...... ... |
. |
Phật
Giáo
Khắp
Thế
Giới
Thích
Nguyên Tạng
Melbourne, Úc Châu 2001
---o0o---
Phật
Giáo
tại
Thái
Lan
Thái
Lan
(Thailand),
tên
cũ
gọi
là
Siam
(Xiêm-la),
một
quốc
gia
nằm
trong
vùng
Đông
Nam
châu
Á.
Phía
Bắc
và
Tây
giáp
với
Miến
Điện,
Đông
Bắc
giáp
với
Lào,
Nam
giáp
với
Mã
Lai,
và
vịnh
Siam
giáp
với
Campuchia.
Thủ
đô
Bangkok,
diện
tích:
514.000
km2,
dân
số
60
triệu
(thống
kê
năm
1999),
mật
độ
dân
cư:
108,4
người/km2.
Ngôn
ngữ
chính
là
Thái
ngữ,
nhưng
tiếng
Anh
và
tiếng
Hoa
(Tiều
châu)
cũng
rất
thông
dụng.
Nguyên
thủ
quốc
gia
hiện
nay
là
Vua
Bhumibol
Adulyadej.
Sau
khi
nền
quân
chủ
chuyên
chế
kết
thúc
vào
năm
1932,
đất
nước
Thái
Lan
đã
lật
sang
một
trang
mới.
Là
một
quốc
gia
mà
Phật
giáo
được
xem
quốc
giáo
và
là
một
nước
có
nhiều
nguồn
tài
nguyên
thiên
nhiên,
nhưng
chưa
bao
giờ
biến
thành
một
nước
thuộc
địa
của
các
đế
quốc
châu
Âu
như
các
nước
láng
giềng
khác,
Thái
Lan
đã
có
một
nền
công
nghiệp
phát
triển
vào
cuối
những
năm
80
nhờ
những
nguồn
đầu
tư
từ
nước
ngoài.
Thu
nhập
bình
quân
đầu
người
hiện
nay
ở
Thái
Lan
là
trên
dưới
2000
đô
la.
Phật
giáo
là
quốc
giáo
của
Thái
Lan
(những
tôn
giáo
nhỏ
khác
là
Ky
Tô
giáo,
Hồi
giáo
và
Ấn
giáo).
Thái
Lan
được
biết
đến
như
"vùng
đất
tự
do",
"quê
hương
của
nụ
cười",
"đất
nước
của
những
chiếc
áo
cà
sa".
Tên
gọi
cuối
cùng
này
đã
mô
tả
một
cách
sâu
sắc
về
một
tôn
giáo
lớn
mà
dân
tộc
Thái
đang
tôn
thờ.
Lịch
sử
Thái
Lan
được
chia
thành
4
thời
kỳ
qua
các
triều
đại:
Sukhothai,
Ayutthaya,
Thon
Buri
và
Rattanakosin
(Bangkok).
Thời
kỳ
đầu
của
triều
đại
Sukhothai
(1237-1456),
Phật
giáo
(PG)
đã
được
xem
là
quốc
giáo
của
dân
tộc
Thái.
Hiện
tại,
tổng
số
95%
dân
chúng
được
ghi
nhận
là
tín
đồ
PG,
hầu
hết
là
theo
truyền
thống
Theravada.
Theo
sự
thống
kê
gần
đây
(1998)
cho
thấy,
có
trên
30.000
ngôi
Chùa
ở
75
tỉnh
thành
của
Thái
Lan.
Con
số
tăng
sĩ
Thái
Lan
không
có
con
số
nhất
định
mà
tùy
thuộc
vào
mùa
mỗi
năm.
Con
số
cao
nhất
được
ghi
nhận
là
350.000
tăng
sĩ
hiện
diện
trong
mùa
nhằm
vào
mùa
kiết
đông
an
cư
của
chư
tăng
Thái,
từ
tháng
7
đến
tháng
9
mỗi
năm.
Ngoài
những
vị
đã
chính
thức
được
truyền
Cụ
Túc
giới
(Upasamapada),
số
còn
lại
là
những
tăng
sinh
tập
sự
hoặc
tu
gieo
duyên,
tuổi
từ
6
cho
đến
19,
con
số
này
đông
không
thể
thống
kê
được.
Nguồn
gốc
truyền
nhập
Phật
giáo
vào
Thái
Lan.
Nhiều
nguồn
tư
liệu
cho
rằng
Phật
giáo
được
truyền
vào
Thái
Lan
vào
đầu
thế
kỷ
thứ
3
trước
Tây
Lịch
(khoảng
năm
241
tr
TL)
theo
sau
cuộc
truyền
bá
Chánh
pháp
quy
mô
của
nhà
vua
Phật
tử
Asoka
(A
Dục)
đến
Tích
Lan
và
Miến
Điện.
PG
Thái
Lan
(PGTL)
về
sau
còn
tiếp
nhận
thêm
nhiều
nhà
truyền
bá
đến
từ
Miến
Điện
vào
năm
1044
và
các
pháp
sư
đến
từ
Tích
Lan
vào
năm
1155.
Hầu
hết
là
theo
truyền
thống
PG
Theravada.
Tuy
vậy,
PG
chỉ
thực
sự
đặt
lại
nền
móng,
phát
triển
và
ảnh
hưởng
sâu
rộng
vào
xã
hội
Thái
Lan
từ
triều
đại
Sukhothai
(1237-1456).
Trong
thời
kỳ
này
có
rất
nhiều
vị
vua
tín
ngưỡng
Phật
Pháp,
xây
dựng
chùa
chiền,
ủng
hộ
việc
đào
tạo
tăng
tài
để
phát
triển
Chánh
pháp,
thậm
chí
có
nhiều
vị
xuất
gia
tu
học
luôn,
như
Vua
Ramkhamheng
và
Vua
Lithai.
Đặc
biệt,
Vua
Lithai
là
một
ông
Vua
Phật
tử
anh
minh,
từ
ái,
thương
dân
như
con
của
mình,
kể
cả
những
kẻ
đối
đầu
với
mình,
những
người
chống
lại
Thái
Lan.
Ông
đã
có
công
xây
chùa
và
đúc
tượng
Phật
rất
nhiều
trong
thời
ông
trị
vì.
Những
tượng
đồng
thật
lớn
hiện
nay
vẫn
còn
tôn
thờ
ở
Chùa
Buddhajinarai,
Chùa
Phrarinatnahadhatu,
Chùa
Sadassana
v.v.
đều
được
đúc
từ
thời
của
ông.
Tiếp
đến
là
các
triều
đại
Ayudhya
(1350-1766),
Thonburi
(1766-?)
và
triều
đại
Bangkok
(1782-cho
đến
nay)
do
vua
Rama
I
thiết
lập,
PG
đã
tiếp
tục
phát
triển
mạnh
trong
mọi
lĩnh
vực.
Đặc
biệt
các
vị
Vua
trong
triều
đại
Bangkok,
có
nhiều
vị
đã
xuất
gia
tu
học
và
sáng
tác
nhiều
tác
phẩm
văn
học
PG
giá
trị
để
cống
hiến
cho
đời.
Có
thể
nói
triều
đại
Bangkok
là
một
triều
đại
ủng
hộ
cho
PG
phát
triển
mọi
mặt.
Nhất
là
Vua
Rama
V
(vua
Mongkut)
đã
xuất
gia
tu
học
ở
Chùa
Bovoranives,
ông
đã
tổ
chức
biên
tập
lại
Tam
Tạng
Thánh
Điển
PG,
bằng
tiếng
Pali
vào
năm
1888,
đến
năm
1893
hoàn
thành
với
39
quyển.
Đây
là
một
bộ
Tam
Tạng
Thánh
Điển
PG
đầu
tiên
trên
thế
giới
bằng
tiếng
Pàli
được
in
trên
giấy
(trước
đây
chỉ
viết
trên
lá
bối).
Bộ
Tam
Tạng
này
sau
đó
được
ấn
tống
ra
rất
nhiều
để
gởi
tặng
các
PG
trên
thế
giới.
Nhà
vua
cũng
cho
thành
lập
hệ
phái
Dhammayuttika
gồm
các
tu
sĩ
tu
hạnh
đầu
đà,
vẫn
còn
hoạt
động
cho
đến
ngày
nay
ở
miền
Đông
Bắc,
song
song
với
hệ
phái
chính
là
Mahanikaya
là
hệ
phái
của
đa
số
tu
sĩ
Thái.
Đến
năm
1934,
Vua
Rama
VII
đã
cho
cải
biên
lại
thành
45
tập,
biểu
trưng
cho
số
năm
hoằng
pháp
của
Phật.
Bộ
Đại
Tạng
này
đến
năm
1940,
dưới
triều
đại
của
Vua
Rama
VIII,
vị
Tăng
thống
Tissadeva
đã
tập
hợp
được
hơn
200
vị
tăng
lầu
thông
ngôn
ngữ
Pali
để
phiên
dịch
ra
tiếng
Thái.
Cuối
cùng
bộ
Đại
Tạng
Kinh
tiếng
Thái
cũng
đã
hoàn
tất
vào
năm
1952,
gồm
70
tập,
trong
đó
có
42
tập
thuộc
Tạng
Kinh,
13
tập
thuộc
Tạng
Luật
và
25
tập
thuộc
Tạng
Luận,
sở
phí
in
ấn
công
trình
vĩ
đại
này
được
đóng
góp
của
toàn
nhân
dân
và
Chính
phủ
Thái
vào
lúc
ấy.
Trong
triều
đại
của
Vua
Bhulmibol
Adulyadej
(Rama
IX)
từ
1946
đến
nay,
PG
cũng
phát
triển
đều
đặn
về
các
lĩnh
vực
văn
hóa,
y
tế
và
giáo
dục.
Đặc
biệt,
vị
vua
này
đã
ủng
hộ
cho
công
trình
đưa
Tam
Tạng
Thánh
Điển
Phật
Giáo
(Tipitaka)
vào
cất
giữ
trong
hệ
thống
điện
tử
CD-ROM,
công
trình
này
bắt
đầu
thực
hiện
từ
năm
1987
để
kỷ
niệm
sinh
nhật
lần
thứ
60
của
ông.
Đến
nay
đã
hoàn
thành
được
bốn
đĩa
CD-ROM,
gồm
các
thứ
tiếng
Pali,
Thái,
Miến,
Khmer
và
Tích
Lan,
tổng
cộng
có
115
quyển,
50.189
trang,
210
tỷ
chữ
(
mỗi
đĩa
chứa
khoảng
500
triệu
chữ).
Địa
chỉ
vào
xem
hoặc
thỉnh
CD-ROM
này
là:
<http://www.mahidol.ac.th/budsir/budsir-main.html>
.
Chùa
và
tăng
sĩ
đóng
một
vai
trò
rất
quan
trọng
trong
xã
hội
Thái
trên
700
năm
qua.
Chúng
ta
sẽ
lần
lượt
tìm
hiểu
về
những
vai
trò
này
của
họ
qua
các
lĩnh
vực
giáo
dục,
kinh
tế,
văn
hóa
và
xã
hội
sau
đây:
*
Về
giáo
dục
Tăng
sĩ
Thái
Lan
đã
đóng
một
vai
trò
rất
quan
trọng
trong
lĩnh
vực
này.
Ngôi
trường
đầu
tiên
được
thành
lập
ở
Thái
Lan
được
xây
dựng
ngay
trên
khu
đất
của
Chùa
và
những
giáo
viên
đầu
tiên
là
tăng
sĩ.
PG
đã
nắm
giữ
vai
trò
này
trong
một
thời
gian
dài
cho
đến
triều
đại
của
Vua
Chulalongkorn
(Rama
V)
thì
ngành
giáo
dục
phổ
cập
chính
thức
ra
đời.
Các
trường
công
lần
lượt
được
mở
bên
ngoài
tu
viện,
các
trường
PG
dần
dần
được
tiếp
quản
bởi
bộ
giáo
dục
Thái,
điều
này
dẫn
tới
vị
trí
của
tăng
sĩ
trong
lĩnh
vực
giáo
dục
bị
thu
hẹp
dần.
Các
giáo
viên
thế
gian
cũng
được
thay
thế
và
tăng
sĩ
hiện
nay
chỉ
còn
dạy
một
ít
môn
học
như
giáo
lý
căn
bản,
công
dân
giáo
dục....
Ngày
nay,
tuy
vai
trò
của
PG
không
còn
can
thiệp
nhiều
vào
ngành
giáo
dục
phổ
cập,
nhưng
những
di
sản
của
PG
để
lại,
vẫn
giữ
nguyên
giá
trị
và
vẫn
đứng
vững
trong
lòng
của
dân
tộc
Thái.
Những
tòa
biệt
thự
đồ
sộ
của
bộ
giáo
dục,
những
ngôi
trường
lớn,
những
tổ
chức
từ
thiện...
phần
lớn
vẫn
còn
nằm
trong
khuôn
viên
của
Chùa.
Những
ngôi
trường
Trung
học
và
Đại
học
có
uy
tín
và
danh
tiếng,
có
nhiều
tiêu
chuẩn
cao
trong
việc
học
và
dạy,
đều
gợi
lại
cho
người
ta
nhớ
đến
một
quá
khứ
tốt
đẹp
thông
qua
sự
hoạt
động
của
tăng
sĩ
PG
Thái.
*
Về
kinh
tế:
Phật
giáo
cũng
đóng
một
vai
trò
đáng
kể
trong
môi
trường
kinh
tế
của
người
dân
Thái.
Nhiều
lời
Phật
dạy
về
cách
chọn
nghề
chân
chính
và
thực
hiện
công
việc
làm
ăn
chân
chính,
đã
được
áp
dụng
rộng
rãi
trong
mọi
gia
tầng
của
xã
hội
Thái,
và
người
dân
Thái
biết
làm
thế
nào
để
duy
trì
một
gia
đình
hạnh
phúc,
ổn
định
về
kinh
tế
qua
giáo
lý
của
nhà
Phật.
Theo
truyền
thống,
những
tăng
sĩ
Thái
thường
đóng
vai
trò
người
lãnh
đạo
trong
các
công
trình
lớn.
Do
xuất
phát
từ
trái
tim
từ
bi,
vô
vị
kỷ
mà
họ
được
xem
là
những
nhà
cố
vấn
và
giám
sát
công
trình
thành
công
nhất,
chi
phí
được
giảm
xuống,
những
trục
trặc,
trở
ngại
trong
tiến
trình
xây
dựng
cũng
ít
xảy
ra.
Mặt
khác,
những
chùa
ở
Thái
Lan
cũng
mở
trường
huấn
nghệ
cho
dân
chúng
như
bào
chế
thuốc
Nam,
thợ
mộc,
thợ
nề
và
nhiều
ngành
nghề
thủ
công
khác.
Nói
chung,
dân
chúng
đã
nhận
được
nhiều
sự
lợi
lạc
về
kinh
tế
từ
nhà
Chùa
và
các
tăng
sĩ
cũng
luôn
ý
thức
rằng
bổn
phận
của
họ
không
chỉ
có
trách
nhiệm
giúp
đỡ
và
chăm
sóc
đời
sống
tâm
linh
mà
còn
quan
tâm
đến
đời
sống
kinh
tế
cho
người
dân
nữa.
Chùa
Ngọc
Phật
trong
màn
đêm
*
Những
lễ
nghi:
Sinh
hoạt
tín
ngưỡng
PG
luôn
là
một
phần
quan
trọng
trong
đời
sống
của
người
dân
Thái,
từ
lúc
mới
chào
đời,
trưởng
thành,
lễ
cưới,
ma
chay...
đều
có
liên
quan
đến
chùa
chiền
và
tăng
sĩ.
Lễ
Đặt
Tên:
Khi
sanh
con,
cha
mẹ
thường
thỉnh
y
Quý
Thầy
đặt
tên
cho
con
mình,
vì
họ
tin
rằng
tên
được
chọn
từ
các
Thầy
sẽ
vừa
đẹp
đẽ
về
mặt
ngôn
ngữ
lẫn
ý
nghĩa.
Tiếp
đó
là
Quý
Thầy
sẽ
làm
lễ
đặt
tên
và
tụng
một
thời
kinh
cầu
an
cho
đứa
bé.
Lễ
Thọ
Giới:
Nghi
thức
thứ
hai
này
cũng
rất
quan
trọng
và
bắt
buộc
đối
với
mọi
thanh
niên
Thái,
kể
cả
các
bậc
vua
chúa,
khi
họ
ở
vào
giai
đoạn
trưởng
thành,
mười
tám
đến
hai
mươi
tuổi.
Thông
thường,
họ
vào
Chùa
tu
tập
ba
tháng,
một
năm
hoặc
ba
năm,
tùy
theo
sở
thích
và
ước
nguyện
của
mỗi
người.
Nhiều
bậc
cha
mẹ
muốn
con
cái
của
họ
được
dự
lễ
thọ
giới
này
trước
khi
lập
gia
đình
hoặc
khi
bắt
đầu
một
nghề
nghiệp
chính
thức.
Vì
rằng,
buổi
lễ
này
sẽ
giúp
cho
người
ấy
có
được
một
tâm
hồn
rộng
lớn
hơn
được
kèm
với
giới
luật,
những
lời
phát
nguyện
trong
buổi
lễ
này
sẽ
khiến
cho
người
ấy
phải
trân
trọng
và
gìn
giữ
suốt
một
đời
người.
Nó
là
nền
tảng
vững
chắc
cho
đời
sống
tâm
linh
của
người
dân
Thái.
Theo
truyền
thống,
buổi
lễ
diễn
ra
sau
một
thời
gian
ngắn
người
ấy
thực
tập
trong
Chùa.
Lễ
truyền
giới
được
tổ
chức
trong
suốt
tháng
bảy
của
mỗi
năm.
Vào
ngày
trước
khi
thọ
giới,
vị
thanh
niên
ấy
được
cạo
đầu
và
được
mặc
một
bộ
y
màu
trắng.
Quý
Thầy
lớn
tuổi
được
cung
thỉnh
về
nhà
của
vị
ấy
để
tụng
kinh
cầu
an
và
tiếp
nhận
sự
cúng
dường.
Bạn
bè
và
những
người
thân
cũng
được
phép
tham
dự
buổi
lễ
đặc
biệt
này
để
cho
vị
ấy
tạ
từ
trước
khi
bước
vào
đời
sống
mới.
Vào
ngày
lễ
truyền
giới,
vị
Thầy
tương
lai
này
được
hướng
dẫn
đi
kinh
hành
vòng
quanh
tu
viện
trước
khi
được
đưa
vào
bên
trong
điện
Phật
mà
chư
giới
sư
đã
hiện
diện
sẵn.
Sau
khi
trải
qua
một
loạt
kiểm
tra
về
những
điều
luật
cần
thiết
của
một
tăng
sĩ,
vị
ấy
được
các
bậc
trưởng
lão
giới
sư
tuyên
bố
là
các
vị
chính
thức
trở
thành
tăng
sĩ
PG,
cho
phép
gia
nhập
vào
tăng
đoàn
và
ngay
lập
tức
được
trao
cho
ba
chiếc
y
màu
vàng
nghệ,
một
chiếc
bình
bát
và
những
vật
dụng
cần
thiết
của
một
người
tăng
sĩ.
Sau
khi
thọ
giới
Tỳ
kheo
xong,
vị
ấy
sống
tinh
cần,
thanh
tịnh
và
luôn
được
đào
tạo
một
cách
nghiêm
khắc
để
có
thể
kiểm
soát
thân
và
tâm
của
mình
theo
giới
luật
đã
thọ.
Vị
ấy
phải
sống
nghiêm
túc
theo
giới
luật
như
một
tăng
sĩ
thật
sự
trong
thời
gian
lưu
trú
trong
tu
viện.
Tuy
nhiên,
vị
ấy
có
thể
trở
về
với
thân
phận
của
một
người
thế
tục
ở
bất
kỳ
thời
điểm
nào
mà
vị
ấy
muốn.
Lễ
Cưới:
Phật
giáo
cũng
đóng
vai
trò
quan
trọng
trong
hôn
lễ,
buổi
lễ
sẽ
giúp
cho
hai
người
có
một
sự
kết
hợp
thiêng
liêng
trong
lễ
cưới.
Thông
thường,
các
Tỳ
kheo
được
cung
thỉnh
đến
tụng
kinh
cầu
an
trong
căn
nhà
của
đôi
tân
hôn
ấy
vào
buổi
chiều
trước
lễ
cưới
của
họ.
Buổi
sáng
hôm
sau
cặp
vợ
chồng
này
đem
thức
ăn
cúng
dường
cho
chư
Tăng
trước
khi
họ
tiến
hành
hôn
lễ.
Chư
Tăngtiếp
đó
sẽ
đọc
kinh
cầu
phúc
và
rải
nước
thánh
lên
cô
dâu
và
chú
rễ.
Những
quan
khách
tham
dự
lễ
cưới
đổ
nước
thánh
từ
một
vỏ
sò
xuống
bàn
tay
của
đôi
vợ
chồng.
Những
bàn
tay
khác
của
quan
khách
được
chống
lại
thành
đóa
sen
búp
để
tỏ
lòng
tôn
kính
và
chúc
mừng
trong
khi
đôi
tân
hôn
quỳ
xuống
trên
một
chiếc
ghế
thấp,
mỗi
người
được
đeo
một
vòng
hoa
liên
kết
với
nhau,
để
tượng
trưng
cho
sự
thắt
chặt
cuộc
sống
tương
lai
của
họ.
Lễ
Tang:
Lễ
nghi
này
cũng
rất
quan
trọng
trong
đời
sống
của
người
dân
Thái.
Tang
lễ
được
tổ
chức
tùy
theo
phong
tục
của
từng
địa
phương,
nhưng
phần
lớn
vẫn
được
áp
dụng
theo
nghi
thức
Phật
giáo.
Sau
khi
một
người
đã
qua
đời,
thông
thường
một
nghi
thức
tắm
và
thay
đồ
xảy
ra
vào
buổi
trưa
đầu
tiên.
Vị
Thầy
chủ
lễ
đến
làm
phép
và
rải
nước
hoa
lên
nhục
thân
của
người
chết,
một
sợi
thiêng
liêng
được
kéo
qua
ba
lần
trên
thi
thể
người
quá
cố,
rồi
cắt
bỏ,
tượng
trưng
cho
sợi
dây
ràng
buộc
của
tham
ái,
sân
hận
và
si
mê
nay
không
còn
nữa.
Thi
hài
được
nhập
tẩm
liệm
vào
buổi
chiều
và
được
trang
hoàng
với
nhiều
vòng
hoa
tươi
xung
quanh
quan
tài.
Quý
Thầy
và
bạn
bè
thay
phiên
nhau
tụng
kinh
cầu
siêu
đến
lúc
lễ
hỏa
táng
hay
địa
táng
xảy
ra.
Vào
ngày
cuối
của
tang
lễ,
một
buổi
lễ
cúng
dường
trai
tăng
được
tổ
chức
để
hồi
hướng
công
đức
siêu
độ
vong
linh.
Sau
lễ
hỏa
táng,
tro
cốt
của
người
mất
được
thu
nhặt
lại,
một
ít
được
đặt
vào
bình
đựng
cốt,
thờ
tại
nhà
hoặc
Chùa
và
phần
còn
lại
được
rải
xuống
biển
hay
được
ném
vào
trong
gió,
biểu
hiện
việc
làm
lợi
ích
cho
môi
trường
xung
quanh.
Mỗi
năm
đến
ngày
giỗ
của
người
mất,
Quý
Thầy
và
bè
bạn
được
mời
đến
nhà
để
tụng
kinh
siêu
độ,
ban
phúc
lành
lên
tro
cốt
của
người
mất
và
trong
dịp
này
những
lễ
cúng
dường
cho
Quý
Thầy
cũng
được
tổ
chức
để
tạo
phước
duyên
cho
người
quá
cố.
Phật
giáo
Thái
với
công
tác
từ
thiện
xã
hội
Được
thấm
nhuần
từ
lời
dạy
từ
bi
của
Đức
Phật,
các
tăng
sĩ
PG
Thái
đã
trở
nên
tích
cực,
để
hết
tâm
trí
vào
các
vấn
đề
phúc
lợi
xã
hội.
Một
trong
những
vị
sư
nổi
tiếng
về
công
tác
này
là
Hòa
thượng
Chamroon,
Chùa
Thamkrabok
ở
tỉnh
Saraburi
thuộc
miền
Trung
Thái
Lan,
vị
này
có
uy
tín
trong
việc
điều
trị
khỏi
chứng
nghiện
ma
túy.
Vì
nhìn
thấy
cái
khổ
triền
miên
của
người
nghiện
mà
Ngài
đã
cố
công
nghiên
cứu
và
bào
chế
ra
một
loại
dược
thảo
để
chữa
bệnh
và
đã
thành
công.
Những
kết
quả
gần
đây
cho
thấy
rằng
sự
điều
trị
của
Trung
tâm
Ngài
có
hiệu
quả
hơn
70%.
Hiện
tại,
nhiều
ngàn
người
đã
đổ
xô
về
Trung
tâm
cai
nghiện
ma
túy
của
Ngài
để
tìm
sự
giúp
đỡ,
trong
đó
người
ta
thấy
có
cả
những
con
nghiện
đến
từ
Mỹ
và
châu
Âu.
Điều
đáng
kể
là
tiền
lệ
phí
chữa
bệnh
và
ở
nội
trú
với
giá
rất
thấp.
Nhờ
thế
mà
Trung
tâm
của
Ngài
ngày
càng
đông
thêm.
Chính
quyền
Thái
Lan
đã
ủng
hộ
và
tài
trợ
cho
Trung
tâm
này
trong
nhiều
năm
qua.
Địa
chỉ
web
page
là:
http://www.thamkrabok.org.au
Các
tăng
sĩ
PG
không
chỉ
đóng
vai
trò
điều
trị
về
thân
bệnh
mà
họ
còn
phục
vụ
xuất
sắc
trong
lĩnh
vực
chữa
khỏi
tâm
bệnh.
Những
tăng
sĩ
Thái
Lan
được
xem
là
những
nhà
tư
vấn
về
tâm
lý
hay
nhất
xưa
nay
ở
xứ
sở
này.
Ngôi
chùa
và
đời
sống
của
người
dân
Thái
Chùa,
một
kho
tàng
an
toàn
nhất:
Người
dân
Thái
Lan
thường
cảm
thấy
bất
an
khi
giữ
những
đồ
quý
giá
trong
nhà
của
họ,
vì
thế
họ
đã
gởi
vào
trong
Chùa
và
xin
phép
vị
trụ
trì
lưu
trữ
những
vật
quý
ấy
trong
Chùa.
Chùa
cũng
là
nơi
an
toàn:
để
bảo
trì
bộ
Đại
Tạng
Kinh
viết
trên
lá
bối
bằng
tiếng
Pàli,
những
bộ
sách
lịch
sử
của
các
Vương
triều
của
Thái
Lan,
những
sách
có
giá
trị
thời
cổ
đại
của
ngành
thương
mãi
của
Thái
Lan
được
viết
trên
lá
cau,
lá
dừa...
vẫn
còn
bảo
trì
cho
đến
ngày
nay.
Chùa
là
nơi
để
bảo
tồn:
những
pho
tượng
Phật
vô
giá
của
dân
tộc
Thái,
phần
lớn
tượng
được
đúc
bằng
vàng,
đồng
và
ngọc.
Theo
tín
ngưỡng
của
người
dân
Thái,
những
pho
tượng
lâu
đời
này
có
một
sức
mạnh
tâm
linh
vô
cùng
đặc
biệt,
đã
có
thể
báo
trước
những
sự
kiện
nguy
hiểm
và
tai
họa
sắp
xảy
ra
cho
người
dân
Thái.
Chùa,
nơi
tạm
trú:
Trong
quá
khứ,
khi
chưa
có
nhà
trọ
hay
khách
sạn,
người
du
khách
từ
nơi
này
đến
nơi
khác,
không
có
nơi
tạm
trú
một
đêm,
trong
hoàn
cảnh
đó
chỉ
có
Chùa
là
nơi
họ
hướng
về.
Cánh
cửa
Chùa
luôn
rộng
mở
cho
những
ai
cần
đến,
luôn
sẵn
sàng
giúp
đỡ
cho
tất
cả
mọi
người
dân.
Nhiều
người
nghèo
ở
nông
thôn
có
con
đi
học
ở
Bangkok
hay
ở
những
thành
phố
khác,
không
có
tiền
trả
ký
túc
xá,
họ
đã
gởi
con
vào
tạm
trú
trong
Chùa.
Chùa,
nơi
hội
họp:
Chùa
ở
Thái
Lan
luôn
luôn
có
một
phòng
hội
họp
rộng
lớn
và
một
sân
chơi
thể
thao.
Mỗi
khi
có
hội
họp
trong
làng
xã
đó,
họ
thường
tập
trung
về
Chùa.
Sân
thể
thao
được
sử
dụng
vào
nhiều
mục
đích
khác
nhau,
ngoài
việc
chơi
thể
thao
cho
thanh
thiếu
niên
trong
vùng,
còn
là
nơi
để
tổ
chức
bầu
cử
quốc
hội,
nơi
tuyển
quân
ra
trận,
nơi
chích
ngừa,
nơi
có
những
cuộc
meeting
lớn....
Mặt
tiền
Chùa
Ngọc
Phật,
thủ
đô
bangkok
Chùa
là
một
trung
tâm
văn
hóa:
Chùa
là
nơi
bảo
tồn
những
bài
hát
điệu
nhảy,
những
vở
kịch
truyền
thống
có
giá
trị
của
Thái
Lan.
Chùa
cũng
là
nơi
duy
trì
và
tồn
lại
đủ
các
kiểu
kiến
trúc,
điêu
khắc,
chạm
trổ
của
Thái
Lan
từ
xưa
cho
đến
nay.
Một
trong
ngôi
chùa
nổi
tiếng
nhất
của
Thái
Lan
là
ngôi
Chùa
Ngọc
Phật
(The
Emerald
Buddha
Wat)
tọa
lạc
tại
bờ
đông
trên
bờ
sông
Chao
Phraya,
trong
khu
dinh
thự
tráng
lệ
của
Hoàng
gia
Thái.
Ngôi
chùa
này
được
Vua
Rama
đệ
nhất
xây
dựng
vào
năm
1782
theo
kiến
trúc
của
Thái
lan,
để
tôn
thờ
Đức
Phật,
và
cũng
là
nơi
tu
hành,
lễ
bái
của
đức
vua
và
quần
thần
của
hoàng
gia.
Một
số
tổ
chức
Phật
giáo
tại
Thái
Lan
Thái
Lan
được
biết
đến
như
là
một
vùng
đất
tự
do,
do
đó
có
nhiều
tổ
chức
Phi
Chính
phủ
đã
được
thành
lập
tại
đất
nước
này,
trong
đó
có
hai
tổ
chức
Phật
giáo
Thế
giới
đều
được
đặt
trụ
sở
chính
tại
nơi
đây,
đó
là
World
Buddhist
Followship
(viết
tắt:
WBF,
Hội
Liên
Hữu
Phật
Giáo
Thế
Giới)
và
International
Network
of
Engaged
Buddhists
(viết
tắt:
INEB,
tạm
dịch:
Tổ
Chức
Quốc
Tế
Các
Phật
Tử
Dấn
Thân).
Về
Hội
WBF
được
thành
lập
vào
ngày
25
tháng
5
năm
1950
tại
Tích
Lan
với
năm
chủ
trương
như
sau:
1)
Khuyến
khích
hội
viên
học
và
tu
theo
lời
Phật
dạy;
2)
Siết
chặt
tình
hữu
nghị,
đoàn
kết
và
thống
nhất
giữa
các
quốc
gia
Phật
giáo;
3)
Đẩy
mạnh
công
tác
truyền
bá
giáo
lý
mầu
nhiệm
của
Phật;
4)
Tổ
chức
và
đưa
các
hoạt
động
Phật
sự
vào
trong
các
lĩnh
vực
như
xã
hội,
giáo
dục,
văn
hóa;
5)
Mang
lại
hòa
bình,
an
lạc
và
hạnh
phúc
đến
cho
hành
tinh
này
và
sẳn
sàng
liên
kết
với
những
tổ
chức
khác
có
cùng
đường
hướng.
Để
đạt
được
mục
đích
trên,
WFB
đã
cho
thành
lập
nhiều
chi
nhánh
trên
khắp
thế
giới
và
một
Hội
đồng
trị
sự
gồm
các
ban
như:
Ban
Giáo
dục,
in
ấn
và
nghệ
thuật,
Ban
Hoằng
pháp,
Ban
Từ
thiện,
Ban
Đoàn
kếât,
Ban
Tài
chánh....
Trong
30
năm
hoạt
động,
với
sự
ủng
hộ
nhiệt
thành
của
các
Chính
phủ
Tích
Lan,
Miến
Điện
và
Thái
Lan,
từ
27
chi
nhánh
ban
đầu
đã
phát
triển
lên
đến
123
chi
nhánh,
từ
39
quốc
gia
trên
khắp
các
châu
lục.
Về
trụ
sở
Trung
ương
được
đặt
tại
Tích
Lan
từ
năm
1950
đến
1958,
sau
đó
được
dời
qua
Miến
Điện,
sau
sáu
năm
(1958-1963)
đặt
tại
Miến,
trụ
sở
một
lần
nữa
lại
chuyển
qua
đến
Thái
Lan
từ
năm
1963
đến
nay.
(Địa
chỉ
liên
lạc
của
hội
là:
World
Fellowship
of
Buddhists,
616
Benjasiri
Park,
Soi
Medhinivet
off
Soi
Sukhumvit
24,
Sukhumvit
Road,
Bangkok
10110,
Thailand.
Tel:
662.661.128489.
Fax:
662.661.0555).
Hội
WBF
vừa
tổ
chức
đại
hội
định
kỳ
lần
thứ
20
tại
Úc
châu
và
theo
kế
hoạch
Đại
hội
lần
thứ
21
của
WFB
sẽ
được
tổ
chức
tại
Tích
Lan
vào
năm
2000.
(Xin
vào
địa
chỉ
sau
đây
để
biết
thêm
về
hiệp
hội
này:
<http://www.zip.com.au/-lyallg/>
)
Về
Hiệp
hội
INEB
do
đạo
hữu
người
Thái
Sulak
Sivaraksa
kết
hợp
với
Hòa
thượng
người
Nhật
Bản
Teruo
Muruyama
thành
lập
vào
tháng
hai
năm
1989
tại
Bangkok
theo
sau
cuộc
Hội
nghị
khoáng
đại
gồm
nhiều
đại
biểu
Phật
giáo
từ
mười
ba
quốc
gia
như
Úc,
Mỹ,
Canada,
Ý,
Đức,
Anh,
Pháp,
Bangladesh,
v.v.
trên
khắp
thế
giới
về
dự.
Hiệp
hội
đã
cung
thỉnh
Đại
lão
Hòa
thượng
người
Thái
Buddhadasa,
Đức
Dalai
Lama,
người
Tây
Tạng,
Thiền
sư
người
Việt
Thích
Nhất
Hạnh
và
Hòa
thượng
Cambốt
Maha
Ghosananda
vào
hàng
chứng
minh
và
cố
vấn
tinh
thần
cho
Hội.
Chủ
trương
của
INEB
là
kết
hợp
với
nhiều
tổ
chức
Tôn
giáo
trên
thế
giới
để
tổ
chức
các
cuộc
Hội
Thảo
về
xã
hội
và
tôn
giáo,
hầu
đem
lại
lợi
ích
thật
sự
cho
xã
hội;
Cung
cấp
những
tin
tức
mới
về
PG
và
hỗ
trợ
cho
các
nước
PG
nghèo
ở
trong
vùng
Nam
Á
và
Đông
Nam
châu
Á;
Vận
động
các
quốc
gia
giảm
bớt
chính
sách
hà
khắc
của
họ
đĨi
với
tôn
giáo
và
dân
chủ;
Bảo
trợ
và
tổ
chức
các
buổi
hội
thảo
xung
quanh
chủ
đề
giảm
thiểu
khổ
đau
thông
qua
các
sinh
hoạt
xã
hội,
chính
trị,
kinh
tế,
sinh
thái
v.v.
với
mục
tiêu
tốt
đẹp
trên,
từ
36
hội
viên
lúc
ban
đầu,
đến
nay
INEB
đã
có
hơn
400
hội
viên
từ
33
quốc
gia
trên
khắp
thế
giới.
INEB
còn
cho
phát
hành
Nguyệt
san
Seeds
of
Peace
(Hạt
giống
của
Hòa
bình)
và
mở
một
trang
báo
điện
tử
khác
để
phổ
biến
chủ
trương
và
giáo
lý.
Địa
chỉ
truy
cập
là:
http://www.bpf.org/ineb.html
Kết
luận:
Phật
giáo
đã
đóng
góp
tích
cực
vào
trong
đời
sống
của
người
dân
Thái
không
những
về
mặt
vật
chất,
kinh
tế
mà
còn
đi
sâu
vào
đời
sống
tinh
thần
của
họ.
Sự
hiểu
biết
và
thấm
nhuần
giáo
lý
nhân
quả
nghiệp
báo
và
nhiều
giáo
lý
cốt
lõi
của
PG,
đã
giúp
cho
người
dân
Thái
biết
sống
và
sống
theo
khuôn
khổ
của
Chánh
pháp.
Bản
chất
hiền
hòa,
từ
ái,
khiêm
cung
và
nhã
nhặn
của
người
dân
Thái
đã
thể
hiện
một
phần
nào
đó
từ
sự
thực
hành
đạo
lý
của
họ.
Sự
thừa
nhận
và
tán
dương
PG
vai
trò
của
nó
trong
xã
hội
Thái
là
một
điều
cần
thiết
và
không
cường
điệu
để
nói
lên
điều
ấy.
Thực
vậy,
Phật
giáo
đã
ăn
sâu
vào
lòng
của
dân
tộc
Thái,
và
đã
có
mặt
trên
khắp
mọi
ngã
đường
của
xứ
sở
này./.
Tổng
hợp
theo
các
tài
liệu
:
-
Insight
Guide
Thailand/Singapore/1989
-
Images
of
Thailand/Hong
Kong/1990
-
Bangkok/Singapore/1994
-
Thailand
Handbook/Bangkok/1999
-
Today
Magazine,
Bangkok/January
1999
---o0o---
---o0o---
|Danh
Nhân
Phật Giáo Thế
Giới | Tủ sách
Phật Học |
---o0o---
Kỹ thuật vi tính: Hải
Hạnh,
Ðàm
Thanh,
Diệu
Nga,
Tâm
Chánh,
Nguyên
Tâm
Trình bày: Nhị Tường
Cập
nhật: 01-04-02
|
|