Đức
(Germany),
là
một
quốc
gia
ở
Trung
Âu.
Sau
đại
chiến
thế
giới
thứ
hai,
Đức
bị
chia
làm
hai
nước:
Cộng
hòa
Dân
chủ
Đức
ở
phía
Đông
và
Cộng
hòa
Liên
bang
Đức
ở
phía
Tây.
Hiện
nay,
Đức
đã
thống
nhất
thành
một
quốc
gia
với
dân
số
80
triệu
người
và
diện
tích
356.000
km2.
Mật
độ
dân
cư
:
217,2
người/km2;
tuổi
thọ
trung
bình
76;
tử
suất
trẻ
em:
8%;
thu
nhập
bình
quân
đầu
người:
24.000
đô
la.
Trong
những
thập
niên
gần
đây,
Phật
giáo
(PG)
đã
trở
nên
phổ
biến
ở
quốc
gia
này,
nhiều
người
đã
quy
y
và
nhiều
người
khác
đã
xuất
gia
tu
học
và
làm
công
tác
truyền
giáo.
Tuy
nhiên,
lịch
sử
PG
tại
Đức
vẫn
còn
rất
mới
mẻ.
Thế
kỷ
thứ
19
là
mốc
thời
gian
có
thể
đó
là
lúc
PG
được
truyền
vào
châu
Âu
qua
các
bài
báo
của
người
du
lịch
và
nhân
viên
thuộc
địa
đang
làm
việc
tại
Á
châu.
Giới
triết
gia,
nghệ
sĩ
và
trí
thức
Đức
là
những
người
đầu
tiên
quan
tâm
đến
tôn
giáo
mới
này.
Điều
đó
không
có
gì
phải
ngạc
nhiên,
vì
nước
Đức
vốn
đã
nổi
tiếng
trên
thế
giới
như
là
một
quốc
gia
của
các
đại
thi
hào
và
triết
gia
lừng
danh
như
Kant,
Schopenhauer,
Herder,
Hegel,
Nietzche,
Goethe,
Schilla,
Hessa...
là
những
con
người
được
khâm
phục
và
nể
vì
trên
khắp
thế
giới.
*
Các
tổ
chức
truyền
bá
Phật
giáo
tại
Đức
Về
mặt
truyền
giáo,
tại
Đức
có
phần
hơn
các
quốc
gia
láng
giềng,
điều
đó
rất
cần
thiết
để
phân
biệt
về
các
tổ
chức
truyền
bá
PG
từ
sự
phân
phối
tự
nhiên
của
nền
triết
học
PG
và
các
hình
thức
tu
tập
thiền.
Hội
PG
đầu
tiên
được
thành
lập
tại
Đức
vào
năm
1903
tại
thành
phố
Leipzig,
đó
là
Giáo
hội
Phật
giáo
Đức
(Deutsche
Buddhistische
Union)
do
đạo
hữu
Kant
Seidenstuker
(1876-1936)
sáng
lập
và
lãnh
đạo.
Hội
đoàn
này,
không
phải
thuần
là
một
đoàn
thể
của
cộng
đồng
Phật
tử
Đức,
mà
chỉ
là
một
tổ
chức
cung
cấp
giáo
lý
PG
cho
giới
trí
thức
Đức.
Vì
mục
đích
này
mà
Hội
đã
thành
lập
một
nhà
in
tại
Leipzig
và
cho
phát
hành
một
tờ
tạp
chí
có
tên
là
Buddhistische
(Phật
giáo)
để
phổ
biến
chủ
trương
và
quan
điểm
của
mình.
Sau
thế
chiến
thứ
nhất
(1914-1918),
vào
năm
1924,
bác
sĩ
y
khoa
Paul
Dahlke
(1865-1928)
đã
thành
lập
một
Trung
tâm
PG
(TTPG)
ở
Berlin-Frohnau
lớn
nhất
ở
Đức.
Lúc
bấy
giờ,
những
buổi
thuyết
giảng
của
bác
sĩ
Dahlke
đã
thu
hút
nhiều
người
đến
nghe.
Ông
cố
gắng
giới
thiệu
giáo
lý
Vô
ngã
(Non
ego)
qua
lăng
kính
của
khoa
học
hiện
đại.
Một
cộng
đồng
PG
khác
được
thành
lập
vào
năm
1931
bởi
hai
đạo
hữu
Georg
Grimm
(1868-1945)
và
Kant
Seidenstucker
tại
thành
phố
Munich.
Ông
Grimm
không
tán
thành
khuynh
hướng
của
bác
sĩ
Dahlke
về
một
sự
diễn
dịch
mới
trong
giáo
lý;
vị
đạo
hữu
này
cố
gắng
khôi
phục
lại
giáo
lý
nguyên
thủy
của
Phật
giáo
để
tìm
ra
lời
dạy
đích
thực
cho
đời
sống
hiện
tại.
Thông
qua
hoạt
động
truyền
giáo
này
của
Grimm,
lần
đầu
tiên
quan
niệm
tín
ngưỡng
được
giới
thiệu
tại
Đức.
Đây
là
một
cộng
đồng
tôn
giáo
mà
nhiều
người
đã
tự
gọi
mình
là
Phật
tử
và
thọ
trì
năm
giới
cấm
của
nhà
Phật.
Năm
1935,
Hội
PG
Theravada
ra
đời,
cũng
do
đạo
hữu
Georg
Grimm
sáng
lập
và
lãnh
đạo,
trụ
sở
của
hội
đặt
tại
Citting
trên
bờ
hồ
Ammer.
Hội
này
đã
cho
ấn
hành
một
tờ
nguyệt
san
và
quyển
"Lời
dạy
của
Đức
Phật,
Tôn
giáo
của
lý
trí"
(The
Teachings
of
The
Buddha,
The
Religion
of
Reason),
một
tác
phẩm
của
đạo
hữu
G.
Grimm.
Tất
cả
các
hội
đoàn
PG
trên
đã
bị
cấm
hoạt
động
dưới
thời
thống
trị
của
chính
quyền
Nazi
(1933-1945)
do
Adol'
Hitler
(1889-1945)
cầm
quyền.
Đến
thời
kỳ
hậu
chiến,
có
nhiều
tổ
chức
PG
ra
đời.
Tại
Stuttgart,
năm
1952,
cộng
đồng
PG
được
thành
lập,
đến
năm
1955,
cộng
đồng
này
và
nhiều
hội
đoàn
PG
khác
được
khôi
phục
và
thống
nhất
với
danh
xưng
"Giáo
hội
Phật
giáo
Đức"
(German
Buddhist
Union),
đây
là
một
tổ
chức
đã
tập
hợp
và
thống
nhất
tất
cả
các
hội
đoàn
PG
trên
khắp
nước
Đức.
Nhiều
tạp
chí
và
báo
của
hội
lần
lượt
ra
đời,
hiện
nay
nổi
bật
nhất
là
hai
tạp
chí
tiếng
Đức
"Liên
hoa"
(Lotusblatter)
và
"Những
người
thời
hiện
đại"
(Mitwelt).
Năm
1992,
Hội
cùng
với
Giáo
hội
Phật
giáo
châu
Âu
(European
Buddhist
Union)
tổ
chức
hội
nghị
tại
thủ
đô
Berlin;
và
cuối
tháng
10
năm
1945,
hội
cũng
đã
tổ
chức
lễ
kỷ
niệm
40
năm
từ
ngày
thành
lập
tại
Munich.
*
Ảnh
hưởng
Phật
giáo
trong
đời
sống
tinh
thần
của
người
Đức
Sự
thừa
nhận
các
tôn
giáo
lớn
ở
phương
Đông
được
truyền
bá
trong
đời
sống
tinh
thần
của
người
Đức.
Cho
dù
Herder,
Kant
và
Hegel
đã
dành
nhiều
thời
gian
cho
các
tôn
giáo
khác
và
triết
học
Ấn,
nhưng
hiểu
biết
của
các
nhà
tư
tưởng
này
quá
hạn
chế
đến
nỗi
họ
hầu
như
không
thể
phân
biệt
được
sự
khác
biệt
giữa
Ấn
giáo
và
PG.
Chẳng
hạn,
ông
Hegel
hay
nhầm
lẫn
hình
ảnh
ngồi
thiền
của
Đức
Phật
với
vị
thần
Krishna
của
Ấn
giáo.
Tuy
vậy,
lời
kết
luận
của
Hegel
rằng
những
triết
thuyết
của
Phật
giáo
vẫn
tốt
hơn
Ấn
giáo.
Thực
tế,
trong
lời
phê
bình
của
Hegel
về
Ấn
giáo,
thì
ông
cho
rằng
tôn
giáo
đó
như
là
"thuốc
phiện
của
mọi
người"
(The
opium
of
people).
Về
sau,
Karl
Marx
sử
dụng
khái
niệm
này
để
nói
đến
một
tôn
giáo
lớn
ở
phương
Tây,
Thiên
Chúa
giáo.
Còn
đối
với
PG,
ông
Hegel
giới
thiệu
như
là
một
tôn
giáo
dẫn
đường.
Có
lẽ
tầm
ảnh
hưởng
của
PG
trong
xã
hội
Đức
đáng
lưu
tâm
nhất
vào
cuối
thế
kỷ
19
là
thông
qua
triết
thuyết
của
Arthur
Schopenhauer
(1788-1860),
một
triết
gia
người
Đức.
Ông
biết
đạo
Phật
và
triết
học
Ấn
trong
thời
gian
còn
là
sinh
viên
học
ở
Berlin.
Về
sau,
ông
là
bạn
thân
của
nhiều
học
giả
PG
phương
Tây
như
Schleiermacher
(người
Đức),
Isaak
Jakob
Schmidt
(người
Nga),
Eugene
Burnouf
(người
Pháp)...
Trong
thế
giới
triết
học,
ông
nổi
lên
với
tác
phẩm
"Thế
giới
là
ý
chí
và
biểu
tượng"
(The
World
as
Will
and
Idea).
Ông
quan
niệm
rằng
"Con
người
vĩ
đại
không
phải
là
kẻ
chiến
thắng
mà
là
con
người
từ
bỏ
khát
vọng
của
ý
chí".
Bộ
sách
(hai
cuốn)
này
đã
giúp
cho
mọi
người
hiểu
về
triết
thuyết
của
ông.
Đặc
biệt
trong
cuốn
hai,
ông
có
đề
cập
đến
Phật
giáo
và
triết
học
Ấn.
Tuy
nhiên
theo
ông,
những
gì
ông
viết
về
Phật
giáo
chỉ
là
bước
khởi
đầu.
Ông
nói:
"Đến
năm
1818,
khi
tác
phẩm
của
tôi
xuất
hiện,
ở
châu
Âu
có
rất
ít
bài
viết
về
PG.
Do
đó,
những
gì
tôi
viết
về
PG
là
không
đầy
đủ
và
chưa
hoàn
chỉnh".
Những
năm
cuối
đời,
ông
dành
nhiều
thời
gian
để
học
kinh
Kim
Cương
(Diamond
Sutra,
qua
bản
dịch
của
Issak
Jakob
Schmidt),
và
nghiên
cứu
giáo
lý
Niết
bàn
trong
PG.
Sau
Schopenhauer
có
Friedrich
W.Nietzsche
(1844-1900),
một
triết
gia
vô
thần
Đức
và
là
cha
đẻ
của
thuyết
siêu
nhân,
có
ảnh
hưởng
sâu
sắc
đến
tư
tưởng
triết
học
tư
sản
phương
Tây
sau
Immanuel
Kant.
Qua
nhiều
bài
viết
của
mình,
ông
Nietzsche
đã
thừa
nhận
mình
là
học
trò
và
là
người
chịu
ảnh
hưởng
tư
tưởng
PG
qua
Schopenhauer.
Ông
Neitzsche
cũng
rất
quan
tâm
đến
giáo
lý
Niết
bàn.
Sự
ảnh
hưởng
PG
trong
đời
sống
văn
hóa
Đức
rõ
ràng,
nhất
là
bởi
những
tài
liệu
sách
báo
về
PG
do
chính
người
Đức
viết.
Nhiều
người
đã
trở
thành
Phật
tử
thông
qua
những
hoạt
động
văn
hóa
của
họ,
rồi
họ
thành
lập
những
trung
tâm
PG
thiền
ở
các
cộng
đồng
dân
cư.
Ông
Kanl
Eugen
Newmann,
một
học
giả
người
Áo,
đã
cho
in
một
tuyển
tập
các
bài
pháp
thoại
của
Đức
Phật
theo
hệ
Nikaya.
Rồi
đến
năm
1879,
ông
Friendrich
Max
Mueller
(1823-1900)
cho
xuất
bản
cuốn
kinh
Phật
bằng
tiếng
Anh.
Ông
cũng
là
một
trong
những
thành
viên
có
công
gây
dựng
Hiệp
hội
Thánh
điển
Pàli
tại
Anh
quốc.
Một
người
Đức
khác
có
công
truyền
giáo
là
ông
Hermann
Oldenberg
(1854-1920),
người
đầu
tiên
viết
về
lịch
sử
truyền
đạo
của
Đức
Thích
Ca
Mâu
Ni
cho
thế
giới
phương
Tây
qua
cuốn
Đức
Phật-Cuộc
đời,
lời
dạy
và
Giáo
đoàn
của
Ngài
(Buddha-His
Life,
His
teaching
and
His
Order)
xuất
bản
năm
1881.
Viết
cuốn
sách
này
đạo
hữu
Oldenberg
muốn
lên
tiếng
bác
bỏ
luận
thuyết
sai
lầm
của
một
học
giả
nào
đó
có
ý
cho
rằng,
một
người
được
lịch
sử
gán
cho
một
danh
hiệu
nổi
tiếng
"Buddha"
(Phật)
chưa
bao
giờ
hiện
hữu
trên
cõi
đời
này.
Theo
vị
học
giả
này,
Đức
Phật
chỉ
là
một
nhân
vật
biểu
trưng
của
Phật
giáo.
Trong
khi
đánh
đổ
luận
thuyết
đó,
ông
Oldenberg
đã
đưa
ra
nhiều
chứng
cứ
lịch
sử
về
cuộc
đời
tu
đạo
và
hành
đạo
của
Đức
Phật.
Ông
muốn
khẳng
định
rằng
Đức
Thích
Ca
là
một
Đức
Phật
lịch
sử
chứ
không
phải
là
một
Đức
Phật
huyền
thoại.
Quyển
sách
đã
nhanh
chóng
nổi
tiếng
và
phổ
biến
khắp
nước
Đức.
Đến
nay,
quyển
sách
đã
tái
bản
hơn
14
lần
và
danh
hiệu
"Gotama
Buddha"
rất
quen
thuộc
với
người
dân
châu
Âu
ngay
từ
lúc
ấy.
Có
thể
nói
rằng,
ông
Oldenberg
đã
khơi
dậy
sự
quan
tâm
đến
PG
của
các
học
giả
phương
Tây
đối
với
những
bộ
kinh
thuộc
hệ
Nikaya.
Đó
là
giáo
sư
Luders,
Von
Lasenapp,
F.Weller,
Nobel,
Walleser
Waldschmidt...
đã
để
tâm
nghiên
cứu
kinh
điển
hệ
Pàli;
trong
đó
có
một
số
vị
quan
tâm
đến
các
kinh
Sanskrit.
Đặc
biệt
cũng
có
nhiều
công
trình
nghiên
cứu
về
PG,
phát
triển
bởi
ba-bốn
nhóm
nhỏ,
đứng
đầu
các
nhóm
này
là
Lạt
Ma
người
Đức
Anagarika
Govinda.
Nhiều
bộ
kinh
Pàli
đã
được
phiên
dịch
sang
tiếng
Đức,
quan
trọng
và
nổi
bật
nhất
là
đã
chuyển
ngữ
và
ấn
hành
hoàn
chỉnh
năm
bộ
kinh
hệ
Nikaya.
Những
người
có
công
trong
công
trình
lịch
sử
này
là
những
học
giả
và
dịch
giả
tên
tuổi
như
K.E.Newmann.
K.S.Seidentucker,
H.Oldenberg,
E.O.Franker,
Nyanatiloka
Thera,
D.Dalhke
và
Kurt
Schmidt.
Đặc
biệt,
trong
số
những
học
giả
nghiên
cứu
kinh
Phật
và
sau
đó
khoác
áo
tu,
nổi
bật
trong
số
đó
có
đạo
hữu
Walter
Florus
Gueth,
một
tín
đồ
Ky
tô
ở
Hesser,
đã
đến
xuất
gia
và
tu
học
ở
Tích
Lan,
vào
năm
1903
với
pháp
danh
là
Nyanatilok;
Ngài
là
một
tác
giả
và
dịch
giả
PG
nổi
tiếng
của
20
tác
phẩm
trong
các
thứ
tiếng
Đức
(15
quyển),
Anh
(6
quyển),
Pháp
(2
quyển),
Pàli
(2
quyển),
Tích
Lan
(1
quyển).
Các
dịch
phẩm
tiếng
Đức
nổi
tiếng
của
Ngài
gồm
có
Tăng
Chi
bộ
kinh
(Anguttara
Nikaya),
kinh
Pháp
Cú
(Dhammapala),
Thanh
Tịnh
Đạo
Luận
(Visuddhimagga).
Trưởng
lão
Nyanatiloka
cũng
là
người
có
công
lớn
trong
việc
đào
tạo
Tăng
tài
cho
phương
Tây
khi
thành
lập
một
tu
viện
tại
Tích
Lan.
Kế
thừa
sự
nghiệp
hoằng
pháp
của
trưởng
lão
Nyanatiloka
là
Tỷ
kheo
Nyanaponika,
cũng
là
một
trí
thức
Đức,
đã
phát
tâm
xuất
gia
và
về
sau
trở
thành
một
Tăng
sĩ
nổi
tiếng
ở
châu
Âu
với
nhiều
tác
phẩm
Phật
học
cả
tiếng
Anh
lẫn
tiếng
Đức.
Một
Tăng
sĩ
người
Đức
khác
là
Lạt
Ma
Anagarika
Govinda,
(thế
danh
là
Ernst
Lothar
Hoffmann),
xuất
gia
tại
Tích
Lan
vào
năm
1928
với
Trưởng
lão
Nyanatiloka
và
được
huấn
luyện
theo
truyền
thống
Theravada.
Tuy
nhiên,
hai
mươi
năm
sau,
Ngài
đã
chuyển
sang
tu
tập
theo
truyền
thống
Kim
Cương
thừa
của
PG
Tây
Tạng.
Trong
quá
trình
hoằng
pháp
tại
quê
nhà,
Ngài
đã
có
những
đóng
góp
quyết
định
cho
PG
Đức.
Ngài
cũng
là
tác
giả
nhiều
tác
phẩm
có
giá
trị
nổi
bật
trong
số
đó
là
quyển
"Con
đường
mây
trắng"
(The
Way
of
The
White
Clouds).
Một
phụ
nữ
châu
Âu
đầu
tiên
trở
thành
nữ
tu
PG
là
nghệ
sĩ
đàn
piano
Else
Buchholz,
con
gái
một
vị
chủ
ngân
hàng
Đức,
cô
đã
đến
Tích
Lan
vào
năm
1926,
xuất
gia
và
tu
học
với
pháp
danh
là
Uppalavanna.
Giới
trẻ
Đức
cũng
trở
về
với
PG
qua
tác
phẩm
nổi
tiếng
"Siddarta"
(Sĩ
Đạt
Ta)
của
Hermann
Hess
(1877-1962),
một
nhà
thơ,
nhà
văn
từng
đoạt
giải
Nobel
văn
chương
năm
1946.
Sau
khi
từ
bỏ
mọi
nghiên
cứu
về
Tin
Lành
giáo,
H.
Hess
bắt
đầu
tiếp
xúc
với
Phật
học
và
triết
học
Ấn,
và
chẳng
bao
lâu
ông
đã
chinh
phục
bởi
giáo
thuyết
này.
Ông
nghiên
cứu
PG
và
văn
hóa
Á
Đông
qua
ba
lần
viếng
thăm
Sri
Lanka
và
Indonesia
vào
năm
1911.
Kết
quả
của
những
công
trình
nghiên
cứu
đó
đã
giúp
ông
cho
ra
đời
cuốn
Sĩ
Đạt
Ta,
xuất
bản
năm
1922
và
nó
đã
nhanh
chóng
được
đón
nhận
một
cách
nồng
nhiệt
bởi
giới
trẻ
Đức
và
lập
tức
được
chuyển
ngữ
ra
nhiều
thứ
tiếng
trên
thế
giới
(bản
dịch
Việt
ngữ
với
tựa
đề
"Câu
chuyện
dòng
sông"
do
Phùng
Khánh
và
Phùng
Thăng
dịch,
Lá
Bối
in
lần
đầu
tiên
năm
1965).
Phật
giáo
Việt
Nam
tại
Đức
:
Như
nhiều
cộng
đồng
khác,
phần
lớn
người
Việt
đến
định
cư
tại
Đức
vào
giữa
những
năm
bảy
mươi
của
thế
kỷ
này.
Hiện
tại
có
khoảng
100.000
người
Việt
định
cư
tại
đất
nước
này.
Do
chính
sách
phân
bố
của
chính
quyền
Đức,
nên
người
Việt
ở
Đức
chỉ
ở
rải
rác
nhiều
vùng
khác
nhau
trên
khắp
nước
Đức.
Dù
vậy,
người
Việt
ở
Đức
đoàn
kết
và
có
nhiều
hoạt
động
để
khôi
phục
văn
hóa
và
ngôn
ngữ
Việt,
chẳng
hạn,
họ
có
khoảng
40
tờ
tuần
báo
và
Nguyệt
san
tiếng
Việt
và
20
chương
trình
phát
thanh
tiếng
Việt
để
phục
vụ
cho
cộng
đồng.
Về
tình
hình
PGVN
tại
Đức,
cũng
như
cộng
đồng
của
mình,
PGVN
đã
từng
bước
ổn
định,
phát
triển
và
đi
sâu
vào
xã
hội
Đức.
Hiện
tại
có
7
ngôi
chùa
và
14
chi
hội
Phật
tử
do
người
Việt
chủ
xướng,
có
tất
cả
8
đơn
vị
Gia
đình
Phật
tử
(xin
mời
vào
xem
trang
nhà
của
GDPT
Minh
Tâm
theo
địa
chỉ:
http://www.stud.uni-hannover.de/~loc),
gồm
500
đoàn
sinh
và
50
huynh
trưởng
và
có
khoảng
40
vị
Tăng
Ni
đang
lưu
trú
tu
học
tại
Đức.
Lãnh
đạo
tinh
thần
PGVN
tại
Đức
hiện
nay
là
Thượng
Tọa
Thích
Như
Điển,
viện
chủ
Chùa
Viên
Giác
ở
thành
phố
Hannover.
Thượng
tọa
đến
Đức
hoằng
Pháp
vào
năm
1977
sau
nhiều
năm
du
học
ở
Nhật
Bản.
Lúc
đầu,
Thượng
tọa
thành
lập
một
Niệm
Phật
Đường
Viên
Giác
tại
thành
phố
Hannover
để
hướng
dẫn
tín
đồ
tu
học.
Nhưng
vì
nhu
cầu
tu
học
và
chiêm
bái
của
Phật
tử
tại
gia
ngày
càng
đông,
nên
Thượng
tọa
đã
xin
phép
chính
quyền
Liên
Bang
Đức
một
khu
đất
rộng
lớn
hơn
để
xây
chùa,
cuối
cùng
Bộ
Nội
Vụ
Liên
Bang
Tây
Đức
đặc
trách
về
Tôn
Giáo
và
Văn
Hóa
đã
chấp
thuận
việc
trên,
nên
chùa
Viên
Giác
được
dời
về
một
vùng
khác
cũng
ở
Hannover
vào
năm
1981.
Tại
đây,
TT.Như
Điển
đã
làm
lại
từ
đầu
và
tiến
hành
xây
dựng
cho
cơ
sở
hoằng
pháp
mới.
Qua
nhiều
năm
làm
việc
cật
lực,
cuối
cùng
Chùa
Viên
Giác
đã
hoàn
thành
vào
năm
1991
với
tổng
chi
phí
là
chín
triệu
Đức
Mã
(tương
đương
khoảng
năm
triệu
rưỡi
Mỹ
kim)
.
Hiện
tại,
chùa
Viên
Giác
được
xem
là
di
bảo
của
PGVN
ở
nước
ngoài
,
là
Trung
tâm
Văn
hóa
PG
tại
Đức
quốc
với
một
điện
Phật
chứa
khoảng
700
người
cùng
một
lúc;
một
thư
viện
rộng
lớn
gồm
nhiều
loại
Kinh
sách
khác
nhau
bằng
nhiều
ngôn
ngữ
như
Việt,
Anh
,
Pháp,
Đức,
Nhật,
Trung
Hoa.
Đặc
biệt
thư
viện
này
có
cả
bộ
Đại
Tạng
Kinh
chữ
Hán
thỉnh
từ
Đài
Loan
vào
năm
1981
gồm
100
quyển,
mỗi
quyển
dày
độ
2.500
trang
qua
sự
tài
trợ
chi
phí
của
chính
quyền
Đức;
một
nhà
máy
in
dùng
để
in
những
sách
báo
của
PG
và
những
hoạt
động
văn
hóa,
từ
thiện.
Tất
cả
sở
phí
của
nhà
in
như
máy
móc,
giấy
mực...
cũng
được
chính
quyền
Đức
tài
trợ.
Nhờ
vậy
mà
tờ
tạp
chí
Viên
Giác
vẫn
phát
hành
đều
đặn
trong
21
năm
qua,
tính
đến
nay
đã
phát
hành
được
110
số,
mỗi
kỳ
là
5000
số
(sáu
kỳ
mỗi
năm).
Hằng
năm
chùa
Viên
Giác
thường
tổ
chức
những
đại
lễ
như
Phật
Đản,
Vu
Lan,
Tết
Nguyên
đán,
quy
tụ
trên
dưới
50.000
người
Việt
lẫn
người
bản
xứ
trên
khắp
nước
Đức
về
dự.
Đặc
biệt,
chùa
Viên
Giác
đặt
nặng
vấn
đề
bảo
tồn
và
phát
huy
văn
hóa
PG
và
văn
hóa
Việt
Nam
tại
Đức,
chùa
đã
tổ
chức
in
ấn
và
phiên
dịch
nhiều
tác
phẩn
PG
ra
tiếng
Đức
và
ngược
lại,
riêng
Thượng
Tọa
Như
Điển
đã
cho
ấn
hành
hơn
20
tác
phẩm
(cả
tiếng
Việt
lẫn
tiếng
Đức)
của
mình
để
phổ
biến
cho
Phật
tử
Đức
đọc.
Năm
1998,
Chùa
Viên
Giác
còn
mở
thêm
một
trang
báo
điện
tử
gồm
ba
thứ
tiếng
Việt,
Đức
và
Pháp
để
phổ
biến
giáo
lý
cho
Phật
tử
khắp
nơi
đọc.
Địa
chỉ
vào
xem
là:
và
địa
chỉ
liên
lạc
Chùa
Viên
Giác
hiện
nay
là:
Karlsruher
Str
6,
30519
Hannover,
Germany.
Tel:
05.11.879630;
Fax:
05.11.
8790963.
Hiện
nay,
có
khoảng
20
tăng
sinh
người
Việt
lẫn
người
Đức
đang
theo
tu
học
tại
chùa
Viên
Giác,
dưới
sự
dẫn
dắt
của
TT.
Như
Điển.
Đó
là
một
điều
lạc
quan
cho
tương
lai
PGVN
tại
Đức
trong
việc
phát
triển
Chánh
Pháp
tại
xứ
sở
này.
Nhìn
chung,
PGVN
tại
Đức
đang
trên
đà
lớn
mạnh
dưới
sự
lãnh
đạo
nhiệt
tâm
và
tận
tụy
của
Thượng
Tọa
Thích
Như
Điển.
Có
thể
nói,
Phật
giáo
Theravada
đã
ảnh
hưởng
rất
lớn
trong
các
cộng
đồng
PG
Đức
ở
giai
đoạn
đầu
mới
truyền
giáo.
PG
Mahayana,
bao
gồm
Nhật
Bản,
Tây
Tạng,
Trung
Quốc,
Việt
Nam,
đã
trở
nên
phổ
biến
sau
thế
chiến
thứ
hai.
Từ
những
năm
sáu
mươi
trở
đi,
Thiền
học
PG
đã
lan
tỏa
khắp
đất
nước
này;
các
tác
phẩm
Thiền
của
Tanable
Hajime,
Hisamatsu
Shinichi,
Rudolf
Otto,
Eugen
Herrigel,
August
Faust
và
đặc
biệt
là
D.
T.
Suzuki,
được
phát
hành
rộng
rãi
để
cung
ứng
cho
trào
lưu
học
và
tu
thiền
ở
Đức.
Từ
đó
đến
nay,
nhiều
trung
tâm
thiền
đã
lần
lượt
ra
đời
và
nhiều
Thiền
sư
ở
Á
châu
được
cung
thỉnh
sang
Đức
để
tuyên
dương
pháp
môn
này.
Nếu
năm
1962
tín
đồ
PG
Đức
chỉ
có
2.000,
thì
hiện
nay
(1999)
con
số
đó
đã
được
nâng
lên
hơn
70.000
người
(số
lượng
được
chính
quyền
liên
bang
thống
kê
và
thừa
nhận).
Mặc
dù
số
lượng
tín
đồ
PG
còn
quá
ít
so
với
các
nước
Á
châu,
tuy
nhiên
PG
ngày
nay
rất
phổ
biến
ở
Đức;
các
nhà
sách
ở
các
thành
phố
lớn
luôn
tràn
ngập
Kinh
sách
PG
và
phong
trào
nghiên
cứu
và
tu
thiền
ngày
càng
tăng.
Dù
vậy,
PG
Đức
vẫn
còn
hạn
chế
nhiều
mặt,
nhất
là
người
lãnh
đạo
tinh
thần
và
trực
tiếp
hướng
dẫn
tu
học.
Nếu
ở
phương
Đông,
các
Tăng
sĩ
làm
công
tác
truyền
giáo
dẫn
dắt
người
tại
gia
tu
học;
thì
ở
Đức,
người
cư
sĩ
phải
đảm
nhận
trọng
trách
ấy.
Tuy
nhiên,
mọi
tín
đồ
PG
Đức
rất
vui
mừng,
vì
hiện
nay,
đất
nước
của
họ
rất
nhiều
giống
dân
khác
nhau
đến
định
cư
và
nước
Đức
đã
trở
nên
một
quốc
gia
"đa
tôn
giáo".
Dù
Ky
Tô
giáo
và
Hồi
giáo
là
hai
tôn
giáo
chính
ở
xứ
sở
này,
nhưng
số
lượng
tín
đồ
PG
vẫn
đang
gia
tăng.
Vì
thế,
chúng
ta
có
quyền
hy
vọng
rằng
"vườn
hoa
Phật
Giáo"
sẽ
nở
rộ
trong
một
tương
lai
gần.
Tổng
hợp
từ
các
tài
liệu
:
-
Maha
Bodhi
Magazine,
India,
10/1974
-
Buddhism
in
The
Modern
World,
New
York,
1976
-
The
Awakening
of
The
West,
California,
1994
-
Martin
Petrich
&
H.
Nicole
,
German
Buddhist
Newsletters,
tháng
8/1995