Tính Thiết Yếu Của Giới Luật
Như Việt
Đạo Phật sở dĩ được quảng bá và truyền
thừa lâu dài trên thế gian này, thật ra không chỉ vì tự nó chứa đựng một kho
tàng đồ sộ: giáo lý cao thâm-văn học luận lý như nhiều người thường nhận định,
mà điều tiên quyết và thiết yếu chính là Giới luật.
Chính nhờ Vinayà-Pitaka này, hành nhân làm nền tảng cho bất
kỳ tiến trình thánh thiện hoá tư duy: tu tập thiền định, trí tuệ nào. Thế mới
biết tại sao đức Thích Tôn đặc biệt chú trọng nhắc lại nhiều lần trong hơn 40
năm hoằng hoá lợi sinh của Ngài. Câu nói sấm sét lúc Phật sắp nhập Niết bàn hẳn
khó phai mờ trong tiềm thức bao người con Phật: “Giới luật còn, Phật pháp còn;
Giới luật mất, Phật pháp mất”.
Ngày nay, trong bối cảnh xã hội xao động, từng bước chuyển
mình tương thích với sự phát triển và trỗi nhịp của văn minh thời đại, Phật
giáo, một tôn giáo được xem là “chân lý thực tại”, phải làm gì để minh định bản
sắc và giá trị đích thực của chính nó? Đây là việc ưu tư nhất của các bậc cao
tăng kỳ túc nói riêng, giới học Phật nói chung.
Trải qua nhiều thời kỳ, có nhiều vấn đề được đưa ra bàn thảo,
nhưng, Giới luật vẫn là tiên đề. Vì sao như vậy? Vì rằng: nó có thể đem lại sự
hưng hay phế cho cộng đồng Tăng chúng, quyết định cho sự tồn vong của Phật giáo.
Vấn đề đặt ra không chỉ giải minh trên bình diện lý luận văn chương, mà thực sự
chúng ta phải tư duy, xác quyết và trải nghiệm thế nào để mỗi thành viên Tăng
trong từng tự viện, tịnh xá, tịnh thất…từng bước hoàn thiện nhân cách phẩm hạnh
cho chính bản thân mình nhằm đem lại đời sống an lạc hiện tại, giải thoát tương
lai.
Giới luật(Siksapada) nguyên nghĩa là sự điều phục, chế
ngự…tất cả các pháp làm chướng ngại thánh đạo. Nói theo quan hệ khởi nguyên, nó
là sự gắn liền với đời sống Tăng thân, phi điều này đều được xem là mất gốc cho
dù chúng ta: “đường đường Tăng tướng, dung mạo khả quan”. Khi tham cứu hoặc hành
trì Giới luật, chúng ta không nên nhận thức và kết luận một cách vội vàng rằng:
nó tiêu cực hay tích cực, tiểu thừa hay đại thừa, bởi nó không thuộc phạm trù
riêng biệt cho bất kỳ hệ thống tư tưởng nào của Phật giáo. Bản chất nó không
mang đậm tính bắt buộc, mà là tiêu điểm cho sự tự nguyện của những ai học Phật
muốn đi trên lộ trình: gạn lọc thân tâm, trau giồi nhân cách, hoàn thiện đạo
hạnh chính mình. Dù chúng ta thuộc tông phái nào, hệ thống truyền thừa nào thì
vấn đề trước tiên vẫn là trang nghiêm thân giáo cho chính mình bằng phương pháp
hành trì Giới luật. Đừng bao giờ có ý niệm nhận định sai lầm khi chúng ta kiến
văn một số điển tích, hành trạng dị biệt hoặc nghịch hạnh của các vị Bồ tát, Tổ
sư, Thiền sư…rồi cho rằng: việc “kiến tánh ngộ đạo” không dính dáng gì đến Giới
luật, mà chúng ta phải hiểu là các Ngài hành trì Giới luật đến độ không cần hành
trì nữa. Mặc khác, Giới luật Phật giáo là Pháp điển đạo đức chuẩn mực cho Tăng
nhân. Không nên xem nó như Pháp luật ở đời. Nói như Thượng toạ Nguyên
Chứng:”Giới luật không đồng và không theo một mô típ nào như Pháp luật đời
thường, tuy vậy, nó không chống trái mà thực sự đi sâu hơn, nó mang tính phổ
quát được xuất phát từ đại bi và trí huệ”.
Khi khảo sát về tính hiện thực tương phù hoặc bất tương phù
của từng giới trong 250 giới cho tỳ kheo, 348 giới cho tỳ kheo ni (đơn cử Luật
Tứ Phần), chúng ta phải biết điều quan trọng là: Giới luật dĩ nhiên được xem như
nấc thang cho muôn ngàn thánh hạnh, dù vậy, nó không phải định pháp, nghĩa là có
thể thay đổi. Điểm
này, trong thánh điển ghi rõ: đức Thích Tôn cho phép bỏ một số điều nhỏ nhặt sau
khi Ngài niết bàn. Nhưng trên thực tế, lịch sử Phật giáo chưa ai bỏ đi điều gì
dù là giới điều nhỏ nhặt. Hiện tại, chúng ta có thể hoặc không thể hành trì giới
điều nào đó trong Giới luật, tuy nhiên tất cả đều có giá trị và ý nghĩa của
nó.Tôi thật sự giật mình và tri ân khi nghe Thượng toạ Nguyên Chứng nói về ý
nghĩa sâu xa của giới: không được cầm lông dê (…). Vì vậy, ngày nay cho dù có
những Giới luật không còn thích ứng cho sự hành trì, nhưng mãi mãi nó vẫn còn
giá trị biểu trưng, là thư tịch cho chúng ta y cứ tham khảo. Chính vì sự bảo lưu
nó có tầm quan trọng như vậy, nên trải qua nhiều thời kỳ, Giới luật được hành
trì trong nhiều tông môn Phật giáo tại nhiều quốc gia khác nhau vẫn giữ được bản
nguyên của nó.
Là Tăng sĩ việc “thượng cầu hạ hoá”, đưa đạo Phật vào đời là
hoài bão, song, việc dụng tâm giữ gìn phạm hạnh, không bị đồng hoá bởi thế tục
là điều luôn luôn canh cánh bên lòng. Hai chữ “tuỳ duyên” được chúng ta thực
hiện sao cho nó có ý nghĩa tích cực: “tuỳ thuận chúng sinh, dĩ văn tải đạo”,
đừng để nó biểu thị theo nghĩa: “phan duyên trần cảnh, ô nhiễm thân tâm”.
Tôi hy vọng là một ngày không xa, một bộ đạo luật ra đời làm
định chế cho sự sinh hoạt và tu học cho cộng đồng Tăng lữ đảm bảo 3 yếu tố quan
trọng:
1.
Giữ gìn tính
chất truyền thống bản nguyên của Giới luật.
2.
Phù hợp với đời
sống tu tập của người Tăng sĩ trong thời hiện đại.
3.
Hướng tới thánh
thiện hoá thân tâm: an lạc hiện tại, giải thoát tương lai.
Ước nguyện chân thật như vậy có được xiển dương hay không
chính là ở mỗi chúng ta.
Tự mình làm điều
ác làm
Tự mình làm nhiễm
ô.
Tự mình ác không
làm
Tự mình làm thanh
tịnh.
Tịnh không tịnh tự
mình
Không ai thanh
tịnh ai.
(Pháp cú 165)
Tất cả chỉ còn trông chờ vào sự tự giác của những người
được xem là “Thừa Như lai sứ, hành Như lai sự”.
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày 01-10
-2005