Nếu không hiểu rõ sự khác nhau đó, chính chúng ta sẽ không thấy được sự khác nhau giữa hạnh phúc tinh thần của người Phật tử và hạnh phúc dung tục của người bên ngoài, không thấy được mục đích tu học theo Phật giáo.

Có khi ta đã từng suy nghĩ hay nghe: “đạo nào cũng tốt, cũng dạy làm lành bỏ dữ”. Nếu chỉ dừng ở chổ làm lành lánh dữ thì chỉ cần luật pháp của quốc gia, chẳng cần sự có mặt của tôn giáo. Nếu chỉ cần làm điều thiện để được hưởng khoái lạc ở cõi trời thì giáo pháp của Đức Phật không xuất hiện ở đời. Đây là những điều mà người Phật tử chúng ta cần ghi nhận.

Sống giữa thế giới này, có biết bao hiện tượng mà ta không thể giải đáp, biết bao sự lo sợ, đau khổ mà ta không thể vượt qua, biết bao điều ta ưa thích, hạnh phúc mà không thể giữ được. Để mưu cầu hạnh phúc bằng cách bảo vệ hay phát triển quyền lợi và địa vị của mình hay do những thế lực khác bắt buộc, chúng ta gia nhập vào những đoàn thể nào đó. Sự gia nhập những tôn giáo khác, cũng với mục đích như trên nhưng lại cầu mong sự che chở, hay chấp nhận sự phán quyết của các thần linh, Thượng đế theo tôn giáo ấy để an tâm lập mệnh.

Khác hẳn với hai trường hợp trên, người Phật tử tự nguyện quy y Tam bảo với ý nghĩa:

Quy y Tam bảo: là trở về (gacchati) nương tựa (Saranà) nơi ba ngôi báu Phật, Pháp, Tăng. Lấy ba ngôi báu hay ba điều quý báu (Ratanataya) làm tôn chỉ, làm mục đích, làm kim chỉ nam cho nếp sống tinh thần của mình.

Mục đích tối hậu của con người là hạnh phúc, nhưng hạnh phúc không thể có được khi con người làm nô lệ cho vô minh, ái dục, vọng nghiệp. Muốn thoát khỏi ba trói buộc đó, con người cần phải trở về sống sáng suốt, định tỉnh, trong lành, nghĩa là trở về nương tựa nơi Phật (sáng suốt), Pháp (định tỉnh), Tăng (trong lành), vì đó là ba điều kiện quý báu và đầy đủ hơn cả cho hạnh phúc đích thực của con người. Đức Phật dạy trong kinh Pháp cú: “Ta là nơi nương nhờ của ta, không ai khác là nơi nương nhờ của ta được, khi ta đã thuần tịnh thì đó là nơi nương nhờ hy hữu” -PC 160- Như vậy, Đức Phật đã khẳng định quy y Tam bảo chính là tự quy y vậy.

Quy y Phật có 2 phương diện:

- Quy y Bậc đã hoàn toàn giác ngộ nghĩa là nhận Đức Phật là bậc Thầy hướng đạo.

- Quy y đức tính giác ngộ nơi chính mình, nghĩa là luôn sống sáng suốt, tỉnh thức trong hành động, lời nói và ý nghĩ, không mê muội buông lung theo vô minh, ái dục.

Quy y Pháp có 2 phương diện:

- Quy y giáo pháp đức Phật. Giáo pháp được đức Phật khéo thuyết giảng. Pháp ấy có đặc tính: thiết thực hiện tại, vượt ngoài thời gian, hãy trở lại mà thấy, hướng thượng, bậc trí tự mình chứng ngộ.

- Quy y thực tại chân lý ở chính mình.

Quy y Tăng có 2 phương diện:

- Quy y chúng tăng là noi theo gương các bậc có 4 đức tính thiện hạnh, trực hạnh, ứng lý hạnh, chánh hạnh, đang hành trì theo chánh pháp.

- Quy y những đức tính trong lành quý báu nơi chính mình như chúng tăng đã đạt được.

Như vậy: quy y Tam bảo không phải là nương nhờ vào sự ban ơn giáng phúc hay cứu rỗi của Phật, pháp, tăng.

Quy y Tam bảo không phải là quy y với một vị thầy hay với một ngôi chùa nào cả. Một vị thầy xứng đáng, một ngôi chùa quy củ có thể sách tấn chúng ta luôn tự quy y Tam bảo. Một vị thầy có thể sai, một ngôi chùa có thể sụp đổ, còn quy y Tam bảo là sự hành trì từng giây từng phút không thể nào thiếu được.

Chứng điệp quy y chỉ có giá trị tượng trưng, không thể thay thế được chính tự quy y, không thể để thờ hay để đốt theo khi chết hầu Diêm vương xá tội.

Không phải sau khi được làm lễ truyền thọ quy giói là đã trở thành người Phật tử, chỉ khi nào quy giới được hành trì nghiêm chỉnh thì mới xứng đáng là người Phật tử.

Quy y xong mà vẫn sống theo mê tín, tin theo tà giáo, sống buông lung, phóng dật, thất niệm, hành động nói năng bất chính thì gọi là mất Tam quy.

Nếu có chuyên cần thọ trì quy giới, nhưng có khi được, khi mất thì gọi là Tam quy nhơ đục, phải thường tự ăn năn sám hối, thọ trì quy giới lại. Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, mỗi nửa tháng Phật tử phải đến chùa để sám hối, thọ trì quy giới lại và nghe pháp để tự nhắc mình hành trì quy giới nghiêm túc hơn. Nếu không có chùa thì tự sám hối và đọc quy giới trước bàn thờ Phật trong nhà. Người căn cơ cao có thể luôn tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác thì khi thất niệm, chỉ cần tỉnh thức trở lại là đầy đủ Tam quy.

Tóm lại, Tam quy là luôn luôn tự mình tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác, để giữ thân khẩu ý của mình sáng suốt (quy y Phật), định tỉnh (quy y Pháp), trong lành (quy y tăng).

Một người đã vững bước trong sáng suốt, tỉnh giác, định tỉnh, chánh niệm và trong lành tinh tấn, người ấy được gọi là “Tịnh tín bất động nơi Tam bảo”, đã thấy đó là lẽ sống đích thực của mình, đã nhận ra nguồn chân hạnh phúc, Đức Phật gọi đó là ngườI đã nhập dòng Thánh, đã thấy rõ Tam bảo nơi chính mình. Đó là ý nghĩa đích thực của quy y. (lược trích Quy y Tam bảo của Thầy Viên Minh)

Luật pháp thế gian được xây dựng theo luân lý, đạo đức, truyền thống, phong tục tập quán và quan điểm chính trị của chính quyền đại diện cho nhân dân ở đất nước đó. Hay nói cách khác, luật pháp nhằm khống chế, quản lý những đối tượng phản động, nguy hiểm, bất chính theo nhận thức, chủ trương, khái niệm của nhân dân và chính quyền ở địa phương đó. Luật pháp như vậy mang tính cách địa phương, chỉ có giá trị ở nước này, nhưng vô giá trị ở nước khác. Có khi, ngay trong một nước, tỉnh này, làng này, luật lệ cũng khác với tỉnh khác, làng khác. Luât pháp được xây dựng trên quyền của số đông, nhất là số đông có quyền lực chi phối xã hội đó. Do tiêu chí đó, luật pháp có khi rất công bằng với số người này, nhưng bất công với số người khác theo quan điểm xã hội. Mục đích của Luật pháp là đem lại sự cân bằng ổn định, đồng thời bảo vệ đời sống hạnh phúc theo quan niệm của xã hội đó. Nếu ai làm ngược lại vi phạm thì có chiếc còng và nhà tù dành cho họ.

Khác với luật pháp thế gian, Giới luật của Phật giáo, được xây dựng trên từ bi và trí tuệ hiểu biết về nhân quả, nghiệp báo nên có cả quy định xã hội nhưng chú trọng về mặt Thánh đạo. Do đó, muốn hiểu giới luật của Phật giáo thì phải biết rõ về định luật nhân quả, nghiệp báo.

Nhân quả và nghiệp báo khác nhau. Có khi có nhân quả mà không có nghiệp báo. Định luật nhân quả là tất yếu, không thể chấm dứt nó được nhưng nghiệp báo thì ta có thể chấm dứt, giải thoát nó được. Muốn hiểu rõ về nhân quả nghiệp báo, chúng ta cần phải biết về những kiến thức giáo pháp cơ bản sau:

Những định luật của vũ trụ: có những định luật, những quy luật vận hành vũ trụ, chúng tương quan mật thiết với nhau và chi phối toàn bộ đời sống con người cùng vạn hữu. Những định luật, quy luật này mâu thuẫn nhau, tương tác nhau đã sinh ra vô vàn hiện tượng khác nhau như hữu tình, vô tình, trời đất, vũ trụ v.v và v.v…

Những quy luật ấy được Đức Phật giới thiệu phổ quát bằng năm định luật (niyàma):

1. Thế giới vật lý vô cơ (utu-niyàma): quy luật vận hành trong thế giới tự nhiên, tạo ra những hiện tượng nắng mưa, ngày đêm, nóng lạnh, bốn mùa do ảnh hưởng của mặt trời, mặt trăng, tinh tú đến sông biển ao hồ, tác động đến con người, cây cối, vạn vật.

Trong định luật thuộc vật lý vô cơ này cũng xảy ra theo tiến trình nhân quả nhưng không có nghiệp báo. Như do hiện tượng Elhino mà bão lụt động đất, hạn hán xảy ra khắp nơi. Nguyên nhân là do nạn phá rừng, khí thải công nghiệp mà nhiệt độ trái đất tăng lên, phá vỡ tầng ozon, môi trường sinh thái bị nhiễm độc… Gần hơn có những nhân quả rất cụ thể như trời nóng thì đổ mồ hôi, lạnh thì rét, mưa nhiều sinh lụt, không khí giãn nở tạo ra gió….

2. Thế giới sinh vật lý hữu cơ (bija-niyàma): quy luật tác động trong thế giới tế bào của những động vật và thực vật, có cả con người. Do những định luật này, các nhà khoa học đã tìm ra luật bảo toàn giống loại, AND, di truyền, gène… kể cả những công nghệ sinh học. Do quy luật này mà giống nào sinh giống ấy, hạt cam sinh cây cam, hạt lúa có từ cây lúa. Gène di truyền trong việc thụ thai 2 trẻ sinh đôi giống nhau nhưng khác tính tình v.v…

Trong thế giới này, tiến trình nhân quả xảy ra rất đa dạng và phức tạp. Nền công nghệ sinh học muốn biến đổi gène động vật, thực vật là dựa vào quy luật này…do sự lai tạo, mướp đắng không đắng nữa mà lớn như quả bầu,... các loại lúa chịu hạn, bắp cho nhiều hạt… một loài người thông minh hơn… nhân quả này cũng máy móc, lạnh lùng khách quan.

Cả hai loại định luật này tương tác, ảnh hưởng qua lại nhau… để xảy ra tiến trình nhân quả khác. Ví dụ: chết vì rét, vì đói, vì bị nhiễm độc, vì bội thực..thế giới vật lý tác động lên thế giới sinh lý (cơ thể) nên xảy ra như vậy.

3. Pháp (Dhamma-niyama): quy luật chi phối vạn pháp như âm dương, ngũ hành, luật hấp dẫn, ly tâm, điện từ, phản ứng sinh lý hoá, luật bảo toàn năng lượng, trường sinh học; kể cả những hiện tượng siêu hình như lúc Bồ-tát giáng phàm, thành đạo, khi Đức Phật Niết bàn.

Lãnh vực này rất bao la, khoa học cũng chưa tìm kiếm ra hết, có chăng chỉ mới là những bước khám phá ban đầu. Định luật này xảy ra trong tiến trình nhân quả trong pháp giới…Luật này dễ kiểm chứng như trong phản ứng hoá học. Cho chất này vào thì nước sôi lên, nhưng là chất khác thì nước đổi màu v.v… âm dương hút nhau, dương dương hay âm âm thì đẩy nhau…Nam châm hút sắt… ngũ hành tương sinh, tương khắc… đều là nhân quả. Tuy nhiên, trong pháp giới còn có những định luật nhân quả rất huyền nhiệm như khi Bồ tát đản sinh thì địa cầu chuyển động… người bị thôi miên, mộng du di chuyển trong thế giới 4 chiều…

4. Tâm (citta-niyama): định luật về tâm, tâm lý như ý niệm, ý tưởng, tưởng tượng, hồi ức, trí nhớ, tư tưởng, trực giác…Những trạng thái tâm lý, những yếu tố nội tâm diễn tiến theo trình tự nhân quả tương quan đưa đến phán đoán, nhận thức, suy luận, chi phối sinh hoạt hữu thức hay vô thức của con người đều thuộc lĩnh vực của định luật này. Những hiện tượng thần giao cách cảm, biết quá khứ vị lai, thiên nhãn, thiên nhĩ, tha tâm .. đều từ định luật này.

Nhân quả trong các định luật về nhân quả cũng không phải là nghiệp báo. Khoa tâm lý học phương Tây có cả một môn học chuyên sâu để nghiên cứu, đào xới mảnh đất bí hiểm này. Tất cả những cái gọi là ký ức, phán đoán, tưởng tượng, tình cảm, nhận thức… đều nằm trong quy luật nhân quả. Chính giấc mộng, sinh hoạt vô thức, bệnh tâm thần, stress, họ cũng tìm ra quy luật và giải mã nó để tìm phương pháp chữa trị… Những hiện tượng như thuật thôi miên, thần giao cách cảm, truyền đạt tư tưởng, tìm ra mộ người thân, chữa bệnh bằng tư tưởng… đều là nhân quả của tâm. Điều này, các tôn giáo Đông phương đã thực đi trước bằng các khả năng thiên nhĩ thông, thiên nhãn, tha tâm thông… Có những ví dụ gần gủi và thực tế như:

- Khi tâm định thì phát sinh hỷ lạc.

- Khi các tâm sở thiện có mặt thì thân tâm thư thái nhẹ nhàng, an vui….

- Khi các tâm sở bất thiện có mặt thì thân tâm ta nặng nề, bất an, nóng nảy, trì trệ, bộp chộp, bất an….

- Khi thấy người thân qua đời thì buồn chảy nước mắt.

- Thấy rắn thì sợ.

- Trúng số thì vui.

- Bị phỉ báng, nhục mạ thì buồn khổ.

- Nếu thường làm các việc ác thì thường thấy cảnh chiến tranh hay mộng dữ… Tâm và pháp tương tác nhau để sinh ra các tâm lý chủ quan “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.

5. Định luật về nghiệp (kamma-niyàma): định luật về nghiệp báo, nói đủ là nhân quả nghiệp báo. Khi nói đến nghiệp báo thì phải có tác nhân của nghiệp và kết quả của nghiệp.

 Chính ở đây mới nói đến nghiệp báo, sự chi phối của nghiệp báo và thoát khỏi nghiệp báo. Ta có thể dẫn nhiều ví dụ:

- Ta làm một việc xấu ác bị người khinh ghét và bị tù tội….

Phân tích: làm việc xấu ác là nhân, bị người khinh ghét, bị tội tù là quả. Do biết lẽ nhân quả nên ông A nhẫn chịu sự đau khổ xảy ra mà tâm không hề oán trách, than van sầu muộn hay sinh tâm ác, hay hận thù với ai. Đây là trường hợp có nhân có quả nhưng không có nghiệp báo. Ông B thì trái lại, cho nên cái quả khinh ghét hoặc tội tù ấy càng gia tăng, có thể dẫn đến những hành động hoặc ý nghĩ sai lầm khác nữa. Ông B bị nghiệp báo chi phối.

Qua ví dụ trên, ta biết rõ, quyết định về nhân hay về quả của nghiệp báo chính là tâm niệm, ý tưởng, ý chí (cetanà - tư tâm sở) là tâm sở chủ động các trạng thái tâm lý

Trong 5 định luật trên, 4 định luật đầu là định luật tự nhiên, chúng xảy ra theo tiến trình nhân quả nhưng không theo nghiệp báo. Định luật thứ 5 này mới xảy ra theo nhân quả nghiệp báo. Những hành động và phản ứng tâm lý có ý thức, mang tính đạo đức, luân lý (thiện, bất thiện, bất động) mới tạo ra báo ứng của nghiệp. Đây là những quyết định, những chủ đích, những hành động có đầu tư ý chí của mỗi cá nhân. Tuy là nghiệp riêng biệt (biệt nghiệp) của cá nhân nhưng nó có ảnh hưởng đến toàn bộ xã hội và nhân loại (cộng nghiệp).

Như vậy, chúng ta phải biết rõ đâu là nhân quả khách quan, đâu là nghiệp báo chủ quan. Cả 4 định luật đầu đều xảy ra theo tiến trình nhân quả. Phạm vi của chúng rất rộng lớn. Nếu chúng ta không thấu triệt dễ sinh ra ngộ nhận, cái gì cũng đổ thừa cho nghiệp thì oan cho ba đời chư Phật.

Dù đức Phật có ra đời hay không thì 4 định luật trên đều chi phối vạn vật. Đức Phật không hề dạy tu tập để chấm dứt các định luật ấy. Giáo pháp và giới luật do Đức Phật dạy để giúp ta không tạo nghiệp ác và giải thoát nghiệp báo ở định luật thứ năm. Nhưng ta cần phải thấu rõ các định luật ấy để không bị đau khổ, sợ hãi vì không hiểu biết chúng.

Nếu là nhân quả tự nhiên thì nó máy móc, khách quan, nhưng nhân quả nghiệp báo thì còn do tâm quyết định. Chính ở nơi tâm mới nói đến tâm nhân và tâm quả. Còn có cả triệu định luật khác không được gọi là nhân mà chỉ là duyên, thuận hay nghịch tác động, ảnh hưởng lên nhân ấy.

(lược trích Học Phật căn bản II - chùa Huyền Không)

Nghiệp là gì ? Nghiệp là hành động bằng thân và miệng do tác động của ý chí (cetanà). Hành động với sự cố ý như thế là tạo ra nghiệp, thành tựu nghiệp đạo và tất nhiên sẽ đưa đến quả báo tương xứng. Đức Phật dạy: “Này các tỳ kheo! Như lai nói tư chính là nghiệp” (Cetan ‘aham bhikkhave kammam vadàmi - Anguttara Nìkàya). Tư chỉ cho ý chí của các hành động thiện ác thuộc dục giới và tâm bất động của sắc và vô sắc giới.

Khi ý chí đã đạt được mục đích mà nó mong muốn thì nghiệp đạo căn bản được thành tựu. Nghiệp đạo là con đường đưa nghiệp nhân đến nghiệp quả. Quá trình thành tựu nghiệp đạo dù thuộc thân hay ngữ cũng phải đi qua 3 giai đoạn. Một là gia hành của nghiệp đạo là giai đoạn chuẩn bị cho hành động. Hai là căn bản nghiệp đạo lúc hành vi đạt được mục đích mong muốn. Ba là hậu khởi của nghiệp đạo, sự tiếp diễn của hành động sau khi căn bản nghiệp đạo đã thành tựu. (tham khảo Yết ma yếu chỉ - trích Câu xá - của HT Trí Thủ)

Nghiệp đạo có nhiều loại nhưng được biểu hiện bằng ba loại là nghiệp thân, miệng và ý. Về mặt tính chất thì chia làm 3 là thiện nghiệp, ác nghiệp và nghiệp bất động (thiền định).

Nghiệp ác (akusala kamma) có mười:

Về thân có 3 là sát sinh, trộm cắp, tà dâm.

Về miệng có 4 là nói dối, nói chia rẽ, nói thô ác, nói phù phiếm nhảm nhí.

Về ý có 3 là tham, sân, si.

Nghiệp thiện (Kusala kamma) có mười; ngược lại mười nghiệp ác trên.

Nghiệp bất động (ànanja kamma) là các tầng định thuộc sắc và vô sắc giới do Tư tâm sở làm phát sinh các thiền chỉ.

Như vậy, ở dục giới, hành động thân, miệng và ý của chúng ta thường xuyên tương ứng với mười nghiệp ác do vô minh và ái dục làm nhân duyên. Khi nào chúng ta còn vô minh, ái dục thì vẫn còn hành động theo mười nghiệp ác. Do đó, tuy chúng ta có đặt ra luật pháp, đạo đức, luân lý để ngăn chận các nghiệp ác nhưng chúng vẫn bị hạn chế bởi không gian và thời gian, bởi những tiêu chuẩn thiện ác, đúng sai, tốt xấu dựa trên khái niệm chủ quan mà đặt ra, như đã nêu ở trên.

Khác nhau giữa nghiệp đạo và giới luật:

Một người hành động theo mười nghiệp ác, xét ra họ không thể sám hối mà hết. Họ cũng không bị Thượng đế nào trừng phạt cả mà chính luật nhân quả với sự tác động của nghiệp đạo làm cho họ phải chịu quả báo tương xứng với nghiệp mà họ đã làm. Như thế, muôn tiêu diệt hay vô hiệu hoá nghiệp đạo đã làm thì phải bằng cách làm nhiều thiện nghiệp để hóa giải. Ví dụ ta nấu một nồi canh lỡ cho muối nhiều, bị mặn, thì phải xử lý bằng cách cho thêm nước, bột ngọt, đường vào thì vị mặn sẽ giảm đi và có thể ăn được. Nếu cũng lượng muối ấy, nếu cho vào một khối nước thì sẽ bị tiêu mất.

Để ngăn chận các hành vi của thân, miệng, ý không tạo các nghiệp đạo ác, người Phật tử phải thọ giới. Khi đã thọ giới, chúng ta nhờ năng lực hộ trì, ngăn chận của giới làm cho chúng ta không làm các nghiệp ác.

Giới luật là gì? Giới luật (sìla, vinaya) có nghĩa là hộ trì, bảo vệ, là những điều cần phải học (sikkhà pada - học xứ - như học xứ không sát sinh) bằng tự nguyện. Giới không hề có ý nghĩa bị bắt buộc phải thọ, phải giữ như luật pháp hay nội quy. Ngoài ý nghĩa xã hội, giới chú trọng đến mặt Thánh đạo nên còn gọi là luật nghi (Samvara). Khác với luật pháp bị hạn chế bởi không gian, thời gian, đối tượng, trường hợp, luật nghi bao trùm cả năm chi phần: đối với bất cứ hữu tình (động vật); đối với bất cứ thời gian nào; đối với bất cứ nơi đâu; đối với bất cứ trường hợp nào; đối với bất cứ phương tiện nào để làm ác (xem Câu xá 15 - Đại chính 29, tr 78b). Chính luật nghi là cơ sở phòng hộ người có thọ giới được sống an ổn và đi vững vàng trong Thánh đạo, nền tảng cho chánh niêm, tỉnh giác để đi vào định và tuệ tiến đến giác ngộ giải thoát.Giới luật còn có chức năng rất quan trọng là bảo trì sự tồn tại của Phật pháp. Giới luật là nền tảng của Phật pháp (Vinayo sàsana mùlam - Tỳ ni giả, Phật pháp chi thọ mạng)

 Có thọ giới, tất nhiên có lúc phạm giới. Phạm giới là gây tội. Tội với ai? Trước tiên là với chính ta vì ta đã vi phạm vào những điều mà chính ta nguyện giữ. Thứ nữa, ta có tội với Tam bảo, với giới sư, người mà ta xin giới và hứa sẽ giữ giới. Như vậy, khi phạm giới, chúng ta có thể sám hối và xin giới để thanh tịnh trở lại.

Một người không phải là Phật tử, không thọ giới, khi sát sinh, họ đã tạo một nghiệp đạo ác và sẽ chịu quả báo tương xứng.

Một người Phật tử khi sát sinh, vừa tạo một nghiệp đạo ác, vừa phạm giới sát sinh.

Nhìn qua, người Phât tử bị thiệt thòi, vậy thọ giới để làm gì?

Nhưng như đã nói ở trên, phạm giới thì sám hối được và khi sám hối đúng pháp thì giới sẽ phục hồi. Đồng thời, người Phật tử nhờ năng lực hộ trì của giới nên không hành động các nghiệp ác, dù có muốn làm, đồng thời nhờ giới hộ trì nên dễ dàng thực hành các phúc nghiệp (Punna) như bố thí, hành thiền, phục vụ v.v… để hoá giải các nghiệp đạo ác đã có.

Một người không thọ giới, họ chỉ không làm điều ác khi bị luật pháp ngăn cấm trong không gian hay thời gian nào đó. Nhưng khi có cơ hội thuân tiện thì họ vẫn làm. Không có năng lực của giới hộ trì nên họ sẵn sàng hành động theo tiếng gọi của vô minh và ái dục. Và như thế, họ sẽ nhận lấy những quả báo của nghiệp đã làm, đồng thời tiếp tục tạo thêm các nghiệp đạo ác khác. Luật pháp được xây dựng trên quyền lợi của số đông hay quyền lực nên người ta chỉ tuân thủ do tác động ngăn chận bên ngoài. Giới luật của Phật giáo được xây dựng trên từ bi, luôn đặt mình vào vị trí của người để giúp đỡ người, không làm điều ác có hại cho người; bằng trí tuệ là hiểu rõ nhân quả, nghiệp báo nên không làm điều ác chứ không cần đến sự khống chế từ bên ngoài.

Là Phật tử, chúng ta phải nhận định đúng về tam quy, giới luật, nhân quả, nghiệp, nghiệp đạo, quả báo của nghiệp, để hiểu rõ sự khác nhau giữa vị trí và giá trị, mục đích của giáo pháp do đức Phật dạy và những quy định về luật pháp của xã hội hay những điều cấm, điều răn của các tôn giáo khác.Khi đã hiểu đúng giáo pháp bằng trí tuệ, chúng ta mới có chánh kiến và mới đi đúng trên chánh đạo để có đời sống an lạc trong hiện tại và tương lai mà không bị lệ thuộc hay mâu thuẫn với những sinh hoạt của chính ta giữa xã hội. 

Vĩnh Nghiêm, mùa hạ 2548 - 2004

Tâm Hạnh


 

 

Ý nghĩa Đức Phật Thành đạo.^

 

Thích Tâm Minh

 

Ngược dòng thời gian hơn 25 thế kỷ, kể từ thời điểm trọng đại đánh dấu một chiến công lẫy lừng trong lịch sử nhân loại, một con người bình thường bằng đấu tranh nội tại đã tự mình vượt thoát khỏi mọi sự trói buộc của khổ đau sanh tử luân hồi. Một đại vĩ nhân xuất hiện. Những lời tuyên bố đầu tiên của Ngài mãi mãi về sau vẫn là một khúc ca khải hoàn, chấm dứt trường chinh chống bọn giặc Ma vương phiền não, đưa một con người từ phàm phu lên vị trí một Bậc Giác ngộ, Bậc Đạo Sư của trời người. Từ đó nhân gian tôn xưng Ngài là Đức Phật – Bậc Giác ngộ tối thượng. Và như thế, hằng năm đến ngày mùng tám tháng chạp, mọi người con Phật trên khắp năm châu đều nô nức đón chào một sự kiện lịch sử: Đức Phật Thích Ca Thành Đạo. Hòa với niềm vui chung của muôn loài, hôm nay chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu về ý nghĩa Thành Đạo của Đức Bổn Sư.

I- Khái quát về Đức Phật:

Sống giam mình trong ngục thất vàng ngọc và buộc ràng bởi tình ái thê tử, Thái tử Sĩ-Đạt-Ta (Siddhattha) không có được chút thảnh thơi, an lạc. Cuộc sống luôn bị rình rập bởi già, bệnh, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não; chàng quyết định từ bỏ vinh hoa phú quý, làm một Sa-môn vô gia cư để tìm đường giải thoát cứu mình và nhân loại.

Thời gian trôi qua, gần một năm theo học với đạo sĩ Alara Kalama lãnh đạo phái Samkhya (Số luận) ở thành Vesali (Tỳ-xá-ly) và với Uddaka Ramaputta (Uất-đầu Lam-phất), lãnh đạo phái Yoga (Du già) tại kinh đô Rajagaha (Vương-xá), Sa-môn Gotama đã thấu triệt những gì mà hai đạo sĩ đạt được, nhưng Ngài không thỏa mãn; vì cho rằng chúng chưa là giác ngộ tối thượng. Ngài từ bỏ hai đạo sĩ và đến cùng tu với năm người tu khổ hạnh là Kondanna (Kiều-Trần-Như), Bhaddya (Bạc-Đề), Vappa (Đề-Bà), Mahanama (Mahanam), Assaji (Ác-Bệ). Cuộc tìm kiếm chân lý trên đường tu khổ hạnh kéo dài 6 năm, kết quả chẳng có gì ngoài những cảm giác đau đớn, kiệt sức… Ngài một lần nữa chối bỏ phái tu khổ hạnh và “Tự mình thắp đuốc lên  mà đi”.

Sau 49 ngày đêm tư duy thiền định dưới cội cây Assatha (Tất-bát-la), vào một đêm sau khi sao Mai vừa xuất hiện, trí giác siêu việt bừng sáng nội tâm, Sa-môn Gotama chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Ngài được trời người cung kính với 10 tôn hiệu: Như-Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.

II. Ý nghĩa Thành Đạo:

1- Con người là tối thượng:

Đức Thế Tôn là bậc Đại giác ngộ khai sáng đạo Phật. Ngài là một người như bao nhiêu người nhưng tự giác ngộ chân lý, rồi đem sự giác ngộ ấy dạy lại cho con người. Chúng ta đừng lầm lạc, khi dán sau lưng Ngài những nhãn hiệu mà chính Ngài không thừa nhận. Do đó, chúng ta không nên xem Ngài như là một vị giáo chủ của một tôn giáo thông qua sự tôn thờ Ngài bằng lòng sùng kính của một tín đồ, vì đây không phải là bản ý của Ngài. Ngài là một nhà văn hóa bởi vì ta đã nhìn Ngài bằng cặp mắt của một nhà văn hóa. Ngài là một nhà triết học bởi vì ta đã tìm hiểu Ngài qua những kiến thức triết học của ta. Đúng ra, chúng ta chỉ có thể nói rằng Ngài là người đáp ứng những nhu cầu sinh hoạt của một xã hội, đáp ứng một cách toàn vẹn, nhờ giác ngộ, nhờ đức độ vô biên, nhờ ý chí bất khuất của Ngài. Đức Phật đã tuyên bố, Ngài không phải là thượng đế, thiên sứ hay thần linh ở một thế giới xa xăm nào xuất hiện giữa cuộc đời.

Ngài nói, tất cả những gì Ngài thực hiện được, đạt đến được và hoàn thành được, đều hoàn toàn do nỗ lực và trí tuệ con người. Con người và chỉ có con người mới có thể thành Phật. Cho nên cái ý tưởng cho rằng Ngài là một nhân vật thần linh vạn năng, có thể ban phúc trừ họa là một ý tưởng sai lạc. Chúng ta kính yêu Đức Phật vì bản thân Ngài là một thực thể đúc kết bằng những yếu tố nhân bản và trí tuệ. Đức độ và giáo lý của Ngài là những châu ngọc đúc kết bằng những chất liệu con người. Chúng ta kính yêu Đức Phật vì chúng ta thấy ở Ngài hình bóng của chính ta. Cũng bởi vì vậy, cho nên trong suốt hơn hai ngàn năm trăm năm lịch sử, đạo Phật là một nguồn sống tràn đầy tính chất nhân bản. Đức Phật là người khơi mở nguồn sống ấy, khơi mở chứ không phải là hóa hiện là tạo dựng. Chúng ta có thể gọi Ngài là một con người tuyệt luân. Ngài quá toàn thiện trong nhân tính của Ngài đến nỗi về sau trong tôn giáo của đại chúng, Ngài được xem là một siêu nhân. Đức Phật dạy, nếu ai hiểu một cách chân chính thì hãy hiểu rằng, Ngài là một vị hữu tình không có si ám, sinh ra ở đời vì hạnh phúc nhân loại, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài người (Trung Bộ I, Kinh số 4, tr 53).

Cho nên đạo Phật cho rằng vị trí con người là tối thượng. Con người là chủ nhân ông của chính mình, và không có một thực thể hay quyền năng nào trên cao để định đoạt số phận của nó. “Người là nơi nương tựa chính mình, còn ai khác nữa có thể làm nơi nương tựa?”.

2- Con đường Trung đạo từ bỏ hai cực đoan:

Bằng kinh nghiệm tự thân. Đức Thế Tôn đã vạch rõ tư tưởng sai lầm của hai phái. Một là đắm nhiễm dục lạc; hai là khổ hạnh ép xác, nói cách khác là phái chủ trương lạc quan và phái chủ trương bi quan. Phái lạc quan sẽ bị vật chất hóa, thiên nhiên hóa, khoái lạc chủ nghĩa. Phái chủ trương bi quan tự chán ghét đời sống tạm bợ, thân thể đầy nhơ nhớp, nên dùng phương tiện ép xác, nhịn đói, khổ thân để mau bỏ xác thân này và cầu thân hạnh phúc tốt đẹp đời sau.

Theo Đức Thế Tôn, hai chủ trương này không có lợi ích gì và đó chỉ là tâm niệm bất chánh, kết quả chỉ là khổ thôi. Từ bỏ hai cực đoan này. Đức Thế Tôn thực hành Bát Chánh Đạo. Và Ngài đã tìm cực lạc thật sự trên con đường này. Đây là con đường Trung đạo đưa đến sự giác ngộ tối thượng. Như vậy, Ngài nói con đường tu tập Trung đạo mà Ngài tìm thấy, đó là kết quả giác ngộ qua quá trình thực hành Giới, Định, Tuệ. Trong Kinh Pháp Cú, phẩm Đạo, tr 152 có ghi:

“Tám chánh, đường thù thắng,

Bốn câu, lý thù thắng.

Ly tham, pháp thù thắng.

Giữa các loài hai chân,

Pháp nhãn, người thù thắng.”

Hay:

“Đường này, không đường khác

Đưa đến kiến thanh tịnh

Nếu người theo đường này

Ma quân sẽ mê loạn”.

3- Hãy nương tựa chính mình

Từ bỏ hai đạo sĩ thời danh và năm người bạn đồng tu để “Tự mình thắp đuốc lên mà đi”, là bài pháp thân giáo sinh động, thể hiện sự tự tu, tự chứng ngộ của bậc Đạo Sư của chúng ta đang tiến bước trên lộ trình giác ngộ giải thoát.

Ngài luôn dạy đừng giao phó thân mạng, tư tưởng, lý tưởng, mục đích sống cho bất cứ ai, chủ thuyết nào, ý thức hệ nào dù chúng đã trở thành truyền thống, tập tục; vì chỉ có mình là chủ nhân tác nghiệp, tạo nên khổ đau hay hạnh phúc. Đức Phật nói: “Chớ có tin vì nghe truyền thuyết, chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì nghe người ta nói; chớ có tin vì được kinh tạng truyền tụng; chớ có tin vì nhân lý luận siêu hình; chớ có tin vì đúng theo một lập trường; chớ có tin vì đánh giá hời hợt các dữ kiện; chớ có tin vì phù hợp với định kiến; chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy quyền; chớ có tin vì Sa-môn là bậc Đạo Sư của mình”. Và Ngài dạy: “Nếu thấy việc này là xấu, những việc này là bất thiện, những việc này bị người có trí chỉ trích, những việc này nếu tuân theo và thực hiện sẽ mang lại tai hại và xấu xa, thì hãy từ bỏ.” Còn “Nếu thấy việc này là tốt, những việc này là thiện, những việc này được người có trí tán thán, những việc này nếu tuân theo và thực hành sẽ mang lại lợi ích tốt đẹp, thì hãy chấp nhận chúng”.

Chúng ta thấy rõ, Đức Phật bao giờ cũng tôn trọng sự tư duy, nhận xét và quyết định của chúng ta, Ngài không muốn chúng ta nhắm mắt tuân theo Ngài, vâng theo sự phán xét của Ngài một cách thụ động. Ngài đòi hỏi chúng ta một sự suy tư chín chắn, một ý thức kinh nghiệm bản thân, rồi mới đánh giá sự việc là thiện hay bất thiện, tiếp đến mới có thái độ tuân theo hay từ bỏ. Do đó, Ngài khuyên chúng ta hãy là “một nơi nương tựa cho chính mình” và không bao giờ tìm nơi nương tựa hay sự giúp đỡ của bất cứ người nào khác. Ngài giảng dạy, khuyến khích và cổ võ mỗi người hãy tự tu tập và tìm sự giải thoát cho chính mình, vì con người có năng lực giải thoát mình ra khỏi mọi ràng buộc của trí tuệ và nỗ lực của riêng mình. Đức Phật dạy: “Các người nên làm công việc của mình, vì các đức Như-Lai chỉ dạy con đường mà thôi”. Nếu người ta có gọi Đức Phật là một người “cứu thế” đi nữa thì cũng chỉ có nghĩa rằng Ngài đã tìm ra và chỉ ra con đường đi đến giải thoát, Niết-bàn. Nhưng tự chúng ta phải bước trên con đường ấy.

4- Chúng sanh có thể thành Phật

“Tự mình thắp đuốc lên mà đi”, chính là tự mình phải khơi dậy ngọn đèn tuệ giác, khơi dậy hạt giống Phật đang tiềm ẩn bên trong mỗi người. Vì rằng, “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh” (Nhứt thiết chúng sinh giai hữu Phật tính), tức là ai cũng có thể tu hành thành Phật. Chúng sinh vì lòng tham chấp ngũ uẩn cho là ta, là của ta, là tự ngã của ta… và ý thức rằng thân thể của tôi, tình cảm của tôi, tâm tư tôi, nhận thức tôi,… hình thành một cái tôi ham muốn vị kỷ làm che lấp cái thể tánh sáng suốt vốn có của mỗi chúng sinh. Ý niệm này được Kinh Pháp Hoa diễn tả hình ảnh một kẻ nghèo khó, vốn có châu báu trong vạt áo nhưng không hay biết mà phải bôn ba khắp nơi để kiếm sống; đến khi có vị thiện trí thức chỉ ra mới hay biết, nhờ đó mà thoát khỏi cảnh khốn khổ. Chúng ta cũng vậy, vì không biết trong mỗi người đều có Phật tính, cho nên trải qua không biết bao nhiêu số kiếp, nhưng vẫn lặn hụp trong biển khổ sinh tử mênh mông. Đức Phật là bậc Đạo Sư, Ngài chỉ có trách nhiệm khơi mở chỉ bày phương pháp đạt đến giác ngộ, còn chúng ta phải có trách nhiệm phát huy tiềm năng vốn có. Do đó, tiến trình từ phàm phu đến quả vị Phật, là tiến trình chiến đấu với tự thân, phá trừ tận gốc thành lũy vô minh, tham ái. Đức Phật tuyên bố: “Biển có thể cạn, núi có thể sụp đổ, quả đất có thể băng hoại, nhưng khổ đau không bao giờ chấm dứt đối với con người vô minh và ái dục” (Tương Ưng III, chương I, phần 5, tr 267). Đức Phật đã đoạn tận vô minh, tham ái nên Ngài được trời người tôn xưng là Bậc Đạo Sư, là người đã vượt lên trên tất cả muôn loài. Ngài đã khẳng định: “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”.

Nói tóm lại, sự kiện Thành đạo của Đức Thế Tôn là điểm son trong lịch sử tôn giáo của nhân loại, mở ra kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của nhân bản, bình đẳng, vô ngã và từ bi. Ngài là bậc thầy vĩ đại của nhân loại, một con người kỳ vĩ xuất hiện trong thế giới thường nhân, với trí tuệ siêu xuất thể hiện qua ngôn ngữ, văn tự thường tình đã gây âm vang chấn động trong lịch sử tôn giáo và triết học.

Thời gian trôi đi gần ba thiên niên kỷ, thế giới loài người cũng đã bao lần đổi thay, nhưng những lời dạy của Đức Phật vẫn mãi mãi là bức thông điệp muôn thuở cho con người khảo nghiệm, nghiên cứu, thực hành. Đức Phật chỉ là một con người, nhưng là một con người kết tinh của vô vàn tinh hoa tuyệt mỹ của nhân loại. Vì thế, đứng ở góc độ nào, người ta cũng thấy được hiện thân của Ngài. Đó là hiện thân của chân lý, của trí tuệ và từ bi.

 

 

Theo bước chân Phật.^

 

Thích Nhật Hiếu 

Ngược dòng thời gian cách đây trên 2.500 năm, trước bao cảnh nghiệt ngã của cuộc đời, đã thôi thúc thái tử Tất Đạt Đa vượt thành đi tìm chân lý tự cứu cho mình và giúp cho đời. Sau 5 năm tầm sư học đạo, 6 năm khổ hạnh rừng già và 49 ngày trầm tư thiền định dưới cội Bồ đề, ngài đã thể nhập và chứng ngộ chân lý tối thượng. Kể từ đó, bước chân của bậc Đại giác đã du hành khắp lưu vực sông Hằng (Gange): qua các vương quốc Ấn cổ xưa như: Ba-la-nại (Benares), Ma-kiệt-đà (Magadha), Vệ-xá-li (Vesàli), Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavatthu), Câu-thi-la (Kusinàrà), Xá-vệ (Sàvatthi), Kosala, Càmpa,v.v… điểm dừng chân cuối cùng trong hành trình du hóa và nhập diệt tại rừng Sala ở Câu-thi-la. Ngài đã thuyết pháp từ các hàng vương giả cho đến thứ dân, bất chấp giai cấp khắc nghiệt của Ấn Độ giáo từ xa xưa. Ngài là bậc Đạo sư đã chỉ dạy cho Tứ chúng đệ tử (Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu-bà-tắc và Ưu-bà-di) lộ trình từ địa vị phàm phu khổ đau hướng đến Niết bàn hạnh phúc.

Ngày nay, đạo Phật không những thịnh hành ở các nước Á Châu, mà còn vượt đại dương truyền bá ngày càng sâu rộng khắp các châu lục trên toàn cầu. Thành tựu to lớn đó chính là suối nguồn của Chánh pháp đã trôi chảy bất tuyệt trong lòng nhân loại bao đời. Câu kinh sau đây được xem như bức thông điệp của tình thương và an bình cho nhân loại:

“Không làm các điều ác,          

Thành tựu mọi hạnh lành,

Giữ tâm ý trong sạch,

Là lời chư Phật dạy.”([1])

Giáo lý Phật Đà giúp chúng ta hoàn bị cho chính mình một nhân cách thánh thiện, qua các nghĩa cử cao đẹp của tự thân trong cộng đồng xã hội:

a- Thân không làm việc ác: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm.

b- Miệng không nói lời ác: không nói ác khẩu, không nói hai lưỡi, không nói lừa lọc, không nói thêu dệt.

c- Ý không nghĩ điều ác: không tham lam, không sân hận, không si mê.

Không dừng ở tại nơi “Không làm các việc ác”, mà người tu Phật còn tích cực hơn trong việc “Thực hành mọi hạnh lành”. Tuy nhiên, muốn việc làm đúng nghĩa phải luôn chánh niệm, tỉnh giác,... không bị tác động lồng ghép bởi tự ngã quanh co, bóp méo,… đánh tráo bằng sự toan tính, mưu đồ, vụ lợi,... mà phải bằng tấm lòng vô ngã, vô cầu.

Để việc hành thiện đúng nghĩa và thành công trọn vẹn cho người Phật tử tại gia cũng như xuất gia, đức Phật đã dạy một cách tường tận trong Kinh Bát nhã về hạnh tu “Lục ba-la-mật” (s:Sàphàramità); nghĩa là Sáu hạnh tu đến bờ giác ngộ và giải thoát:

 

1- Bố thí Ba-la-mật (s:Dànapàramità): Hiến tặng cúng dường cho cá nhân hay tập thể bằng cả tấm lòng thịnh tình của mình.

Hiến tặng bằng tiền của gọi là “Tài thí”; hiến tặng bằng sự giúp đỡ ý kiến, dạy dỗ gọi là “Pháp thí”; hiến tặng bằng sự trấn an, vỗ về gọi là “Vô uý thí”. Sự hiến tặng đúng nghĩa phải phát xuất từ tâm từ bi, hiến tặng không phân biệt đối tượng, không vì lời khen, tiếng chê, không mưu đồ trục lợi. Nếu không, việc hành thiện của mình trở nên vô nghĩa. Hiến tặng cho người dưới mình với ý nghĩa thi ân là hành động quá lối, với ý nghĩa người kia phải trả ơn là mưu đồ. Hiến tặng (cúng dường) Phật, Pháp,Tăng với ý nghĩa cầu tài, cầu phúc là vụ lợi. Hiến tặng cho người trên mình mong sự bao dung và che chở là hối lộ. Qui luật nhân quả cho chúng ta một câu trả lời xác đáng: Nhân ác thì quả xấu, nhân lành quả phúc, nhân Vô ngã quả Niết bàn. Làm chùa, cúng Phật,v.v… thì được phước, nhưng tham lam, gian ác thì ác báo. Nhân quả phân minh, không thể lấy công mà đổ đồng lên tội.

Hơn nữa cũng cần lưu ý, giữa “người tặng” và “người nhận” còn có sự đối lưu. Người nhận, nhận được một món quà từ người tặng; ngược lại, người tặng cũng nhận được niềm vui (món quà tinh thần) một cách thầm lặng, khi làm được một việc làm đầy ý nghĩa cho bản thân. Như vậy, người cho đồng thời cũng là người nhận. Để thực hiện những đức tính cao đẹp trên cần phải hội đủ các điều kiện như sau:

·        Từ tâm đối với tha nhân (Bi).

·        Luôn luôn hành động sáng suốt (Trí).

·        Lập trường tôn thờ lý tưởng từ bi và trí tuệ phải vững vàng, bất chấp mọi trở lực khi thực thi hạnh tu này (Dũng).

Tóm lại, Bố thí Ba-la-mật là hiến tặng vật chất lẫn tinh thần cho người khác trong cảnh ngộ ngặt nghèo, là đem lại niềm vui và an lạc cho tha nhân. Đây là một trong những chặng đường mà lộ trình lập địa thành Phật của mọi người con Phật chúng ta cần kinh qua.

 

2- Trì giới Ba-la-mật (‘Sìlapàramità): Mục tiêu giá trị cần phải đạt được của tất cả mọi người con Phật chúng ta là giải thoát tâm linh. Lộ trình đưa đến mục tiêu ấy là Trì giới Ba-la-mật. Nó giúp chúng ta thanh lọc tâm hồn và thân chứng chân lý giải thoát. Giới luật là hàng rào bảo vệ an toàn phẩm hạnh nhân cách, ngăn ngừa điều sai trái, dứt trừ điều xấu xa (phòng phi chỉ ác). Đức Phật dạy: Phật tử tại gia giữ 5 giới; Sa di, Sa di ni giữ 10 giới; Tỳ kheo giữ 250 giới; Tỳ kheo ni giữ 348 giới,v.v...

Đó là lẽ sống thánh thiện mà người Phật tử tại gia cho đến xuất gia đều phải giữ gìn cẩn thận, xem đó như con thuyền vượt bể khổ trần gian đầy cuồng lưu dục vọng nhắm tới bờ an lạc giải thoát.

 

3- Nhẫn nhục Ba-la-mật (Ksïàntipàramità): Là khả năng chịu đựng mọi sự nhục nhã. Có thể nói sự “Nhẫn nhục” là một đạo lý lập nghiệp cho muôn đời.

Một hiệp khách như Hàn Tín phải luồn trôn giữa chợ đông chỉ vì nghiệp lớn chưa thành. Một quốc vương như Câu Tiển đã phải nằm gai nếm mật chỉ vì thù nước chưa trả. Một đương kim thái tử Tất Đạt Đa tương lai sẽ trở thành một vị hoàng đế uy danh, nhưng phải vào rừng sâu sống khổ hạnh chỉ vì muốn tìm cho ra chân lý cứu khổ cho cuộc đời. Còn nhiều bậc hiền triết danh nhân khác,v.v... Những nghĩa cử nhẫn nhục thật vĩ đại!

Tuy vậy, sự nhẫn nhục cũng có nhiều cấp độ và ý nghĩa khác nhau. Có kẻ nhẫn nhục để chờ rửa hận, người nhẫn nhục để được thành danh. Không như vậy, nhẫn nhục trong Phật giáo, không cưu mang sự manh tâm phục thù, không vụ lợi tư kỷ cho cá nhân, mà nó hoàn bị cho người Phật tử có đầy đủ nghị lực đối mặt với mọi sự khó khăn từ vật chất cho đến tinh thần, sống vui vẽ giữa cảnh đời lao lung và khốn đốn để “Phụng đạo giúp đời.”

Sự nhẫn nhục Ba-la-mật là sức chịu đựng đến đỉnh cao trước mọi nghịch cảnh thử thách: “Không còn thấy cảnh thử thách, không còn thấy mình bị thử thách, và cũng không còn thấy khó khăn trong việc ra sức chịu đựng thử thách.”

Trong cuộc sống xã hội đời thường, có những lúc người ta cắn răng gắng sức chịu đựng những cảnh trái ý nghịch lòng, như những cuộc xung đột trong gia đình, trong xã hội,v.v... nhưng đến lúc bức xúc không còn kềm chế nỗi, họ hành động những điều không thể tưởng tượng nỗi, làm tan nát mọi quan hệ tốt đẹp giữa mọi người mà trước đây họ đã dầy công vun vén (chặt củi ba năm đốt một giờ). Để tỉnh giác mọi người Phật tử, đức Phật dạy: “Chỉ cần một đóm lửa nhỏ sân hận cũng đủ thiêu rụi cả rừng công đức” (Nhất tinh chi hoả năng thiêu vạn nhận công đức chi sơn).

Bao nhiêu đó cũng đủ hiểu sự quan trọng của Nhẫn nhục Ba-la-mật đối với mọi người, nhất là đối với người Phật tử trong suốt hành trình hướng tới đích an lạc và giải thoát.

 

4- Tinh tấn Ba-la-mật (Vìryapàramità): Sự siêng năng, chuyên cần liên tục trong việc ích mình, lợi người.

Với hoài bảo trở thành kỹ sư, bác sĩ,... người học trò phải siêng năng sớm hôm đèn sách. Muốn mùa vụ bội thu, bác nông dân phải chuyên cần cày sâu, cuốc bẩm, dãi nắng, dầm mưa, đong đầy nước mắt mồ hôi. Cũng vậy, hành trình về cõi Phật dịu vợi, xa xăm,... người Phật tử phải tấn tu liên tục, không lười nghỉ, không thoái bước khi chưa tới đích, mà phải đến đích mới thôi.

Đức tinh tấn biểu hiện qua hình ảnh người se gỗ lấy lửa, chưa có lửa đâu thể dừng tay. Người chèo thuyền chưa tới nơi thì giữa dòng đâu thể gát mái ngơi nghỉ. Người tu Phật: “Công chưa thành, quả chưa mãn” đâu thể lơi lỏng “tỉnh giác chánh niệm”. Mọi lời nói, mọi ý nghĩ, mọi hành động luôn luôn hướng về thanh tịnh, từ bi và trí giác.

Tinh tấn quan trọng như vậy, nên đức Phật đã lập đi lập lại trong 37 Phẩm trợ đạo có tới 6 lần. Nó được xem là đầu máy đưa con tàu ước vọng đến đích thành công. Cho dù người năng lực và trí tuệ có thừa, nhưng thiếu tinh tấn thì cũng không sao đạt được mục đích thành công.

 

5- Thiền định Ba-la-mật (Dhyànapàramità): Là sự tập trung sâu lắng, hiểu rõ mọi hiện tượng, bản chất của thân và tâm xuyên qua chánh kiến, chánh tư duy và chánh niệm, làm cho tất cả các vọng niệm được loại trừ khỏi tâm thức. Lúc đó, hành giả đạt đến trừ khổ, tâm được thanh tịnh, đạt tuệ giải thoát.

 Ngày nay, Thiền học rất có duyên và được các giới trí thức Tây phương đón nhận một cách nồng nhiệt. Nhưng cũng cần lưu ý Thiền có rất nhiều loại: Thế gian thiền, Ngoại đạo thiền, Tổ sư thiền,v.v… Trong đó thế gian thiền và ngoại đạo thiền không phải là Thiền của Phật giáo. Nó không đưa đến “Tâm giải thoát và Tuệ giải thoát” để chấm dứt mọi khổ đau trong cuộc đời.

Thiền của các kiếm sĩ, võ sĩ, các vận động viên thể thao, các nhà dưỡng sinh,v.v... nhằm mục đích duy trì sức khoẻ hoặc đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật. Thiền của ngoại đạo nhằm mục đích đạt đến thần thông, chứng “Tứ không, Tứ vô sắc định”. Thiền của tổ sư, thầy trò tâm truyền: “Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật”. Đặc biệt, Như lai thiền là truyền thống khơi nguồn của Thiền học Phật giáo. Như đức Phật đã từng dạy: “Đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sinh, vượt khỏi sầu não, diệt khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết bàn. Đó là Tứ niệm xứ.”([1])

a- Quán thân bất tịnh (Hiện quán về thân): “Khi đi, đứng, nằm, ngồi tôi tuệ tri: tôi đang đi,… đang ngồi; khi ngó tới, ngó lui,…; khi ăn, uống,…; khi thức, ngủ, nói năng, im lặng,… đều biết rõ việc mình đang làm.”([1])

b- Quán thọ là khổ (Hiện quán về thọ): “Khi cảm giác khổ thọ/ lạc thọ/ bất khổ bất lạc thọ/…; khi những cảm giác này thuộc về vật chất, hay không thuộc về vật chất đều phải tuệ tri như vậy.”([1])

c- Quán tâm vô thường (Hiện quán về tâm): “Với tâm có tham, tôi tuệ tri: tâm có tham; với tâm không tham, tôi tuệ tri: tâm không tham; (tương tự với sân và si,…)”([1])

d- Quán pháp vô ngã (Hiện quán về pháp): “Sự thật của cuộc đời là khổ, vô thường vô ngã, và con đường đưa đến hạnh phúc đích thực của cuộc đời là Thánh đạo tám ngành (Ariyatïtïhangika): chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định.([1]) hoặc: “Ai thấy được pháp duyên sinh (khổ, vô thường và vô ngã) là thấy được pháp, ai thấy được pháp là thấy được Ta (Phật).”([1])

Có thể nói đây là yếu tố quan trọng bậc nhất trong cuộc sống tu tập cũng như cuộc sống đời thường, nếu tâm hồn chúng ta có an định thì mọi việc mới có thể giải quyết thông suốt. Định trong cuộc sống giúp cho chúng ta có nghị lực giải quyết mọi vấn đề một cách ổn thỏa; định trong tu tập giúp chúng ta thanh lọc tâm hồn, bảo hòa năng lượng và phát huy sức mạnh nội lực, hướng đến đích giác ngộ giải thoát; như đức Phật từng khẳng định: “Trụ tâm nhứt xứ, vô sự bất biện.”([1])

 

6- Bát nhã Ba-la-mật (Prajnõàpàramittà): Đây là sự hiểu biết của Trí tuệ ưu việt hẳn mọi thấy biết xuyên qua tư duy, kinh nghiệm thông thường của “Tưởng tri và thức tri”(tức sự thấy biết xuyên qua các giác quan: “Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý). Ở đây muốn đề cập đến: “Thắng tri, Tuệ tri và Liễu tri”.

a- Thắng tri: Sự hiểu biết xuyên qua đoạn trừ hoặc lậu (tham, sân, si, mạn, nghi,…).

b- Tuệ tri: Sự hiểu biết một cách hoàn toàn về Tứ đế: “Thực trạng của khổ, nguyên nhân của khổ, trạng thái của khổ diệt, và con đường đưa đến khổ diệt.”([1])

c- Liễu tri: Sự hiểu biết một cách toàn triệt về lý Duyên khởi. Như đức Phật dạy:

Vị ấy trầm tư về chuỗi duyên sinh, theo trình tự thuận chuyển (luân chuyển) và nghịch chuyển (hoàn diệt): “Do vô minh, hành sinh; do hành, thức sinh; do thức, danh sắc sinh; do danh sắc, lục nhập sinh; do lục nhập (sáu giác quan), xúc sinh; do xúc, thọ sinh; do thọ, khát ái (tham dục) sinh; do khát ái, chấp thủ sinh; do chấp thủ, hữu sinh; do hữu, sanh sinh; do sanh sinh, nên lão-tử-sầu-bi-khổ-ưu-não sinh; Hay nguồn gốc toàn bộ khổ uẩn sinh.”([1])

 Ngược lại, “Bởi sự đoạn diệt của vô minh, dẫn đến sự vắng mặt hoàn toàn của khát ái, nên hành diệt; bởi sự đoạn diệt của hành, nên thức diệt; bởi sự đoạn diệt của thức;... nên sanh-lão-tử-sầu-bi-khổ-ưu-não diệt. Hay toàn bộ Khổ uẩn diệt.”([1])

“Các thánh đệ tử liễu tri hoặc lậu như vậy, tuệ tri hoặc lậu như vậy, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt hoặc lậu như vậy,... diệt tận mọi khổ đau ngay trong hiện tại.”([1])

Trí tuệ giúp chúng ta định hướng đúng đắn không lầm đường lạc lối si mê tội lỗi. Có trí tuệ, chúng ta sẽ hiểu làm những việc nên làm, nghĩ những điều nên nghĩ, và nói những lời nên nói để “Ích mình lợi người”.

Trong cuộc sống đời thường, chúng ta bắt gặp những người học cao, có nhiều bằng cấp, nhưng không những họ vận dụng sự hiểu biết của mình để ích mình lợi người mà trái lại đặt nhiều điều mưu thần chước quỉ hãm hại mọi người để thoả mãn những dục vọng tham lam của mình, để đến nỗi mắc phải Pháp luật gia hình. Sự hiểu biết của những hạng người này không thể gọi là chân trí tuệ được. Nó chỉ là trí hữu lậu, điêu ngoa, hẹp hòi ích kỷ,... và cộng thêm chút mù quáng của kẻ “hữu học cực đoan sở đắc”, thao túng bất chấp hậu quả để rồi cuối cùng chuốc họa vào thân. Theo nghĩa tuệ tri Tứ đế, thì trí tuệ chính là cội nguồn Niết bàn, là dòng suối bất tuyệt của hạnh phúc chân thật trong ta khi loại trừ mọi phiền trược khổ não.

Trí tuệ đối với sự nghiệp lý tưởng giải thoát của mọi người con Phật quan trọng như ngọn đuốc thiêng đối với lữ khách trong đêm trường tăm tối, như người hoa tiêu đối với thủy thủ đoàn lèo lái con thuyền vượt sóng ngàn trở về bến cũ. “Duy tuệ thị nghiệp” mãi mãi là một biểu tượng thiêng liêng của Phật giáo.

Lục độ Ba-la-mật không những là tính nhân bản đặc trưng đạo đức học nhập thế của Phật giáo, mà còn là tinh thần xuyên suốt thoát tục của Phật giáo. Lục độ luôn luôn nhắc nhở chúng ta mọi ý thức và hành động sống xả kỉ vị tha, sống ích mình lợi người. Lục độ Ba-la-mật cho chúng ta một cách nhìn cuộc đời bi mẫn hơn. Một lẽ sống tác động hài hoà giữa cá nhân này với cá nhân khác, giữa sắc tộc này với sắc tộc khác,... trong tình thương yêu chung sống trong lòng cộng đồng xã hội, xóa tan mọi ranh giới giai cấp, chủ nghĩa, tôn giáo, quốc gia,...

Phật dạy: “Không có một giai cấp trong dòng máu cùng đỏ, và nước mắt cùng mặn.([1])

Dưới nhãn quan của bậc giác ngộ, đức Phật tuyên bố: “Cuộc đời và cả cuộc sinh tử cũng chỉ là khổ đau.” Cũng vậy, nhìn chúng sinh đang quay cuồng trong cuồng lưu dục vọng mà cổ đức đã phải ngậm ngùi:

“Bể khổ mênh mông sóng ngập trời,

Khách trần chèo một chiếc thuyền trôi,

Thuyền ai ngược gió, ai xuôi gió,     

Xét lại cũng trong bể khổ thôi.”

Thật vậy, lịch sử nhân loại là một “Câu chuyện dài đầy tang thương”. Thời tiền sử, các bộ tộc đấu tranh tiêu diệt nhau để tranh giành sự tồn tại. Thời kỳ chiếm hữu nô lệ, bọn tư sản Tây phương buôn bán dân da màu để làm nô lệ không khác gì là súc vật. Rồi tới thời kỳ thuộc địa, các nước đế quốc thực hiện những cuộc thôn tính những quốc gia nhược tiểu bằng các cuộc xâm lược thảm sát. Ngay cả các cuộc xung đột giữa các sắc tộc, các tôn giáo với nhau cũng đã gây bao tang thương điêu đứng, cảnh đầu rơi, máu chảy, da thịt vung vãi, quyến thuộc chia lìa, gia đình tang nát trong cảnh tử biệt sanh ly.

Ích kỷ, tham lam, sân hận, si mê đã biến con người thành dã thú điên cuồng, không còn một chút nhân tính. Chiến tranh thảm khốc, chết chốc thê lương, nghe bắt rợn người. Thế mà chiến tranh vẫn được tôn vinh một cách thiêng liêng như: Thánh chiến Mahommed (cuối thế kỷ thứ V, đầu thế kỷ thứ VI), Thánh chiến thập tự chinh (The Crusades: 1095–1291) do Giáo hoàng Pole Urban II phát động đánh chiếm Jesusalem, không biết bao nhiêu sinh linh bị tàn sát trong các cuộc chiến nhân danh Thiên chúa như thế. Nhất là bước sang qua thế kỉ 21, làn sóng đấu tranh khủng bố mang tính chiến tranh tôn giáo lại tiếp tục lan rộng, gây nhiều cảnh chết chóc đầy khốc liệt. Nhân loại đang rơi vào hoàn cảnh sống trong bất an chưa từng thấy xưa nay.

Sự bất an chung của cộng đồng thế giới ngày nay đã đe dọa đến sự sống hạnh phúc và yên bình của con người. Điều đó đã nói lên sự tham lam, sân hận và si mê của con người cứ gia tăng bao nhiêu thì hạnh phúc con người sẽ bị đe doạ đến bấy nhiêu. Ngày nào con người chưa thức tỉnh cơn ác mộng vô minh đầy tham lam và sân hận này thì khổ đau vẫn còn đó, và đừng mong gì đến cuộc sống an lạc hạnh phúc.

Nhìn nhận về sự thật của cuộc đời, đức Phật đã thốt lên: “Biển cả có thể vơi đi, núi non có thể sụp đổ, quả đất có thể băng hoại, nhưng khổ đau không bao giờ chấm dứt đối với người còn vô minh và ái dục.”([1])

Ngài còn phê phán:

“Người ngu làm điều ác,       

Không ý thức việc làm,

Do tự nghiệp, người ngu,      

Bị nung nấu, như lửa.”([1])

Với lời tha thiết hơn nữa, Ngài đã dạy:

“Mọi người sợ hình phạt,       

Mọi người sợ tử vong,

Lấy mình làm ví dụ,  

Không giết, không bảo giết.”([1])

Với lời tuyên quyết dứt khoát của đức Phật về cuộc đời sẽ tươi đẹp và xán lạn khi con người không còn những cảnh vay trả của ác nghiệp oan khiên:

“Ai dùng các hạnh lành           

Làm xóa mờ nghiệp ác

Chói sáng rực đời này  

Như trăng thoát mây che.”([1])

Trong lịch sử truyền bá Phật giáo, bước chân các bậc Tổ sư vân du khắp từ Đông sang Tây chưa từng làm rơi một giọt máu. Không những Phật giáo rất trân trọng về đức tính hiếu sinh, mà còn nâng cao giá trị con người và toàn chúng sinh lên tột đỉnh: “Tất cả chúng sinh đều có Phật tính.”([1])

Tính nhân bản và tính thánh thiện của Phật giáo đã vượt ra ngoài mọi tôn giáo và triết thuyết với những định kiến đối lập ở thế gian. Nên khi nhận xét về Phật giáo thì các nhà học giả và các triết gia khó có thể nhìn nhận Phật giáo một cách trọn vẹn. Chừng mực nào đó, nếu có thể nhìn nhận thì: “Nếu cho Phật giáo là tôn giáo thì tôn giáo này không đặt nặng về vai trò quyền lực của thần linh mà được xem là tôn giáo của từ bi và cứu khổ; nếu cho rằng Phật là triết học thì nền triết học này không đặt nặng nơi lý luận siêu hình, mà là nền triết học dấn thân; nếu cho rằng Phật giáo là một nền luân lý đạo đức thì nền luân lý đạo đức này không mang tính áp đặt của mọi luật lệ hà khắc mà là một nền luân lý đạo đức của sự chuyển hoá và thoát ly mọi hệ lụy của cuộc đời.”

Trong cuộc hội thảo về đề tài “Phật giáo và hoà bình” Tiến sĩ K.N. Jayatilleke đã phát biểu: “Phật giáo là một tôn giáo đầu tiên trong lịch sử nhân loại với một thông điệp quốc tế là cứu độ tất cả nhân loại. Sau khi giác ngộ, Đức Phật đã gởi 61 đệ tử đi mọi hướng với nhiệm vụ truyền đạt Giáo pháp đem hạnh phúc và an lạc cho loài người”. (Buddhism is the first missionary religion in the history of humanity with an universal message of salvation for all mankind. The Buddha after his Enlightenment sent out sixty – one disciples in different directions asking them to preach the doctrine for the weal and welfare of mankind.)([1])

Như vậy, Phật giáo là một tôn giáo không đặt trên nền tảng “Thần linh mặc khải” với những giáo điều xa vời, mà nó là một diệu thuật sống, phát xuất từ “Nhân cách vĩ đại” uyển chuyển giữa dòng đời muôn ngàn nhân duyên sinh diệt của vũ trụ & nhân sinh.

Tâm đắc với nguyên lý trên, nhà bác học Albert Einstein đã phát biểu: “Tôn giáo tương lai sẽ là tôn giáo chung cho toàn cầu, vượt ra ngoài mọi ý tưởng về thần linh thiêng liêng, giáo điều và lý thuyết. Tôn giáo đó bao trùm cả phương diện thiên nhiên và tinh thần, căn cứ vào ý niệm đạo lý, phát sinh từ kinh nghiệm tổng thể, bao gồm cả thiên nhiên và tinh thần như một sự thuần nhất đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo đáp ứng được các điều kiện đó”. (The religion of the future will be a cosmic religion. It should transcend a personnal God and avoid dogmas and theology coversing both the natural and then spiritual, it should be based on a religious sence arising from the experience of allthings, natural and spiritual, as a meaningful unity. Buddhism answers this description.” (Albert Einstein, Cosmic Religion)([1])

Theo dấu chân xưa của đức Thế tôn, Phật giáo đã có mặt trên đất nước Việt Nam, đã hòa nhập vào đất nước và dân tộc Việt “đồng cam cộng khổ” trong những ngày đầu lập quốc. Phật giáo Việt Nam đã cống hiến cho dân tộc Việt nhiều Thiền sư kỳ tài lèo lái con thuyền dân tộc trong những ngày đầu gian nan như: Khuông Việt quốc sư, Vạn Hạnh thiền sư,... dựng lên các triều đại một thời huy hoàng như: Đinh - Lê - Lý - Trần; Lý Công Uẩn, Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông,v.v... là những ông Vua Phật tử nhân từ đức trị, tạo nên những trang sử vàng sáng ngời cho dân tộc.

Đức tính từ bi, trí tuệ và dũng mãnh của Phật giáo luôn là tấm lòng bao dung và san sẻ những vui buồn thăng trầm của tổ quốc trong các cuộc xâm lược vũ trang đồng hoá và các cuộc xâm nhập truyền giáo bằng vũ lực của ngoại bang. Tuy nhiên, Phật giáo vẫn giữ vai trò lập trường gắn bó, và sống còn với dân tộc.

 “Trang sử Phật cũng là trang sử Việt

Trải bao độ hưng suy

Có nguy nhưng chẳng mất”.

(Hồ Dzếnh)

Hơn nữa, Phật giáo còn đi sâu vào sinh hoạt trong lòng dân gian. Chuông chùa, cửa Phật,... luôn là những biểu tượng, những hình ảnh đẹp, phong phú mang tính truyền thống dân tộc qua thơ ca trong dòng văn học sử Việt Nam:

“Mái chùa che chở hồn dân tộc

Nếp sống muôn đời của tổ tiên”.

(Huyền Không)

Lần theo dấu chân xưa của chư Phật, chư Tổ,... chúng ta trở về với suối nguồn trong mát bất tuyệt của Chánh pháp, để xoa dịu mọi nghiệt ngã oan khiên cho cuộc đời, làm sống lại bao tâm hồn yếu đuối, chết lần mòn dưới cơn nắng hạ oi ả của tham lam, cừu hận và si mê; cho cuộc đời nhiều hoa thơm của đức hạnh và trái ngọt của tình thương.

“Theo chân người đại hạnh 

Thành công bước kinh hành

Y vàng nhòa sắc nắng                     

Trăng lam uốn dòng xanh”.

(Pháp cú)

 

 

Ánh trăng với ý nghĩa chân lý trong đêm Thành đạo. ^

 

Thích Tâm Tôn

 

 

Cùng với thời gian vô cùng tận, không gian vô biên tế, cái đẹp cũng tồn tại với một ý nghĩa rất bao la mà con người khó có thể khám phá cho thật tường tận bằng tri thức của mình. Cuộc đời Đức Phật là cả một lịch sử hùng tráng hướng đến tìm kiếm cái đẹp và xây dựng lý tưởng cái đẹp trong cuộc đời. Giáo lý được Ngài thiết lập là một hệ thống mỹ học thể nghiệm nội tại, có ý nghĩa vô cùng phong phú đối với đời sống nhân sinh. Cái sinh động trong hệ tư tưởng của Ngài là ở chỗ, từ những gì đạt được chính mình, bằng mọi phương tiện Ngài hướng đến khai triển cho tất cả cùng được thể nhập. Đó là ý nghĩa kỳ diệu của ngón tay chỉ về cái đẹp - Vành trăng. Vành trăng ấy chính là biểu tượng hàm chứa chân lý toàn vẹn ý nghĩa sống không chỉ cho phạm trù nhân sinh mà còn có ý nghĩa cho khắp tất cả vạn hữu trong vũ trụ này. Vì vậy, ý nghĩa hiện sinh của ánh trăng về chân lý trong đêm thành đạo của ẩn sĩ Siddhattha Gotama không chỉ có giá trị biểu trưng ý thức về cái đẹp, mà còn hướng đến xây dựng hoàn mãn cái đẹp đối với hoàn cảnh một nhân sinh và thiết lập biểu tượng chân lý về chánh pháp. Đó là ba ý nghĩa hàm chứa trong một sự thể “thành tựu giác ngộ” thông qua hình ảnh “vành trăng” sẽ được khai triển nơi đây.

 

Ý NGHĨA VỀ Ý THỨC CÁI ĐẸP.

Có một điểm đặc biệt mà truyền thống Phật giáo ghi nhận là hầu hết những sự kiện quan trọng trong cuộc đời Đức Phật đều diễn ra vào những đêm trăng tròn. Ngài đản sanh vào hôm trăng tròn tháng tư, xuất gia và nhập diệt vào đêm trăng tròn tháng hai, và đặc biệt điểm móc son sáng ngời nhất là sự kiện thành đạo vào đêm trăng tròn tháng chạp. Đây phải chăng là điểm khơi nguồn cho một hệ tư tưởng mới về ý nghĩa chân lý vừa mang giá trị thẩm mỹ, vừa mang tính giá trị giải thoát thông qua ánh trăng mà Siddhattha muốn thiết lập.

Xét về khía cạnh nghệ thuật, có thể nói ánh trăng là hình ảnh toàn vẹn nhất biểu trưng cho cái đẹp lẫn ý nghĩa hiện hữu. Bao giờ trăng cũng là nguồn cảm hứng vô tận đối với tâm hồn nghệ sĩ để hướng đến sự sinh động trong thế giới nghệ thuật. Ngay cả một dũng tướng chỉ quen với chuyện đao binh như Trần Hưng Đạo mà cũng không kềm nỗi cái thú trước một “Bến trăng thanh” để rồi cảm khái:

“Đêm nghỉ bến trăng thanh

Bỗng hay đầy thú lạ

Thơ theo bút tuôn dòng”.

Nhưng cũng có thể nhìn nhận, chính do sự toàn bích không bị chi phối bởi những giới hạn của nó mà khiến cho cái cảm thụ chịu sự chi phối bởi những giới hạn của con người hình thành nên những “khuyết tật” trong tâm thức. Có nghĩa là cũng ánh trăng đó nhưng khi đi vào tâm hồn, có khi nó làm cho người ta cảm thấy tịch liêu hiu quạnh đến ngút ngàn, có khi lại gợi buồn khúc chiết miên man, có khi tạo ra cái bâng khuâng cảm khái sâu xa, có khi lại là cái hồn nhiên nhàn nhã… - Mà tất cả đó có thể đều là những tâm trạng cần đạt tới nơi tâm hồn nghệ sĩ thế gian. Bởi đỉnh cao của nghệ thuật trần gian được người ta đánh giá như là sự lạc mất trong tiếp xúc thẩm mỹ. Và sự lạc mất này chính là tiêu chí xác định mức độ say mê hay ngây ngất trong nghệ thuật. Giai thoại thi hào Tô Đông Pha nhận nhầm chữ “Minh nguyệt” trong câu thơ Vương An Thạch tặng là một trong những minh chứng cho cái “khuyết tật” thẩm mỹ ấy. Đó có lẽ là do ảnh hưởng bởi cái bệnh của hồn thi sĩ bị “nàng nguyệt” ám ảnh, mà rõ ràng ông cũng đã từng có lần nhầm trong tâm thức khi ngắm ánh trăng rằm trên sông Xích Bích: “Vọng mỹ nhân hề thiên nhất phương” - vời trông người đẹp ngập phương trời.

Và cũng có thể vì cái khuyết tật bởi căn bệnh say tình với “nàng nguyệt” mà Lý Bạch đã nhào xuống sông để rồi ôm trăng mà chết, không kịp nhìn nhận sự lạc lầm.

Có lẽ cũng vì lý do đó mà Đức Phật có vẻ như phản đối tính cách hấp dẫn của mọi hình thái nghệ thuật. Theo Ngài, nghệ thuật có ảnh hưởng gây cảm xúc và đưa cảm xúc đi xa, gợi lên một sự cảm ứng hòa điệu, làm cho tâm trí khó hướng nội. Nó có khuynh hướng khơi dậy các mối dục vọng đam mê phấn khích, trong khi quan điểm của Ngài là cần làm lắng dịu dục vọng. Vì thế mà trong giới học căn bản Đức Phật có răn: “Bất ca vũ, xướng, kỹ; bất vãng quan, thính”- (không được ca, múa, hát, đàn; và cũng không được đi xem hay nghe). Tuy nhiên, chúng ta cũng thấy Đức Phật không phủ nhận một cách tuyệt đối tính chất nghệ thuật có chiều hướng tích cực như trong kinh Trường Bộ. Sau khi nghe một khúc nhạc do nhạc thần Càn Thát Bà tên Ngũ Kế biểu diễn, Ngài khen ngợi chàng nhạc sĩ ấy về sự hòa điệu giữa giọng ca và âm thanh trình tấu qua dây đàn bằng gỗ vàng Beluva với bài hát xiển dương chánh pháp.

Điều đó có thể ví von rằng, bầu không khí luôn cần cho sự sống của con người, nhưng mỗi người có một hơi thở khác nhau tùy theo thể trạng và tâm trạng mỗi người. Cũng vậy, cái đẹp của ánh trăng nói riêng và cái đẹp trong nghệ thuật nói chung luôn là một phần tất yếu của cuộc sống. Song nó ảnh hưởng đến đời sống như thế nào đều là do thái độ và cách cảm thụ ở mỗi người. Cũng ánh trăng đó nhưng nó sáng sủa hay tịch liêu, lạc lõng hay nồng nàn, buồn hay vui, động hay tịnh… đều tùy thuộc tâm trạng của mỗi người. Nhưng dầu sao cũng đồng tình với quan điểm Platon - một triết gia Hy Lạp: “Cái đẹp là hào quang của chân và thiện”. Đó chính là cái đẹp về phong thái nghệ thuật giải thoát ở thiền sư. Tức thiền sư bao giờ nhìn về cái đẹp tâm cũng thoát khỏi sự say mê để thể nhập vào nguyên lý tịch tịnh sáng soi nội tại mà Phật giáo gọi là “chơn tâm”.

Cái chơn tâm ấy chính là điểm mà Nguyễn Du hướng đến và được thi vị hóa qua ánh trăng:

“Đạt chân tâm kính quang như nguyệt

Xử sĩ môn tiền thanh giả sơn”. 

-Tâm người đặng sáng tỏ như trăng

Trước nhà ẩn sĩ non xanh biếc.

Đó chính là phong thái ngắm trăng của người nghệ sĩ Phật giáo. Trước sự huyền ảo của trăng, người nghệ sĩ Phật giáo ngắm trăng không phải để đưa hồn mình vào sự mê mẫn của những thứ sắc màu hấp dẫn đê mê, mà là liên tưởng đến cái bình diện của ý thức để nhận thấy những cái hão huyền hư ảo, để tìm về với cái chân thật của thế giới tự tại ung dung giải thoát:

“A ha trăng nát nửa vừng

Trải vàng áo rộng bên đường người đi,

Bụi mờ che khuất tà huy

Phất phơ ảnh mộng bước về ngã không”

-Hồ Ngạn Ngữ-

Khi thoát khỏi tầng độ cảm xúc thì rõ ràng không còn đòi hỏi phải có một đối tượng về cái đẹp mới cảm thụ được, mà có thể tất cả lúc này đều trở nên đẹp và đẹp tuyệt vời. Lúc này, chỉ có sự thể nhập hòa điệu trong các pháp để hóa thân vào cái vô cùng tận của thế giới nhiệm mầu đầy ý nghĩa theo cái nhìn của Phật giáo:

“Trong khoảnh khắc - tìm thấy cái vĩnh hằng,

Thấy thế giới bao la - trong từng hạt cát,

Trong lòng bàn tay - thấy cái vô cùng tận,

Và thấy cả bầu trời - trong một đóa hoa.

-W. Bleik-

 

Ý NGHĨA VỀ XÂY DỰNG HOÀN MÃN CÁI ĐẸP

 

Trong cuộc hành trình đi tìm cái đẹp, nếu người nghệ sĩ nhân gian đi theo tiếng gọi xa xăm nào đó đồng cảm với những huyết mạch thổn thức nơi tâm hồn, thì người nghệ sĩ Phật giáo lại hướng về cái thực tại nơi chính nó. Nguyên lý đích thực của thực tại này khởi nguồn từ một nhân cách mang tính hoàn thiện. Lý tưởng thẩm mỹ Phật giáo là ở chỗ “Thành tựu giác ngộ”, hay nói theo châm ngôn Hy Lạp là “Hãy thành tựu thể tánh của mi”. Trong tiến trình xây dựng lý tưởng ấy luôn có một sự thử thách lớn lao, đó là sự đối đầu đầy cam go giữa ý chí, nghị lực, tinh thần đại dũng với những vọng tình mê muội. Tất cả đó đều được minh chứng bằng quá trình chiến đấu nội tại để thành đạo của Đức Phật. Minh chứng đó chúng ta cũng có thể liên tưởng thông qua sự hiện hữu của ánh trăng trong tiến trình hoàn thiện giá trị thẩm mỹ trong nó. Đây là ý nghĩa của năng lực vận hành đi lên của hình ảnh ánh trăng, hay chính là năng lực hoàn thiện Thánh quả từ một chúng sanh.

Nếu mặt trời luôn y nhiên tự tại, không có một loại sinh thành nào; thì trái lại mặt trăng là một tinh tú có đầy có vơi, một tinh tú hiện hữu tuân theo định luật sinh thành chung của các pháp. Cũng như loài người, mặt trăng có một lịch sử cảm động vì sự suy giảm của nó như một tất yếu của đặc tánh luân hồi. Sự biến lặng của trăng vào bóng tối không phải là vĩnh viễn. Tự bản chất nó phục sinh nhờ năng lực vận hành của riêng nó. Đó là biểu trưng cho năng lực giải thoát nhân sinh được phát huy trong vòng luân chuyển bằng năng lực chính mình. Sự phản hồi bất tuyệt về hình tướng nguyên thủy tròn đầy của trăng chính là biểu tượng của quá trình “thành tựu thể tánh” một cách viên mãn. Như vậy, thì ra chính vòng tuần hoàn không dứt ấy làm cho mặt trăng trở thành tinh tú của nhịp điệu sống vô cùng sinh động. Những tuần trăng là biểu hiện cho những quá trình sống tiến triển thăng hoa của nhân sinh vũ trụ mà Đức Phật chính là điển hình tuyệt đối nhất.

Ánh sáng của trăng tròn không rực rỡ chợt chóe bừng lên như một tia chớp, và cũng không chói lọi gay gắt như ánh sáng mặt trời giữa trưa, nhưng nó có thể soi tỏ cả càn khôn vũ trụ.

“Nguyệt bạc vừng xanh, soi mọi chỗ thiên hà lai láng;

Liễu mềm hoa tốt, ngất quần sanh tuệ nhật sâm lâm”

-Trần Nhân Tông-

Sự giác ngộ hay thành đạo của Đức Phật không bộc phát một cách bất ngờ như tia chớp cắt ngang một vầng mây ám, mà là một quá trình xua tan tất cả những ngăn ngại mê mờ, để cuối cùng là sự tự soi sáng và chiếu tỏ muôn phương; và thế là màn vô minh biến mất, tựa “khi ánh sáng xuất hiện thì bóng tối tự tan dần”. Theo lời tường thuật của Đức Phật trong Kinh Trung Bộ (MN-36), ta thấy rằng sự kiện giác ngộ của Đức Phật kéo dài suốt ba canh. Điều này phù hợp với lời Ngài xác định “Giáo lý của Ngài theo tiến trình tuần tự, không có sự thể nhập đột ngột tự phát của tri kiến; ví như bờ biển không đột ngột sâu xuống mà cứ tuần tự xuôi dần”.

Như vậy, ta có thể hình dung ra sự giác ngộ của Đức Phật kéo dài trong nhiều giờ khắc. Với tâm trí cực kỳ minh mẫn, mọi khả năng trí tuệ của Ngài được điều động và tập trung lại vào cùng một thời điểm, để rồi tỏa sáng như ánh trăng. Không có gì gọi là “xuất thần” trong sự giác ngộ này cả, vì đó không phải là một trạng thái ở ngoài tự thân hay mê mẫn tâm trí. Cách tìm cầu trạng thái này của Đức Phật cũng không phải là sự mò mẫn mù quáng trong đêm tối. Ngài biết thật chính xác đối tượng nào cần hướng đến. Ngài nhìn thẳng vào thực trạng (khổ đế) của cuộc đời, tìm nguyên nhân (tập đế), rồi xác định con đường hướng đến (đạo đế). Như vậy, đó phải là cả một quá trình của sự vận hành năng lực trí tuệ để cho nguồn sáng chân lý tỏa chiếu diệu dụng như ánh trăng vào đêm thành đạo.

Sự giác ngộ ấy còn tiến xa hơn nữa để khai triển cái tri kiến ra nhiều lĩnh vực nhận thức mới. Cái tri kiến Ngài khám phá bên ngoài cùng với tuệ giác tinh hoa ở nội tâm chan hòa như những khối pha lê đúc kết thành một giáo pháp tinh anh như vầng mặt nguyệt. Trong ánh hào quang sáng ngời của sự giác ngộ, một hệ tư tưởng mới được tạo nên từ những yếu tố mới và cũ hòa đồng một cách vi diệu, và cuối cùng vượt hẳn lên mọi tri kiến để trở thành chân lý phổ quát soi tỏ vạn hữu.

Truyền thống Nguyên thủy cho rằng, sự đắc quả vô thượng giác ngộ đã biến Ngài từ một nghệ sĩ thành một nhà tư tưởng và cuối cùng vượt hơn tất cả để trở thành người chứng đạt chân lý. Điều hy hữu là dòng tư tưởng sáng tạo của Đức Phật chứng tỏ vẫn tiếp diễn ngay cả sau khi Ngài giác ngộ. Đó là ý nghĩa diễn tiến liên tục của nguồn sáng ánh trăng biểu trưng cho giá trị tồn tại vĩnh hằng của chân lý được Đức Phật thể nghiệm. Chân lý ấy là nguyên lý vận hành vô hạn khắp không gian và không thay đổi cùng thời gian, được Nguyễn Du ta thán:

“Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên

Y y bất cải cựu thuyền quyên” 

-Sân vắng đầu năm trăng sáng khắp,

Vẫn y nhiên tại đẹp nguyên màu.

Và cái chân lý ấy cũng được nhà thơ thiền hiện đại tự hóa điên Bùi Giáng gợi hỏi gã “Cùng tử” đang lang thang trong cuộc đời này:

“Em về mấy thế kỷ sau

Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không”.

Nếu ánh sáng của mặt trăng là sự hợp nhất của những gì huyền diệu tự nhiên, xua tan sự u tịch của đêm trường, lan rộng bao trùm khắp muôn loại; thì ánh hào quang dịu vợi của Đức Phật lại tỏa soi khắp bản thể vô biên, làm tan biến sự tối tăm của bao cực đoan quan kiến nơi tâm hồn nhân loại. Thật là toàn mỹ biết bao khi hai vầng sáng nội tại và ngoại tại cùng chan hòa nhịp nhàng trong nguồn sáng vô tận, khiến cho toàn thể sâu thẳm của cuộc đời đều được khai sáng một cách tuyệt vời nhất:

“Thử phong, thử nguyệt, dữ thử nhân;

Hợp thành thiên hạ tâm kỳ tuyệt”

-Trần Anh Tông-

 

 

Ý NGHĨA VỀ THIẾT LẬP BIỂU TƯỢNG CHÂN LÝ CHÁNH PHÁP

 

Tư tưởng không thể hoàn mãn mà không có sự hỗ trợ tối thiểu của ngôn ngữ biểu tượng. Để đi vào thuyên giải biểu tượng, không chỉ có nương vào những phương tiện liên hệ trong vũ trụ, cũng như ý nghĩa của ngôn từ mà còn bằng cả thể nghiệm về nó. Ý nghĩa của biểu tượng là cái mà trong đó ta đối diện với sự thật một cách cần thiết để hướng tới nắm bắt thực tại tính được chỉ rõ trong chúng. Do đó, thể nghiệm biểu tượng là một tất yếu căn bản giúp chúng ta trưởng thành sự chân thật.

Nếu ngôn ngữ có thể chuyển tải toàn vẹn mọi sự thể ở thế gian này, thì có lẽ sẽ không còn một hình tượng nào được xem là biểu tượng của những gì cao tột nữa. Phải chăng, chính sự giới hạn của ngôn ngữ ấy mà mọi pháp đều còn hiện hữu một cái gì đó huyền bí của riêng mình. Để khám phá những miền huyền bí vi diệu, phần còn lại là đi tìm sự thật bằng nguồn tâm thức lắng đọng vượt ra ngoài ngôn ngữ. Vì vậy mà Đức Phật tuyên bố: “Nhứt thiết tu  đa la giáo như tiêu nguyệt chỉ” - tất cả kinh Phật thuyết chỉ là ngón tay chỉ mặt trăng mà thôi. Đó chính là giá trị của sự tịch nhiên tĩnh lặng mà Đức Phật thể nhập được ở bản thể tịnh minh dưới ánh trăng của đêm thành đạo, để rồi tiến tới hình thành tư tưởng biểu tượng cho chân lý.

Tiêu chí của sự kết tinh những vầng trăng tri kiến giác ngộ trong thiền học chính là: “Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật”. Phương thức ấn chứng ấy điển hình ở sự bắt đầu từ cái mỉm cười của Ngài Ca Diếp khi Đức Phật đưa cành hoa sen lên giữa hội chúng tại Linh Sơn hội. Và phải chăng cũng bởi cái “khuyết tật” của ngôn ngữ “hữu tự” chính thiền học tỉnh giác ấy mà tiểu thuyết gia Ngô Thừa Ân dựng nên cái nạn cuối cùng của thầy trò Đường Tăng trên sông Thông Thiên Hà trong Tây Du Ký. Vì cho rằng thầy trò Tam Tạng đã chứng quả nên A Nan và Ca Diếp truyền cho kinh Vô tự (“bất thuyết nhất ngữ” mà Phật đã tuyên bố lúc cuối cuộc đời: Suốt 49 năm, Như Lai không nói một lời). Thấy kinh vô tự Tam Tạng đổi lại kinh hữu tự. Vì không thực hiện lời hứa hỏi về nguyên thủy kiếp rùa cho rùa thần Thủy Nguyên, nên thầy trò Tam Tạng bị hất cả xuống sông, làm cho tất cả kinh hữu tự bị ướt. Kinh ướt phải phơi, khi phơi kinh thì trang cuối dính vào đá bóc không ra, và bộ kinh thiếu phần kết. Thiếu phần kết nên kinh hữu tự trở thành kinh vô tự. Thế là cái nghiệp chấp danh tự được giải quyết xong và thầy trò Tam Tạng không còn gặp tai nạn nữa.

Đó cũng là cái chết mà Trần Nhân Tông tỉnh giác trong bài Hữu cú vô cú:

“Hữu cú vô cú

Tự xưa tự nay

Quên trăng ngắm ngón

Chết đuối trên bờ.”

Ánh trăng được xem như là biểu tượng của sự tĩnh lặng (vô ngôn) hay là cái thể của chân lý. Đối với Bồ tát, im lặng là đặc tính của sự tỉnh giác: “Im lặng là sanh địa quyền năng, im lặng đồng nghĩa với quyền năng tối thượng”. Khi đạt đến sự im lặng, tức là đạt đến đỉnh cao của sự hợp nhất giữa con người và thực tại tính xả ly:

“Ngồi trong vườn nguyệt lộ

Hôn một màu trăng non,

Nghe lòng vui cười rộ

Chạy băng đồi vô ngôn”

-Quảng Hạnh-

Tất cả mọi sự chấp thủ dù là tích cực hay tiêu cực đều là mê lầm. Chính vì chấp thủ mà phải bị giam hãm mãi, giống như một con nhện tự giam mình trong màng lưới do chính mình kết nên. Vượt khỏi mọi sự bám víu chính là trạng thái siêu thoát của nguyên lý vô thức tịch tĩnh trong thiền học, hay còn gọi là trạng thái Ba-La-Mật mà Phật giáo hướng tới. Đạt đến đó tức là đã thể nhập cùng ánh trăng chân lý giữa bến miền an nhiên tịch tịnh vô biên:

“Một thân nhàn nhã dứt muôn duyên

Hơn bốn mươi năm những hão huyền,

Nhắc bảo các người đừng gạn hỏi

Bên kia trăng gió rộng vô biên”.

-Pháp Loa-

Và “cái miền” bên kia trăng gió rộng vô biên ấy được phát họa qua bức tranh thiền sư Siddhattha đang ngồi an tịnh, hồn nhiên với đôi mắt lim dim thư thái hướng về ánh trăng chiếu sáng xa xa nơi phương trời, như gợi nơi tâm ta một niềm hân hoan giải thoát thanh nhàn tự tại.

Cuối cùng, cũng vào đêm trăng tròn tĩnh lặng giữa rừng Sala, Đức Phật đã ân cần di giáo cho toàn thể đệ tử với những lời giáo huấn thiết tha như gởi lại tất cả tâm huyết của cuộc đời mình: “Khi nói đến chân lý, Như Lai không hề có bàn tay nắm chặt của người thầy còn muốn giữ lại điều gì”. Thế nên chân lý đã được Ngài thi thiết và khai triển sáng ngời ở thế gian như biểu tượng vầng mặt nguyệt tròn đầy tỏ soi.

Thời gian cứ trôi qua, mọi thứ đều đã, đang và sẽ nhạt nhòa trong lớp bụi của nó, chỉ có viên ngọc bích toàn chân giải thoát là vẫn mãi tỏa sáng rạng ngời với muôn thuở. Mặc dù Đức Phật đã tịch diệt từ lâu, song chúng ta vẫn còn thấy Ngài như vẫn gần với ta, tiếng nói của Ngài vẫn còn vang vọng bên tai ta, khẽ bảo ta đừng lìa xa sự phấn đấu, hãy bình tĩnh mà đối phó với vọng tình, hãy nhìn thẳng vào cuộc đời để nhận ra những cơ hội lớn hơn, tự rèn luyện mình trở thành một nhân cách trác tuyệt, một chân thiện mỹ trong cuộc đời. Thông qua ý nghĩa thành đạo, ước mong sao tất cả đều biết phấn đấu để tự hoàn thiện mình trở thành một hiện hữu mang đủ ý nghĩa của cái đẹp và xa hơn nữa là để làm biểu tượng cho cuộc đời này. Đó cũng là những gì mà người viết muốn thông qua ánh trăng để làm tiêu đề dẫn đạt ý tưởng trong đêm thành đạo của Đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni của chúng ta.

“Chư Phật thường giảng dạy

Nhẫn, khổ hạnh tối thượng

Niết-bàn, quả tối thượng

Chính lời chư Phật dạy.”

                                PC. 183

 

 

Đức Phật - Bậc Giác ngộ với hạnh Bồ Tát.^

 

Thích Tâm Tri

 

"Này các Tỳ-kheo có một người xuât hiện ở đời, sự xuất hiện ấy đem lại hạnh phúc cho số đông, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc vì an lạc cho chư Thiên và loài người, người ấy là ai? Chính là Thế Tôn bậc A-La-Hán chánh đẳng giác”.

Đức Phật ra đời vì mục đích cao cả là cứu độ chúng sanh. Từ Bồ-Đề Đạo tràng nơi Ngài Chuyển Pháp luân đầu tiên đến Ta-La song thọ, hơn 300 hội thuyết pháp mà mục đích làm vơi đi nỗi khổ của chúng sanh, làm cho chúng sanh thấy rõ chánh pháp để tu tập được thanh tịnh và an lạc. Với ý niệm thù thắng và công đức tùy hỉ vì lợi ích cho tất cả nên sự xuất hiện của Thái tử Tất Đạt Đa cách đây hơn 2.500 năm giữa vườn Lâm-Tỳ-Ni, thành Ca-Tỳ-La-Vệ là lúc ánh sáng chan hòa khắp vũ trụ, mặt đất rung chuyển, chư Thiên thành tâm cung kính đảnh lễ đấng Bồ-tát sắp trở thành Bậc Toàn giác chuyển bánh xe pháp cứu độ chúng sanh.

Với tinh thần hoằng pháp lợi sanh và hài hòa với ý niệm “Phật pháp tại thế gian, bất li thế gian giác.” Không ngoài ý nghĩa đạo Phật gần gũi nhân sinh dùng tuệ giác soi đường, dẫn bước, hướng dẫn hàng đệ tử sống và đồng hành với hoàn cảnh thực tại.

Điều này khiến cho đạo Phật luôn tồn tại và phát triển theo quy luật khách quan của xã hội. Thực hành hạnh Bồ-tát – Bồ-tát đạo không phải là vấn đề mới mẽ, là một phát kiến của Phật giáo Đại thừa. Mà qua kinh tạng Nguyên thủy ta đã thấy trong sự thể hiện của Đức Phật với vô vàn diệu pháp tùy duyên hóa độ chúng sanh, và sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn, Phật giáo Phát triển hay Đại thừa Phật giáo vận dụng luồng tư tưởng này để định hướng cho sự tu tập xuất thế từ trong lòng xã hội, tồn tại và phát triển cùng xã hội đó.

Khái niệm về hạnh Bồ-tát:

Trong cuốn Từ điển Phật học Việt Nam trang 82 định nghĩa:

“Bồ-tát, thuật ngữ tên đầy đủ là Bồ đề tát đỏa, còn gọi là Bồ đề sách đỏa, Ma ha Bồ-đề chét đế tát đỏa, cũ dịch là Đại đạo tâm chúng sanh, Đạo chúng sanh… mới dịch là Đại giác hữu tình, còn Tát đỏa nghĩa là dõng mãnh, dõng mãnh cầu Bồ-đề nên gọi là Bồ-đề tát đỏa. Còn dịch là Khai sĩ, Đại sĩ… đó là dịch theo nghĩa tên gọi chung là Chúng Đại thừa cầu Phật.

Vị Bồ-tát học bát nhã nên khởi tâm Đại bi, phát lời nguyện rộng lớn, tinh tấn tu pháp Tam-muội, khắp độ các chúng sanh, không vì riêng mình cầu giải thoát, rồi phóng xả các duyên dứt bỏ muôn việc, thân tâm được nhứt như, động tỉnh không xen hở, lường sức ăn uống không nhiều, không ít, điều hòa ngủ nghỉ, không ép ngặt, không phóng túng (Tọa Thiền nghi).

Trong Tiểu thừa Phật giáo tư tưởng luận quuyển hai có khái niệm về Bồ-tát:

“Song Bồ-tát tu như thế nào? Bồ-tát là người một mặt vẫn ở thế tục, mặt khác cầu chứng đạt giác ngộ tối cao.”

Tuy là Bồ-tát nhưng không nhất thiết là không phạm lỗi, song sở dĩ được gọi là Bồ-tát là vì một mặt tuy có khi phạm lỗi, nhưng mặt khác không bao giờ đình chỉ, luôn hướng tâm đến lý tưởng giác ngộ.

Mỗi mỗi tự nơi bản thân của chúng ta luôn sống với bao mối quan hệ, bao áp lực từ nhiều phía bên ngoài do thiên nhiên, ngoại cảnh tác động, bên trong do ý chí vô minh thao túng, do vậy từ nơi vũng bùn sanh tử, con người luôn luôn khát khao vươn lên với tất cả hoài bão của mình. Nơi ấy phát sinh ra những lý tưởng tốt đẹp, thăng hoa.

Về mặt thệ nguyện, thay vì nói vì mình - trước hết phải nói vì người, đó là tâm từ bi, hạnh từ bi của Phật giáo.

Cho nên trong tinh thần Bồ-tát thường có câu “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh.” Biểu hiện đặc trưng tinh thần Bồ-tát. Và “Tùy duyên bất biến” cũng là ý niệm - hành động bằng phương tiện để đưa người vào đạo đến chỗ cứu cánh rốt ráo, là suối nguồn rốt ráo của Bồ-tát đạo.

Cuộc đời Đức Phật là một minh chứng sống động nếp sống chân-thiện-mỹ, hướng thượng cao cả. Ngài thường giáo hóa người xung quanh bằng tấm gương đạo đức của Ngài.

Là Bậc Đạo sư giàu tình thương với đệ tử, sau khi chứng đạo, Ngài là vị Đại Bồ-tát cứu độ chúng sanh. Suốt 49 năm ròng Ngài hóa độ rất nhiều người, không chỉ hóa độ người có thiện tâm, thiện nguyện mà độ cả những người có hành vi bất thiện. Thế tôn đã vì chúng sanh làm những việc khó làm. Ngài độ tên cướp giết người khét tiếng Angulimala gây nên bao nỗi kinh hoàng ở Vương quốc Kosila, và giáo hóa Apapali (cô gái Vườn xoài) từ bỏ nghề kỹ nữ quy y Tam bảo.

Ngài thực hiện hạnh Bồ-tát trọn vẹn với tất cả không phân biệt đẳng cấp nào. Ngài Upali trước khi xuất gia là người đẳng cấp thấp, nhưng sau khi xuất gia Ngài tinh tấn hành trì được Phật xác quyết là bậc Đệ nhất trì luật.

Trong Chuyển luân Thánh Vương Trường bộ III, số 26 – Kết quả lời dạy của Ngài ngăn chặn được cảnh chiến tranh gây tang tóc đau thương chết chóc cho mọi loài.

Bậc giác ngộ xuất hiện thế gian với hành động và trí tuệ của Ngài khiến cho tất cả đều được an lạc khi diện kiến – và cho tất cả những ai tu tập theo giáo pháp của Ngài.

 

 

 

Ngày Thành đạo và con đường của Đức Phật. ^

 

Giác Nghiêm

 

Ngày thành đạo, là ngày mà một vị hành hạnh Bồ tát, tu hành trong nhiều kiếp, đầy đủ nhân hạnh, hoàn thành công đức tự lợi, lợi tha đạt đến cảnh giới cứu cánh, hoàn thành Phật đạo, hay gọi là thành tựu Phật quả, hay gọi là thành Phật đắc đạo.

Nhìn lại quá khứ, sau sáu năm tu hành khổ hạnh, thái tử Sĩ Đạt Ta nghiệm thấy rằng pháp môn khổ hạnh hành xác, không thể nào đạt được kết quả, mà sự chứng ngộ cần phải được thể hiện ở chính nội tâm và không thể dựa vào một tha lực nào khác. Ngài nhận, uống bát sữa do thôn nữ Sujata dâng cúng, xuống tắm ở dòng sông Neranjara (Ni-Liên-Thuyền), sau đó Ngài đến ngồi thiền định dưới dưới gốc cây Pippala, trong bốn mươi chín ngày đêm với tâm định tỉnh, chánh niệm, tĩnh giác, ly dục, tuần tự đi vào sơ thiền, rồi nhị thiền, tam thiền và nhập tứ thiền, sau đó hướng tâm đến tam minh… Theo Phật giáo phát triển, đến rạng ngày 8-12 Âl, cách nay khoảng hơn 25 thế kỷ, Ngài quán sát 12 nhân duyên, với trực giác Ngài thấy rằng đó là tập khởi của toàn bộ khổ não, đó là nguyên nhân của khổ đau. Canh một hôm ấy Ngài chứng Túc mạng minh, thấy rõ vô lượng kiếp quá khứ của mình; sang canh hai Ngài chứng Thiên nhãn minh, thấy rõ vô lượng kiếp quá khứ của chúng sanh với các nghiệp nhân và nghiệp quả, thấy rõ con đường thọ nghiệp của chúng sanh. Sang canh ba, Ngài chứng Lậu tận minh, thấy rõ sự khổ đau, nguyên nhân của khổ đau, sự đoạn tận khổ đau và con đường đưa đến đoạn tận khổ đau. Tiếp theo, Ngài chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, là vị Phật đầu tiên trong hiện kiếp hiện tại, lúc ấy sao Mai cũng vừa mọc, đó là đức Phật Gotama, được thế gian tôn xưng là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

Nhờ đức Phật thành đạo mà chúng ta mới biết được con đường tiến đến Chân-Thiện-Mỹ, nhờ Ngài chỉ bày mà ta mới thấy rõ, mới ngộ nhập Phật tri kiến của chính mình. Ngài không vì quyền lợi riêng, cũng không vì tình thương hạn hẹp của cha mẹ, vợ con, hay đất nước riêng của mình, mà vì lòng từ bi vô lượng đối với chúng sanh đi tìm con đường giải thoát cho mọi loài, nói đúng hơn là:

“Vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài người”. Đức Thế Tôn đã chiến thắng được dục vọng của chính mình, Ngài đã để lại sau lưng cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con xinh, từ bỏ những lạc thú trần gian, mà chỉ sống cuộc đời gian khổ, đạm bạc, chiến thắng cả ngoại ma lẫn nội ma, vượt qua tất cả dục vọng thấp hèn, bởi vậy nên thế gian mới xưng tán ngài là Đại Hùng, Đại Lực, Đại Từ, Đại Bi, Đại Hỷ, Đại Xả.

Vậy cho nên việc thành đạo là một việc vô cùng lớn lao, trong hiện kiếp, ở thế gian nầy chỉ có một đức Phật Thích Ca thành đạo, một sự đạt đạo cao tột duy nhất, bởi vậy ngày thành đạo là ngày cao quý, quan trọng nhất của một người đạt đạo. Đáng lý ra ngày lễ thành đạo là ngày được tổ chức long trọng nhất của Phật giáo. Còn các tôn giáo khác, không có đạt đạo, không có thành đạo, nên đâu có ngày kỷ niệm, phải dùng ngày ra đời của vị giáo chủ, gọi là ngày đản sanh, ngày giáng sinh.

Sau khi thành đạo, đức Phật cũng để lại cho thế gian một bài học luân lý đạo đức hay đẹp, đó là sự tỏ lòng tri ân sâu xa đối với cây bồ đề đã che nắng che mưa cho Ngài suốt thời gian tu ở đây. Đức Thế Tôn đã đứng cách một khoảng xa để chiêm bái được toàn bộ đại thọ trong cả tuần. Hiện nay vẫn còn tháp Animisalocana Cetiya của vua Asoka (A Dục) dựng nơi đây để kỷ niệm.

Đạo Phật ngày nay được phổ biến rộng trên khắp thế giới, người dân Á đông được may mắn gặp Phật pháp, mặc dầu sống tương đối nghèo, thiếu thốn nhưng họ vẫn an lạc, họ sống trong thương yêu và hiểu biết. Họ hiểu điều Phật dạy là sự chỉ bày cho mọi người thấy được sự thật cuộc đời khổ đau, nó liên hệ và thuộc về cảm thọ; vậy con đường tu tập của Phật là làm cho ta làm chủ được cảm giác, thanh tịnh hóa cảm giác.

Ta thử nhìn qua đời sống của người Tây phương, càng ngày càng phát triển về vật chất, nhưng thiếu hụt về tinh thần. Những nhà trí thức, những thanh niên phương Tây, đến tìm hiểu Phật giáo ở các chùa, các thiền viện, do các nhà Sư phương Đông thành lập, và hay thay họ đã tìm thấy được sự thăng bằng của đời sống, họ an tâm, họ thản nhiên hơn, không còn lo âu, họ cải hối được nhận thức, tình cảm và có thái độ mới về đạo đức trong cuộc sống.

Chúng ta cũng không ngạc nhiên, ở thế kỷ 21 nầy, sự hiểu biết của con người, những tiến bộ về khoa học, đã làm cho các học thuyết, các tôn giáo dựa theo sự huyền hoặc, ép buộc con người phải tin theo một cách mù quáng khó mà tồn tại; và những tôn giáo chỉ biết đặt niềm tin vào đấng cao siêu, có mọi quyền năng siêu việt, tạo ra mọi vật trên thế gian và có toàn quyền quyết định số phận của con người, vị ấy có quyền thưởng phạt mọi người, cho ai lên trời thì cho, cho ai xuống địa ngục thì xuống, có quyền cho sống, bắt chết, cho sướng, bắt khổ… cũng khó gây được niềm tin quần chúng.

Ngày nay khoa học tiến bộ, con người không chấp nhận những sự việc có tính cách mơ hồ, viễn vông, không phù hợp với đầu óc duy lý của con người, nên người ta lãnh đạm với niềm tin xưa cũ đó.

Ngày nay Phật giáo chứng tỏ là một tôn giáo rất phù hợp với khoa học từ trong tư tưởng kinh điển, cho đến các phương pháp tu tập. Bởi vậy, những người Âu Mỹ, khi họ thử đến tìm hiểu về Phật giáo, họ nghiên cứu, họ thực hành; họ đã vui mừng khi thấy rằng nó phù hợp với sự thật và sự thật đã cho họ được sự lợi lạc về tâm hồn; vậy nên họ đã hòa đồng một cách nhẹ nhàng, đầy cởi mở và được an vui. Ngay những giới trí thức, các khoa học gia thượng thặng họ cũng đã nhận ra rằng tư tưởng Phật giáo giúp họ rất nhiều trong việc giải thích những hiện tượng khoa học và cũng nhờ đó mà họ dễ dàng, thuận lợi trong việc tìm tòi, khám phá những cái mới trong khoa học.

Con đường của đức Phật đã tu tập, đã đi qua, là lịch sử của một con người nhờ tu tập bản thân, đã trở thành một con người hoàn thiện, một bậc thánh của thế gian. Ngài đã nói, đã thực hành với kết quả mỹ mãn, là bằng chứng hiển nhiên cho giáo pháp khả thi, khả hành, khả chứng, vượt thời gian, không gian.

Đức Phật coi trọng con người, đề cao con người, đặt niềm tin vào con người, Ngài nói rằng: bất cứ người nào, tránh làm điều ác, làm mọi điều lành, nỗ lực bản thân để gột rửa nội tâm, để trở thành con người hoàn thiện về đức hạnh và trí tuệ thì trở thành bậc Thánh, mọi người đều có khả năng thực hành được con đường Ngài đã hướng dẫn.

 

 

 

Sóng vô thường.^

 

Nguyên Chơn 

 

Mọc lên từ biển mênh mông

Phù du muôn kiếp thuyền không bến bờ

Khi buồn sóng nhẹ bơ vơ

Lúc vui mời gọi bài thơ trữ tình

Thức dậy từ thuở bình minh

Luân hồi muôn kiếp tử sinh vẫn còn

Đèo cao dốc đá chon von

Bể dâu thay đổi lối mòn dòng khe

Ngày xuân nắng hạ đêm về

Vô thường sóng vỗ bài thơ muôn đời

Nhắn người trong mộng chơi vơi

Hồi đầu thị ngạn thảnh thơi an nhàn.

 

 

 

Tìm hiểu ý nghĩa Thành đạo của Đức Phật.^

 

Thích Thánh Minh

 

Sau khi từ bỏ con đường khổ hạnh và thiền định của ngoại đạo, Bồ Tát Tất Đạt Đa tìm đến cội bồ đề (tất bát la) trải cỏ làm tọa cụ ngồi kiết già và phát lời đại nguyện rằng: “Thân tứ đại này dù mai kia có biến thành cát bụi, nhưng đạo quả chưa thành, tòa cỏ này quyết không thay đổi”. Đến ngày thứ 49 thiền quán, vào canh ba, Ngài chứng “Túc mạng minh”, canh tư chứng “Thiên nhãn Minh”và đến cuối canh năm chứng được “Lậu tận minh”. Khi sao Mai mọc, Ngài chứng đạo vô thượng, thành bậc Chánh Giác. Sự kiện lịch sử thiêng liêng này chư Tổ đã cô động đúc kết lại thành bài kệ sau đây :

Bồ đề thọ hạ, hàng phục ma binh,

Nhứt đổ minh tinh, đạo thành Chánh Giác.

Để hiểu trọn vẹn hơn về những cống hiến quý giá cho nhân loại từ sự khám phá dày công của Đức Phật qua tiến trình giác ngộ, chúng ta hãy cùng nhau ôn lại công hạnh thù thắng cuả Ngài trong ngày kỷ niệm Phật thành đạo:

Sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật đã tuyên bố :

“Lang thang bao kiếp sống

Trong sanh tử luân hồi

Ta tìm nhưng chẳng gặp

Người xây dựng nhà này

Tái sanh thật khổ thay.

Ôi người làm nhà kia

Nay ta đã thấy ngươi

Ngươi không làm nhà nữa,

Đoàn tay ngươi gãy rồi

Kèo cột người tan nát

Tâm ta đạt an ổn

Tham ái thảy tiêu vong”.

(Pháp cú 153 -154 )

Lời tuyên bố hùng hồn trên đây là một kết quả của một quá trình công phu tu tập và hàng phục ma vương. Trong kinh mô tả rằng lúc Đức Phật thành đạo, Ma vương tỏ ra hãi hùng, vì sợ mất tầm ảnh hưởng thống trị của chúng, nên đã tìm cách ngăn cản:

“Này đạo sĩ, thân thể của ông gầy còm, da dẻ xám xanh, gần kề với cái chết. Cơ may sống còn của ông là một phần ngàn, ông phải sống, vì có sống mới làm việc có ích. Dù gì đi nữa, những nỗ lực của ông hôm nay cũng hoài công vô ích, vì con đường đến với chân lý là gian khổ, đau đớn và không bao giờ đến được”.

(lược theo Sutta Nipata – Padhana Sutta)

Nói xong Ma vương đã tiến hành biến hóa ra trăm ngàn ma quỷ để tấn công nhằm khuất phục được Ngài. Nhưng không chút giao động, Bồ tát Tất Đạt Đa đã lên tiếng :

 “Này Ma vương, ngươi đến đây chỉ vì mục đích riêng của các ngươi. Ta không cần danh vọng, ngươi hãy nói những điều đó với kẻ hám danh vọng. Ta có niềm tin, lòng dũng cảm và trí tuệ. Tại sao lại đòi ta giống như mọi người? (...). Khi xác thịt hao mòn, tâm ta trở nên an tịnh. Khi ta sống như vậy, ta đạt được cảm thọ cuối cùng, tâm ta không còn tham dục. Hãy biết rằng sự thanh tịnh luôn ở nơi ta. Tham dục là Ma vương thứ nhất của ngươi. Hai là đố kỵ. Ba là đói khát. Bốn là ái dục. Năm là hôn trầm, thùy miên (lười biếng, uể oải). Sáu là sợ hãi. Bảy là hoài nghi. Tám là phỉ báng và cố chấp. Chín là sự thành đạt, danh tiếng và vinh quang. Mười là tự khen mình và chê người khác. Này Ma vương, đội quân của nhà ngươi là thế, chúng luôn luôn trú ẩn trong những con người xấu xa đê tiện, kẻ hèn yếu sẽ không nhiếp phục được chúng, nhưng nếu hàng phục được chúng sẽ đạt được chân hạnh phúc. Ta thà chết vinh trong chiến trận còn hơn sống mà thất bại...”.

(lược theo Sutta Nipata – Padhana Sutta)

Sau khi hàng phục đươc ma quân, Bồ tát Tất Đạt Đa đã từng bước đi vào bốn tầng bật thiền để tiến đến giác ngộ. Bốn giai đoạn thiền này được mô tả trong kinh Trung Bộ như sau: Giai đoạn thứ nhất (Sơ thiền): ly dục, ly bất thiện pháp chứng và an trú thiền thứ nhất, một trong trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh có tầm có tứ. Giai đoạn hai: diệt tầm và tứ, chứng và trú thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Giai đoạn thứ ba: ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, chứng và trú thiền thứ ba, một trạng thái lạc thọ mà bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú. Giai đoạn thứ tư: xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh.

Sau khi tinh thông qua bốn tầng thiền trên, tâm trí của Đức Phật trở nên sáng suốt, thanh tịnh linh hoạt một cách lạ thường, thấy rõ được chân tướng, gốc rễ của khổ đau, Ngài ngộ được nguyên lý duyên khởi, đây là giáo pháp thậm thâm chỉ có trí giác ngộ mới thấu suốt :

“Do cái này có mặt nên cái kia có mặt.

Do cái này không có mặt nên cái kia không có mặt.

Do cái này sinh nên cái kia sinh.

Do cái này diệt nên cái kia diệt”.

(kinh Phật Tự Thuyết – tiểu bộ I)

Nguyên lý Duyên khởi là chân lý tối thượng, đức Phật do quán chiếu nguyên lý này mà ngộ đạo chứng quả. Trong kinh Đại Duyên – Truờng Bộ III, đức Phật đã tuyên bố rằng. “Này A Nan, chính vì không giác ngộ, không thâm hiểu giáo pháp Duyên khởi này mà chúng sanh hiện tại bị rối như một tổ kén, rối ren như một ống chỉ.. .không thể nào thoát khỏi khổ xứ, ác thú, đọa xứ sanh tử”.

Lý duyên khởi là giáo lý căn bản, quan trọng và xuyên suốt trong hệ thống giáo lý Phật. Về sau giáo lý này được triển khai thành Kinh Hoa Nghiêm, thể hiện rõ nhận thức của Phật giáo về sự tồn tại và biến đổi của muôn sự muôn vật trên thế gian này. Ở đây không có nhiều thời gian để đi sâu vào nội dung của Kinh Hoa Nghiêm. Chúng ta chỉ tìm hiểu sơ lược về ý nghĩa mười hai nhân duyên.

Mười hai nhân duyên (Thập nhị nhơn duyên) là cách trình bày đặc biệt cuả giáo lý Duyên khởi (Paticcasamuppada). Trong kinh Tương Ưng Bộ II (Samyutta Nikàya), Đức Phật đã thuyết minh về Mười hai nhân duyên như sau:

“Do vô minh, có hành sinh; do hành có thức sinh; do thức, có danh sắc sinh; do danh sắc, có lục nhập sinh; do lục nhập, có xúc sinh; do xúc, có ái sinh; do ái, có thủ sinh; do thủ, có hữu sinh; do hữu, có sinh sinh; do sinh có lão tử, sầu, bi, khổ, ưu, não sinh, hay toàn bộ khổ uẩn sinh. Đây gọi là Duyên khởi”.

“Do đoạn duyệt tham ái, vô minh một cách hoàn toàn, hành diệt; do hành diệt nên thức diệt; do thức diệt nên danh sắc diệt;…; do sinh diệt nên lão tử, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt. Này các Tỳ kheo, như vậy gọi là đoạn diệt”.

Mười hai nhơn duyên qua quá trình giác ngộ được đức Phật quán chiếu theo hai chiều hướng: Chiều hướng sanh khởi hay còn gọi là lưu chuyển quán (duyên khởi quán hoặc thuận quán) và chiều hướng đoạn diệt còn gọi là hoàn diệt quán (nghịch quán ).

Lưu chuyển quán (thuận quán) : khi còn ngồi dưới cội Bồ đề, đức Thế Tôn đã quán thậm thâm đề mục do vô minh có hành, do hành có thức…, do sanh có lão tử đó là cách lưu chuyển quán là một cách quán theo chiều sanh khởi. Khi nào sanh khởi đó còn liên tục thì kiếp sống luân hồi, khổ đau mãi còn được liên tục tiếp diễn.

Hoàn diệt quán (nghịch quán) :

Hoàn diệt quán là quán sát sự đoạn diệt của mười hai nhân duyên. Do vô minh diệt nên hành diệt, do hành diệt nên thức diệt…, lão tử diệt, đó còn được gọi là cách đoạn diệt quán. Khi nào một khoen trong mười hai mắt xích này được phá vỡ thì cấu trúc năm uẩn cũng tan rã theo đây, chính là con đường an lạc, giải thoát.

Do quán thập nhị nhân duyên theo hai chiều thuận nghịch đó, Bồ tát Tất Đạt Đa đã chứng Tam Minh đây là diễn biến cuộc chuyển biến dữ dội từ phàm phu lên Thánh nhân :

Túc Mạng Minh: nhớ lại tất cả những kiếp quá khứ của mình, trải qua bao đời làm gì.

Thiên nhãn minh: Thấu hiểu đến nhiều đời trước của chúng sanh trong kiếp sống sanh tử.

Lậu tận minh: Trí tuệ trở nên sáng suốt, dứt sạch mọi cội nguồn ái dục, thấy rõ cội nguồn của luân hồi là vô minh và ái dục. Thì cũng vừa lúc ấy, bao nhiêu tâm lý ái dục tiềm ẩn trong dạng bản năng, ngủ ngầm sâu trong thức tâm bị dồn đuổi, chúng biến thành ma nữ triêu ghẹo cố làm lay động định tâm của Ngài, nhưng với định lực kiên cố Ngài đã đánh bại chúng và vĩnh viễn thoát ra khỏi tâm thức của Ngài. Lúc ấy sao Mai vừa mọc, đêm tối vô minh đã tan rã, từ trong thiền định sâu lắng, Ngài nhận ra một thứ ánh sáng vĩ đại lan tràn, khi ấy trí tuệ Ngài bừng sáng hiểu rõ mọi cơ cấu của vũ trụ và con người. Ngài đã thành Phật và giác ngộ vô thượng bồ đề, từ đó được Trời, người tôn xưng với 10 danh hiệu : Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ - Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn.

Khi vừa mới giác ngộ, Ngài suy nghĩ :

 “Pháp do ta chứng được, thật là sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh cao thượng, siêu lý luận, vi diệu, chỉ có người trí mới hiểu thấu. Còn quần chúng này ưa ái dục, ham thích ái dục, thật khó mà thấy được định lý y tánh duyên khởi pháp. Thật khó mà thấy được định lý các hành là tịch tịnh, tất cả sanh y được trừ bỏ, ái được đoạn tận, ly dục, ái diệt, niết bàn. Nếu ta thuyết pháp mà người không hiểu, thật là mỏi mệt cho ta”

(Vô Ngã là Niết Bàn trang 79 - HT Thích Thiện Siêu, Ấn hành 1993).

Tư tưởng trên rất trọng yếu có thể được xem như một bản tuyên ngôn đầu tiên của nền Giáo lý Phật, vì đã nêu bật hai điểm cơ bản của toàn bộ hệ thống giáo lý Phật Giáo đó là : Y tánh duyên khởi pháp và Ái tận niết bàn. Sau này tất cả các pháp môn và tất cả giáo lý đều xây dựng trên hai điều cơ bản đó.

Tóm lại: Sự thành đạo của đức Phật là một tiến trình hành đạo lâu dài bền bỉ, luôn luôn hướng thượng. Tiến trình tu tập giải thoát của Ngài là cả một quá trình tuần tự, Từ mỗi tầng bực thiền chứng, Ngài phải phấn đấu vượt qua các chướng ngại, tiến lên thiền chứng kế tiếp, để cuối cùng chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Trạng thái giác ngộ của đức Phật, nhận xét trên mặt hiện tượng, chúng ta thấy đây là một sự khám phá vĩ đại mang tính triết học sâu sắc. Đức Phật đã xác định vị trí của mình với mối liên hệ xung quanh. Ngài đã nhận thức thấu triệt tới chỗ rốt cùng chân ý nghĩa cuộc sống, Ngài đã tìm ra đáp án cho những câu hỏi: Đâu là cội nguồn của khổ luỵ? Tại sao con người cứ sinh hóa để chịu già bệnh chết và bao nhọc nhằn trong cuộc sống?

Kệ Pháp cú ghi:

“Tham ái sinh ưu tư

Tham ái sinh sợ hãi

Ai giải thoát tham ái

không ưu tư, không sợ hãi”.

Thành Đạo là một tên gọi của trạng thái giác ngộ niết bàn, đây là ngày mà đức Thế Tôn đã hoàn thành công phu tu tập để chuyển đổi vọng tâm làm cho Niết bàn hiển lộ. Đức Phật là người đầu tiên khám phá ra cội gốc tái sinh luân hồi của chúng sanh là do Vô Minh, Ái, Thủ. Sự chứng đắc của ngài là kết tinh cả một công phu tu học : bởi con nguời, vì con người và cho con người. Đây là một cách sống cao thượng đã làm sáng tỏ giá trị con người đến chỗ tột cùng là thấu biết về chỗ cốt lõi của cơ cấu vũ trụ và con người, Ngài đã tuyên bố : “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Ta là Phật đã thành và các con là Phật sẽ thành”. Trên tinh thần đó, không gì hơn là chúng ta hãy noi gương Giác ngộ của Ngài cố gắng tu tập. Nguyện cầu sức khoẻ, nhiều nghị lực và an lạc đến với mọi người con Phật để tiếp bước theo con đường mà Đức Phật đã đi hơn hai nghìn năm trước.

 

 

Giấc mơ ngày Thành đạo. ^

Phúc Châu

 

Thời kinh khuya đã dứt nhưng tiếng côn trùng vẫn tiếp tục râm ran trầm bổng trong đêm, giữa bầu trời đầy sao sáng lung linh… “Đêm yên bình quá” - Chú hân hoan thốt lên.

Sau giờ tiểu thực, chú ra vườn tưới cây khi trời hãy còn mù sương. Chú thấy Đức Phật và các thầy Tỳ kheo mỉm cười với chú. Và đôi mắt trong xanh biếc tràn đầy yêu thương của Ngài cũng đang trìu mến nhìn khắp mọi loài. Chú lẩm bẩm: “Lạ quá, không lẽ…” định thần nhìn kỹ, thì ra đó là những đóa sen hồng mới nở và những lá sen xanh còn đọng những giọt nước long lanh màu bạc, nhẹ lay theo làn gió. Với tâm trạng vô cùng phấn chấn an vui, chú bỗng thấy mình nhỏ bé giữa rừng núi chập chùng, giữa muôn ngàn hạt sương lóng lánh trên từng cành cây, cọng cỏ. Chim chích vẫn hót líu lo đủ mọi thanh âm như thường ngày, nhưng sáng hôm nay, chú nghe chúng hót hay hơn, thánh thót hơn. Khu vườn chùa, nơi chú tu học bao năm qua vốn rất cằn cỗi, thầy trò chú vất vã lắm mới trồng được ít đám sắn, đám khoai. Vậy mà hôm nay bỗng nhiên chú thấy cả khu vườn tươi xanh, như vừa khoác áo mới. Từ cây xoài, cây mít… cho đến những bông hoa dại mọc chi chít trong vườn, chưa hề được chú nâng niu vun xới mà chúng vẫn nở những đóa hoa vàng, hoa tím… đầy sắc màu xinh đẹp. Mọi người chung quanh chú hôm nay trông họ cũng thật hạnh phúc đáng yêu! Chú tự hỏi: “Phải chăng đây là khu vườn Lộc Uyển nơi Đức Phật cùng 1250 vị đệ tử vừa mới đi vào thành khất thực, còn chú và Sư huynh thì ở lại Tịnh xá để… tưới cây. Chẳng phải là chú nằm mơ đâu, mà chính chú tự “thấy” như vậy đó.

Khi sáng Sư huynh trị nhật có cho mấy củ khoai gói trong lá chuối, tưới cây xong chú không buồn ăn mà ngã mình trên cỏ, gối tay sau gáy trông lên bầu trời nhìn mây trắng trôi mênh mang… Lúc ấy, chú hoàn toàn không còn một chút ý niệm nào về tham, sân hay phân biệt ghét, thương. Không còn sự hiện hữu của bao nỗi khổ đau trong cuộc sống mà trước đây lắm khi làm cho chú bức xúc đến nghẹn ngào, vì không tìm đâu ra lối thoát. Chú cảm thấy thật nhẹ nhàng như vừa ngoi lên khỏi mặt nước, sau một thời gian dài lặn hụp, vẫy vùng trong ấy.

Mặt trời lên cao, sương tan dần, từng đàn chim bay đi kiếm mồi, mọi người lại tất bật trên đường mưu sinh. Ánh nắng ban mai chói vào mắt, chú bỗng thở dài: “Rồi ta cũng hòa mình trong môi trường ấy, cũng cười khóc với cuộc đời và phiền não vang động sẽ dấy lên theo trần cảnh, theo nghiệp thức vô minh”. Chú bồi hồi như cố níu lại cái buổi ban mai an bình tuyệt vời đang chập chờn, nửa đang dừng lại nửa sắp đi qua. Một thoáng tiếc nuối, chú mong tìm lại những phút giây mầu nhiệm, thiêng liêng đã vút qua. Nhưng:

“Làm sao có được hai lần tắm

Trên một dòng sông để ngậm ngùi”

(Như Thủy)

Không. Không thể được - Chú nghĩ: Dẫu biết vạn pháp vô thường thay đổi trong từng sát na, mong sao những thiện pháp được nuôi dưỡng trong ta sẽ tăng trưởng, chứ không bị hoại diệt như những giọt sương kia phải tan dưới ánh mặt trời. Chú mỉm cười: Ta chỉ được một chút thời gian ngắn ngủi sống với thiện pháp mà còn cảm nhận được sự an lạc quá đỗi tuyệt diệu như vậy, huống chi Đức Phật - Đấng Giác ngộ, luôn an định trong tỉnh thức, trong vô ngã, Niết bàn?

Chú ngồi thẳng trên đám cỏ xanh, lòng thật bình yên, tràn đầy tin yêu hướng về Đức Phật với sự kính ngưỡng thiết tha: Kính lạy Phật, con mong được mãi là giọt nước trên cánh sen tỏa hương thơm ngát dẫu cho ở chốn bùn nhơ. Và:

“Đã một ngày gần nguyện xin gần mãi

Theo chân Ngài muôn kiếp Thế Tôn ơi!”

Tâm ơi! Hãy giữ hộ ta cái tâm tốt đẹp hôm nay, đừng kéo Nó đi theo dòng thác lũ trần ai luôn cuồn cuộn chảy. Nếu không, tội nghiệp cho cái thân hèn mọn này biết bao! - Chú ngây thơ ao ước như vậy khi nhớ đến câu Kinh Pháp Cú:

Tâm đem thế gian đến

Tâm kéo thế gian đi

Như bánh lăn theo trục

Vũ trụ chuyển theo tâm.

- Làm gì mà ngồi lim dim như pho tượng vậy? Tiếng Sư huynh vang lên. Chú không giật mình nhưng cười bẽn lẽn như vừa bị Sư huynh đọc được ý nghĩ của mình.

Đặt đôi thùng tưới lên vai, đi song song cùng Sư huynh, chú chợt hỏi:

- Có khi nào Sư huynh “đi” đến cảnh giới Phật chưa?

Sư huynh cười tỉnh bơ:

- Có, thỉnh thoảng. Nhưng có chút xíu hà.

- Sư huynh cảm thấy thế nào?

- Không cảm gì cả, “có ai đâu mà cảm”. Thật nhẹ nhàng như không.

- Sư huynh có thể diễn tả lại cho em nghe được không?

Sư huynh lại cười: Em còn nhớ câu chuyện ngụ ngôn về hai con cá, hôm trước Thầy kể cho chúng ta nghe không?

- Dạ nhớ.

Em thấy đó - Sư huynh nói tiếp. Thầy cũng đã bảo: “Đạo Phật là đạo thể nghiệm. Tôi bảo trái xoài chua nhưng không thể diễn tả nó chua như thế nào? bạn cứ nếm thử rồi biết”. Thế nên con cá ở dưới nước, không thể nào tưởng tượng hay hình dung ra được rằng: Trên thế gian này lại có giống người trên mặt đất khô, không có nước mà vẫn sống, vẫn thở được. Chính vì vậy nên sau khi thành đạo, Đức Thế Tôn không muốn thuyết pháp, vì Ngài sợ mọi người không lãnh hội được giáo pháp cao siêu thâm diệu, khó nhận thức và khó khăn lắm Ngài mới chứng ngộ được.

Nghe Sư huynh nói xong, chú làm ra vẻ quan trọng:

- Bởi vậy, em đâu có thể diễn đạt cho Sư huynh nghe được cảm nhận của em về ngày Lễ Thành đạo hôm nay.

- Ừ, tại vì chú là con cá bị bắt lên bờ, còn Sư huynh là con cá đang lội dưới nước mà.

- Sư huynh biết không? Trong cuộc đời xuất gia tu học, ấn tượng sâu đậm nhất của em là hình ảnh của Đức Phật tu khổ hạnh, được kể lại trong một đoạn Kinh: “Vì ăn quá ít, tay chân Ta trở thành như những cọng cỏ hay những đốt cây khô héo. Vì Ta ăn quá ít, xương sống ta phơi bày như một chuỗi hạt bóng. Vì ta ăn quá ít, xương sườn của Ta gãy mòn giống như rui mè của một nhà sàn hư nát. Vì Ta ăn quá ít, nên con ngươi của ta long lanh nằm sâu trong lổ con mắt, giống như ánh nước long lanh nằm trong một giếng nước thẳm sâu”. (Trung Bộ I, trang 80). Không hiểu sao mỗi khi nhớ đến đoạn kinh này, em luôn có cảm xúc rưng rưng. Em thương Phật vô cùng. Từ một người con thuộc dòng quý tộc cao sang, Ngài lại từ bỏ cung vàng điện ngọc, vào chốn núi rừng tu hành khổ hạnh để tìm ra con đường giải thoát. Thật là một sự hy sinh vô bờ bến. Phải không Sư huynh?

- Đâu phải chỉ có một đời này mà thôi, đức Thế Tôn của chúng ta đã hy sinh trãi qua vô lượng kiếp. Ngài đã dứt sạch mọi lậu hoặc vô minh để mở ra con đường tuệ giác, cứu khổ muôn loài. Bởi vậy, ngày Phật thành đạo đối với chúng ta vẫn là một ngày bất diệt, đánh dấu một sự kiện lịch sử mà hàng phàm phu chúng ta chưa bao giờ có được. Sư huynh nghĩ cái ngày trọng đại này sẽ mãi mãi là ánh hào quang tỏa chiếu khắp thế gian. Còn sự an lạc chúng ta đạt được, có lẽ cũng chỉ là một phần trong trạng thái “Khinh an” nhờ cảm ân đức từ của đấng cha lành, chứ chưa phải là đạt đến Niết bàn hay giác ngộ đâu em.

- Dầu sao đi nữa, chúng ta vẫn có niềm tin vững chắc rằng: “Ta là Phật đã thành, các con là Phật sẽ thành” như Đức Phật đã tuyên ngôn chứ - Chú hùng hồn nói.

- Vâng, đúng vậy thưa ông Phật nhỏ ạ.

Hai huynh đệ cùng cười và đi về hướng nhà trù chứa đồ đạc. Sư huynh bảo:

“Chúng ta vào hỏi thăm huynh trị nhật hôm nay có nấu xôi chè cúng vía không nha”.

Làn khói lam từ bếp quyện tỏa bay lên - Sư huynh trị nhật vừa nhóm lửa xong.

Chú xoa xoa hai bàn tay rồi reo: “Ấm quá!”. Trời đang vào cuối đông.

 

 

 

Thâm tín chư Phật giai sung mãn^

Thích Nữ Diệu Vân

Ngược dòng thời gian, cách đây 51 năm. Ngày ấy mẹ tôi sức khỏe dồi dào, thân thể tráng kiện, vừa bước qua tuổi 32. Còn tôi mới lên 7. Trong sinh hoạt hằng ngày, mẹ làm tròn bổn phận đối với gia đình, xã hội… Ngoài ra mẹ rất tôn thờ lý tưởng của mẹ. Mẹ đúng là một đệ tử Phật ngoan đạo. Mẹ thường xuyên đi chùa lễ Phật, tụng kinh, làm từ thiện… Đêm nào trước khi ngủ, mẹ cũng lạy Phật, niệm Phật khấn vái cầu nguyện điều gì…, tôi không được biết… Mới bảy tuổi, ham ăn, ham ngủ, ham chơi, tôi không quan tâm tại sao mẹ niệm Phật, lạy Phật, cúng Phật nhiều đến thế… tôi cảm thấy mỗi lần gia đình gặp điều gì bất trắc, khó khăn, đau buồn hay anh chị em tôi bệnh hoạn, biếng ăn, mất ngủ… là y như mẹ lạy Phật, niệm Phật gấp đôi… khi niềm vui, hạnh phúc được vãn hồi, trên gương mặt mẹ rạng rỡ, đôi mắt long lanh và thốt lên câu: “Thâm tín chư Phật giai sung mãn”.

Hầu như câu ấy mẹ thuộc lòng và ẩn sâu trong tiềm thức mẹ, đến nỗi bạn bè thân hữu đến nhà thăm chơi, mẹ cũng khuyên họ lạy Phật, niệm Phật cầu nguyện mỗi ngày… Cuối câu chuyện mẹ cũng không quên nhắc nhở: “Thâm tín chư Phật giai sung mãn”.

Các chị em hãy thực hành tin tưởng sẽ thấy kết quả hiệu nghiệm linh thiêng.

Nghe vậy tôi hỏi: “Thâm tín chư Phật giai sung mãn” nghĩa là gì hở mẹ? Sao mẹ lại đọc thuộc lòng hoài vậy? Quý Thầy, quý Sư cô trên chùa dò bài mẹ à?

- Mẹ cười, xoa đầu tôi và bảo: - Con còn nhỏ, chưa hiểu được ý nghĩa thâm sâu, nhiệm mầu lời Phật dạy mô. Nhưng mẹ cũng nói sơ qua cho con biết thế nào là: “Thâm tín chư Phật giai sung mãn”.

Nghĩa là con phải tin và thực hành lời Phật dạy:

- Con ngoan ngoãn cung kính hiếu thảo với ông bà cha mẹ.

- Vâng lời, nhường nhịn anh chị em.

- Kính yêu Thầy Cô giáo, thương giúp bạn bè, siêng năng học tập.

- Trước khi đi ngủ con phải niệm Phật, lạy Phật cầu nguyện Ngài gia hộ… Con sẽ được mọi người thương yêu giúp đỡ… Con ước điều gì sẽ được như ý…

Ngày ấy mẹ dạy, tôi tin và thực hành theo lời mẹ. Nhưng giờ đây trải qua 42 năm trong chốn Thiền môn, thấm tương, thấm chao, thấm rau, thấm muối và hạnh phúc thay tôi thấm nhuần giáo lý Phật đà qua câu “Thâm tín chư Phật giai sung mãn”.

Phải hiểu rộng và tin đúng như thật lời Phật dạy:

* “Khổ, tập, diệt, đạo”: Là chơn lý muôn đời trong nhân loại không bao giờ thay đổi.

* “Vô thường - Khổ - Không - Vô ngã”, “12 nhân duyên”: Là đạo lý của kiếp nhân sinh, chẳng bao giờ thay đổi.

Hiểu được vậy, chúng ta mới cố gắng tu tập xả bỏ Tham-Sân-Si, xa lìa phiền não sanh tử khổ đau luân hồi trong 6 nẽo, tiến đến Niết bàn an vui thanh tịnh, tự tại vô ngại…

Tuy nhiên nói và hiểu thì dễ, nhưng thực hành thì vô vàn khó khăn. Trong đời sống hằng ngày không có việc gì có thể thành công dễ dàng như ta mong muốn. Tu tập cũng vậy, chỉ ngồi thiền, tụng kinh, lễ Phật nữa giờ, một giờ thấy đau lưng, mỏi cổ buồn ngủ… huống là xa lìa những thứ thân thương dính da dính thịt… Ấy cũng chẳng qua chúng ta quá vô minh, say mê không thể buông xả, biết đời vô thường, hư vọng không thật nhưng vẫn bị chúng ràng buộc tác động, khiến đánh mất trí tuệ sáng suốt, yên tỉnh, vắng lặng, sẵn có trong ta, và vì không có thái độ dứt khoát nên cứ trôi lăn trong vòng lục đạo khổ đau không thoát ra khỏi.

Vậy chúng ta phải can đảm, bản lãnh, cương quyết phấn đấu tiến lên, không để một lần thất bại một lần gục ngã mà thối chí thì làm sao đi trọn con đường lý tưởng ta đã chọn.

“Chẳng phải một phen xương lạnh buốt

Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương”.

Hay:

“Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi

Mà khó vì lòng người ngại núi e sông”.

 

Hãy lấy bệnh khổ làm thuốc hay,

Lấy chông gai làm giải thoát

Lấy ma quân làm bạn đạo

Lấy khó khăn làm sự tác thành

Lấy xả lợi làm vinh hoa

Lấy oan ức làm đà tiến thủ.

Có con đường giác ngộ nào mà không gian nan trắc trở, có sự giải thoát nào không chông gai cay đắng. Dọc đường ta đi hoa Từ Bi Trí tuệ sẽ nở, có thể nở trên chông gai, nhưng là những bông hoa đẹp nhất của hiện hữu, những cống hiến quý giá nhất của cuộc đời.

Vậy muốn nếm mùi giải thoát an vui, xa lìa khổ đau sinh tử phiền não luân hồi, hãy ra sức công phu (hạ thủ) tu tập ngay bây giờ, đừng để thời gian mai một. Thời gian qua đi không bao giờ trở lại. Dịp may không đến hai lần.

“Không ai có thể tắm hai lần trong một dòng sông”.

Hơn nữa:

“Nhân thân nan đắc

Phật pháp nan văn

Chúng Tăng nan ngộ

Đạo nghiệp nan thành”.

Xin trân trọng.

 

 

32 tướng tốt của bậc Đại nhân^

 

Thích Thông Huệ

Sau khi Thái tử Tất-Đạt-Đa đản sinh, vua cha Tịnh-Phạn triệu tập các vị tinh thông tướng số đến tiên đoán vận mệnh cho Thái tử. Các vị xem tướng xong, đồng tâu lên rằng: “Thái tử có đủ 32 tướng tốt của một Bậc Đại nhân, thật hiếm có trên đời. Đây là những dấu hiệu báo trước Ngài sẽ là Bậc vĩ nhân đệ nhất trong thiên hạ. Nếu Ngài làm vua, sẽ là vị Chuyển luân Thánh vương; nếu xuất gia tu hành, Ngài sẽ là Bậc Đại Giác Ngộ”.

Trong mùa an cư cuối cùng, Đức Phật báo trước sẽ lên cung trời Đao-Lợi thuyết pháp cho chư Thiên và Thánh mẫu Ma-Gia. Vua xứ Kosala là Pasennadi, do lòng kính ngưỡng Đức Phật, xin phép được họa chân dung Ngài trước khi Ngài tạm rời nhân gian. Được Đức Phật chấp thuận, nhà vua thỉnh Ngài thọ trai tại hoàng cung; ở đây có 12 vị họa sư nổi tiếng cùng tề tựu để quan sát và vẽ lại chân dung Đức Phật. Tuy nhiên, sau đó tất cả các họa sư đều quỳ xuống xin nhà vua tha tội, vì “Hình tướng Đức Thế Tôn đẹp lạ lùng, chúng thần sửng sờ chỉ ngắm nhìn suốt buổi mà không vẽ được nét nào cả”. Đức Phật nghe nói thương tình, cho in bóng mình lên nền nhà để các họa sư đồ họa lại. Đây là bức vẽ chân dung đầu tiên của Đức Phật.

Về sau, nhà vua lại truyền lệnh cho các thợ điêu khắc tài giỏi trong nước tạc tượng Đức Phật theo mẫu vẽ ấy. Nhưng không người thợ nào dám nhận nhiệm vụ, vì “Sắc tướng Đức Thế Tôn vạn lần cao quý, siêu tuyệt trần gian; nếu không chuyển tải được những đức tướng ấy trên tượng thì e đắc tội với Ngài”. Có một vị Thiên nhân chuyên về kiến trúc tên Tỳ-Thủ Yết-Ma hóa thân làm thợ mộc, yết kiến nhà vua xin nhận việc. Chỉ sau một ngày, vị Trời ấy đã tạc xong pho tượng Đức Phật bằng gỗ trầm hương, cao 7 thước mộc, mặt và tay chân đều màu vàng tía. Nhà vua vừa trông thấy bức tượng, phát sinh đức tin thanh tịnh, chứng Nhu thuận nhẫn, bao nhiêu nghiệp chướng phiền não đều được tiêu trừ (kinh Đại thừa công đức tạc tượng Phật - Đại chính Tân tu Đại tạng kinh).

Các tài liệu Phật học mô tả 32 tướng tốt của Đức Phật có đôi chỗ khác nhau, nhưng tựu trung có thể kể ra như sau:

 

1- Đỉnh đầu có nhục kế.

2- Tóc màu xanh đậm, xoăn thành vòng theo chiều bên phải.

3- Trán rộng và bằng phẳng.

4- Khoảng giữa hai chân mày có một sợi lông trắng mịn.

5-Mắt xanh biếc, mi dài như mi ngưu vương.

6- Có đủ 40 răng.

7- Răng nhỏ và đều khít.

8- Răng trơn láng, trắng trong như ngọc.

9- Chân răng rất sâu, không khuyết hở.

10- Lưỡi rộng và dài, có thể chạm đến chân tóc trên trán.

11- Nước trong cổ họng có vị ngọt thơm.

12- Quai hàm như hàm sư tử

13- Giọng nói trong ấm và vang xa như tiếng Phạm vương.

14- Thân hình thon cao.

15- Da mịn màng, màu như vàng ròng, bụi không thể bám vào.

16- Lông trên mình màu xanh và mềm mại, đều xoay tròn theo chiều bên phải.

17- Mỗi lỗ chân lông chỉ có một sợi lông mọc.

18- Bảy chỗ bằng phẳng và đều đặn.

19- Nửa thân trên như thân sư tử.

20- Không có khuyết lõm giữa hai vai.

21- Hai tay buông thỏng dài đến đầu gối.

22- Đầu cánh tay trắng tròn.

23- Ngón tay thon dài.

24- Tay chân mềm mại.

25- Lòng bàn chân có đủ 1.000 xoáy trôn ốc.

26- Kẻ ngón chân có màng da lưới.

27- Âm tàng như mã vương.

28- Đùi như lộc vương.

29- Gót chân thon, tròn đẹp.

30- Mắt cá chân tròn, không lộ ra.

31- Mu bàn chân cao và đều đặn.

32- Lòng bàn chân bằng phẳng, có hình bánh xe.

 

Điểm qua 32 tướng tốt để chúng ta có thể nhận diện nhân dáng toàn mỹ của Đức Phật. Thật ra, có một vài chi tiết khó hình dung nơi một con người thời nay, như tướng lưỡi rộng dài quá mức hay màng da lưới ở kẻ ngón; hoặc một số tướng tốt chỉ xuất hiện khi Đức Phật đã trưởng thành chứ không phải được mô tả lúc Ngài đang ở tuổi sơ sinh, như tướng răng, giọng nói, thân hình… Tuy nhiên, chúng ta không nên dùng ý thức phàm tình để xét đoán về một Bậc Thánh nhân, vì đôi khi những chi tiết mô tả về Ngài có thể ẩn tàng một ý nghĩa sâu xa nào đó. Ví dụ, tướng lưỡi rộng dài là kết quả bao nhiêu đời kiếp Ngài không một lời nói hư dối; khối thịt vun trên đỉnh đầu (nhục kế) là tướng của một người có trí tuệ tột đỉnh; lông trắng giữa hai chân mày (bạch hào tướng quang) tượng trưng cho Trung đạo, lìa sự cố chấp hai bên; lòng bàn chân có hình bánh xe biểu hiện một sứ mạng cao cả là lưu truyền chánh pháp… Những tướng tốt hy hữu ấy đã minh chứng bao nhiêu công đức tích lũy được trong vô lượng kiếp tu hành của một Bồ tát Nhất sanh bổ xứ, chỉ còn một đời ở cõi Ta-bà là thành tựu Phật quả.

Thân tướng tốt đẹp cũng là sự thị hiện của Ngài, do chìu theo sự ưa thích cái đẹp của chúng sinh. Khi mới tiếp xúc lần đầu, chúng ta thường chú ý đến vẻ ngoài của người đối diện, sau đó mới tìm hiểu về tính tình và đời sống nội tâm. Đức Bổn Sư của chúng ta, với 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp thật toàn mỹ và phi phàm, đã khiến cho bất cứ ai, khi vừa gặp Ngài đều sinh lòng quý kính. Đây là điều kiện thuận lợi để tiếp cận với người khác, sau đó Ngài mới tùy duyên mà giáo hóa. Trong pháp hội của Đức Phật, được nhìn dung mạo Ngài, nghe giọng nói Ngài trầm hùng như tiếng sóng biển, tiếng chim Ca-lăng-tần-già, toàn thể đại chúng đều sinh lòng kính tín, tâm hoan hỷ thanh tịnh lạ thường. Nhiều người đắc quả vị Hiền Thánh chỉ sau một lần được diện kiến Đức Phật hoặc nghe Ngài thuyết pháp.

Nhưng thân tướng đẹp đẽ vô song ấy, có phải không bao giờ đổi thay hoại diệt? Trong kinh kể lại, một hôm Đức Phật ngồi sưởi ấm dưới nắng, Ngài A-Nan đến gần, buồn rầu thưa rằng “Bạch Đức Thế Tôn, làn da ánh như vàng ròng của Người nay còn đâu, chỉ có màu xám xịt nhăn nheo của tuổi già”. Đức Phật dạy: “Này A-Nan, đây là sanh thân của Như-Lai, hữu hình ắt hữu hoại”. Thân xác do tứ đại hợp thành, đủ duyên thì hiện hữu, hết duyên lại trở về cát bụi. Vô thường có tha ai bao giờ? Vô thường là quy luật tất yếu của cuộc sống, nhưng cũng là điều kiện cần thiết cho sự tiến hóa của vũ trụ vạn loại. Hoa nở rồi tàn, rụng xuống thành rác, từ rác có cây khác mọc lên, và hoa lại nở, tạo thành vòng biến chuyển không dừng trụ. Sanh thân của Đức Phật, dù đầy đủ 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp cũng do tứ đại duyên hợp tạm có, tồn tại trên thế gian trong 80 năm và cũng chịu sự chi phối của luật vô thường, cũng ở trong vòng biến chuyển của luân hồi sinh tử. Thế thì, ý nghĩa cao cả của sự tu hành là Giác Ngộ - Giải Thoát phải được hiểu như thế nào?

Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập I, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, thân của Như-Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt. Khi thân Như-Lai còn tồn tại, thì chư Thiên và loài người coù thể thấy thân ấy. Khi thân hoại mạng chung, thì chư Thiên và loài người không thể thấy được”. Động lực khiến tái sanh vào kiếp khác là phiền não tham sân si đã bị chặt đứt thì dù sanh thân còn tồn tại nhưng đã thoát khỏi vòng kiềm tỏa của luân hồi. Chư Thiên và loài người chỉ có thể thấy được sanh thân của Đức Phật, tức thân có 80 vẻ đẹp và 32 tướng tốt, thân có sinh ra, có bệnh tật, có già nua và có hoại diệt. Nhưng khi sanh thân không còn nữa, thì mắt của Trời người không thể thấy Như-Lai. Bởi vì Như-Lai chính là Pháp Thân vô tướng, là Thật tướng thường trụ. Pháp thân vô tướng nên không bao giờ sinh diệt, vì không có chỗ trụ nên thường hiện hữu khắp cõi Tam thiên, vắng lặng mà chiếu soi, không thể dùng ý thức suy lường mà sẵn đủ nơi tất cả chúng sanh. Đức Bổn Sư đã nhận ra và hằng sống với tánh giác sẵn đủ ấy nên Ngài là Phật; còn chúng sanh do quên tánh giác, mãi đuổi theo trần cảnh, tạo nghiệp, nên vẫn còn lang thang trong sáu nẻo luân hồi. Chư Phật thị hiện nơi đời cũng chỉ có một mục đích duy nhất là chỉ cho chúng ta thấy và trực nhận tánh giác nơi mình, từ đó gột rửa dần tập khí phiền não, cuối cùng thể nhập Pháp thân. Đó là ý nghĩa của sự tu hành, cũng là bản hoài của chư Phật, Chư Bồ tát.

Cuộc đời của Đức Bổn Sư, từ lúc còn trên ngôi vị Thái tử đã không màng đến danh lợi hạnh phúc thế gian, đến khi thành đạo vẫn vì chúng sanh giáo hóa suốt 45 năm ròng, là một cuộc đời vô cùng trong sáng và đẹp đẽ. Ngài cũng là người, nhưng là một người phi thường từ thể chất đến tinh thần, từ hình tướng đến tâm linh, từ trí tuệ đến lòng từ bi ban rải bình đẳng đến chúng sanh vạn loại. Chỉ phác thảo về những đặc điểm bên ngoài của Đức Phật, cũng đủ cho chúng ta phát khởi lòng tôn kính đối với Ngài - Bậc giáo chủ vĩ đại, Bậc Tôn sư của Trời người, như kinh Nikaya viết: “Một chúng sinh duy nhất, một con người phi thường xuất hiện trong thế gian này, vì lợi ích cho số đông, vì hạnh phúc cho số đông, vì lòng bi mẫn, vì sự tốt đẹp, vì lợi ích và hạnh phúc cho Chư Thiên và loài người!” Những người con Phật chúng ta, muốn làm tròn chữ hiếu đối với Đức Bổn Sư, phải nguyện đời đời tinh tấn tu hành theo lời Ngài chỉ dạy để cuối cùng, thành tựu quả vị Phật như Ngài!

 

 

Phật giáo thời hiện đại^

 

-Thích Nguyên Chơn dịch-

(Nguyên tác Anh Ngữ: “Buddhism for Modern World”

by Thích Quảng Định)

Phật giáo (Buddhism) xuất hiện lần đầu tiên ở Ấn độ vào khoảng năm 500 trước công nguyên (500.BC) do một vị Thái tử sau khi tu hành, giác ngộ thành Phật (Buddha) sáng lập. Sau khi ngài nhập Niết-bàn, Phật giáo truyền thừa xuống miền Bắc, Nam và Đông Á. Căn cứ vào những lời dạy của Đấng Giác ngộ, những nơi ấy đã phát triển rực rỡ thành một nền văn hóa giàu bản sắc và mở rộng đến nhiều vùng miền Á châu khác nhau trải suốt 2.500 năm qua. Giáo pháp ấy đã lan truyền đến mọi người trong mọi giai tầng xã hội đa dạng với nguồn gốc và quốc gia khác nhau; nhiều trường phái và hệ thống triết học đã hình thành, tất cả đều góp phần quan trọng trong việc duy trì sự trường tồn của giáo pháp. Theo chiều hướng đó, Phật giáo phát triển và truyền sang phương Tây. Mặc dù Phật giáo đã truyền sang phương Tây hơn một thế kỷ và hiện tại đã lan rộng khắp, nhưng người ta vẫn còn thắc mắc liệu rằng Phật giáo có thích ứng với tư tưởng của người phương Tây hiện đại hay không? Phật giáo ngày càng đạt được nhiều thành tựu trong thế giới phương Tây, đặc biệt là vấn đề giáo dục dân số. Và điều đó không phải là không có lý do của nó. Vì mọi cuốn hút của Phật giáo đều năng động, là tiếng nói đầy nhân bản, dựa trên tinh thần trí tuệ và khoa học. Lời dạy của đức Phật được các nhà cầm quyền phương Tây thừa nhận vô điều kiện, đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với quần chúng, ví dụ như sự lý giải về quan niệm Vô thần (non-theistic) sáng tạo ra thế giới của Phật giáo là một điển hình. Đối với những con người hiện đại này, thật là khó chấp nhận các khái niệm Chúa trời là Thần sáng tạo và là Vị cứu tinh được. Trong khi đó, Phật giáo quan niệm rằng mọi người ai ai cũng đều có Phật tánh và có thể tự giải thoát bằng nỗ lực của tự thân. Cùng với khái niệm bản chất về vị trí của con người trong vũ trụ… là những điều hết sức ấn tượng cho nhân quần. Mặc dù khó lý giải rõ làm thế nào Phật giáo có thể đánh thức sự quan tâm của thế giới phương Tây, lôi cuốn họ về với Phật giáo nhưng chúng ta có thể tổng quát hóa vấn đề này trong ba lý do sau đây:

Trước hết, đó là Chủ nghĩa thực tiễn của Phật giáo; luôn tiếp cận các vấn đề thực tế để rồi tiến đến giải quyết các vấn đề ấy. Dù rằng nói đến Phật giáo là đề cập đến hệ thống Tam tạng thánh điển khổng lồ, nhưng tựu trung tất cả đều nhấn mạnh việc giúp đỡ con người giải thoát mọi khổ đau ngay trong hiện tại. Hơn thế, Phật giáo quan tâm đến việc chỉ ra những nguyên nhân gây đau khổ và chỉ bày con đường chắc thật để chấm dứt mọi khổ đau hơn là chỉ nói suông về Niết-bàn (nirvana). Quan điểm này có tác động, ảnh hưởng rất lớn đến thuyết Vị lợi của người phương Tây trong việc giải quyết các vấn đề có tính chất khoa học của họ. Một ví dụ điển hình: Để điều trị cho một bệnh nhân bị thương do súng bắn, việc đầu tiên mà bác sĩ phải làm là cầm máu, bơm khí oxy và lấy viên đạn ra khỏi thân thể bệnh nhân. Bác sĩ không cần biết ai đã chế tạo nên viên đạn giết người này và ai đã bắn nó ra, bởi vì như thế sẽ không ích lợi gì trong việc cấp cứu sinh mạng của người bị thương cả. Một lần nọ, đức Phật dạy cho vị đệ tử của Ngài rằng những gì Như lai hiểu biết về vũ trụ nhiều như số hạt bụi trên hành tinh này nhưng những gì Như lai chỉ dạy cho con người thì lại không quá một hạt bụi dính trên móng tay của một người. Lý do thật sự vô cùng đơn giản, Đức Phật muốn hàm ý rằng những gì Ngài giảng dạy cho chúng ta là những điều Ngài hiểu rất rõ và đã trải nghiệm thực hành; Ngài sẽ không dạy bất cứ điều gì vượt quá khả năng của con người.

Đặc điểm thứ hai đó là sự khẳng định về lập trường tự do tư tưởng của Phật giáo. Một lần nọ, nhóm hành giả tôn giáo Kamalas “trên bình diện nào đó, họ hoàn toàn giống con người thời hiện đại, nhưng thật ra họ bộc lộ khá nhiều mâu thuẫn khác biệt về chân lý. Họ đi đến chỗ Phật và hỏi Ngài phương pháp làm thế nào để có thể điều chỉnh những mâu thuẫn trong lời dạy của các giáo chủ của họ. Đức Phật dạy rằng không nên vội tin tưởng vào những điều gì chỉ vì điều đó được áp đặt bởi các nhà cầm quyền; không nên chấp nhận điều gì đơn giản chỉ vì nó được ghi nhận trong các sách Thánh hiền; không nên vội tin tưởng vào những điều gì đơn giản vì nó là ý kiến chung, bởi vì nó có vẻ hữu lý, hay chỉ vì tôn kính bậc thầy của mình. Thế Tôn còn dạy rằng không nên chấp nhận những lời dạy của chính Ngài mà không tự kiểm chứng sự thật của nó bằng sự trải nghiệm của bản thân (Santin 7)”. Đây có lẽ là sự ấn tượng lớn nhất của Phật giáo đối với nền dân chủ Tây phương - nơi mà mọi người đều có quyền tự do lựa chọn những gì đúng đắn mà họ ưa thích. Đây là đòn thức tỉnh con người về Chủ nghĩa võ đoán (dogmatism), vốn đã bắt rễ cho bạo lực leo thang trong suốt tiến trình lịch sử của nhân loại.

Cuối cùng, đó là sự chính xác vĩnh cữu và sự tồn tại vĩnh hằng của giáo lý Phật giáo. Trong khi hầu hết các tôn giáo lớn trên thế giới đều trải qua những thời kỳ cải đổi, thì Phật giáo vẫn duy trì những giới pháp của riêng mình. Càng tiếp xúc với những nền văn hóa và tư tưởng khác nhau trong các thời đại khác nhau, thì Phật giáo càng giữ vai trò điều chỉnh những nhu cầu ấy. Ví dụ nhu cầu dân số và cá nhân. Giáo lý Phật giáo luôn luôn trong sáng. Dựa vào sự tiến bộ của khoa học, các chân lý của Phật giáo lần lượt được thừa nhận qua thời gian và không một điều nào bị chối bỏ. Do vậy, nếu Phật giáo được áp dụng cho hôm nay thì tất yếu nó cũng sẽ được ứng dụng cho mai sau. Bằng cách nào? Nó chứa đựng cả một kho tàng giá trị vĩnh cửu về đạo đức, tâm linh và khoa học. Albert Einstein, một trong những nhà vật lý học vĩ đại nhất của thời hiện đại, sau khi khám phá Học thuyết Tương đối (Relativity) đã phải thừa nhận rằng giữa vật lý học và triết học Phật giáo có mối quan hệ vô cùng mật thiết. Và hơn thế, Albert Einstein còn tuyên bố: “Một tôn giáo của tương lai phải là một tôn giáo có tính cách vũ trụ (cosmic religion). Nó phải vượt qua các quan niệm thần thánh cá nhân, tránh những tư tưởng võ đoán (dogmas) và chủ thuyết thần học (theology). Nó phải bao hàm bản chất và tinh thần, dựa trên nền tảng ý thức hệ tôn giáo bắt nguồn từ những kinh nghiệm thực tế về bản chất và hiện tượng và tính thống nhất về ý nghĩa. Phật giáo đáp ứng được những yêu cầu này… và nếu có một tôn giáo nào có thể đương đầu với những nhu cầu của khoa học hiện đại, thì tôn giáo đó chắc chắn phải là Phật giáo” (qtd. In Barua 62)

Nói một cách văn chương, Phật giáo nghĩa là phương pháp sống hơn là một tôn giáo vì rằng không có một thuật ngữ hoàn hảo nào xứng đáng có thể diễn tả chính xác về nó được. Chúng ta có thể quan sát những đặc tính chung của một tôn giáo bao gồm “Một vị Thần chủ thể, một linh hồn bất diệt, bất chuyển và một vị giáo chủ sáng lập phải hội đủ những điều kiện cần thiết có thể cứu rỗi những người tin theo. Nhưng đối với Phật giáo ba yếu tố này lại hoàn toàn vắng bóng” (Humphreys 27). Tuy nhiên, Phật giáo là một nền triết học thực thụ vì nó có năng lực giải cứu con người thoát khỏi luân hồi đạt được hạnh phúc tối thắng. Đức Phật dạy rằng Ngài chỉ là vị đạo sư và giáo pháp của Ngài chỉ là ngón tay chỉ hướng mặt trăng; nương ngón tay trực hướng ấy sẽ đến được ánh sáng rực rỡ của mặt trăng. Thật vậy, hành giả chỉ cần nương theo “ngón tay chỉ mặt trăng của Ngài” để tự mình giải thoát khỏi vòng u tối của khổ đau sanh tử, thẳng tiến đến cõi An lạc (nirvana). Nói một cách khác, mỗi cá nhân đều là chủ nhân ông của chính mình và tự chịu trách nhiệm với số phận của bản thân. Đức Phật không bao giờ thừa nhận bất kỳ vị Cứu tinh nào cả. Bây giờ chúng ta hãy tìm hiểu một vài khái niệm của Phật giáo để tìm hiểu xem chúng có thể giúp ích gì cho xã hội Tây phương nhé.

Bài pháp đầu tiên rất nổi tiếng của đức Phật đó là Tứ Thánh đế và Bát chánh đạo. Tứ Thánh đế gồm:

(1) Khổ: Mọi sự hiện hữu đều mang theo khổ đau (suffering);

(2) Tập: Do vô minh dẫn đến tham ái vọng tưởng gây ra khổ đau (suffering);

(3) Diệt: Có một lối thoát chấm dứt mọi khổ đau được gọi là Niết-bàn (Nirvana);

(4) Đạo: Con đường chấm dứt khổ đau đạt được Niết-bàn, đó là con đường thực hành Bát chánh đạo: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định.

Đây là những giáo lý hết sức căn bản của Phật giáo, là nền tảng của tất cả các truyền thống Phật giáo. Tuy nhiên, người phương Tây không dễ gì một sớm một chiều chấp nhận các thuật ngữ như khổ đau (suffering)… được. Trong tâm tưởng của họ đa phần đều cho rằng những nghịch cảnh, bất hạnh… đơn thuần chỉ là những thử thách (challenges) trong cuộc đời. Nhưng đối với Phật giáo, những gì đi ngược với những tư tưởng, kế hoạch, ước vọng, mục đích, mong đợi của chúng ta – đều xem là khổ đau. Hơn thế nữa, tất cả chúng sanh hễ còn trong vòng sanh tử luân hồi thì đều bị trói buộc trong khổ đau và hoại diệt. Nhưng thật không may người ta thường không nhận ra điều đó. Tuy nhiên, chúng ta không cần dùng mọi phương tiện để lẫn tránh khổ đau mà hãy dũng cảm, khéo léo đối diện với sự thật. Nhờ trực nhận khái niệm khổ đau và vô thường giúp chúng ta tháo gỡ những phiền não trói buộc. Và theo lý thuyết mà nói, phiền não trói buộc là gốc tạo ra tham, sân, si và nhiều lậu hoặc khác.

Giáo lý căn bản của Phật giáo dạy chúng ta chịu trách nhiệm với chính bản thân mình thông qua Nghiệp báo (karma) hay còn gọi là luật Nhân quả; khi chúng ta tạo một nghiệp gì, tức là chúng ta đã tạo ra một kết quả; xấu tốt tùy nghiệp tạo tác, nhanh chậm tùy duyên sanh. Điều này giống như câu tục ngữ: “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài” vậy. Nếu trừu tượng một tí thì chúng ta có thể hiểu rằng nó giống như một quy trình chuyển động và phản ứng theo các quy luật vật lý. Một lần nọ, có vị tỳ kheo hỏi Phật rằng: “làm thế nào để biết mạng sống đời quá khứ?” Thế Tôn dạy: “Muốn biết nghiệp nhân đời trước thì hãy nhìn báo ứng đang thọ. Muốn đoán được quả báo đời vị lai thì hãy xem hiện tại mình đang làm gì”. Tuy nhiên, luật nhân quả không hề lẫn lộn nhưng có thể chuyển đổi được. Khái niệm nghiệp báo quá vi tế nên nhiều người không quan tâm đến. Nhiều người cảm thấy đau khổ vô cùng về những bất hạnh và thiếu niềm tin về chính bản thân mình. Ví dụ, có nhiều đứa trẻ được sinh ra trong một hoàn cảnh tốt đẹp, gia đình hạnh phúc và thừa hưởng những kết quả tốt đẹp như thông minh, xinh đẹp, trong khi có những đứa trẻ khác lại không được như thế. Phật giáo gọi đó là nghiệp báo. Đối với những Phật tử nào thấu rõ khái niệm này thì sẽ bình tâm đón nhận những gì mình hiện có, và biết rõ rằng họ có thể đạt được những phước duyên tốt đẹp hơn nếu họ không còn tạo ác nghiệp nữa và không tích luỹ thêm nhưng nghiệp xấu cho đời vị lai. Chính vì thế, họ chỉ cần quán sát nghiệp mà họ đang tạo thay vì lo lắng về quả báo. Người Tây phương thường không nhìn nhận như vậy. Vì họ thường chấp nhận khái niệm “Chúa đã cho tôi mọi thứ” và họ luôn “Cảm ơn Chúa” về tất cả những thành tựu của họ. Hiếm khi họ cho rằng những thành công ấy là do chính sự tự nỗ lực của bản thân. Chính vì thế, họ không bao giờ chú tâm đến những động lực xúc tiến và cũng không cố gắng để đạt được thành quả tốt hơn. Kết quả là, khi tai ương ập đến họ thường chìm đắm trong sầu khổ và tuyệt vọng hoặc cư xử, hành động không khế hợp với tình cảnh gì cả.

Một điều cần lưu tâm ở đây là cho dù chúng ta có chấp nhận nhân quả nghiệp báo hay không, thì nó vẫn tồn tại và liên hệ đến mỗi người. Vì rằng nó là một quy luật của vũ trụ đã được Bậc Giác Ngộ khám phá và đã trải nghiệm thực tế. Một khi chúng ta liễu ngộ về nghiệp báo thì chúng ta sẽ dễ dàng ứng phó với những tai ương bất hạnh xảy đến và vượt qua chúng mà không tuyệt vọng hay uất ức. Để giúp con người tránh khỏi các nghiệp xấu, đức Phật chế định giới luật. Trong những giới luật ấy Ngũ giới của người tại gia là căn bản, bao gồm: Không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không uống các chất độc hại ảnh hưởng đến sức khoẻ và trí tuệ. Chúng ta có đủ các tình huống liên quan đến các loại hình phạm tội trong đời sống hằng ngày đúng không? Lại nữa, Ngũ giới thích hợp với mọi thời gian. Giới giúp chúng ta tránh khỏi các hành vi xấu ác. Hơn thế, đây chỉ là những lời dạy để tuân theo, chúng ta có quyền tự nguyện lựa chọn giới để giữ gìn vì sự tốt đẹp của mọi loài.

Để giúp con người sống chan hòa với nhau, Phật giáo dạy chúng ta duy trì đức khoan dung. Người ta nói những ngôn ngữ khác nhau, ăn những thực phẩm khác nhau, có suy nghĩ, niềm tin khác nhau và còn nhiều thứ khác nhau nữa. Chính vì thế, không có cách nào khác hơn là chúng ta phải tôn trọng ý kiến của người khác cũng giống như chúng ta muốn họ tôn trọng ý kiến của chính mình vậy. Trong suốt chiều dài lịch sử, thế giới đã phải đổ máu và tràn ngập đau khổ vì căn bệnh vô đoán và thiếu khoan dung. Sự sân hận và tham lam của con người đã làm cho nhiều quốc gia tắm mình trong máu đỏ trên các vũ đài đấu tranh chính trị. Nền trời của các thiên niên kỷ trước đã được bao phủ bởi màn khói chết chóc tang thương của những kẻ tử vì đạo hoặc là trong lĩnh vực đấu tranh tôn giáo hay chính trị… (Dhammananda 173). Sự căng thẳng ấy vẫn còn bắt lửa cho tới tận bây giờ. Mọi người đều đồng ý rằng thế kỷ 20 là một trong những chương lịch sử đẫm máu nhất trong lịch sử của nhân loại. Với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, chúng ta có tất cả các loại vũ khí hũy diệt hàng loạt và chúng ta không biết điều gì sẽ xảy ra nếu có một trận thế chiến nữa lại diễn ra.

Để cầu nguyện thế giới hoà bình, lực lượng quân đội của thế giới không cần phải luôn luôn cứ đòi tiến công, mà hãy chủ động phòng bị. Và đây là điều mà các quốc gia phương Tây nên thực hiện. Nếu chúng ta chú ý đến thông điệp của Đức Phật “Hòa bình bằng bạo lực không phải là sự hòa bình vĩnh cửu” thì sẽ thấy sự khoan dung của Ngài. Sự bất bạo động của Phật giáo đã trực tiếp hay gián tiếp ảnh hưởng đến một số nhà lãnh đạo vĩ đại của thế giới như vua A Dục, Mohandas K. Gandhi, và Martin Luther King. Trái lại, có ai còn nhớ đến sự tồn tại của vương quốc do Napoléon xây dựng hay đế chế của Gange Khan nữa không?

Một giá trị nữa của Phật giáo có thể giải quyết các vấn đề của thế giới hiện đại đó là làm thỏa mãn những mong muốn của con người. Chúng ta khao khát mọi thứ. Ngày nay, ở phương Tây đặc biệt ở Mỹ, Chủ nghĩa duy vật (materialism) đã trở thành tiêu chuẩn. Chúng ta đã phải đổ xô vào cuộc buôn bán lớn, nhưng hầu hết thời gian khi chúng ta trở về nhà lại trống rỗng, chúng ta không biết chúng ta muốn những gì; và nếu chúng ta không tốn nhiều thời gian thì Chính phủ sẽ nhắc nhở chúng ta bằng cách giải phóng nghiên cứu sức mạnh của người tiêu dùng để khuyến khích sức mua. “Xét cho cùng, bây giờ tất cả chúng ta đều là người tiêu dùng, là khách hàng của mọi thứ… ngay cả những văn hóa cao cấp” (Twitchell 23) chúng ta đã tiêu tốn khá nhiều tiền đến nỗi mà chúng ta không muốn tốn nó một cách vô nghĩa; chúng ta không thích bao trọn ngay cả những bữa ăn tối của các bạn chúng ta, và chúng ta còn làm một cuộc thương lượng tài chính trước khi cưới nhau. Lố bịch thay, càng nhiều tiền, chúng ta càng châm chích nhau và càng ích kỷ hơn; chúng ta đã tự đánh mất chính mình rồi! Nói chung, chúng ta tìm cách thoả mãn cá nhân bằng những đối tượng vật chất; nhưng trong cái vòng tròn từ mong muốn đi đến mua, rồi từ mua đến thất vọng, rồi lại thay đổi ý muốn… là không bao giờ chấm dứt (Twitchell 23). Đối với vấn đề này, Đức Phật dạy rằng hãy vừa lòng với những gì mà chúng ta nhận được và như vậy thì sự thỏa mản sẽ được duy trì.

Dĩ nhiên, tất cả chúng ta đều ‘cần’ (need) một nguồn vật chất trong cuộc đời nhưng chúng ta không ‘muốn’ (want) làm kẻ nô lệ của chủ nghĩa Vật chất. Phật giáo không ngăn cản chúng ta có một cuộc sống thoải mái tiện nghi, nhưng không có nghĩa là một cuộc sống nô lệ. Một khi chạy theo Chủ nghĩa duy vật (materialism), chúng ta thường đánh mất mục đích của cuộc đời, chúng ta quá bận rộn với việc đồng hóa các quan điểm sống. Phải chăng cuộc sống chỉ đơn giản là một cuộc hành trình tiến tới hạnh phúc vĩnh cữu? Nhưng những ước vọng (desires) chỉ mang lại cho chúng ta không gì hơn ngoài cái hạnh phúc tạm bợ cùng với những nỗi đau và sự thất vọng; nó chẳng khác nào chúng ta cố gắng dùng nước để lấp đầy cái thùng bị thủng chảy vậy. Ngày nay ở các xã hội phương Tây, càng ngày càng có nhiều người phải đối mặt với bệnh stress, tuyệt vọng và rối loạn thần kinh vì khối lượng công việc và áp lực của cuộc sống, nhưng họ không biết tự chữa căn bệnh của chính họ. Kết quả đó đã làm xuất hiện những chuyên gia tâm lý liệu pháp, nhưng điều này lại hiếm thấy ở các nước Phật giáo Á châu. Phật giáo có phương pháp riêng biệt để tiếp cận vấn đề này. Phương pháp đơn giản là hãy kiên nhẫn đợi chờ sự căng thẳng lắng xuống và hãy quan tâm đến tâm trí của bạn một tí. Chúng ta phải thừa nhận hạnh phúc không đến từ bên ngoài mà nó hiện hữu bên trong. Tập thư giãn, thiền định và sống với chánh niệm là những phương pháp còn tốt hơn phải đến bác sĩ tâm lý trị liệu. Cuối cùng, chúng ta sẽ thấy không có nguyên nhân nào của stress cả, chúng ta cũng không phải tốn một viên thuốc để giúp dễ thức hay dễ ngủ hoặc để giải tỏa tâm lý gì nữa.

Để thoả mãn đời sống vật chất, chúng ta phải khai thác các nguồn tài nguyên tự nhiên và làm ô nhiễm môi trường một cách tàn nhẫn. Làm như vậy chúng ta đã xáo động và phá vỡ hệ sinh thái của quả đất. Từ lâu người phương Tây đã chấp nhận thuyết   ‘Lấy con người làm trung tâm’ (anthropocentrism) của Cơ đốc giáo trong đó con người hoàn toàn tách ra khỏi tự nhiên và có quyền nô dịch hóa nó. Chúng ta cố gắng khuất phục mọi thứ có thể nhưng chúng ta không biết rằng chính chúng ta lại bị khuất phục trước Tam độc: Tham, sân, si và nhiều thứ khác nữa. Mãi cho đến gần đây, chúng ta mới thức tỉnh về sự khủng hoảng môi trường. Sự ô nhiễm môi trường, sự tàn phá rừng và tình trạng quả đất nóng dần lên là những vấn đề chính yếu mà con người phải đối mặt vì những thế hệ tương lai. Đối với vấn đề này, Phật giáo luôn bảo vệ sự liên kết chặt chẽ của vũ trụ, những nhơn duyên hỗ tương và mối tương thuộc của tất cả các hiện tượng. ‘Tôi’tồn tại vì có rất nhiều mối liên hệ giữa ‘tôi’với nhiều thứ khác; và ‘tôi’ sẽ không là gì cả nếu tim tôi ngừng đập hay không còn phụ thuộc vào không khí nữa. Chúng ta có bao giờ nghĩ về điều đó đâu nhỉ? Thay vì xâm chiếm thế giới, người Phật tử được giảng dạy phải tôn trọng và biết ơn mọi vật xung quanh mình; sự tồn vong của thế giới phụ thuộc vào hành vi đạo đức của con người và ngược lại. Đó là lý do đức Phật tuyên bố rằng “Thế giới do tâm tạo”, ngay cả các hiện tượng tự nhiên cũng phụ thuộc đạo đức của con người.

Trên phương diện dân chủ có thể nói rằng Phật giáo là người tiên phong của tất cả các nền dân chủ. Trong lịch sử của nhân loại, Phật giáo là tôn giáo đầu tiên chấp nhận nữ giới được dự vào hàng ngũ Tăng lữ. Người phương Tây luôn tự hào về những nền văn minh vĩ đại trong thời hiện đại của họ, nhưng mãi cho đến những năm gần đây phụ nữ mới được quyền bầu cử. Đức Phật đã bác bỏ chế độ đẳng cấp của truyền thống Hindu giáo. Luôn bênh vực quyền lợi của con người, Ngài đã dõng dạc tuyên bố:

Khi sinh ra không ai bị ruồng bỏ

Khi sinh ra không ai là Bà-la-môn (Brahmin)

Do hành động nên bị người ruồng bỏ

Do hành động người ta thành Bà-la-môn (bậc trí)

Thú vị thay, một trong những đệ tử xuất sắc trong giáo đoàn của đức Phật là tôn giả Ưu-ba-ly (Upali), xuất thân từ một người thợ cắt tóc nghèo hèn. Và gần đây, có một nhóm gồm 50 nghìn người Dalits tụ họp với nhau tự xưng là “những tiện dân bị ruồng bỏ” để phản đối lại Ấn độ giáo (Hinduism) và cải đạo theo Phật giáo.

Trước khi quay trở lại và trả lời câu hỏi của chúng ta, cũng thật hữu ích khi chỉ ra một số điểm khác biệt giữa Phật giáo và văn hóa phương Tây hiện đại. Vì Phật giáo bao hàm sự hợp tác, tương thuộc, tương liên kết của thế giới hiện tượng và lòng vị tha, và thật khó cho người phương Tây ủng hộ bản ngã và chủ nghĩa cá nhân có thể cộng tồn với Phật giáo. Người theo chủ nghĩa nuông chiều, duy vật, danh vọng, khát vọng và yêu thích thì khó có thể tuân thủ các nguyên tắc giới luật, tri túc, khiêm tốn và hài hoà của Phật giáo. Hãy lấy ví dụ về đất nước Nhật Bản; nước Nhật đã từng là quốc gia cường thịnh về Phật giáo, đặc biệt là Thiền định (Zen). Tuy nhiên, kể từ khi Nhật chuyển đổi lối sống như người Tây phương chạy theo chủ nghĩa vật chất thì Phật giáo bắt đầu suy giảm. Chúng ta e ngại rằng khi tiếp xúc với Phật giáo thì chúng ta sẽ có thể phải cắt giảm một phần lợi tức của chúng ta chăng!.

Một vấn đề nữa mà người phương Tây dường như ít kiên nhẫn thực hành giáo lý Phật giáo đó là vì họ có khuynh hướng đi tìm sự chứng ngộ nhanh chóng và thường không đủ kiên nhẫn nếu kết quả không đến với họ ngay tức thì. Trái lại, người phương Đông theo Phật giáo có khuynh hướng bằng lòng với việc lần hồi tiến đến giải thoát Niết-bàn. Vì lý do đó, khuyng hướng hướng đến tư tưởng nhị nguyên (dualistic) của người phương Tây làm giảm thiểu cơ hội cần thiết để họ thấu triệt lời dạy của đức Phật (Layman 262). Thêm vào đó, nó đòi hỏi phải có tâm tư trống rỗng, thuần tịnh thì mới thấu đạt được Phật lý vì Phật giáo hoàn toàn khác với văn hóa phương Tây. Chúng ta hãy chánh niệm quán sát câu chuyện có thật sau đây. Trong thời đại Meiji (1868-1912), có vị giáo sư đại học người Nhật đi đến hỏi thiền lý với thiền sư Nan-in (Zen master). Thiền sư Nan-in rót trà mời vị giáo sư. Thiền sư cứ rót mãi cho dù tách trà đã đầy tràn ra ngoài. Không thể tự kiềm chế, vị giáo sư liền phản ứng: “Nó đầy tràn ra ngoài rồi, còn chỗ đâu mà rót nữa!”. Thiền sự điềm tĩnh đáp: “Giống như cái tách trà này, tâm ông đã tràn đầy các kiến chấp và suy xét rồi. Làm sao tôi có thể chỉ bày ông thiền định trừ khi ông phải làm trống trải cái tách của ông?” (Reps 5). Để thực hành giáo pháp thì không khó. Nếu bạn có căn bản, nền tảng thì sự nghiên cứu uyên bác, chi tiết không còn là vấn đế quan trọng đáng nói nữa.

Nói chung, dù bất kỳ ở vị trí nào, Phật giáo cũng đóng góp những giá trị thiết thực mà người phương Tây phải trải qua hàng ngàn năm nghiên cứu mới có được. Khi những kỹ nghệ hiện đại phát triển, một phần của nó giúp nâng cao đời sống vật chất của chúng ta nhưng nó chưa hẳn giúp nâng cao đời sống tinh thần. Và nó sẽ không bao giờ là tất cả. Đối với vấn đề này, Phật giáo lại đóng góp một phần trọn vẹn trong việc giúp con người tự mình ngăn chặn sự sa đọa. Vì thế, Phật giáo không chỉ dành riêng cho những người phương Đông hoặc chỉ áp dụng trong thời kỳ quá khứ, mà áp dụng cho tất cả mọi người và trong mọi thời đại. Chính vì vậy, không còn là vấn đề “Phật giáo sẽ thích ứng với tư tưởng của người phương Tây như thế nào” mà là “người phương Tây sẽ phải làm theo và thích nghi với Phật giáo như thế nào” mới là vấn đề mà chúng ta cần quan tâm.

 

 

 

Lá Thư không gửi^

 

Nguyên Tịnh

 

Nha Trang, Mạnh Thu năm Giáp Thân - 2004 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,

Kính bạch Ôn,

Con vừa vào hầu thăm Hòa thượng Chí Tín, trú trì chùa Tỉnh hội Long Sơn (Khánh Hòa). Hòa thượng mới đi chữa bệnh ở Sài Gòn về. Trông Hòa thượng gầy và xanh, tuy nhiên con không thấy nỗi đau của lão khổ thể hiện nơi mắt nhìn và lời nói của Người. Cũng như trước kia, những tháng ngày thật dài, thật lâu giữ Ôn nằm yên trên giường bệnh, con cũng luôn thấy Ôn bình an, không nao núng trước bệnh khổ, không quan tâm đến lão suy. Đây là một bài học đem lại sự bình an, vững chãi cho hàng Phật tử chúng con.

Thăm Hòa thượng xong, con lần bước lên những bậc cấp rêu phong dẫn tới ngôi am tranh cũ của Ôn ngày nào, nó vẫn hiện diện giữa sườn đồi như một chứng nhân quen thuộc. Cạnh am là ngôi tháp mới của Ôn. Nhìn cái am cũ, ngôi tháp mới, hai nơi trú ngụ của Ôn giữa cõi tạm này, con đứng lặng vài giây lắng nghe lòng rưng rưng xúc động. Thưa Ôn, không như câu thơ “Người nằm xuống cho ngàn thu vang bóng”, chữ vang bóng ở đây theo con hiểu chắc phải nổi danh nổi tiếng, có địa vị, được nhiều người biết đến. Ngày sinh tiền, Ôn không phải là một nhân vật nổi danh nổi tiếng như vậy. Ôn tu hành ẩn dật trên ngôi am nhỏ này như một ẩn sĩ thanh bạch, không màng lợi danh. Ôn cũng đã nằm xuống, tuy không vang danh vang tiếng nhưng ngàn thu vẫn còn lưu mãi hạnh đức khiêm cung, tu hành miên mật, trong nếp sống giản đơn ẩn dật của Ôn; những hạnh đức ấy đã gieo vào lòng đàn hậu tấn chúng con một nguồn sáng bất tận. Nguồn sáng ấy soi rọi trên bước đường chúng con đang đi, con đường đưa về quê hương đích thực mà Ôn đã đi trước, chúng con đang từng bước lần theo.

Trời đang vào thu, sắp đến ngày Đại tường của Ôn rồi, quanh tháp Ôn lá vàng rơi nhiều. Những chiếc lá đã rơi nằm yên trên mặt đất, khô dần; thỉnh thoảng vài chiếc lá khác thoáng chao trong gió, trên cành những lá vàng chỉ còn gợn chút xíu màu xanh đang chuẩn bị dọn mình để lìa cành, còn hàng vạn lá xanh thì đang căng đầy sức sống, đang mạnh mẽ rì rào đùa vui với gió, chưa nghĩ gì đến những đổi thay sẽ dành cho mình vào một ngày nào chưa biết. Con thấy kiếp người cũng giống như những chiếc lá kia, đã rơi, đang rơi, rồi sẽ rơi… Trước đây, nhìn hình ảnh lá rơi con thường cảm nghe một nỗi buồn da diết xâm chiếm tâm hồn mình. Con liên tưởng đến sự ra đi của một đời người không khác những chiếc lá kia là mấy. Con đã mất rất nhiều nước mắt, khổ đau phiền muộn cho cái chết của những người thân khi rời xa mình. Còn mình nữa, không biết ngày ra đi của mình rồi sẽ ra sao ? Mình có can đảm giã biệt người thân để đi về hướng khác ? Lòng con đầy khổ đau và mờ mịt… Nhưng bây giờ thì khác, những hiện tượng luân chuyển, diệt sinh đã giúp con nhìn nhận rõ hơn những quy luật tất yếu của vạn hữu về vô thường, vô ngã, duyên sinh.

Có lần, Ôn đã dạy con: “ Ta phải giáp mặt với cái chết và nhận diện nó như ta đã giáp mặt và nhận diện sự sống vậy. Con đừng nghĩ khi ta chết mới tái sinh. Ta được tái sinh nhiều lần trong ngày. Mỗi giây phút đều tái sinh. Kết quả tu tập của con phải làm sao được tái sinh trong từng biểu hiện, mới có thể mang lại tự do hạnh phúc cho mình, cho người. Tuy nhiên, đừng cho phép tái sinh những ý nghĩ, những hành động sai lầm…”. Con cũng đã gặp ý này khi đọc trong một quyển sách nào đó, con đã quên đề tựa, chỉ nhớ một đoạn ngắn, con hiểu, cảm nhận được và vô cùng tâm đắc: “Một đám mây khi gặp khí lạnh có thể sẽ cảm thấy sợ hãi, vì nghĩ rằng mình sẽ trở thành không. Sự thật không phải thế. Khi gặp khí lạnh, đám mây sẽ trở thành mưa. Nếu đám mây biết rằng mình sẽ trở thành mưa để rơi trên ruộng đồng, trên cây cỏ, trên lá hoa… thì nó sẽ cho đó là một hình thái đi chơi rất vui sướng. Đám mây sẽ rùng mình biến thành mưa một cách rất tự nhiên, rất trầm tĩnh và rất hoan lạc….”

Thưa Ôn, ai ai rồi cũng sẽ chuyển mình như đám mây kia, phải không ạ ? Quan trọng là sự đổi thay cái hình thái của mình có đem lại lợi ích cho đời như những đám mây đã biến thành mưa để làm lợi cho ruộng vườn, cỏ cây, hoa lá hay không; nếu mình hiểu và cảm nhận ngay từ bây giờ, trong cuộc sống hôm nay. Ta còn có nhiều điều phong phú hơn cái thân tứ đại này. Thọ mạng của ta không chỉ giới hạn trong cuộc đời này, mà vô cùng vô tận. Thưa Ôn, phải chăng ánh sáng Phật pháp đã giúp con nhìn thấy điều này, đã đem lại cho con một cảm nhận an bình về sinh, về diệt! Con biết mình được thừa hưởng nhiều tri kiến tuyệt vời từ quý Ôn, quý Thầy nhờ duyên lành được lân mẫn, cận kề Tăng bảo. Tinh túy của Ôn đã đi vào lòng rất nhiều người quý kính Ôn, trong số đó có con. Những nhận thức của con hôm nay chắc chắn có phần khai thị đầy bi mẫn và sách tấn của Ôn. Mỗi lần có dịp hầu Ôn là mỗi lần con được nghe Ôn kể chuyện, những câu chuyện cổ thật vui và hàm chứa nhiều nội dung thâm thúy, giáo dục. Nào “Sự tích Bồ-tát Quán Thế Âm”, chuyện “Cái đuôi ngựa”, “Cơn giận của một nhà Sư tu thiền”, “Cái bánh ít”.v.v. và v.v… Ôn thường pha trò thêm vào các tình tiết của câu chuyện để tăng thêm phần dí dỏm, vui tươi, hấp dẫn. Nhìn Ôn cười híp cả đôi mí mắt, con thấy vui vô cùng. Con nghe rằng, trước kia khi còn dạy học cho quý Thầy Cô lớp Trung Đẳng (Phật Học Viện Trung phần – Hải Đức, Nha Trang), Ôn đã làm cho quý Thầy Cô cười ngất trong khi nghe Ôn giảng, mãi cười đến nỗi không nhớ những chi tiết quan trọng trong bài học. Con thích nhất Ôn bình giảng Truyện Kiều, qua đây giáo lý Phật-đà được Ôn làm sáng thêm, giúp con hiểu thêm nhiều về nàng Kiều tội nghiệp, giúp con “bây giờ rõ mặt đôi ta” “nghĩ mình, mình lại thương mình xót xa”… Thương mình chưa tháo hết xiềng xích vô minh để được ra khỏi ngôi nhà nóng bỏng lửa thiêu.

Lại vài ba chiếc lá vàng xào xạc rơi theo gió, có một chiếc vướng trên chòm hoa trắng. Lá vàng như muốn nhắn nhủ với hoa thơm rằng: “Ta đi trước, rồi em sẽ đi sau. Có sinh thì có diệt, có hợp ắt có tan, mọi chuyện đều có thể tàn lụi”; như Ôn vẫn thường nhắc nhở những người đến hầu thăm Ôn - đừng quên điều đó - khi ai tỏ ra dấu hiệu nuối tiếc sự ra đi của Ôn, muốn Ôn còn mãi. Riêng con, con chỉ hiểu đơn thuần là có sinh thì có diệt, nhưng chưa chứng nghiệm rốt ráo về bản chất của vạn sự vạn vật là không sinh không diệt, không nhơ không sạch, không tới không lui, không có cũng không không, không thêm cũng không bớt, theo tinh thần Bát Nhã Tâm Kinh. Con thấy mình chưa xứng đáng được làm người học trò đáng tin cậy của Ôn, chưa tiếp nối được những truyền trao của Ôn. Con vẫn biết: “Vì mây che nên ta không thấy được mặt trời. Chỉ cần vén mây là mặt trời hiển lộ, không cần phải đi đâu để tìm cho ra mặt trời”, nhưng thưa Ôn, việc vén mây vẫn còn khó khăn quá đối với con. Càng học con càng thấy mình ngu dốt; càng bơi sâu vào biển Phật pháp bao la, con càng thấy mình nổi trôi giữa mênh mông trời nước, chưa thấy được bến bờ. Càng thực tập, con càng loay hoay và khi đối cảnh vẫn còn thấy mình vụng về, lúng túng. Tội nghiệp cho con quá! Tuy vậy, con vẫn không hề nản lòng. Con biết nếu mình chán nản, để mất kiên nhẫn thì chỉ càng khổ đau thêm mà thôi. Sự nâng đỡ của các bậc Tôn túc, tình thương mến và sự hỗ trợ của bạn bè thân hữu, cộng với niềm vui trong các buổi học Phật đã và đang động viên, an ủi con rất nhiều. Nhờ vậy, niềm tin chân chánh vào Tam bảo ngày càng thêm đậm sâu, vững chắc trong con.

Nắng chiều sắp tắt, ánh sáng mặt trời đã lui qua phía bên kia đồi, không gian như mờ nhạt dần, con đứng lên, nhìn vào di ảnh Ôn trong tháp. Ôn hình như cũng đang nhìn con. Vẫn nét mặt nghiêm trang mà bình dị, Ôn như muốn nói với con rằng: “Con đã dứt khoát với thế gian mộng ảo chưa nào ? Cõi chân thường đang chờ đón con trong từng giây từng phút đấy, mau phải quay về”. Con rạp người xuống, kính lạy Ôn ba lạy, tiếp xúc sâu sắc với mặt đất vững chãi và yên bình. Rồi đây, thân tứ đại của con cũng sẽ gửi vào lòng đất, như lòng tháp êm đềm bấy nay đã và đang giữ yên nhục thể của Ôn trong ấy. Quan trọng là Pháp thân Ôn không tan hoại. Tinh túy của Ôn đang bàng bạc khắp nơi, khắp chốn, trong mọi người, mọi vật, có thể có cả trong con một chút gì của Ôn để lại. Con xin bái tạ Ôn.

Những bậc cấp cũ lại đón bước chân con đi xuống, rời xa dần ngôi tháp và am tranh của Ôn. Tiếng đại hồng chung từ tháp chuông chùa Tỉnh hội đang vang lên và tan loãng ra khắp khu đồi Trại Thủy, hòa theo gió mang xuống tận phố phường cho mọi người còn mãi đang xuôi ngược dưới kia. Vừa bước đi, con vừa thầm nhẩm lời một bài Thiền ca và con tự cho rằng như mình đang tụng niệm một bài kinh rút từ ý Phật :

Thân này không phải là tôi

Tôi không kẹt vào nơi thân ấy

Tôi là sự sống thênh thang

Tôi chưa bao giờ từng sinh

Mà cũng chưa bao giờ từng diệt

Này đây biển rộng trời cao

Muôn vàn tinh tú lao xao

Tất cả đều biểu hiện tôi từ nguồn linh tâm thức

Tự bao giờ tôi vẫn tự do

Tử sinh là cửa ngõ ra vào

Tử sinh là trò chơi cút bắt

Hãy cười cùng tôi

Hãy nắm tay tôi

Hãy vẫy tay chào

để rồi tức thì gặp lại

Gặp lại hôm nay

Gặp lại ngày mai

Chúng ta đang gặp nhau nơi suối nguồn

Chúng ta sẽ gặp nhau từng phút giây

trên muôn ngàn nẻo sống…

Bài hát này cũng là Tâm Kinh đấy Ôn nhỉ ? Nội dung mang ý nghĩa thân này không sinh, cũng không diệt, sự sống của ta là thênh thang. Sao ta không đến và đi cho thật tự do, như cái tự do vốn dĩ của ta đã có tự bao đời ?! Con hứa sẽ cố gắng thường xuyên ôn tụng ý nghĩa thâm sâu này, cố gắng không quên mỗi khi tiếp xúc với các tình huống chia ly, để tập an nhiên buông bỏ. Phải thực tập cho được tinh thần “Lai khứ tùy duyên”. Ngưỡng mong Ôn xót thương gia hộ cho con luôn tu tập tinh tấn, được thành tựu những điều ước mong chân chính.

Con thành kính đảnh lễ Ôn. 

Phật tử Nguyên Tịnh

Hướng về ngày Đại tường HT Thượng TRÍ HạNGHIÊM

 

 

Nếp sống của người Phật tử đúng chánh pháp ^

 

Thích Tâm Minh

 

Trong xã hội rối ren, tốt xấu lẫn lộn, rất nhiều người cho rằng Phật giáo chỉ chú trọng đến những lý tưởng cao siêu, triết lý siêu nhiên, đạo đức siêu phàm, mà không quan tâm gì đến lợi ích xã hội, do đó con người trở nên tiêu cực làm trì trệ sự tiến hóa của nhân loại.

Lại có một số người cho rằng, không cần phải quy y, thọ giới, bởi vì bản thân họ đã có khả năng thâm hiểu giáo lý thượng thừa của Phật, ngang hoặc hơn cả những vị Thượng Tọa đương thời. Và khi đã thấu hiểu giáo lý thâm áo đó thì không cần phải quy y và thọ giới, vì đó chỉ là hình tướng, tiểu thừa, chấp nê chướng ngại không giải thoát được…

Thông thường người ta chỉ đọc được một cái gì đó về Phật giáo, do không thấu hiểu được mọi khía cạnh lại vội vàng đưa ra quan niệm sai lạc và chủ quan về Phật giáo, thật là những quan niệm lệch lạc đáng buồn (do sự thiếu hiểu biết về giáo lý Phật đà). Đức Phật dạy: “Giáo pháp của ta là đến để thấy, thấy rồi mới tin, tin rồi mới thọ trì”. Giáo pháp của Phật chỉ mầu nhiệm khi người đọc vận dụng giáo pháp ấy vào trong cuộc sống hiện tại. Một người thâm hiểu giáo lý là người nhận ra rằng chẳng có pháp nào lớn, pháp nào nhỏ trong lộ trình đưa con người đến chân thiện mỹ. Tất cả đều là những phương tiện giúp con người tịnh hóa nội tâm. Do đó, giáo lý của Đức Phật không phải chỉ để dành cho hàng Tăng lữ trong tu viện, mà còn rộng truyền trong đời sống nam nữ Phật tử nói riêng và toàn thể nhân loại nói chung. Tam quy, ngũ giới là cách sống làm thăng hoa nhân cách, theo Phật giáo là đúng chánh pháp và dành cho tất cả mọi người, không nên phân biệt chủng loại.

Trong cuộc sống đầy dẫy vật chất, mọi người cho rằng vàng bạc ngọc ngà là quý, là những phương tiện duy nhất đưa đến hạnh phúc an lạc cho nhân loại. Nhưng mấy ai biết được, người giàu có đêm nằm không ngon giấc chỉ vì sợ vàng bạc không cánh mà bay, chính vì lý do đó mà họ không tin ai ngay cả con mình, người thân mình. Trong nỗi lo sợ họ đã sống đơn côi một mình, không dám giao thiệp với mọi người, thật đáng thương vì họ không nghe lời dạy của Đức Phật. “Của cải là sở hữu của năm giặc, một là lửa thiêu sạch, hai là nước cuốn trôi, ba là bị kẻ cướp lấy, bốn là con ngỗ nghịch phá sản, năm là bị tịch thu vào công quỹ”. Hơn nữa, tất cả các pháp đều phải chịu sự chi phối của lưỡi búa vô thường thời gian, nó sẽ đập phá tất cả không một chút nể vì, dù đó là Lão Tử nổi tiếng với thuốc trường sinh – một Bành Tổ với tám trăm năm tuổi thọ – hay một nguyên thủ quốc gia đầy quyền uy và cho đến người hành khất lang bạt gió sương. Đứng trên phương diện này ta có thể khẳng định rằng vàng bạc không thể đưa con người đến chỗ an lạc hạnh phúc được và mọi vật đều phải nương dựa lẫn nhau mà tồn tại, chúng là vô thường không bền chắc.

Quy y Tam Bảo, giữ gìn ngũ giới là xây dựng nền tảng đạo đức vững chắc cho con người, đồng thời là điều kiện để cải tạo xã hội, cải tạo thế giới, đưa thế giới đến hòa bình và nhân loại được sống yên vui trong thế giới đầy tình yêu thương chân thật.

Vậy người Phật tử trước phải tin, hiểu và Quy Y Tam Bảo. Quy Y Tam Bảo là gì?

Quy Y có nghĩa là nương tựa. Tam Bảo là: Phật, Pháp, Tăng.

Đức Phật là một con người, một con người có thật trên thế gian này với lòng tha thiết yêu thương nhân loại, với trái tim tràn đầy đức tính từ bi, Ngài đã thân chứng chân lý thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, đau khổ ràng buộc tại thế gian này. Do đó, chúng ta tin Phật, quy y Phật chỉ vì Ngài là người duy nhất tìm ra chân lý giải thoát và chỉ có Phật mới có đầy đủ 3 đức tính: Tự giác, Giác tha và Giác hạnh viên mãn.

Chúng ta tin Pháp, vì Giáo Pháp mà Đức Phật nói có công năng hướng dẫn mọi người sống một cuộc sống đầy thương yêu, trí tuệ, một cuộc sống vươn lên mọi cám dỗ dẫn đến khổ đau. Và duy chỉ có giáo pháp của Đức Phật mới giúp con người có đủ bản lĩnh, niềm tự tin chiến thắng mình, cởi mở những trói buộc phiền não của tham, sân, si, vượt thoát khỏi trạng thái khổ đau của sanh, già, bệnh, chết. Do đó, chúng ta cần phải Quy Y Chánh Pháp.

Tăng là đoàn thể xuất gia chân chánh là biểu hiện cho sự hòa hợp. Tăng là những người đại diện cho Tam Bảo, truyền trì mạng mạch Phật pháp tại thế gian. Giáo pháp của Phật còn được lưu truyền cho tới nay là nhờ công lao của Tăng già. Cho nên chúng ta quy y Tăng, vì Tăng là nền tảng của Tam Bảo. Chính Đức Phật dạy rằng: “Ngày nào chư Tăng còn nhóm lại Bố Tát tụng giới (nghĩa là còn giữ gìn giới luật) thì Phật pháp còn tồn tại ở thế gian”.

Một khi đã Quy Y Tam Bảo, đã trở thành người Phật tử, tất nhiên chúng ta phải vâng giữ năm giới.

Giới (Sila) Trung Quốc dịch là Thanh Lương. Giới nhà Phật không phải là điều cấm mà chính là chất liệu xây dựng ngôi nhà đạo đức Phật giáo. Do đó, giới được xây dựng trên quan niệm rộng rãi về tâm từ phổ quát, thương xót đối với tất cả mọi loài. Theo đạo đức Phật giáo, một con người muốn hoàn thiện phải có hai đức tính mà họ phải phát triển như nhau: Bi và Trí. Ở đây Bi có nghĩa là tình thương không phân biệt, sự tử tế, khoan dung và những đức tính cao quý. Nhưng nếu người ta chỉ phát triển phần này mà quên phần Tri thức (trí) thì dễ dàng trở thành “người ngu tốt bụng”, và chỉ phát triển khía cạnh tri thức mà bỏ quên mặt bi thì dễ trở thành “người trí có trái tim sắt đá” không biết cảm thương kẻ khác. Bởi thế người ta phải phát triển đồng đều cả hai khía cạnh. Đây mới là mục đích của lối sống đúng theo Phật giáo.

Giới là bước đầu tiên cho sự thành tựu Định và Tuệ, cũng là nấc thang quan trọng trong lộ trình giải thoát. Vì thế trong Phật giáo, Giới được coi như là thọ mạng của Phật pháp “Giới luật còn, Phật pháp còn”. Vậy ngũ giới là gì?

+ Thứ nhất, Không sát sanh: Người Phật tử giữ gìn giới này là tôn trọng sự sống của muôn loài, trong đó mạng sống con người được coi trọng, ta không muốn ai giết ta thì không nên hủy hoại mạng sống của người khác. Đồng thời, người Phật tử phải coi trọng mạng sống của loài hữu tình và sẵn sàng giúp chúng trong khả năng sẵn có của chính mình. Tích cực hơn, người Phật tử còn phải biết giữ gìn cây xanh, không nên chặt phá bừa bãi, để cải tạo giúp môi trường tốt cho xã hội.

+ Thứ hai, Không trộm cướp: Người Phật tử giữ gìn giới này là tôn trọng tài sản của người khác. Ta đau khổ khi tài sản của ta bị mất thì người khác cũng thế. Tích cực hơn, người Phật tử phải tham gia vào công tác từ thiện và luôn hưởng ứng các hoạt động xã hội như giúp đỡ người nghèo khó… để thực hành hạnh xả ly và diệt trừ gốc tham lam.

+ Thứ ba, Không tà dâm: Người Phật tử giữ gìn giới này là tôn trọng hạnh phúc của người khác. Ta muốn sống hạnh phúc thì người khác cũng muốn sống hạnh phúc. Do đó, người Phật tử cần phải biết chế ngự lòng dục mà sống chánh hạnh theo lời dạy của Phật.

+ Thứ tư, Không nói dối: Người Phật tử giữ giới này là giữ uy tín cho chính mình. Không nên làm phiền lòng người khác. Tức là người Phật tử không được nói dối, nói phù phiếm, nói lời hung ác, nói lời đâm thọc hai chiều gây ly gián chia rẽ, mà hãy dùng những ngôn từ thân thiện, khoan hòa, từ ái có ý nghĩa và có lợi ích. Phật tử không nên nói năng bừa bãi, nói lời cần nói đúng lúc đúng chỗ, nếu không nói điều lợi ích, tốt hơn nên giữ sự im lặng.

+ Thứ năm, không uống rượu: Người Phật tử giữ giới này để ngăn ngừa những tội lỗi do say rượu gây ra, và tăng trưởng trí tuệ. Người uống rượu thần kinh bị xung đột, không thể có sáng suốt trong sinh hoạt hằng ngày, lời nói không ai tin và nghe theo, hậu quả sẽ đưa đến những bệnh nan y.

Thông qua năm giới đã nêu trên chúng ta khẳng định rằng: Ngũ giới Phật giáo không mâu thuẫn với bất cứ pháp luật nào của thế gian và rất thích hợp cho việc cải tạo con người hoàn thiện, xây dựng một thế giới an lạc hạnh phúc hoàn toàn.

Trong xã hội ngày nay, với một nền tảng đạo đức sa sút, các tệ nạn xã hội như: trộm cắp, giết chóc lẫn nhau, cưỡng đọat tài sản, gian dối, mãi dâm và các tội lỗi do rượu chè gây ra đã được đăng rất nhiều trên báo chí. Trước tình thế này người Phật tử cần thể hiện vai trò một người con Phật hơn bao giờ hết. Ngoài việc nỗ lực hành trì ngũ giới xây dựng một nền đạo đức tự thân, Phật tử còn phải có trách nhiệm xây dựng gia đình và xã hội. Có như vậy người Phật tử mới có giá trị chân thật trong việc cải tạo một thế giới an lạc và hạnh phúc.

+ Đối với gia đình:

- Trước hết người Phật tử phải thể hiện đức hiếu kính đối với cha mẹ, biết chăm nom mền chiếu, ấm áp kịp thời để cha mẹ nghỉ ngơi, biết sắp đặt miếng ăn thức uống để vừa miệng đẹp lòng cha mẹ. Gánh vác tất cả mệt nhọc để cha mẹ thư thới vui vẻ tuổi già. Khi cha mẹ đau ốm phải ân cần hầu hạ săn sóc, rước thầy chữa trị và khuyến khích cha mẹ làm những phước thiện.

- Với con cái: thì phải biết khuyên răn nên gần gũi với bạn lành, cần mẫn học hành, dạy con biết cách làm lành tránh dữ. Khi con lớn khôn thì phải cho con tham dự việc nhà, cùng góp phần trong trong sự xây dựng hạnh phúc gia đình.

- Với vợ: thì phải tỏ lòng kính yêu, hòa thuận lúc chồng nóng giận không nên đỏ mặt cãi lầy, mà phải nghĩ cách giữ không khí hòa thuận; khi chồng đi vắng phải biết thu xếp nhà cửa cho gọn gàng, tuyệt đối không làm việc có lỗi đối với chồng.

- Với chồng: ra đi hay lúc trở về nhà phải vui vẻ niềm nở; phải tùy theo hoàn cảnh gia đình để vợ mua sắm đồ đạc, không nên đòi hỏi quá mức, trong công việc ăn uống phải giữ chừng mực để khỏi phiền lòng nấu nướng.

- Với bà con thân thích: thì phải thương yêu đùm bọc lẫn nhau, thường xuyên lui tới thăm hỏi, nhắc nhở nhau tránh dữ làm lành. Khi có người nào bị đau ốm, tai nạn tật nguyền phải hết lòng giúp đỡ họ. Và có người nào khó khăn nếu mình có khả năng nên giúp đỡ, ủng hộ tinh thần đưa họ vào con đường chơn chánh.

+ Đối với xã hội:

- Mỗi người Phật tử phải có ý thức đầy đủ trách nhiệm của mình đối với hành vi, lời nói và ý nghĩ của mình. Và bằng mọi cách để mỗi hành động, lời nói và ý nghĩ đều thiện lành có ích đối với bản thân, đối với người khác và đối với toàn xã hội.

- Mỗi người Phật tử phải có nhận thức sâu sắc rằng: gây thiệt hại cho người, cho xã hội là gây thiệt hại cho bản thân mình trước. Và giúp đỡ người khác là giúp đỡ chính mình.

- Nhờ thấu triệt lý nhân quả, người Phật tử không những y theo lời Phật dạy, thực hành Ngũ giới trong cuộc sống, làm đẹp chính mình, đồng thời khuyến khích người thân, bạn bè và mọi người sống đúng và có ý nghĩa để cùng nhau tạo dựng một xã hội văn minh, giàu đẹp.

- Với những người nghèo khó, người Phật tử không chỉ sẵn sàng giúp đỡ tùy theo khả năng của mình, mà còn biết khuyến khích mọi người cùng thực hiện để giảm bớt khó khăn trong xã hội.

- Nói tóm lại, tin và thọ Tam quy, hiểu và hành trì Ngũ giới, sống đúng theo tinh thần Phật dạy, thì đó chính là nếp sống của người Phật tử chân chánh.

Thế giới ngày nay con người luôn sống trong sợ hãi nghi ngờ, căng thẳng. Và khoa học đã sản xuất ra những thứ có năng lực phá hoại kinh hoàng. Người Phật tử cần phải thể hiện là một người con Phật sống đúng chánh pháp, đồng thời kêu gọi hòa bình, yêu chuộng hòa bình. Bằng mọi cách, người Phật tử đem giáo lý Phật Đà vào trong đời sống hàng ngày để xây dựng một xã hội, một thế giới mà ở đó con người từ bỏ mọi tranh chấp của mọi thế lực tham ác mê cuồng. Ở đó chỉ có hòa bình vắng và bặt chiến tranh. Ở đó mọi thù hằn độc ác ganh ghét, được thay thế bằng sự thương yêu rộng rãi, mọi vật nhỏ bé đều được đối xử với lòng thương yêu lân mẫn, không có sự bất công, một cuộc sống an bình hạnh phúc.

 

Cảm ơn tứ đại ^

 

Thiện Năng

 

Đất cho tôi bước chân êm mãi mãi,

Đất ôm tôi khi xuất khỏi thế gian này.

Nước cho tôi dịu mát khắp thân đây,

Nước chan hòa khắp đông tây cuộc sống.

Gió cho tôi mát êm khi trời nóng,

Gió hiu hiu nhẹ như bóng mẹ hiền.

Lửa hồng hồng đêm đông lạnh triền miên.

Lửa ấm áp lòng tôi khi giá lạnh.

……………….

Xin cảm tạ tứ đại như biển cả,

Nghìn vạn năm chung thủy vỗ bờ thôi,

Trọn cuộc đời tôi nhớ mãi khôn nguôi,

Ơn tứ đại như  biển trời dâu bể.

Đất nước gió lửa như mẹ hiền nuôi con đỏ,

Dù xa xôi hẻo lánh và tận cùng,

Dù nơi nào tứ đại vẫn thủy chung

Cuộc sống cần ở đâu cũng có Tứ Đại.

 

 

Tìm hiểu ý nghĩa Tam chuyển pháp luân thập nhị hành^

 

Thích Thánh Minh

 

Sau khi thành đạo, đức Phật liền nghĩ đến việc đem giáo lý vừa chứng đạt truyền bá cho chúng sanh. Quán sát thấy căn cơ của năm anh em Kiều Trần Như có thể khai ngộ được, đức Phật đến Vườn Nai (Lộc giả uyển) thuyết bài pháp Tứ Diệu Đế, đây là bài pháp đầu tiên. Tứ Diệu Đế là giáo lý nền tảng của Phật giáo và được xem là thiện pháp tối thắng. Tôn giả Xá Lợi Phất (Sariputta) đã từng nhận định:

 “Chư Hiền giả, ví như tất cả dấu chân của mọi loài động vật đều bị nhiếp trong dấu chân voi, vì dấu chân này là to lớn trong tất cả dấu chân về mặt to lớn. Cũng vậy, chư Hiền giả, tất cả các thiện pháp đều tập trung trong tứ Thánh đế”

(Trung Bộ I, kinh Tượng tích dụ, đại kinh trang 184)

 

Tứ Diệu Đế là giáo lý căn bản, tối quan trọng trong hệ thống giáo lý, là tinh hoa căn bản trong lời Phật dạy. Đây là pháp hành căn bản trong sự tu tập giải thoát. Để hiểu rõ hơn về ý nghĩa lý thâm sâu bài pháp Tứ Diệu Đế, chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu về ý nghĩa như thế nào được gọi là tam chuyển pháp luân thập nhị hành ?

Chuyển pháp luân: là quay bánh xe pháp, là sự chuyển động của bánh xe chân lý. Đây là lối dùng hình tượng cụ thể để diễn tả khái niệm. Bài pháp Tứ Diệu Đế đức Phật giảng thuyết lần đầu tiên để độ năm anh em Kiều Trần Như tại vườn Lộc Giả, ví như bánh xe pháp bắt đầu chuyển động. Xe chánh pháp này chở tâm chúng sanh từ bờ mê đến bến giác. Xe chánh pháp này đưa tâm trí của chúng sanh đến Niết Bàn an vui.

Tam chuyển pháp luân thập nhị hành: Tam chuyển pháp luân gồn có ba phần đó là thị chuyển, khuyến chuyển và chứng chuyển. Đây là ba lần quay bánh xe chánh pháp. Đức Phật chỉ rõ thực tướng của đời sống là khổ, nói rõ nguyên nhân dẫn đến khổ, phải dứt nguyên nhân gây khổ đó và biện pháp dứt khổ, gọi là thị chuyển. Kế tiếp khuyến tấn năm anh em Kiều Trần Như hiểu rõ nỗi đau khổ đó và khích lệ năm người bạn đồng tu phải nhận ra nguyên nhân khổ, phải dứt trừ nguyên nhân và biện pháp dứt khổ, gọi là khuyến chuyển. Sau cùng đức Phật nói tự chính bản thân Ngài đã thực hiện và hoàn toàn giác ngộ - “Dĩ thân tác chứng”, lấy kinh nghiệm nóng hổi của bản thân ra làm nền tảng bảo vệ chân lý để thuyết phục chúng sanh nổ lực hành trì theo những gì đức Phật đã làm, đây gọi là chứng chuyển. Vì mỗi đế đều có ba chuyển nên bốn đến cộng lại thành 12 hành; nên gọi là tam chuyển pháp luân thập nhị hành.

Đức Phật đã trình bày rõ ràng, cụ thể tri kiến như thật về Tứ Diệu Đế qua “ba chuyển “và “mười hai hành”.

Về diệu đế thứ nhất: Khổ đế (dukkha) có ba luận điểm ,”Đó là khổ (thị chuyển). Dukkha phải được hiểu (khuyến chuyển). Và Dukkha đã được hiểu (chứng chuyển)”.

“Chân lý của khổ đế là gì? Sanh là khổ (sanh khổ), già là khổ (lão khổ), bệnh là khổ (bệnh khổ), chết là khổ (tử khổ), xa cách khỏi người thân yêu là khổ (ái biệt ly khổ), không được những gì mình muốn là khổ (cầu bất đắc khổ)... tóm tắt đó là những loại khổ bám lấy chúng sanh”.

Đó là khổ đế, đó là linh kiến, sự tự chứng trí huệ, sự nhận biết và ánh sáng đã nảy sinh trong ta về mọi việc chưa từng nghe thấy trước đây.

Khổ đế phải được thấu suốt bằng sự hiểu biết đầy đủ cái khổ: đó là linh kiến, sự tự chứng, trí huệ sự nhận biết và ánh sáng đã nảy sinh trong ta về mọi việc chưa từng nghe thấy trước đây.

Khổ đế đã được thấu suốt bằng sự hiểu biết đầy đủ cái khổ: đó là linh kiến, sự tự chứng trí huệ, sự nhận biết và ánh sáng đã nảy sinh trong ta về mọi việc chưa từng nghe thấy trước đây”.

 (Kinh Tương Ưng Bộ, LVI, 11)

Đoạn kinh văn trên là một phương pháp giáo dục rất hay, một phương tiện thuyết pháp thiện xảo, bởi vì đức Phật đã diễn tả bằng một công thức đơn giản dễ nhớ giúp năm người bạn đồng tu nhận định và có thể thực hành. Ba luận điểm của khổ, đức Phật đã trực tiếp truyền đạt cho năm anh em Kiều Trần Như khi xưa, nhưng đồng thời là bài học vô giá hôm nay giúp chúng ta áp dụng trong cái nhìn về cuộc đời: khi nào gặp đau khổ, trước tiên chúng ta phải công nhận “có đau khổ”, kế đó: “đau khổ phải được hiểu” và cuối cùng là đau khổ đã được hiểu. Sự hiểu biết về dukkha là sự tự chứng trong Khổ đế.

Về diệu đế thứ hai: Tập đế (Sameda Dukkha) có ba luận điểm, đó là “có căn nguyên của đau khổ, là sự ràng buộc của dục vọng (thị chuyển). Dục vọng phải được buông bỏ (khuyến chuyển) . Và Dục vọng đã được buông bỏ (chứng chuyển)”û.

 “Tập đế là gì? là căn nguyên của đau khổ. Nó là sự khao khát đã thay đổi chúng sanh, đã được kèm theo bởi những hứng thú, ái dục, đam mê về những điều này thứ kia: trong những ngôn từ khác, dục ái, hữu ái, hủy ái. Nhưng sự khao khát nảy sinh và phát triển dựa trên những gì? Nó nảy sinh và phát triển nơi nào có sự vừa lòng và yêu thích.

Diệu đế dạy về căn nguyên của đau khổ: đó là linh kiến, sự tự chứng, trí huệ, chưa từng nghe thấy trước đây.

Tập đế phải được thấu suốt bằng sự dứt bỏ cái căn nguyên của đau khổ...

Tập đế này đã được thấu suốt bằng sự dứt bỏ cái căn nguyên của đau khổ: đó là linh kiến, sự tự chứng, trí huệ, chưa từng nghe thấy trước đây”.

(Kinh Tương Ưng Bộ, LVI, 11)

Đức Phật dạy căn nguyên của đau khổ là sự ràng buộc của ba loại dục vọng: dục ái(kama tanha), hữu ái (Bahava tanha) và huỷ ái (vibhava tanha).

Dục ái: sự tham ái về nhục dục, đây là loại dục vọng ham muốn có những khoái lạc về giác quan qua thể xác hoặc những giác quan khác làm cho ta luôn có khuynh hướng để kích thích và thỏa mãn các giác quan của mình. Ví dụ: khi đói gặp thức ăn ngon và ăn thử những gì thật khoái khẩu sẽ thấy: một sự thèm muốn thêm nữa nảy sinh. Đó là Kama tanha. Khuynh hướng con người là tìm kiếm và ham thích những sắc đẹp, những âm thanh hay, những mùi hương thơm lạ, những vị ngọt ngon và những xúc chạm êm ái và tránh xa các sắc, thinh, hương, vị và xúc trái ngược. Lòng tham ái càng mạnh thì chấp thủ càng mạnh. Đây chính là nghiệp lực dẫn đến tái sanh, là cội nguồn của đau khổ.

Hữu ái: là sự tham khát liên hệ đến tư tưởng, là bản năng của sinh tồn là khát vọng được tồn tại. Do muốn tồn tại nên sinh sợ hãi sự chuyển sinh hay hoại diệt. Cứ nhìn một người đang phấn đấu với cái chết thì sẽ thấy bản năng sinh tồn ấy. Đây gọi là Bahava tanha. Hễ còn khát vọng tồn tại là còn khát ái, là còn sinh tử, còn chịu cảnh vô thường và đau khổ.

Hủy ái còn gọi là vô hữu ái : Đây là những tham ái liên hệ đến tư tưởng đoạn kiến, những người nhàm chán cuộc sống muốn tự tử để kết liễu cuộc đời, hoặc tham ái nơi những cảnh giới vô hình. Đây gọi là vibhana tanha. Chính sự khát vọng mù quáng này là một thứ lửa nung nấu khổ đau.

Dục ái, hữu ái và hủy ái là ba khía cạnh khác nhau của dục vọng. Tư tưởng ham hố quá mạnh thúc đẩy ta vào con đường hành tác mù quáng theo bản năng, thiếu trí huệ soi đường. Đây là những thiên kiến dẫn đến sự tạo nghiệp là cội nguồn của đau khổ. Nên lưu ý rằng, thông thường chúng ta đo lường đau khổ bằng cảm thọ, nhưng cảm thọ không phải là đau khổ. Sự giữ lấy dục vọng mới chính là đau khổ.

Khi đã hiểu được bản chất của ba loại dục vọng này là sự trói buộc. Đây chính là động cơ, là nguyên nhân đẩy mạnh nghiệp thức phải luân hồi sanh tử trong tứ sanh lục đạo. Chúng ta phải hướng đến bước tu tập tiếp theo đó là sự tự chứng thứ nhì trong tập đế: “Dục vọng phải được cởi bỏ” và sự tự chứng thứ ba “Dục vọng đã được buông bỏ”. Như vậy chúng ta không cần phải tiếp tục chịu đau khổ. Chúng ta không phải là những nạn nhân tuyệt vọng của dục vọng. Chúng ta có thể cho phép dục vọng tồn tại và bắt đầu buông xả nó. Dục vọng có tác dụng làm ta mê mờ chỉ khi chúng ta còn nắm bắt nó, tin nó và phản ứng lại nó. Chúng ta có thể rút ra đuợc một bài học kinh nghiệm để giải quyết những vấn đề thường xảy ra trong cuộc sống hằng ngày: khi đang cảm thấy phiền não và bi quan, ngay lúc chúng ta từ chối nuông chìu cái cảm giác đó. Qua sự hiểu biết và thực hành chúng ta mới có được sự tự chứng thứ ba “Dục vọng đã được buông xả” vì buông xả ở đây không phải buông xả một cách lý thuyết mà đây là tất cả những gì về thực hành.

Về diệu đế thứ ba: Diệt đế (Nirodha Dukkha) có ba luận điểm, đó là “Có sự đoạn trừ của đau khổ, của dukkha (thị chuyển). Sự đoạn trừ của dukkha phải được nhận thức (khuyến chuyển). Và sự đoạn trừ của dukkha đã được nhận thức (chứng chuyển)

“Diệt đế là gì? Là sự diệt khổ, là sự tẩy sạch và sự diệt trừ dục vọng; sự bác bỏ, buông xả, từ bỏ và không thừa nhận nó. Nhưng trên căn bản nào dục vọng này được bỏ mặc và làm cho triệt tiêu? Nó có thể được bỏ mặc và làm cho triệt tiêu ngay nơi nào có sự vừa lòng và yêu thích.

Diệt đế dạy về sự diệt khổ : đó là linh kiến, sự tự chứng, trí tuệ, sự nhận biết, và ánh sáng đã nảy sinh trong ta về mọi việc chưa từng nghe thấy trước đây.

Diệt đế này phải được thấu suốt bằng sự nhận thức được sự diệt khổ...

Diệt đế này đã được thấu suốt bằng sự nhận thức được sự diệt khổ: đó là linh kiến, sự tự chứng, trí tuệ, sự nhận biết, và ánh sáng đã nảy sinh trong ta về mọi việc chưa từng nghe thấy trước đây”.

(KinhTương Ưng bộ,LVI,11)

Toàn bộ mục đích của giáo lý Phật giáo là để phát huy trí tuệ nhằm thoát ra khỏi những vọng tưởng. Diệt (Nirodha) là một chữ khác của Diệt độ hoặc Tịch Diệt (Nibbana) là sự chấm dứt nguồn gốc của mê lầm đau khổ, đó là buông bỏ các dục vọng, dập tắt được các phiền não mê muội là có được sự an lạc.

Chúng ta có thể cảm nhận được sự an lạc qua sự hành trì tu tập của chính bản thân khi dục vọng chấm dứt trong tâm. Khi chúng ta ở trong trạng thái nhìn sự vật và thật sự hiểu biết điều đó như nó đang là, chúng ta sẽ nhận thức được diệt đế (nirodha dukkha), trong đó không có bản ngã mà vẫn có sự linh hoạt và sự minh bạch. Đó là ý nghĩa thật sự của hoan lạc là ý thức siêu việt bình an nhất.

Khi đức Phật giảng xong bài pháp tứ Diệu đế thì ông Kiều Trần Như đạt được thanh tịnh pháp nhãn (tâm trí lọc sạch không còn vướng bụi nhơ), đức Phật đã gọi ông ta là A Nhã Kiều Trần Như. A Nhã có nghĩa là hiểu biết thâm sâu, như vậy A Nhã Kiều Trần Như có nghĩa là : “Kiều Trần Như - người am tường”. Kiều Trần Như đã biết cái gì? Trí huệ ngài như thế nào mà đức Phật đã tán dương lúc bài pháp chấm dứt? Vì ngài nhận thức rõ rằng: “Tất cả những gì là đối tượng của sinh cũng là đối tượng của diệt”(cái gì sanh tức phải bị diệt).

Đức Phật nhấn mạnh rằng:”Chân đế phải đươc nhận thức ở đây ngay từ bây giờ”. Vì vậy không phải chờ đợi đến lúc chết để khám phá ra chân lý mà mỗi một chúng ta phải nhận thức được điều đó ngay bây giờ.

Về diệu đế thứ tư : Đạo đế (Nirodha Gamadukkha) như những chân đế khác, có ba luận điểm, đó là “có bát chánh đạo, đường dẫn ra khỏi đau khổ (thị chuyển). Đường đi này phải được phát triển (khuyến chuyển) và đường đi này đã được phát triển một cách toàn diện (chứng chuyển)”.

“Đạo đế là gì? Là con đường dẫn tới sự diệt khổ, là Bát Chánh Đạo, đó là: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định.

Đạo đế dạy về con đường dẫn tới sự diệt khổ: đó là linh kiến, sự tự chứng, trí tuệ, sự nhận biết, và ánh sáng đã nảy sinh trong ta về mọi việc chưa từng nghe thấy trước đây...

Đạo đế này phải được thông suốt bằng sự trau dồi trí tuệ về Bát Chánh Đạo...

Đạo đế này đã được thông suốt bằng sự trau dồi trí tuệ về Bát Chánh Đạo: đó là linh kiến, sự tự chứng, trí tuệ, sự nhận biết, và ánh sáng đã nảy sinh trong ta về mọi việc chưa từng nghe thấy trước đây”.

(KinhTương Ưng bộ,LVI,11)

Đạo đế còn được gọi là Thánh đạo (Ariya Magga), hay chánh đạo. Đây là tám phương pháp, tám nguyên lý chân chánh nhất để tu tập giải thoát. Hầu hết các kinh điều chứng minh rằng Bát Thánh là con đường đưa đến sự đoạn diệt khổ đau. Tất cả các giáo lý tu tập điều được xây dựng trên nền tảng căn bản của Giới, Định và Huệ. Bát Thánh đạo được khai triển từ tam vô lậu học. Chánh kiến (samma ditthi) và Chánh tư duy (samma sankappa) là thuộc về Huệ. Chánh ngữ (samma vaca), Chánh nghiệp (samma kammanta) và Chánh mạng (samma ajiva) là thuộc về Giới. Chánh tinh tấn (samma vayama), Chánh niệm (samma sati) và Chánh định (samma samadhi) thuộc về Định.

Bát Thánh Đạo là một pháp hành, là con đường để phát triển thánh trí chúng ta phải biết và làm theo, làm từ cạn đến sâu, phải thực hành từng phần từng phần mà tiến lên ngày càng đầy đủ hơn, toàn diện hơn để đời sống đươc an lạc hạnh phúc.

Qua phương pháp Tam chuyển pháp luân thập nhị hành, đức Phật đã triển khai thật đầy đủ về ý nghĩa tuyệt diệu của của pháp Tứ Diệu Đế. Tam chuyển là thấy rõ đau khổ và chỉ cho chúng sanh thấy rõ khổ đau; hiểu rõ nỗi khổ đau và khích lệ chúng sanh nhận rõ nỗi khổ đau; và sau cùng là đã chứng ngộ dứt trừ hết khổ đau. Mỗi đế đều có ba chuyển còn được gọi là ba luận điểm rất rõ ràng và cụ thể làm lay tỉnh và chuyển đổi tâm hồn của chúng sanh từ mê lầm ra giác ngộ, từ đau khổ trở thành hạnh phúc an vui. Tam chuyển pháp luân thập nhị hành là phương pháp giáo dục cao độ qua khẩu giáo và thân giáo của một bậc giác ngộ. Vì vậy nó mang tính thuyết phục cao đã lay tỉnh tâm hồn năm người bạn đồng tu (năm anh em Kiều Trần Như) và rất nhiều chúng sanh trực nhập vào chánh pháp. Điều này đã minh chứng rằng Phật Giáo không ru ngủ con người trong những tín điều thần quyền mà luôn đánh thức con người trực nhận sự thật của con người về chân lý của cuộc đời qua chân lý “hiểu khổ và diệt khổ”. Sở dĩ con người khổ đau là do vô minh vọng chấp, do chạy theo lòng tham dục, luyến ái của tư duy hữu ngã. Đức Phật đã chuyển pháp luân là đem giáo lý Tứ Diệu Đế soi sáng cuộc đời và mọi nguời trên bước đường tìm cầu hạnh phúc chân thật viên mãn. Giáo lý Tứ Diệu Đế qua lăng kính “ba chuyển” và “mười hai hành” đã trở thành bài pháp rất sống động hùng hồn làm sáng tỏ lại giá trị của con người, chỉ cho con người thấy được kho tàng tri thức cũng như khả năng để tự nổ lực kiến tạo lại đời mình bằng mọi hiểu biết đúng đắng nhất xuất phát từ ngay giữa lòng cuộc sống này. Chính vì thế, bài pháp Tứ Diệu Đế đã trở thành một giáo lý tối quan trọng, là giáo lý nền tảng của các bộ phái Phật giáo, không một nhà nghiên cứu Phật học nào có thể phủ nhận được điều này. Vì vậy chúng ta phải quyết tâm nghiên cứu Tứ Diệu Đế để thực hành có kết quả.

Là sứ giả Như Lai, chúng ta noi gương hoằng pháp của đức Phật, sống và hành trì tu học và truyền bá chánh pháp theo tôn chỉ “chuyển mê khai ngộ ly khổ đắc lạc” để mang lại sự an lạc cho bản thân và sự bình an hạnh phúc đến với mọi nhà mọi nguời.

 

 

 

Pháp dược^

 

.Thiện Năng

 

Vô thiền bất tứ vô tứ bất thiền!

Gươm trí tuệ chém lìa cây phiền não,

Lòng từ bi mỹ phẩm đẹp tuyệt vời,

Bác ái tình trãi rộng khắp muôn nơi,

Chữ hiếu thảo đẹp hơn ngàn mỹ ngữ.

Bát chánh đạo là đường đi đẹp nhất,

Tứ chánh cần chiếc cầu giữa hai tâm,

Mưa vị tha cho trái ngọt nẩy mầm.

Gieo hỷ xả để tình thương lan tỏa.

Ghe lục độ chở đầy bi trí dũng,

Thuyền ba la to rộng tựa mây trời,

Đạo đức tròn đời mãi mãi ra khơi,

Hạnh nhẫn nhục quý hơn vàng mẹ để.

Lòng cao thượng hơn kỳ quan vũ trụ,

Bố thí cúng dường sẽ đặng giàu sang, 

 

Sống viễn ly thanh tịnh cả thân tâm,

Từ giới đức quỷ thần thêm kính trọng.

Duy thức học khuyên trần gian ráng học,

Vô sở cầu hạnh là hạnh phải nên làm,

Nhớ báo ân bao nghĩa trọng thâm sâu.

Gương tùy hỷ đẹp như trăng mười sáu.

Lời ái ngữ là ngọc ngà châu báu,

Hạnh khiêm cung đẹp vô bến vô bờ,

Tránh sát sinh chẳng sinh tật không ngờ,

Không vọng ngữ là khuôn vàng thước ngọc.

Tham si giận là ba mũi tên độc,

Khuyên mấy ai ráng học những lời vàng,

Sống làm người cảnh khổ ở trần gian,

Và pháp dược là thuốc thần tuyệt mỹ.

 

 

Đường lầy, Một tách trà ^

 

 (sưu tầm).

Diệu Vân

ĐƯỜNG LẦY

Một làn nọ Tazan và Ekido cùng thong dong bước xuống một con đường lầy. Cơn mưa nặng hạt vẫn còn rơi.

Đến khúc đường quẹo, hai người gặp một cô gái xinh xắn trong chiếc áo kimono và chiếc khăn quàng cổ bằng lụa đang đứng bên lề đường vì không thể băng qua ngã tư đường lầy được.

Lập tức Tazan bảo: “Đi này, cô bé”, Tazan đưa tay nhấc bổng cô gái lên và đưa qua quãng đường lầy.

Ekido từ đó không buồn nói một tiếng nào cho đến khi cả hai dừng lại trong một ngôi đền. Rồi không còn chịu được nữa. Ekido lên tiếng nói với Tazan:

“Chúng ta là những nhà sư không được phép gần đàn bà, nhất là với những người đàn bà trẻ đẹp. Nguy hiểm lắm. Sao anh lại làm vậy?”

Tazan mỉm cười:

“Tôi đã bỏ nàng chỗ đó rồi. Anh còn mang nàng theo đấy sao?”

 

MỘT TÁCH TRÀ

Nan-in, một Thiền sư Nhật sống vào thời Minh Trị (1868-1912), tiếp một giáo sư đại học đến hỏi về Thiền.

Nan-in mời trà. Ông đã rót đầy tách của khách nhưng vẫn tiếp tục rót thêm.

Vị giáo sư ngồi nhìn nước trong tách tràn ra cho đến khi không kìm mình được nữa: “Đầy quá rồi. Xin đừng rót nữa”.

“Giống như cái tách này” Nan-in nói: “Ông cũng đầy ắp những quan niệm, những tư tưởng của ông, làm sao tôi có thể bày tỏ Thiền cho ông được, trừ phi ông cạn cái tách của ông trước?”.

-Diệu Vân sưu tầm-

 

Ngẫm…! ^

 

Huyền Chi Hựu Huyền

Chiều ngã bóng

nhạt nhòa cười nắng quái

Bình minh chi

để trả giá hôn hoàng

Rồi dẫu vậy

sao khuya trời vẫn mọc

Mảnh trăng thu

lơ lững một cung huyền.

 

Như một thông điệp ^

 

(sưu tầm).

 

Nguyên Tịnh

Trích đoạn sưu tầm từ Internet 

Bác sĩ Quách Huệ Trân là một bác sĩ chuyên khoa ung thư, bà rất nhiệt tình và tận tâm trong công việc. Lòng từ bi của bà không những đã đem lại sự khích lệ lớn lao cho các bệnh nhân mà còn cảnh giác cho những người khỏe mạnh, làm cho nhiều người phát tâm học Phật. Bà cũng đang mắc bệnh ung thư trầm trọng nhưng bà vẫn rán chịu đau và đem lòng tín nguyện niệm Phật vô cùng kiên cố của mình để nói pháp. Khi tuyên bố bị bệnh, bà nói: “Bây giờ vừa đúng lúc để tôi nhất tâm niệm Phật và chuẩn bị vãng sanh”. Sau đó bà đã từ chức và lên núi xuất gia.

Trong cuộc sống trầm luân khổ ải này, chúng ta tham luyến tất cả những gì “của mình”, không chịu buông xả và ai cũng đầu tắt mặt tối, bận rộn suốt cuộc đời, đến phút cuối cùng nhìn lại chỉ là một con số không to tướng, rồi âu sầu than thở.

Phải làm tốt cuộc đời của mình như thế nào đây? Làm sao để vượt ra khỏi sự trói buộc của luân hồi sanh tử? Hy vọng rằng những hình ảnh trong bài viết dưới đây của Bác sĩ Quách Huệ Trân sẽ giúp chúng ta nhìn thấy được con người của chính mình, đem lại nhiều tư duy và chất liệu có thể giúp chúng ta tìm ra phương hướng đi về quê hương đích thực.

 “…. Thưa các bạn,

 

Khi lên giảng đài này, tôi cảm thấy rất bối rối và xấu hổ khi nhìn thấy phía dưới phần đông đều là những người trong hàng tiền bối, đáng bậc thầy hay cha mẹ của mình. Trước hết xin giải thích tại sao một người hậu học dở ẹt như tôi cũng lên giảng đài nói chuyện với quý vị. Đây là do ảnh hưởng của những tình trạng các bệnh nhân tại bệnh viện nơi tôi làm việc. Tôi tả lại những hình ảnh ấy và kể lại các câu chuyện của các bệnh nhân này với ý muốn nói lên lý do: họ đã giúp tôi hiểu được nhiều vấn đề. Chúng ta thường phải trả một giá rất đắc mới có thể hiểu được một câu nói trong Kinh, nhiều khi chỉ một câu Kinh thật đơn giản. Đôi khi thấy cảnh đời để liên hệ đến ý nghĩa của lời Kinh cũng thật cần thiết. Ở đây tôi xin kể một vài câu chuyện thật mà tôi đã gặp khi làm việc ở bệnh viện. Trong những câu chuyện này, mỗi bệnh nhân đều là một vị thầy của tôi, mỗi người đều cho tôi nhìn ra một đạo lý mà đức Phật đã nói trong kinh điển, họ đã làm cho tôi hết lòng tin tưởng lời Phật dạy và tin đức Phật là “người nói lời chân thật, không bao giờ nói dối” .

(Bệnh nhân này là một phụ nữ mới trên ba mươi tuổi, bị ung thư ruột già, khi cô đến bệnh viện cứ khóc hoài không thôi. Lúc đó tôi mới làm bác sĩ tập sự thuộc Khoa Ung thư, xem bệnh lý mới biết cô đã mổ qua hai lần nhưng ung thư vẫn tái phát, đúng là vô phương cứu chữa. Cô khóc hoài đến nỗi nói không ra tiếng nữa. Hôm đó, tôi hết ca trực, liền đến phòng bệnh để thăm cô và cũng nhân tiện giới thiệu sơ lược một ít Phật pháp cho cô biết. Không ngờ cô nghe xong xúc động, mở mắt thật to, nói: “Tại sao bấy lâu nay không ai nói cho tôi biết về những chuyện này?! Tại sao tôi đã sống ba mươi mấy năm đầy phiền não và đến lúc sắp lìa đời tôi mới được nghe Phật pháp?!”. Tuy chỉ có mấy câu nói thật ngắn nhưng hình như đã xoi thủng tim tôi. Sau đó cô bật khóc và làm tôi cũng khóc theo, khóc một cách rất bức rức. Mỗi ngày, khi làm xong việc tôi thường ở lại bệnh viện để nói chuyện và an ủi bệnh nhân, ngoại trừ chiều thứ tư phải đi nghe giảng kinh. Cô thấy cứ mỗi thứ tư tôi đều rất vui khi chuẩn bị đi nghe giảng nên nói: “Tôi cũng hy vọng có thể đi theo nghe giảng nhưng rất tiếc không có cơ hội”. Tôi đáp: “Trong tương lai cô cũng sẽ có dịp đi được”. Cuối cùng, cô cũng đã được đi nghe kinh, lúc đến giảng đường Hoa Nghiêm ở thư viện Từ Quang, tôi thấy cô ngồi ở hàng ghế trước. Nhưng đến nửa buổi giảng, cô vừa ôm bụng vừa khóc và đi về, bệnh tình của cô biến chứng nặng nên đau quá, cô không thể tiếp tục ngồi nghe kinh. Lúc đó tôi hiểu thêm thế nào là bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ.

Vì ảnh hưởng của cô nên từ hôm đó trở đi, tôi không ngại sự hiểu biết còn thô thiển của mình, luôn luôn cố gắng tích cực hơn và muốn mau mau giới thiệu cho mọi người những điều trọng yếu trong Phật pháp (mà mình hiểu được), nói cho mọi người biết những niềm hạnh phúc mà Phật pháp có thể đem lại cho con người. Hạnh phúc này tiền tài không mua được, mà kẻ trộm thì không thể lấy mất. Trong bất cứ trường hợp và cảnh giới nào và không kể người ta dùng quan niệm “phước” hay “họa” trong thế gian để đo lường những cảm nhận hạnh phúc này, trong nội tâm của chúng ta đều luôn luôn đầy đủ sự an tịnh, hạnh phúc và tươi sáng.

Chắc ai cũng biết rằng “thế gian vô thường, quốc độ mong manh, năm ấm vô ngã, sanh diệt đổi dời, hư ngụy không chủ tể”. Tuy biết và thuộc lòng như phần đông chúng ta không tin như vậy. Tuy Phật nói thế gian là khổ, là vô thường, nhưng bạn lại cảm thấy nhân gian rất vui sướng. Mỗi sáng thức dậy, ăn bánh, uống cà-phê…, ngước mắt nhìn lên, ôi chao, trời trong mây trắng, đời sao mà sung sướng thế! Nếu được vậy thì cũng thường thôi, nhưng những lúc như vậy trôi qua rất nhanh. Giả sử một lúc nào đó, chuyện khó khăn thử thách thình lình xảy ra, khi đó bạn sẽ không còn thấy trời trong mây trắng, không thấy trăm hoa đua nở, trong lòng của bạn sẽ không còn cảm thấy vui sướng nữa.

(Có những bệnh nhân hỏi tôi: “Bác sĩ năm nay bao nhiêu tuổi?”. Tôi trả lời: “Ba mươi hai tuổi”. Lại hỏi: “Bác sĩ đã lập gia đình chưa? Tôi làm mai cho”. Tôi liền hỏi họ: “Cuộc sống của bà rất sung sướng phải không ?”. Thật kỳ lạ là không có người nào đáp là “phải” hết. Cho đến một hôm tôi gặp một bệnh nhân bị ung thư cổ tử cung, mỗi lần đến khám bệnh bà ta đều trang điểm thật là đẹp. Khám bệnh xong, bà lại muốn làm mai cho tôi với một người cháu ở bệnh viện Quốc Thái. Tôi hỏi: “Bà thật là sung sướng phải không ?”. Bà nói: Phải, chồng tôi đối xử với tôi rất tốt, con cái có hiếu, nhà cửa sung túc”. Nhưng qua một thời gian ngắn sau đó, báo đăng bà ta đã nhảy xuống sông tự tử sau khi bỏ nhà ra đi 5 ngày. Tôi thắc mắc “Bà đó rất sung sướng, rất hạnh phúc, sao lại tự tử?”. Thưa quý vị, chúng ta thử nghĩ xem tại sao lúc đó tình thương yêu của người chồng không thay đổi được tâm niệm muốn tự tử của bà? Tại sao sự hiếu thảo của con cái cũng không giữ bà lại được? Tại sao tiền bạc, của cải sung túc không mua được sự an ổn của tinh thần? Chồng con có thương yêu bà đến mấy cũng không thay thế được sự đau đớn trên thân thể của bà. Một người đàn bà xinh đẹp như thế tại sao lại phải trốn khỏi nhà, đi lang thang rồi cuối cùng phải nhảy vào dòng nước đen tối? Có lẽ vì trước đó bà cảm thấy cuộc đời quá đẹp, chưa nếm qua mùi vị của sự khổ, chưa biết “thế gian là vô thường” cho nên trong tâm không có chuẩn bị tâm lý, gặp chuyện thử thách trong đời chịu không nổi, không có khả năng đề kháng, chịu khổ không được nên mới tự tử. Ngày nay người ta tự tử nhiều quá. Tôi làm việc trong khoa Ung thư nếu có ngày nào không gặp bệnh nhân muốn tự tử thì ngày đó phải được kể là ngày rất tốt, rất hiếm. Mỗi ngày, tôi thường nghe câu “Tôi nên chết sớm đi thì tốt hơn”. Không phải họ cố ý không muốn sống, nhưng vì bị đau đớn quá nên không biết cách nào để chịu đựng nữa, tự tử là một cách trốn chạy nỗi khổ đau trong tuyệt vọng. Tôi hối hận là trước đó không giới thiệu Phật pháp để giúp người đàn bà kia thay đổi quan niệm và hướng về sự quang minh của đức Phật A-Di-Đà.

(Lại còn có người cầu sanh không được, cầu chết cũng không xong, nằm rên siết trên giường bệnh. Một bệnh nhâ nguyên phần phía dưới bụng bị ung thư lở loét ra, Bác sĩ phải mổ và làm một cái hậu môn tạm trên bụng, nhưng không cách nào trị lành được. Chất bài tiết trong ruột rỉ thẳng ra. Phòng của người này ở tầng 3 mà dưới tầng 2 đã nghe thấy mùi hôi. Khi người con săn sóc cho mẹ phải dùng khẩu trang để bịt mũi và miệng lại. Mỗi ngày bà đều muốn tự tử nhưng chưa gặp cơ hội. Một hôm, nhân con bà đi mua thức ăn sáng, bà rán hết sức mình ngồi dậy, leo qua cửa sổ từ lầu 3 nhảy xuống. Vừa lúc đó người con về đến, nhìn thấy mau mau chạy tới đỡ bà. Kết cục bà nhảy xuống không chết mà còn bị thương. Vốn đã quá đau đớn vì bệnh, giờ lại còn bị thương nữa, mỗi ngày sự đau đớn tăng thêm không thể nào diễn tả được. Mạng chưa hết thì dù tự tử cũng không chết. Nhưng nếu có chết thì vĩnh viễn trầm luân trong lục đạo luân hồi, sự khổ não vô tận lại tái diễn.

Nhà thơ Rabindranath Tagore có nói “Lúc sống đẹp như hoa mùa Hạ, lúc chết đẹp như trăng mùa thu”. Bạn muốn sống đẹp như hoa mùa Hạ ló lẽ không khó lắm, nhưng chết đẹp như trăng mùa thu thì phải ra sức chuẩn bị công phu ngay mới được.

(Có một ông thường ngày rất thích ăn trầu, hút thuốc, uống rượu, sau này bị ung thư trong miệng. Khi đến bệnh viện khám thì chỗ bị ung thư đã lan rộng ra, lở loét đến quai hàm và gò má lủng lỗ. Chỗ lỡ cứ chảy nước vàng ra hoài, khi ông ăn uống thì thức ăn đều lọt ra ngoài. Cho dù những giọt rượu thật ngon trước đó, nay uống vào cũng rất đau, ăn thứ gì cũng như nuốt viên sắt nóng. Thân thể cường tráng của ông dần dần tiều tụy vì không ăn uống được, chúng tôi phải đút một ống dẫn đồ ăn từ mũi vô đến bao tử. Vợ ông rất hối hận vì trước kia hai vợ chồng cứ cãi lộn nhau hoài. Có lần bà hăm ông: “Ông chửi tôi hoài, có ngày ông sẽ bị ung thư miệng”. Nào ngờ ông bị ung thư thật. Người khổ nhất là bà vợ, ngoài việc đi khắp nơi tìm kiếm bác sĩ giỏi, chăm sóc vết thương cho chồng, bà còn lo làm ra tiền để trang trải… Thật là khổ không thể nào nói hết. Bây giờ bà hối hận đã dùng lời nói ác độc để trù ông, bây giờ bà mới hiểu rằng phải cẩn thận từng lời nói của mình, không nói lời thô ác mắng nhiếc. Giá mà lúc ổng chửi, bà cứ đi lạy Phật để chúc phúc cho ông ta thì chắc chắn là kết quả sẽ tốt hơn.

(Có một bác cũng bị ung thư miệng, lan ra gò má, phải mổ để cắt bỏ tế bào ung thư ở gò má, rồi phải cắt da ngực để đắp lại vết thương gò má, đòi hỏi ở bệnh nhân rất nhiều sức chịu đựng. Ban đêm, tôi thấy đôi mắt bác mở thao láo nhìn lên trần nhà, thật khuya mà bác vẫn chưa ngủ được. Bác đang đợi để mổ lần thứ nhì, nhưng liệu bác có đủ sức để chịu đựng cho đến lần mổ cuối ?!

(Một người khác bị ung thư hàm miệng, phải cắt bỏ xương hàm dưới, cũng phải cắt da trên ngực để đắp chỗ mổ và ông trở thành người không có môi. Ông không thể ăn cơm được, chỉ uống nước súp, và khi ăn phải nằm chứ ngồi thì thức ăn đổ ra.

Lúc chăm sóc những người bị ung thư miệng, tôi thường nghĩ: mình bị dộp một tí trong miệng đã thấy rất đau khi ăn những thức có vị mặn, vị chua… huống chi vết thương lở loét cả hàm, khi uống nước lạnh cũng phát run. Nhìn những người này tôi thấy mình còn có phúc hơn, may mắn hơn họ nhiều. Khi chúng ta mở miệng nói lời không tao nhã, câu nói ấy có mấy giây mà làm người nghe đau lòng suốt cả đời, và khi quả báo hiện ra thì cũng đớn đau khủng khiếp, như những người đang bị ung thư hàm này. Chúng ta cũng phải nên cẩn thận với những thức ăn uống vốn là độc tố mà gây khoái khẩu, những chất gây sung sướng chỉ một giây phút ngắn ngủi mà thời gian chịu đau trên giường bệnh thì dài như hàng trăm năm.

(Có một bệnh nhân vào bệnh viện để trị bệnh xương, phía trên chân có gắn một cây bằng kim loại xuyên qua xương và qua luôn cả bắp thịt phía bên kia. Phía dưới chân cũng xỏ thêm một cây như vậy. Bạn có thể tưởng tượng khuôn mặt và tiếng thét kêu đau của người này lúc đút cây vào xương. Nếu là bạn thì sao nhỉ? Bạn có thấy những chỗ bán chim nướng trên hè phố không? Người ta xâu 5, 10 con chim vào một xâu treo lủng lẳng trước quầy hàng. Sự đau khổ nào mình gây ra cho những chúng sanh khác, một ngày nào đó cũng có thể xảy đến trên thân thể của mình. Hãy nghĩ đến những cơn đau so với niềm vui hạnh phúc an lành mà đừng làm việc ác.

(Có một cô mới 27 tuổi đã bị ung thư vú. Cô rất khổ tâm, hai bàn tay cô lúc nào cũng lạnh ngắt. Dưới giường, cô để những con cá còn sống ở trong thau nước để khi nấu ngay, cá còn tươi ăn cho bổ. Khi tôi đến thăm bệnh, thấy những con cá này đang vùng vẫy. Tôi nói với cô: “Có người đang kêu cứu ở dưới giường cô”. Cô mở mắt thật lớn tỏ vẻ ngạc nhiên. Tôi hỏi: “Lúc cô biết mình mắc bệnh này, cô có hy vọng sẽ có người cứu được cô hết bệnh, phải không ?”. Cô gật đầu, tôi nói tiếp: “Con cá dưới giường biết là nó sắp bị vô nồi cháo nóng, suy nghĩ của nó cũng giống như suy nghĩ của cô bây giờ. Cô có chịu cứu con cá này không? Nó đang cầu cứu cô đó. Cô hãy xem”. Mắt cô đỏ lên, nước mắt ứa ra. Tôi nói thêm: “Cô hãy cứu nó, lúc cô gặp khó khăn hay tai nạn sẽ có người khác cứu cô”. Cô vui mừng chịu đem cá đi phóng sanh. Nhiều khi tôi nói với bệnh nhân: “Bán cho tôi thau cá sống này được không ?”. Bệnh nhân đáp: “Nếu bác sĩ thích ăn thì tôi xin biếu, không bán”. Tôi bảo: “Tôi ăn chay, không ăn cá, nhưng tôi mua để đem đi phóng sanh, hồi hướng công đức cho bạn, hy vọng bạn cũng giống như con cá này, được giải thoát, khôi phục lại sức khỏe, mau lành bệnh”.

(Một hôm đi nghe giảng kinh về, trên đường có một quán bán thịt nai vừa mới khai trương. Tôi đi ngang, nhìn thấy có 3 con nai đang đứng khép nép trong rọ sắt. Ánh mắt của ba con nai trông rất quen thuộc, nó cũng buồn bã, tuyệt vọng như những bệnh nhân đang nằm trong bệnh viện. Hình như nó cũng muốn nói: “Tôi sắp chết phải không? Xin mau mau cứu tôi với !” Tội nghiệp cho ba con nai, hãy thả ra cho chúng về rừng đi, đừng giết chúng nó.

(Có một người bị ung thư tử cung, mỗi lần gặp tôi đều khóc. Trước đó bà đã trị gần hết rồi, nếu có được chút ít trí tuệ thì bà cũng có thể sinh sống vui vẻ. Người ta có thể trị hết bệnh ung thư, nhưng sự đau khổ trong tâm nếu không dùng trí tuệ và nghe Phật pháp thì trừ không hết. Bà đã được trị liệu bằng nhiều loại thuốc, bằng phóng xạ, bằng giải phẫu, chỉ thiếu một chuyện là không thỉnh đức Phật mổ tâm cho bà. Sự giải phẫu trong tâm mới là hiệu quả nhất, mới bứng tận gốc rễ của phiền não, để bà đừng ôm cứng cây cổ thụ phiền não mỗi ngày mà cứ tưởng là cây phiền não quấn chặt lấy bà. 

(Có một bà lão lúc vào bệnh viện băng kín vải trên mắt. Tâm tôi nhói đau khi mở băng mắt của bà ra. Bà có một gương mặt rất hiền hậu, tròng mắt bà đã bị móc ra, vì bị ung thư nên phải làm như vậy. Chúng ta có khi nào nghĩ lại cái lúc mình dùng đũa để gắp tròng mắt của con cá trên bàn ăn? Trong một trường hợp nào đó, có thể ta cũng sẽ bị mất đi đôi mắt, vậy mà lúc còn đủ hai mắt thì không thấy quý, cứ nhìn đông nhìn tây, nhìn đủ cảnh để tâm sanh ra bao phiền muộn. Ta nên nhìn ánh mắt từ bi của đức Phật, nhìn về phía có vô lượng hào quang. Vậy mà ta thường dùng cặp mắt quý báu của mình để nhìn rác rến ở chung quanh, đem rác rến của người khác để vào tâm khảm của mình. Lâu ngày thì cả nội tâm giống như một cái thùng rác hôi thối nên phải xa cách với chúng Bồ-tát trong thanh tịnh đại hải. Xin hãy mở rộng con mắt của nội tâm nhân lúc mình còn nhìn thấy được, hãy nhìn cái tốt đẹp của người khác, học tập ưu điểm của người, hãy quan sát “cám mục trừng thanh tứ đại hải” của đức Phật A Di Đà, hãy nhìn phong cảnh cực kỳ xinh đẹp của thế giới Cực lạc và tấm lòng rộng như biển của chư Bồ-tát.

(Có một người bị ung thư thực quản, hô hấp khó khăn, phải đút một ống từ mũi vào phổi để giúp cho sự hô hấp và một ống để đưa thức ăn vào bao tử. Mỗi lần ho là như xé cả ruột gan, toàn thân bà run rẩy vì đau đớn. Chồng bà nhìn thấy cảnh tượng đau lòng như vậy không chịu nổi nên chạy ra hành lang đứng khóc. Đôi lúc tôi đi chợ nhìn thấy những con gà bị treo trên quầy thịt cũng tội nghiệp như vậy. Trên cổ của con gà nào cũng có khoét một lỗ để treo, rất ít người thương hại cho sự đau đớn của chúng nó. Tương tự như vậy, có một người bị ung thư hàm dưới và lan đến cuống họng, ông ta không thể nuốt được, hô hấp cũng khó khăn. Bác sĩ cho khoét một lỗ ở bụng để đặt ống hút dẫn thức ăn vào dạ dày và khoét một lỗ ở cổ để giúp sự hô hấp. (Chúng ta được ăn uống, hít thở một cách thoải mái không cần khoét cổ, khoét bụng, thật đáng quý biết dường nào). Trước khi ông mất vài ngày, mỗi ngày đều bị chảy máu một ít, máu từ miệng và mũi chảy ra, từ chỗ đặt ống dẫn chảy ra, không thể cầm được. Y tá phải đứng một bên cầm cái thau nhỏ để hứng máu từ thân ông chảy ra, rồi phải không ngừng tiếp máu lại cho ông, nhưng cũng không bù lại được lượng máu trong người ông tuôn ra. Thuốc men gì cũng hết công hiệu, thân thể ông cứ chảy máu như vậy và hành hạ ông suốt cả ngày đêm. Đôi mắt của ông đỏ ngầu và sưng lên trông rất dễ sợ. Ông muốn nhắm mắt một cách êm đềm để ra đi, thật không phải dễ.

(Có một người làm nghề bán thịt heo, ông bị ung thư phổi một thời gian thì qua đời. Vợ con ông ta kể lại, trong những lúc hôn mê, miệng ông cứ la hét “Mau mau đem những cái đầu heo treo ở chỗ khác đi”. Ông cứ kêu la như vậy suốt mấy ngày đêm, mọi người trong nhà sợ đến dựng tóc gáy. Cảnh tượng lúc ông chết rất là dễ sợ, tiếng la hét của ông giống như heo kêu khi bị chọc tiết. Từ đó người nhà của ông biết được nhân quả báo ứng của sự sát sanh.

(Có một em trai 16 tuổi học rất giỏi, em bị ung thư não. Em đã phải mổ não 4 lần mà 3 lần mổ được tiến hành trong cùng một năm. Em vào bệnh viện lần này để trị liệu phóng xạ, xương não của em bị cắt một khoảng cho nên cái đầu bị lõm vô một bên. May mà tánh mạng còn duy trì và có cơ hội được nghe Phật pháp. Em muốn có một tượng Phật nhỏ để em lễ lạy. Tôi cảm động đến chảy nước mắt nên lập tức đi thỉnh một tượng Phật A Di Đà cho em. Vì nửa thân người gần như không cử động được nên em đi cà nhắc nhưng tinh thần thì rất hăng hái trong việc lạy Phật. Nhìn cảnh tượng như vậy, có người cảm động nói: “Tứ chi tôi còn khỏe mạnh mà từ trước đến nay không bao giờ có ý muốn lạy Phật, nhìn thấy em chí thành như vậy, phấn đấu hết sức lực yếu ớt của mình để lạy Phật, tôi rất xấu hổ”. Khi người ta còn khỏe mạnh, đi đứng cử động được thì cứ nghĩ đó là điều tự nhiên, không biết quý trọng. Thời gian thân thể khỏe mạnh không thể kéo dài hoài được, không biết lúc nào thì bộ não bị mất đi. Ngay hôm nay ta hãy dùng nó để nghĩ đến hào quang và lòng từ bi của đức Phật.

(Một đêm tôi trực ở phòng cấp cứu, nửa đêm có một người bị nghẽn động mạch cơ tim, đã ngừng hô hấp và hôn mê. Mặt và lưỡi đã tíùm ngắt, tim đã bị hư hoại trầm trọng. Theo kinh nghiệm của Bác sĩ chủ nhiệm khoa thì bệnh trạng nhẹ hơn người này còn không cứu được, huống chi tình trạng nặng như vầy, nên nói cho gia đình “chuẩn bị tinh thần”. Tôi cứ theo lệ thường vừa niệm Phật vừa lo cấp cứu bệnh nhân. Dùng đến nhiều thứ thuốc rồi mà không thể nào đo huyết áp của ông được, ông vẫn hôn mê và không thể tự mình hô hấp. Vợ của ông đau lòng nói với tôi: “Người ta nói ông trời thương xót và giúp đỡ người hiền lương, nhưng sao ông trời không thương tôi? Xin bác sĩ tìm mọi cách để cứu chồng tôi, tôi không dám quên ơn”. Tôi khuyên bà: “Lúc người gặp tai nạn lớn, phải phát nguyện niệm Phật thì hy vọng có thể vượt qua”. Bà đồng ý, tôi đưa cho bà và mấy người con mỗi người một xâu chuỗi và nói: “Đêm nay quý vị có nóng lòng chờ đợi trong phòng cấp cứu thì cũng chẳng ích lợi gì, không bằng đem cái tâm bồn chồn lo lắng của mình để lắng xuống mà niệm một vạn danh hiệu Phật A Di Đà, cầu Phật gia hộ, Phật lực không thể nghĩ bàn. Chúng tôi rán hết sức để cứu ông, còn quý vị thì vì ông mà rán chú tâm niệm Phật, nếu thọ mạng của ông hết thì ông có thể vãng sanh Cực lạc”. Đêm đó ba người bác sĩ chúng tôi làm việc cật lực từ 7 giờ tối đến 3 giờ khuya, vì không có người điều khiển máy thì ông không thể tự mình hô hấp được. Khoảng 4-5 giờ sáng thì một điều kỳø lạ xảy ra: áp suất máu của ông từ từ tăng lên, ông cũng từ từ tỉnh lại. Tôi lập tức đi thông báo cho người nhà của ông. Tôi rất cảm động khi mở cửa nhìn thấy cả nhà ngồi xếp thành hàng đang chí tâm niệm Phật. Có một người con của ông viết trên một trang giấy: “Thưa ba, con rất muốn ba mở đôi mắt hiền từ ra”. Sau khi ông tỉnh, lại phải tiếp tục dùng máy để trợ giúp ông hô hấp thêm ba ngày nữa. Lúc đó ông bắt đầu niệm Phật. Cuối cùng ông cũng được lành bệnh và tự mình bước đi ra khỏi bệnh viện. Những bác sĩ xem qua điện tâm đồ và kết quả thử máu, thấy sức khỏe của ông từ từ bình phục đều cảm thấy không thể tưởng tượng nổi. 

Còn nhiều nữa, thật nhiều những hình ảnh đau thương của cuộc sống để chứng minh những lời Phật dạy đều là sự thật. Tất cả những hình ảnh đau buồn này đã làm cho Thái tử Tất Đạt Đa ngày xưa suy nghĩ đến nhức đầu, muốn tìm cách cứu giúp chúng sanh xa lìa biển khổ sanh tử. Trải qua một quá trình tu trì gian khổ, dưới bóng cây Bồ-đề Ngài đã giác ngộ được tất cả đạo lý của nhân sinh vũ trụ. Ngài đã cho chúng ta biết nhân sinh có những thứ khổ đau như thế nào, nguyên nhân của khổ là gì, chỉ bày phương pháp thoát khổ, và sau khi thoát khổ thì sẽ ra sao. Tôi nghĩ đây là cuộc diễn giảng về y học hoàn hảo nhất trong lịch sử nhân loại. Đức Phật là một người thầy thuốc vĩ đại nhất. Tôi nhớ trong kinh đức Phật đã nhiều phen dặn dò ngài Địa Tạng Bồ-tát là “Đừng để chúng sanh đọa vào ác đạo, cho dù chỉ là một ngày một đêm. Nhất định phải nói rõ cho chúng sanh biết những khổ não của nhân quả báo ứng”. 

Như tia sáng lóe lên trong đêm dài tăm tối, giác ngộ là một con đường vô cùng xinh đẹp, con đường đi về cố hương, trở về với Phật tánh thanh tịnh vốn có sẵn trong mỗi người. Đức Phật Thích Ca luôn kêu gọi chúng ta mau mau lên đường đi về quê hương. Ngài muốn chúng ta tháo mở những phiền não đang trói buộc chúng ta để đi đến sự an lạc viên mãn. Nếu chúng ta tin theo và tu tập thì nhất quyết sẽ không lãng phí đời này.

Kể từ ngày sinh ra đời này, chúng ta ai nấy đều từ từ tiến dần đến cái chết: Mọi người đều có một sự việc luôn luôn dũng mãnh tinh tiến, đó là từ lúc sinh ra đời thì liền từ từ tiến dần đến trạm cuối của cuộc đời. Cũng như: Nếu nói bạn trưởng thành thì bạn rất vui, nhưng nếu nói là bạn đang đi về phần mộ thì bạn rất buồn; thật ra hai chuyện này đều là một.


 

---o0o---

Trình bày: Jacinta & Anna

Cập nhật: 1-2-2005

 

Webmaster:quangduc@tpg.com.au

Trở về Trang Tập San Phật Học

Đầu trang

 

Biên tập nội dung: Tỳ kheo Thích Nguyên Tạng
Xin gởi bài mới và ý kiến đóng góp đến ban biên tập qua địa chỉ:
quangduc@tpg.com.au