Bhutan có gì lạ?
Thích Như Điển
Phật Lịch
2.545 - 2001
Trung Tâm
Văn Hóa Xã Hội Phật Giáo Việt Nam
tại Cộng
Hòa Liên Bang Đức Xuất Bản
◄♣►
Lời vào sách
Hôm
nay là ngày 20 tháng 6 năm 2001 nhằm ngày 29 tháng 4 nhuần năm Tân Tỵ,
tôi chắp bút bắt đầu viết quyển sách thứ 32 nầy trong mùa An Cư Kiết Hạ
của năm nay. Hôm nay cũng là ngày rất đẹp trời. Vì mấy tháng nay, mặc
dầu đã vào hạ; nhưng bầu trời vẫn vần vũ bóng mây, như dọa nạt thế nhân
là ánh sáng của thái dương sẽ không bao giờ chan hòa đến quả địa cầu nầy
nữa.
Về thời tiết tôi
hay để ý, cho nên mỗi lần làm cái gì cũng hay xem bầu trời có quang đãng
không; hoặc giả hôm ấy là ngày gì, không phải để lấy hên mà chính là để
cho lòng mình thanh thản khi làm một việc gì; nhất là những việc trọng
đại. Nhớ khi còn ở Nhựt, mỗi ngày khi thức dậy, chào hỏi nhau ở trong
chùa không phải bằng lời chào buổi sáng trước, hay mạnh giỏi không? mà
vị Sư trụ trì thường hay mở đầu bằng câu: Kyo wa ii tenki desu ne! (Hôm
nay trời đẹp quá nhỉ!) tự nhiên thấy lòng mình có liên hệ với thiên
nhiên. Dĩ nhiên mỗi dân tộc có một cách riêng của mình khi diễn tả về
cái đói khổ, cái hạnh phúc, cái tủi nhục v.v... nhưng tựu chung cũng chỉ
là con người với cảnh giới chung quanh vậy.
Ngày còn trẻ ai
cũng nghĩ rằng mình còn có nhiều thì giờ để làm mọi chuyện; nên đã lãng
phí thời giờ một cách vô tích sự. Chờ cho đến lớn khôn và già đi, lúc ấy
mới bắt đầu; thì ôi thôi! đủ loại ràng buộc lại kéo đến. Nào bịnh đau
đầu, đau lưng, nhức mỏi. Bị trói buộc vào giờ giấc của công sở, của gia
đình, của thê nhi và đủ cả mọi thứ trên đời nầy. Bởi vậy cho nên Thiền
Tông thường hay dạy cho con người là chỉ nên nắm bắt hiện tại mà thôi.
Vả lại hiện tại cũng chẳng có hình tướng. Do vậy khi quan sát và thực
hiện việc làm hằng ngày của mình, chính là Thiền vậy.
Rồi một hôm nào đó
chúng ta bỗng nhiên nhận được một tin buồn từ bác sĩ cho hay rằng ông
hay bà không còn hy vọng gì nữa. Vì lẽ bệnh ung thư đã đến thời kỳ thứ
ba rồi. Lúc ấy chúng ta sẽ làm gì? Chúng ta có còn kế hoạch cho 5 năm
hay 10 năm nữa chăng? Hay lúc ấy chúng ta lại than thân trách phận? Hoặc
giả chúng ta lo chia gia tài cho con cháu? Hay chúng ta lo thực hiện
những chuyến ngao du sơn thủy? Hay cố gắng tận hưởng những gì ở đời mà
ta chưa được hưởng? Ôi thôi! biết bao nhiêu là câu hỏi được đặt ra;
nhưng ai là kẻ trả lời được đây, không phải là mình sao? hay có một nhân
vật nào có quyền năng biến hóa để giúp ta thành công những trách nhiệm
và bổn phận ấy?
Không! nhất thiết
là không! không ai có thể thay thế cho mình cả; ngoại trừ chính mình
phải chịu trách nhiệm với mình. Vì con người là bản thể của vạn hữu mà!
Do vậy không nên chờ đợi một điều gì mà hãy bắt tay vào việc ngay, hãy
hạ thủ công phu ngay từ bây giờ cho việc học, việc tu niệm, việc lễ bái,
việc nhà, việc chùa, việc chợ, việc nghĩa ân, việc phải, việc không
v.v... vì lẽ không có việc nào chờ ta cả. Do vậy chúng ta chẳng có thể
chờ ai. Vì thời gian vô tình lắm, không thương tiếc một ai cả. Dầu cho
đó là đấng Phạm Thiên hay Chuyển Luân Thánh Vương. Hãy trân quý thời
gian và hãy làm những gì có thể làm được.
Vì ý niệm được sự
vô thường như thế; cho nên tôi đã sắp đặt việc của chính mình. Kể từ năm
1974 đến nay (2001) có nghĩa là 27 năm ở tại Nhật và Đức tôi đã hoàn
thành được 31 tác phẩm; kể luôn tác phẩm nầy nữa là tác phẩm thứ 32.
Không kể thời gian từ năm 1972 tôi đã bắt đầu ở Nhật; nếu tính chung lại
gần 30 năm ở ngoại quốc, tôi đã hoàn thành 32 tác phẩm. Như vậy cứ trung
bình mỗi năm một tác phẩm.
Văn tôi không hay,
chữ tôi không tốt, ý tôi không thâm trầm; nhưng tôi chủ trương rằng nghĩ
sao viết vậy. Đó là cách cấu tạo tư duy của mình; nên tôi đã cố gắng.
Dẫu cho những tác phẩm ấy không có giá trị nghệ thuật hay giá trị văn
chương đi nữa, thì những gì tôi đã làm cũng đánh dấu được một chặng
đường 30 năm, có nghĩa là hơn một thế hệ, tôi đã miệt mài với sách đèn,
với công phu kinh kệ vậy.
Tác phẩm thứ 30 có
nhan đề là Kinh Đại Bi. Kinh nầy tôi đã dịch từ Đại Chánh Tân Tu Đại
Tạng Kinh bằng chữ Hán sang tiếng Việt và Thầy Hạnh Tấn đang dịch sang
tiếng Đức để ấn hành trong năm 2001 nầy.
Tác phẩm thứ 31 có
tên là Phật Thuyết Bồ Tát Hành Phương Tiện Cảnh Giới Thần Thông Biến Hóa
Kinh. Kinh nầy cũng được dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt và sẽ ấn hành
nay mai.
Riêng tác phẩm thứ
32 nầy tôi viết về chuyến đi Bhutan từ ngày 21 tháng 4 đến ngày 3 tháng
5 năm 2001 để giới thiệu cho quý độc giả một quê hương Phật Giáo tại Á
Châu mà rất nhiều người chưa biết đến.
Sau khi đi Ấn Độ
về lần đầu, năm 1989, tôi đã viết quyển Lòng Từ Đức Phật để giới thiệu
về 4 Thánh Địa nơi Đức Phật Đản Sanh, Thành Đạo, Thuyết pháp lần đầu
tiên và thị tịch Niết Bàn. Ai xem xong rồi cũng sợ ít dám đi Ấn. Vì lúc
ấy phương tiện di chuyển và chỗ ăn ở còn tương đối giới hạn; nhưng sau
nầy có nhiều Thầy, Cô tổ chức những chuyến hành hương có quy củ hơn và
được nhiều người ưa thích.
Tiếp theo tôi viết
quyển Giữa Chốn Cung Vàng để giới thiệu về Phật Giáo Tích Lan. Đặc biệt
về nơi thờ răng Phật tại Kandy, cố đô của Tích Lan, và địa danh thứ 2 là
Anurad-hapuda nơi Shangamita, Công chúa và cũng là Ni Cô con của vua A
Dục, đã mang một nhánh của cây Bồ Đề từ Ấn Độ sang Tích Lan trồng vào
thế kỷ thứ 3 trước Tây lịch. Cây ấy vẫn còn sống cho đến ngày hôm nay.
Những năm sau đó
tôi có dịp đi Trung Quốc 2 lần. Sau khi đi lần thứ nhất về viết quyển
Theo Dấu Chân Xưa và lần thứ 2 viết quyển Vọng Cố Nhân Lầu. Cả hai quyển
nầy giới thiệu về Tứ Đại Danh Sơn của Trung Quốc về những nơi thị hiện
của Bồ Tát Quan Thế Âm, Bồ Tát Địa Tạng, Bồ Tát Văn Thù và Bồ Tát Phổ
Hiền cũng như những cảnh trí khác của Trung Quốc.
Đến năm nay 2001
tôi đã có dịp hành hương sang Bhutan, nên cố gắng viết tác phẩm nầy để
giới thiệu với quý độc giả xa gần về một xứ khó đến mà cũng rất khó về.
Tôi chưa biết rằng tác phẩm nầy lấy nhan đề là gì? có lẽ nên lấy tên:
BHUTAN, Khó Đến Khó Về. Hoặc giả: Nụ cười Hoàng Hậu hay là gì gì nữa...
thì có lẽ cuối cùng sẽ chọn được một cái tựa.
Như thế là 5 tác
phẩm giới thiệu về 4 xứ đặc biệt. Ngoài ra tác phẩm Đường Không Biên
Giới của chúng tôi cũng đã giới thiệu tổng quát về các châu lục như: Âu,
Á, Mỹ, Úc, Phi.
Có lần Hạnh Hảo,
người đệ tử Đức của tôi, bảo rằng: Sư phụ ở Đức đã 24 năm rồi mà chưa có
một tác phẩm nào viết về nước Đức và người Đức cả. Trong khi đó Sư phụ
đi Bhutan chỉ có một tuần mà đã có một tác phẩm rồi.
Tôi trả lời kiểu
nói gượng với Hạnh Hảo là: Đã ở Đức rồi thì còn viết về nước Đức làm gì
nữa. Nhưng thật ra trả lời như thế cho có trả lời mà thôi. Lẽ ra tôi
phải có một đại tác phẩm về nước Đức mới đúng; nhưng những lúc ở, ăn,
làm việc, tu học ở xứ nầy lâu rồi, mình chẳng để ý đến nữa. Phải chăng
đây là cái lỗi của tôi, hay mọi người cũng thế? Phần tôi, tôi nghĩ rằng
tất cả 32 tác phẩm nầy hay trong tương lai còn nhiều tác phẩm khác tôi
sẽ viết nữa là đại tác phẩm tôi viết về nước Đức vậy. Vì nơi nầy đã cưu
mang và đùm bọc tôi trong suốt mấy chục năm qua. Cảm ơn nước Đức và cảm
ơn nhân dân Đức rất nhiều.
Viết sách không
khó. Vì đọc nhiều sách là có thể viết sách được. Cái khó ở đây là làm
sao khi người khác đọc sách của mình có thâu thập được phần nào những lý
giải và những chỗ thẳm sâu mà tác giả muốn gởi đến người đọc hay không?
ấy mới là vấn đề chính. Ngoài ra cũng còn những phương diện khác nữa,
chứ không phải chỉ đơn thuần có vậy. Nhưng riêng tôi cũng như người xưa
đã nói: "Tôi thích bán những gì người ta thích mua, chứ tôi không bán
những gì mà tôi thích bán". Cũng như thế ấy, tôi sẽ cho những gì người
khác thích nhận chứ không phải tôi sẽ cho những gì mà tôi thích cho. Tôi
xem mọi người, chúng sanh là đối tượng; chứ tuyệt nhiên tôi không là đối
tượng của chúng sanh. Vì tôi chẳng là gì cả. Một Như Điển nầy cũng chỉ
là cỏ đá mà thôi. Ở tôi muốn thể hiện lòng từ bi; nên cố gắng xem mọi
người và mọi loài có giá trị cao cả hơn mình nhiều. Có như thế tôi mới
là hóa thân của đất và nước được.
Rồi đây tứ đại nầy
của tôi cũng sẽ ra tro bụi. Có thể là ngày mai, hay 5, 10 năm nữa. Mà
cũng có thể lâu hơn 20 năm sau; nhưng sau đó là gì cơ? Là cỏ xanh, là
bia trắng. Còn ai nhắc đến mình. Hay mình cũng chỉ là một chúng sanh âm
thầm như bao chúng sanh khác? Có thể là như thế. Vì tương lai nhân loại
ở trên hành tinh nầy không dừng lại con số 6 tỷ người như trong hiện
tại, mà là 8 hay 10 hoặc 20 tỷ v.v... rồi thế giới nầy sẽ chìm sâu vào
khổ đau cũng như ngấm sâu vào những tị hiềm cũng như chia rẽ. Lúc ấy cõi
Nam Diêm Phù Đề nầy nếu có những chúng sanh nào đó xuất hiện, nó cũng
chỉ là và cũng sẽ là một giọt nước li ti trong muôn ngàn giọt nước khác
mà thôi. Thật ra ta chẳng là gì cả.
Phật ngày xưa đã
thị hiện làm nhiều thân khác nhau. Có lúc phải làm hùm beo, sư tử. Có
khi làm chim muông, thú dữ; nhưng tâm lúc nào cũng từ bi. Như một vị Bồ
Tát muốn cứu khổ cho đời. Còn chúng ta ngày nay có nhiều người mang thân
lành đầy đủ; nhưng làm những việc thiếu lòng từ. Do đó khi chết chắc khó
sanh lại vào đường lành. Do vậy phải làm một cái gì đó, không phải cho
có tính cách cao thượng, mà hãy vì người hơn là vì mình, thì kết quả lại
khác hẳn đi.
Thế giới ngày nay
người ta chủ trương là kinh tế hóa toàn cầu. Mới nghe qua thì rất hay.
Vì nhờ phương diện kinh tế phát triển mà con người có nhiều phương tiện
hơn. Điều ấy không sai; nhưng chưa đúng hoàn toàn. Vì có biết bao nhiêu
người nghèo càng nghèo hơn chỉ vì sự phát triển kinh tế của một số nước
lớn trên thế giới. Mới nghe qua thì vô lý. Nhưng lẽ công bằng của tạo
hóa là người nầy được thì kẻ khác phải thua. Người nầy còn, kẻ khác phải
mất. Do vậy mà Vua Bhutan trong hiện tại không chủ trương như thế, mà
ông ta nói rằng: "Sự tăng trưởng kinh tế của nước tôi có nghĩa là dân
tôi mỗi ngày làm được một việc thiện. Vì việc thiện càng nhiều thì đời
sống người dân sẽ có hạnh phúc. Hạnh phúc đó chính là một sự tăng trưởng
kinh tế; chứ không phải kinh tế hiểu theo nghĩa là tiền bạc". Đúng là
một lời vàng. Có lẽ trên thế giới nầy ít có vị nguyên thủ của quốc gia
nào có được một tâm hồn và một nghĩa cử cao đẹp như thế ấy.
Một hôm tôi ngồi
nghe một vị Đại Sư Tây Tạng giảng về Phật Pháp cho những người Đức nghe
tại Chánh điện chùa Viên Giác, bằng tiếng Anh, về tình yêu và lòng từ
bi. Ông ta cũng đã giải thích rất nhiều về tự ngã, cố chấp và cá nhân
chủ nghĩa và sau khi phân tích, ông ta nói như thế nầy: if you love him
(her) as he (she) is then... có nghĩa là nếu anh (chị) yêu cô (anh) ta
như anh (cô) ta là... thì... Câu nói rất đơn giản nhưng rất vi diệu. Vì
lâu nay tất cả mọi thứ tình, chính mình muốn tình ấy phải thuộc về mình;
nếu không lệ thuộc, sẽ sinh ra ganh tị, đố kỵ, nhỏ nhoi, hẹp hòi, ích kỷ
v.v... mà nếu đã thuộc về mình thì thuộc về cố chấp, ích kỷ; chứ không
còn là tình yêu hay tình thương nữa. Do vậy nếu muốn yêu hay thương thì
hãy thương như ông (cô) ta là... Có nghĩa là họ sao thì phải thương như
vậy. Chứ đừng bắt buộc cái thương ấy thuộc về mình. Vì mình thật vô lý,
mình chẳng là cái gì cả.
Thế mà trong cuộc
sống nầy chúng ta đã gây ra không biết bao nhiêu sự khổ đau cho nhau
cũng chỉ vì sự chấp ngã mà thôi. Sự chấp trước nầy do thức biến hiện mà
thành. Nặng nề nhất là A Lại Da Thức cũng còn gọi là tàng thức. Thức nầy
có 3 công năng chính chứa giữ là: hay chứa những sự kiện mà tâm mình cho
là hữu lý và cũng hay bị chứa những phân biệt bỉ thử. Rồi điều thứ ba
quan trọng hơn có nghĩa là chỉ chứa đựng những gì thuộc về ngã chấp của
mình mà thôi. Từ đó mới sinh ra sơn hà đại địa, bỉ thử hơn thua...
Do vậy tôi tập
quán như thị như trong Kinh Pháp Hoa phẩm Phương Tiện thứ 2 có dạy. Có
như thế, như vậy, như là, để mà sống, mà chiêm nghiệm với cuộc đời. Cũng
đừng nên bắt nó phải là, nhất là nó phải thuộc về mình, quả là điều phi
lý. Vì cái tôi nầy nó chẳng là gì cả.
Năm nay trong mùa
An Cư Kiết Hạ nầy Chúng thường trú tại chùa Viên Giác là 24 vị. Thỉnh
thoảng cũng có những vị khách Tăng từ nhiều nơi trên thế giới đến viếng
thăm và mỗi lần như thế, tôi có cung thỉnh quý vị ấy giảng pháp cho giới
xuất gia cũng như tại gia vào những giờ nhất định trong ngày. Năm nay
thì có nhiều Thầy đảm đương thế cho tôi, như Đại Đức Thích Đồng Văn, mới
vừa xong Tiến Sĩ Phật Học tại Ấn Độ, tôi đã bảo lãnh sang Đức và hiện
phụ trách mỗi tuần 2 lần giảng cho chúng Sa Di và Sa Di Ni. Thầy Hạnh
Tấn, Phó Trụ Trì Chùa Viên Giác là Phó Tiến Sĩ, cũng đang hướng dẫn mỗi
tuần 2 lần cho Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni cũng như toàn chùa. Riêng tôi mỗi
tuần chỉ còn lại một lần vào ngày thứ hai về Đại Trí Độ Luận cho tất cả
chúng xuất gia. Mỗi lần như thế, đây cũng là cơ hội để gặp gỡ Tăng Ni
trong chùa để có việc gì trọng đại thì cũng đem ra thảo luận để thực
hiện chung.
Không khí sinh
hoạt trong chùa rất hòa hài yên vui. Tuy mỗi ngày có lạy kinh Đại Bát
Niết Bàn, mỗi chữ mỗi lạy. Cho đến nay đã lạy 430 trang của quyển một
rồi. Tuy có hơi mệt sau 300 lạy mỗi đêm; nhưng mọi người chắc chắn ai
cũng có một giấc ngủ an lành. Có nhiều Chú thưa với tôi rằng: Con không
còn thì giờ gì cả. Tôi bảo rằng như thế là tốt. Vì Phật và chư Tổ cũng
bảo rằng: Người tu nên luôn luôn bận rộn như thế để cho những tạp niệm
đừng xen vào.
Trong chùa có thêm
độ 10 đến 15 người làm công quả hằng ngày. Như vậy mỗi ngày tại chùa
Viên Giác có độ 40 người phải chu toàn cho mọi sự. Đó là chưa kể đến
khóa Tu Gieo Duyên từ ngày 1 đến 14 tháng 7 mỗi năm, có độ 50 Tăng Ni và
100 Phật Tử về tham dự. Rồi thì lễ lộc; hoặc Bát Quan Trai giới cuối
tuần. Chùa Viên Giác vẫn luôn luôn bận rộn như thế. Nhưng trong cái bận
rộn ấy ai cũng có được một niềm vui. Vì mình có cơ hội phục vụ cho người
khác. Đó cũng là một chút ý nghĩa trong việc hành Bồ Tát hạnh vậy.
Tuy thời gian lại
vô tình, thời gian lặng lẽ trôi; nhưng với tôi tất cả đều có ý nghĩa.
Tất cả với tôi là những ân nghĩa nghìn trùng. Vì có bao nhiêu người phải
hy sinh cho mình để mình được rảnh rỗi và ngay cả thời gian và không
gian ở xứ Đức nầy đã cho tôi một khoảng trống để có thể chen vào những
tư tưởng của mình để gởi đến quý độc giả khắp nơi về tác phẩm thứ 32
nầy.
Mong rằng quý vị
sẽ giữ lại ý và quên đi lời.
Tác giả:
Thích Như Điển
----
♣----
Mục Lục ►
Chương I
►Chương
II
Chương III
►Chương
IV
►Chương
V
►Chương
VI
Chương VII
►Chương
VIII
►Chương
IX
----
♣----
Trình bày: Anna
Cập nhật: 1/6/2005