Ðại Tạng No. 1451
CĂN BẢN THUYẾT
NHẤT THIẾT HỮU BỘ
- Mùla-Sarvàstivàda -
TỲ-NẠI-DA TẠP SỰ
-
Mùla-Sarvàstivàda Vinaya Ksudraka Vastu -
(Cuộc đời đức Phật và các đệ tử)
Hán dịch:
Tam Tạng Nghĩa Tịnh, đời Ðường, Trung Quốc
Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh, PL 2542 - TL 1998
--- o0o ---
Thành kính đảnh lễ đức Thế
Tôn, Ngài là bậc Ứng Cúng, Ðấng Chánh Biến Tri.
Quyển thứ ba
mươi lăm
--- ooOoo ---
Tiếp theo nhiếp tụng chín trong biệt môn tám
(nói về Bà-la-môn Diệu-hoa).
Khi ấy, Thế Tôn suy nghĩ: "Ðến đây, muốn xem ba
mươi hai tướng của Ta, thanh niên Thọ-Sinh này đã thấy ba mươi tướng nhưng còn
nghi về hai tướng lưỡi và âm tàng vì chưa được thấy. Ta hãy phương tiện hiện
tướng kín để cho họ thấy".
Sau khi hiện tướng kia rồi, Thế Tôn lại le lưỡi
đến tận chân tóc, che khắp cả mặt.
Thấy như vậy, Thọ Sinh suy nghĩ:
- Sa-môn Kiều Ðáp Ma đầy đủ các tướng tốt, như
vậy có hai trường hợp, sống tại gia làm Luân vương, xuất gia thành bậc
Chánh-giác ... cho đến danh tiếng vang khắp nơi.
Với tâm rất hoan hỷ, thanh niên ấy lễ Phật rồi
từ giã.
Trong khu vườn nọ, Bà-la-môn Diệu Hoa đang ngồi
đàm luận cùng các vị kỳ túc để trông chờ Thọ Sinh. Khi trông thấy, Thọ Sinh đến
lạy sát chân Diệu Hoa cùng các vị tôn túc khác rồi ngồi qua một bên. Diệu Hoa
bảo:
- Này thanh niên, Kiều Ðáp Ma có tiếng khen tốt
vang khắp mười phương, đủ các tướng tốt, sự việc ấy đúng không?
Ðáp:
- Thưa đại sư, những điều tán dương ấy đều là sự
thật.
Hỏi:
- Ngươi có đàm luận cùng với ông ấy không?
Ðáp:
- Thưa có.
Hỏi:
- Ngươi hãy tuần tự trình bày hết lại cho ta
nghe những điều đàm luận ở đó.
Thọ Sinh đem hết những điều đã đàm luận với Thế
Tôn thưa lại cho Diệu-Hoa nghe. Nghe nói xong, Diệu Hoa rất phẫn nộ, lấy chân
đạp trên đầu Thọ Sinh, giận nói:
- Giỏi thay cho sứ giả đã làm việc ấy, khiến cho
thân ta bị chìm đắm trong đường ác. Như khi cùng vị ấy đàm luận, ngươi đã có
những sai trái. Theo sự dẫn chứng của vị ấy, ta cũng có lỗi lầm đó. Lúc này,
trời đã xế chiều, không thể đến thăm hỏi cung kính, chờ đếùn sáng mai, ta sẽ
đích thân đến.
Ngay đêm ấy, Diệu Hoa liền làm các món ăn uống
thơm ngon. Vừa sáng sớm, ông ta dùng xe vận tải những thứ ấy đến chỗ Thế Tôn.
Sau khi chào hỏi ngồi qua một bên, ông ta thưa với Phật: - Thế Tôn! Con làm các
món ăn thanh tịnh cho Kiều Ðáp Ma, đã mang đến đây, xin Ngài từ bi thương tưởng
nhận cho.
Khi ấy, đức Phật bảo A Nan Ðà đang quạt sau lưng
cho Ngài mát:
- Ông hãy bảo tất cả các Bí-sô trong tụ lạc này
tập họp hết trong trai đường.
Sau khi đi bảo các Bí-sô tập trung hết trong
trai đường, A Nan Ðà trở lại bạch Phật:
- Mọi người đã tập họp, xin Ngài định liệu.
Sau khi đến nơi, Thế Tôn an tọa.
Thấy Thế Tôn và chư Tăng đã an tọa, Bà-la-môn
đích thân bưng các món ăn ngon hai tay dâng lên đức Phật và chư Tăng. Sau khi
thọ trai, đại chúng xỉa răng, rửa tay, thu xếp bát. Diệu Hoa đặt một chỗ ngồi
nhỏ trước đức Phật để nghe giáo pháp.
Sau khi thọ trai của Bà-la-môn Diệu Hoa dâng
cúng, nói lời chúc phúc xong, Thế Tôn nói kệ:
Tế tự, lửa hơn hết,
Ðề sách dẫn đầu sách,
Vua đứng đầu toàn dân,
Biển lớn nhất các dòng,
Các sao, trăng sáng nhất,
Ánh mặt trời sáng nhất,
Trong phàm Thánh mười phương,
Ðức-Phật là tốt thượng.
Những người có bố thí,
Tất được quả lợi ích,
Cố ý vui bố thí,
Sau tất được an lạc.
Khi nghe Phật dạy kệ này, trong chúng có một
Bí-sô già cả, tuy đã ăn no nhưng vẫn nhai thêm bánh khô làm vang lên tiếng lớn.
Thấy vậy, Bà-la-môn bạch Phật:
- Thanh văn đệ tử của Kiều Ðáp Ma có làm theo
lời dạy không?
Phật đáp:
- Này Bà-la-môn, có người làm theo, có người
không làm theo.
Hỏi:
- Này Kiều Ðáp Ma! Ở đây có người ưa pháp, có kẻ
tham ăn. Ðệ tử của con tên Thọ Sinh có đến gặp Phật và đàm luận không?
Ðáp:
- Người ấy có đến bàn luận sơ qua với Ta.
Hỏi:
- Xin Ngài kể lại những lời vấn đáp đàm luận với
Thọ Sinh cho con nghe.
Sau khi nghe Phật tuần tự kể lại sự việc trên,
Bà-la-môn bạch Phật:
- Thưa Kiều Ðáp Ma, Thọ Sinh ấy hiểu biết nông
cạn nên tâm kiêu mạn, không biết kính sợ, xúc phạm tôn nhan, xin Ngài từ bi tha
thứ lỗi cho hắn.
Phật bảo Bà-la-môn:
- Ta đã dung thứ.
Bà-la-môn lại bạch Phật:
- Thưa Kiều Ðáp Ma! Khi con đang đi xe mà kềm
dây cương ngựa lại, hoặc giơ roi hét lớn, ngay khi ấy, xin biết cho con là
Bà-la-môn Diệu Hoa đảnh lễ dưới chân Phật và thăm hỏi Ngài không bệnh, không khó
chịu, sinh hoạt thoải mái, khỏe mạnh an ổn không?
Lại nữa, thưa Kiều Ðáp Ma! Nếu Ngài thấy con
đang đi bộ mà bỏ giày dép ra hoặc tránh qua một bên đường hoặc đưa tay, ngay khi
ấy cũng như trước, xin biết cho con đang biểu lộ sự kính chào. Lại nữa, thưa
Kiều Ðáp Ma! Khi thấy con đang nói chuyện giữa đồ chúng của mình mà dời chỗ ngồi
hay trịch áo trên ra, hoặc lấy khăn đội đầu xuống, ngay khi ấy cũng như trước,
xin biết cho con đang biểu lộ sự kính chào. Vì sao?
- Thưa Kiều Ðáp Ma! Pháp Bà-la-môn của con rất
cần danh tiếng, những y phục, thức ăn, dụng cụ đều nhờ vào danh tiếng mà được,
thế nên nhờ vào đó mà con giữ được đồ chúng.
Khi ấy, Thế Tôn suy nghĩ: "Bà-la-môn này rất là
cao mạn, Ta hãy thuyết pháp để dẹp tâm kiêu mạn ấy".
Thế Tôn tuyên dương giáo pháp làm cho vị ấy lợi
ích hoan hỷ. Cũng như thường pháp, Thế Tôn tuần tự thuyết minh rộng về những
pháp bố thí, trì giới; năm dục có ít vị ngọt mà nhiều tội lỗi gây phiền não
nhiễm ô làm trầm luân trong sinh tử, nên cầu xuất ly đạt đến Niết-bàn thanh
tịnh. Biết vị kia đã ưa thích hoan hỷ, phát tâm thanh tịnh, có thể làm bậc pháp
khí thọ trì được sự việc thù thắng, nên Thế Tôn lại giảng rộng về pháp bốn
Thánh-đế: Khổ - Tập - Diệt - Ðạo.
Như tấm vải sạch rất dễ nhuộm màu, ngay tại chỗ
ngồi Bà-la-môn chứng tri đế-lý, không còn nghi hoặc, chứng quả dự-lưu, rời chỗ
ngồi đứng dậy, trịch áo bày vai phải, lạy trước đức Phật thưa:
- Con đã được xuất ly, xin quy y Phật, Pháp, Tăng, thọ trì năm học xứ, xin
chứng nhận cho con là cận sự nam với đầy đủ niệm thanh tịnh.
Sau đó, Diệu Hoa lạy sát chân Phật rồi từ giã.
Ðức Phật suy nghĩ: "Bà-la-môn ấy chê trách thật
đúng, vì khi nói kệ chúc phúc bố thí, Bí-sô già kia vẫn tiếp tục ăn. Thế nên,
trong lúc ấy không được ăn".
Ngài bảo các Bí-sô:
- Bà-la-môn ấy chê trách đúng, vì khi nói kệ
chúc phúc bố thí, Bí-sô già ấy vẫn tiếp tục ăn nên gây ra sự chê bai. Khi có
Bí-sô nào đang nói kệ chúc phúc bố thí, ai vẫn tiếp tục ăn, bị tội vượt pháp.
Như Phật chế định không được ăn trong khi nói kệ chúc phúc bố thí, có người
vì không dám ăn nhanh, đến cuối bữa cũng chưa ăn xong nên bị qua giờ ăn. Phật
dạy:
- Nếu khi có Bí-sô nói kệ chúc phúc bố thí,
người không nghe tiếng, không hiểu nghĩa, được ăn không phạm. Nếu có nghe tiếng
nhưng không hiểu nghĩa, ăn cũng không phạm. Người nghe tiếng, hiểu nghĩa mà cứ
ăn, bị tội vượt pháp.
Như Thế Tôn dạy:
- Nghe tiếng hiểu nghĩa không được ăn, ở trú xứ
nọ có nhiều Tăng chúng ở, họ sai dọn ăn ngược từ dưới lên trên. Ở trên, nghe
tụng kệ phúc chúc nên họ đều không dám ăn, bị qua giờ ăn. Phật dạy: - Trường hợp
này nghe tiếng hiểu nghĩa đều không nên ăn, chờ nói hai ba câu xong, sau đó ăn
không lỗi.
Ðức Phật ở rừng Thi Lộc, Tiên nhân đọa xứ, thuộc
Ba La Ny Tư . Vào buổi sáng, Thế Tôn mặc y mang bát vào thành khất thực. Nhiều
Bí-sô cũng đi khất thực. Ðến khu vườn nọ, có người đứng lại vì nhìn thấy nam nữ
nên phát sinh tư tưởng xấu đưa đến ý niệm tà dục. Thấy Bí-sô đang có tà niệm
tương ưng với bất thiện, Thế Tôn đến gần bên bảo:
- Này Bí-sô, ngay trong thân mình, ông đang
trồng hạt giống khổ và chảy ra phẩn hôi thúi mà ruồi trùng không ăn, thật không
có như vậy.
Nghe nói như vậy, Bí-sô suy nghĩ:
- Thế Tôn đang biết tà tâm của ta.
Vị ấy rất sợ hãi, lông toàn thân dựng đứng, vội
đi ra khỏi vườn.
Ðức Phật suy nghĩ: "Bí-sô đứng lại ở nơi không
được dừng nên gây ra lỗi như vậy".
Sau khi khất thực, trở về chỗ ở, thọ trai xong,
thu xếp y bát, rửa sạch chân, Thế Tôn vào phòng ngồi yên tịnh. Vào buổi chiều,
sau khi xuất thiền, Thế tôn đến ngồi giữa Tăng chúng, bảo các Bí-sô:
- Vừa rồi, Ta vào thành để khất thực, thấy một
Bí-sô cũng đang khất thực đi đến một khu vườn phát sinh tư tưởng xấu và ý niệm
tà dục. Khi biết người ấy có ác niệm, Ta đến bên cạnh bảo rằng:- Này Bí-sô!
Bí-sô! Chính thân ông đang trồng hạt giống khổ và chảy ra phẩn hôi hám mà ruồi
trùng không ăn, thật không có việc ấy.
Nghe Ta nói như vậy, với ý nghĩ rằng Thế Tôn
đang biết tâm xấu của ta, lông toàn thân người ấy dựng đứng và đi vội ra khỏi
khu vườn. Thế nên, Bí-sô không nên dừng lại ở nơi không nên đứng. Ai vi phạm bị
tội vượt pháp.
Nghe Phật nói như vậy, có một Bí-sô rời khỏi chỗ
ngồi đảnh lễ sát chân Phật, thưa:
- Ðại đức Thế Tôn! Trong thánh giáo, hạt giống
khổ ác là gì? Phẩn hôi chảy ra, ruồi trùng đều ăn là gì?
Phật dạy:
- Này Bí-sô! Hạt giống khổ là ba loại pháp gây
ra tội ác do suy nghĩ sai quấy bất thiện. Ba pháp là gì? Ðó là suy nghĩ ác dục,
suy nghĩ sân hận, suy nghĩ sát hại. Phẩn hôi chảy ra, ở đây phẩn hôi là năm dục
sắc, thanh, hương, vị, xúc; chảy ra là dục trói buộc tâm nên năm căn chạy theo
năm cảnh lưu động không ngừng. Ruồi trùng nghĩa là thế gian đối với sáu xúc xứ
không có tâm chế ngự nên phát sinh tham sân ... ưu bi khổ não gây ra các nghiệp
tội ác.
Thế Tôn nói kệ:
Không hộ trì mắt tai ...
Bị ái dục lôi kéo,
Trồng giống khổ trong thân,
Hôi thúi thường chảy ra.
Ai sống trong làng xóm,
Hay trong chỗ yên tịnh,
Nhưng cả ngày và đêm,
Không tư duy chánh pháp,
Luôn với ý niệm ác,
Nên suy nghĩ bất thiện,
Rời xa duyên lạc trú,
Sẽ nhận quả báo khổ.
Người nào hành thiền định,
Tu tập tuệ thù thắng,
Thường được mắt an ổn,
Không bị khổ ruồi trùng.
Thân cận với bạn lành,
Lời dạy bậc hiền trí,
Ai học được như vậy,
Sẽ không còn tái sinh.
Như Thế Tôn dạy:
- Bí-sô không được đứng nơi phi pháp, họ không
biết thế nào là nơi phi pháp?
Phật dạy:
- Nơi phi pháp có năm là: nhà ca hát, nhà dâm
nữ, nhà bán rượu, nhà vua chúa, nhà Chiên Trà La. Ðó là năm nơi không nên đi
đến.
Nhiếp tụng mười trong biệt môn tám.
Do xà quán ngọa cụ,
Nhất y bất vi lễ,
Sơ chí tự trung thời,
Lão niên ưng lễ tứ.
* Duyên khởi tại thành Thất La Phiệt. Ðang giữ
ngọa cụ của bạn thân gửi, muốn du hành, Bí-sô nọ vẫn để yên ngọa cụ ấy tại chỗ
cũ chứ không xử dụng. Khi ấy, đến tìm chỗ ở nên rắn độc cuộn mình nằm dưới tấm
nệm. Có Bí-sô khách đến trú ở đây. Sau khi ổn định, vị này đi lễ tháp Phật cùng
Bí-sô khác, đến chiều thì về phòng. Bí-sô cựu trú bảo:
- Cụ thọ! Ðây là nước, bột tẩy, đèn, dầu, trước
hết trải ngọa cụ.
Do đi đường mệt nhọc nên sau khi rửa chân, vị ấy
nằm ngủ yên. Do nghiệp lực không xem ngọa cụ ở đời trước nên khi ngủ say vị này
đè trên rắn độc kia. Vùng ra khỏi tấm nệm, rắn mổ Bí-sô. Quá đau đớn, Bí-sô lăn
lộn trên rắn. Một lúc sau, cả hai đều chết.
Sáng hôm sau, chủ nhân đến gọi, nhưng Bí-sô kia
đã chết không thể cứu được. Chủ nhân tưởng rằng đi lại mệt mỏi nên ngủ say, sau
khi đã giấc, vị ấy sẽ thức dậy.
Ðến giờ ăn, chủ nhân lại đến gõ cửa, gọi:
- Hãy thức dậy, sắp đến giờ thọ trai.
Không nghe đáp lại, chủ nhân mở khóa vào phòng,
thấy vị kia đã chết. Kéo tấm nệm ra, vị này thấy có rắn chết. Cùng đến xem, biết
rõ vị này bị rắn cắn chết, mọi người đem sự việc bạch Phật. Ðức Phật suy nghĩ:
"Do không xem xét ngọa cụ nên người kia bị chết như vậy".
Ngài bảo các Bí-sô:
- Ngọa cụ nhận của người gửi, nên giao cho
tri-sự, hoặc tùy lúc tự đem phơi nắng, đặt trên giá cao, buộc chặt đừng cho rơi
xuống. Ai muốn dùng ngọa cụ để n?m ngủ, cần xem xét kỹ.
Ban đêm, họ dùng đèn để rọi xem, Phật dạy:
- Không được như vậy, nên dự bị xem trước vào
ban ngày.
Bấy giờ, không xem xét cũ mới, các Bí-sô đều lật xem hết. Phật dạy:
- Cần xem cái cũ, không nên lật cái mới. Có nệm
vải phải thường xuyên đập giũ, ai không làm bị tội vượt pháp.
* Duyên khởi tại thành Thất La Phiệt. Có hai
Bí-sô cùng ở chung một phòng. Một Bí-sô độ một đệ tử trẻ tuổi. Người đệ tử này
ngủ nhiều thức ít nên thường bị thầy quở trách. Một hôm, khi gần sáng, bỗng
nhiên người đệ tử này giật mình thức dậy, đi đến gặp thầy nhưng chỉ mặc
Tăng-khước-chi. Vị thầy đứng dậy, muốn mặc hạ y. Ðến gần thầy, lạy sát chân rồi
ngửng lên, vì mới cạo tóc nên đầu người đệ tử mắc vào hạ y của thầy. Ðội cả tấm
y như vậy, người đệ tử ngã lăn ra đất làm cho cả hai thầy trò đều bị lộ hình.
Thấy vậy, Bí-sô kia nói:
- Cụ thọ, đến nay tôi mới biết các vị là đàn ông đầy đủ nam căn.
Bấy giờ, cả hai thầy trò đều mắc cở, im lặng bỏ
đi. Sau đó, người đệ tử bị thầy quở trách. Thấy vậy, các Bí-sô hỏi:
- Ông có lỗi gì mà thường bị thầy giận như vậy.
Ðáp:
- Trước đây giận có lý do, nay không lỗi gì.
Tình nghiã thầy trò không còn nữa, tôi ra đi đây.
Họ lại hỏi:
- Vì sao vậy?
Sau khi nghe người kia kể lại, họ bảo:
- Cụ thọ! Ông có lỗi, bị quở trách thật đúng.
Nghe nói, người này phải im lặng.
Các Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật suy nghĩ: "Vị thầy kia chê trách thật
đúng pháp".
Ngài bảo các Bí-sô:
- Từ nay về sau không được chỉ mặc một y mà làm
lễ người khác. Ai vi phạm, bị tội vượt pháp.
* Duyên khởi tại thành Vương Xá. Như Thế Tôn
dạy, đối với Bí-sô khác nếu họ không đến làm lễ ra mắt thì không thu xếp chỗ
nghỉ cho họ.
Bấy giờ, có nhiều Bí-sô từ nơi khác đến làm lễ
tháp. Không có ai thu xếp chỗ nghỉ nên họ ở tùy tiện như bị tẫn xuất. Có người ở
trước hiên, ở dưới cửa, ở dưới gốc cây. Thấy vậy, các cư sĩ Bà-la-môn có tín tâm
hỏi:
- Thánh giả! Vì sao bị đuổi mà phải ở như vậy?
Ðáp:
- Hiền thủ! Không phải bị đuổi, tôi là khách mới đến.
Bà-la-môn nói:
- Như vậy sao không ở trong phòng?
Ðáp:
- Tôi không có người quen, ai lại cho ở! Vì lễ
bái tháp Phật nên đến đây ở tạm thời gian ngắn rồi trở về.
Nghe nói như vậy, mọi người đều chê trách: - Tôi
đã nghe Sa-môn Thích tử có tính bình đẳng vậy mà có hành động bình đẳng chỗ nào
đâu. Thấy khách đồng tu vừa đến, họ không cho ở.
Các Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật bảo các Bí-sô:
- Từ nay trở đi, khách Tăng khi đến chùa, trước
tiên phải làm lễ vị kỳ túc, nên với bốn vị. Chủ chùa nên có lòng tốt theo pháp
cho họ ở.
Một lúc khác. Có Bí-sô khách du hành nhân gian.
Trời sắp về chiều, vị này đến thành Vương-xá. Biết Phật có chêù định phải làm lễ
vị trưởng lão trước nên vị này hỏi các Bí-sô:
- Tôn giả Kiều Trần Như đang ở đâu?
Ðáp:
- Ðang ở trong vườn Trúc Lâm.
Nghe tiếng vị này gõ cửa phòng mình, tôn giả
Kiều Trần Như hỏi:
- Ai đó?
Ðáp:
- Con là khách Tăng.
Tôn giả cho vào để vị kia nghỉ ngơi. Khách Tăng
hỏi:
- Tôn giả Ðại Ca Diếp đang ở đâu?
Ðáp:
- Cụ thọ, vị ấy đang ở hang Tất Bát La.
Theo lời chỉ dẫn, khách Tăng đến nơi chào hỏi như trước đây.
Tôn giả gọi vị ấy vào để thăm hỏi và nghỉ ngơi.
Khách Tăng hỏi:
- Tôn giả Chuẩn Ðà đang ở đâu?
Ðáp:
- Vị ấy đang ở núi Thứu Phong.
Khách Tăng đến nơi thăm hỏi. Tôn giả gọi vào cho nghỉ ngơi như trước. Khách
Tăng hỏi:
- Tôn giả Thập Lực Ca Diếp đang ở đâu?
Ðáp:
- Vị ấy đang ở hang Tế Nhĩ Ca.
Ðến nơi, sau khi khách Tăng chào hỏi, tôn giả
bảo nghỉ ngơi. Khách Tăng thưa:
- Trời đã sáng rồi, phải đi khất thực, không thể nghỉ lại.
Tôn giả nói:
- Như Thế Tôn dạy khách Tăng đến nơi, trước tiên
phải làm lễ bốn vị kỳ-túc. Ðấy là phương tiện sửa trị người khách bằng cách gây
khó khăn.
Các Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:
- Trước đây, Ta nào có bảo Bí-sô khách làm lễ
hết các vị tôn túc đâu, chỉ khiến họ làm lễ bốn vị kỳ túc tại chỗ.
Nội nhiếp tụng:
Thế Tôn vi cao thắng,
Quảng thuyết đệ tử hành,
Hành vũ vấn đại sư,
Vi thuyết thất lục pháp.
* Duyên khởi tại thành Thất La Phiệt. Vào xế
chiều, sau khi xuất thiền, cụ thọ Cao Thắng đến gặp đức Phật, lạy sát hai chân
rồi ngồi qua một bên, thưa:
- Xin Thế Tôn dạy về những pháp phải làm của
người đệ tử phục vụ thầy.
Phật dạy Cao Thắng:
- Ông hãy lắng nghe, đối với thầy mình, đệ tử
phải luôn cung kính và có tâm sợ sệt, không vì tiếng khen, không cầu lợi dưỡng,
phải dậy sớm đích thân thăm hỏi hai thầy về sức khỏe của thân thể, an ổn khi đi
lại, dọn dẹp vật đựng tiểu tiện và xoa bóp cho thầy. Nếu thầy nói có bệnh nên
hỏi rõ và đến gặp y sĩ để nói rõ căn bệnh và yêu cầu họ điều trị. Theo sự chỉ
dẫn của y sĩ mà chữa trị cho thầy. Nếu thầy có sẵn thuốc thì dùng để chữa trị,
nếu không có thì hỏi người thân cận. Nếu nhiều thân quyến nên hỏi thầy cần xin
với ai. Nghe thầy nói xong, học trò làm theo đúng lời dạy. Nếu không có thân
quyến nên đến nhà khác xin thuốc theo lời chỉ dẫn. Hoặc đến bệnh viện hay nơi
phát thuốc miễn phí. Nếu không có những nơi này, nên theo khả năng của mình cung
cấp thức ăn uống cho thầy an ổn.
Khi bệnh đã hết, dâng cây chà răng cho thầy. Khi
thầy muốn đến nơi đánh răng, nên quét dọn sạch trước và làm nền, bố trí chỗ
ngồi, đặt bình nước đầy, bột rửa, đất vụn, cây chà răng sạch, cây nạo lưỡi. Sau
khi thầy làm vệ sinh xong, thu dọn những vật cần thiết. Nếu thầy đau mắt, học
trò nên hỏi thầy thuốc để làm thuốc nhỏ mắt. Thứ đến dâng y phục để thầy mặc,
xếp cất y khác, không để lẫn lộn.
Khi thầy đang lễ tháp, nên vào phòng rưới nước
quét dọn cho sạch. Nếu có bụi bặm nên dùng phân bò trát láng hay lá xanh quét
sạch. Thứ đến lễ bái tôn tượng và thầy mình hoặc thăm hỏi và thưa các việc. Mỗi
ngày, lễ bái ba lần tùy theo sức mình, đối với các vị đồng phạm hạnh cũng nên
biểu lộ sự kính lễ. Thứ đến là phải siêng năng tọa thiền, đọc tụng. Mỗi nữa
tháng, đích thân xem xét và đem chiếu ra phơi.
Ðến bữa ăn nên rửa hai bát. Nếu là Bí-sô khất
thực, mình ôm bát nặng, cái nhẹ đưa cho thầy. Khi trời lạnh, đem Tăng-già-chi
dầy đưa thầy đắp, còn mình đắp cái mỏng. Khi trời nóng, mình xử dụng cái dầy,
đưa thầy cái mỏng. Khi đi ngược gió, thỉnh thầy đi trước, mình đi sau. Khi đi
thuận gió, mình đi trước, thỉnh thầy đi sau. Qua sông, nước, dìu thầy đi qua.
Khi đi khất thực, nên hỏi thầy cần đi chung hay đi riêng. Nếu thầy bảo đi chung,
phải tuân lời.
Nếu được bột khô, đậu, bánh, các loại nước ép
chua thì để vào bát mình. Nếu được sữa, bơ, đường phèn, bánh, cơm, đường cát ...
thì đặt vào bát thầy. Khất thực xong, trở về chỗ cũ, dọn dẹp hai chỗ nhỏ trải
lá, Bố trí hai chỗ ngồi để ăn cơm. Nếu đi riêng, sau khi khất thực xong, đem đến
trình cho thầy biết thức ăn nhận được, cần gì thầy lấy. Vị thầy nên nhận vừa đủ
dùng.
Nếu ở trong chùa, đệ tử nên rửa vật để đựng
trước rồi đến nhà bếp hỏi tri-sự đang làm món ăn uống gì cho Tăng. Sau khi được
tri sự cung kính báo cho biết, vị này trở về thưa với thầy những món ăn của Tăng
trong hôm nay và thưa thầy có lấy không rồi theo lời dạy mà mang về. Thầy nên
xem xét để nhận vừa đủ dùng và đúng lúc. Chỗ hai vị thầy tắm rửa, nên quét dọn
sạch và làm nền cao, bố trí ghế nhỏ và vật đựng nước, bột rửa, cây chà răng để
xử dụng đúng pháp. Nếu thầy cần rửa chân, nên làm cho thầy, hoặc chỉ dùng nước,
hoặc có thể dùng dầu thoa, dùng bột để kỳ cọ, sau đó lấy nước rửa rồi trao dép
da, hỏi thầy về chuyện ăn uống, lại hỏi ở chỗ này nên tu tập về thiện pháp gì và
cần đi đến chỗ yên tịnh khác không. Nếu vị thầy bảo cần đến trú xứ ấy ngay ban
ngày, nên mang vật để ngồi đến và quét dọn nơi ấy cho sạch sẽ; thường xuyên dùng
phân bò để trát nền.
Nếu trò học kinh thì thầy dạy họ đọc. Nếu trò
học thiền quán thì dạy họ tác ý. Nếu khi trở lại nên xem xét chỗ nằm. Trước
tiên, rửa sạch chân, lễ bái tôn tượng và các vị đồng phạm hạnh tùy theo sức
mình, xếp đặt chỗ ngồi cho thầy và rửa chân như trước. Trời lạnh nên chú ý làm
nước nóng; trời nóng nên quạt cho mát. Thầy cũng phải biết thời giờ để bảo họ tu
tập chớ để uổng phí thời gian. Khi cần sắm y bát ... làm những việc cần gì, phải
làm cho thầy trước, làm cho mình sau.
Phật dạy:
- Này Cao Thắng! Ngươi phải biết các đệ tử môn
nhân của chúng Bí-sô nên phục vụ hai thầy, xem như cha mẹ. Ðối với đệ tử, thầy
cũng xem như con. Nếu có đau bệnh phải săn sóc nhau đến hết bệnh hay đến chết
mới thôi. Ta đã lược nói về sự việc ấy, ngươi hãy làm đúng như vậy. Ai không làm
theo những sự việc như thế, bị tội vượt pháp.
Ðối với thầy, nếu đệ tử nào phục vụ với tâm kính
thuận như vậy, thì hay làm cho thiện pháp phát triển không ngừng cũng như hoa
sen ở trong nước tăng trưởng mãi suốt ngày đêm. Thế nên các ông phải học như
vậy.
Bấy giờ, cụ thọ Cao Thắng và các Bí-sô nghe lời
Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
* Phật ở núi Thứu Phong, thành Vương Xá. Vua Vị
Sinh Oán nước Ma Yết Ðà chống lại nước Phật-Lật Thị. Trước mọi người, nhà vua
tuyên bố:
- Nước An Ổn Phong Lạc nghịch mạng, ta muốn hưng
binh đến trị tội làm cho chúng tan tành.
Nhà vua lại bảo đại thần Bà-la-môn Hành Vũ:
- Khanh hãy đến đảnh lễ sát chân Phật, thay mặt
ta thăm hỏi về sinh hoạt và sức khỏe của Ngài có an ổn không?
Sau đó, thưa rằng:
- Ðại đức! Vua Vị Sinh Oán tuyên bố trước mọi
người, nước Phong Lạc nghịch mạng, ta muốn hưng binh đến trị tội làm cho chúng
tan tành. Thế Tôn có đồng ý không? Hãy ghi nhớ những điều Thế Tôn dạy, đem về
trình lại cho ta. Vì sao? Ðức Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri không nói lời hư
vọng.
Tuân lệnh vua, Hành Vũ cỡi xe ngựa trắng, cầm
gậy vàng, mang theo bình vàng, ra khỏi thành Vương Xá, đi gặp đức Phật. Ðến chỗ
xuống xe, ông ta đi bộ lên núi Thứu Phong. Gặp Thế tôn, ông ta cung kính thăm
hỏi, ngồi qua một bên thưa:
- Vua Vị Sinh Oán nước Ma Yết Ðà đảnh lễ dưới
chân Thế Tôn, thăm hỏi Ngài sinh hoạt có thoải mái, sức khỏe có an ổn không?
Nghe thăm hỏi như vậy, Thế Tôn bảo Bà-la-môn:
- Cầu chúc vua và ngài khỏe mạnh an lạc.
Sau đó, Bà-la-môn đem lời của vua ra trình bày
với Phật và xin Ngài ban cho lời chỉ dẫn. Phật bảo:
- Này Bà-la-môn! Ta không ở lâu tại nước Phật
Lật Thị, chỉ an cư nơi đó ba tháng. Khi ấy, Ta có tuyên thuyết bảy pháp bất thối
cho mọi người.
- Này Bà-la-môn! Khi nhân dân nước ấy thi hành
bảy pháp bất thối thì đất nước và nhân dân ngày càng thịnh vượng, thiện pháp
không bị suy giảm.
Bà-la-môn thưa:
- Con chưa được hiểu biết về diệu pháp mà Ðại
đức đã chỉ dạy, xin Ngài từ bi giảng rõ để con được thông suốt.
Khi ấy, Thế Tôn nói với cụ thọ A Nan Ðà đang
đứng quạt sau lưng:
1. - A Nan Ðà, ông có nghe biết nhân dân nước
Phật Lật Thị thường xuyên tập họp để bàn luận về nghĩa lý của pháp không?
Ðáp:
- Bạch Ðại-đức! Con có nghe nhân dân nước ấy
thường tập họp để bàn luận về nghĩa lý của pháp.
Phật bảo Bà-la-môn:
- Nếu ở nước ấy, mọi người thường tập họp để bàn
luận về nghĩa lý của pháp thì biết rằng nước ấy ngày càng thịnh vượng, thiện
pháp không bị suy giảm.
2. - Này A Nan Ðà! Ông có nghe biết nhân dân
nước Phật Lật Thị hòa thuận cùng đứng, cùng ngồi để bàn luận quốc sự không?
Ðáp:
- Con có nghe ... nói đủ như trên.
Phật bảo Bà-la-môn ... như trên, cho đến
thiện pháp không bị suy giảm.
3. - Này A Nan Ðà! Ông có nghe biết nhân dân
nước ấy không mong cầu những việc không nên mong cầu, không hủy bỏ những việc
nên làm, thường vui vẻ tuân hành những điều quy định trong nước không?
Ðáp:
- Con có nghe ... như trên.
Phật bảo Bà-la-môn ... như trên cho đến
thiện pháp không suy giảm.
4. - Này A Nan Ðà! Ông có nghe biết ở nước ấy
những phụ nữ và thiếu nữ còn trong sự bảo hộ của mẹ, cha, anh chị em, cha mẹ
chồng, thân tộc mà có lỗi bị trị tội vì tự ý làm thê thiếp cho người, cho đến
lén trao hoa hứa làm vợ người, cùng nhau làm những chuyện qua đường, phi pháp
không?
Ðáp:
- Con có nghe ... nói đủ như trên.
Phật bảo Bà-la-môn ... như trên, cho đến
thiện pháp không bị suy giảm.
5. - Này A Nan Ðà! Ông có nghe thấy đối với cha
mẹ, thầy học, trưởng thượng, nhân dân nước ấy cung kính cúng dường, tuân theo
lời dạy, ý không nghịch lại gây phiền không?
Ðáp:
- Con có nghe ... nói đủ như trên.
Phật bảo Bà-la-môn ... như trên, cho đến
thiện pháp không bị suy giảm.
6. - Này A Nan! Ông có nghe biết nhân dân nước
ấy thường xuyên cúng dường tháp miếu, không bỏ phế những phép tắc đáng tôn trọng
đã có từ trước không?
Ðáp:
- Con có nghe ... nói đủ như trên.
Phật bảo Bà-la-môn ... như trên, cho đến
thiện pháp không bị suy giảm.
7. - Này A Nan Ðà! Ông có nghe biết đối với bậc
A La Hán, nhân dân nước ấy cung kính tôn trọng, thường xuyên nghĩ đến, mong cầu
những vị chưa đến nên đến, những vị đã đến được sống an ổn, cung cấp tất cả y
phục, thức ăn, đồ nằm, thuốc trị bệnh, những tư cụ cần thiết không cho thiếu
thốn ... nói đủ như trên cho đến thiện pháp không bị suy giảm.
Phật bảo Bà-la-môn:
- Khi nào nhân dân nước ấy thực hành bảy pháp
không suy giảm này thì biết nước ấy thường xuyên thịnh vượng không tổn thất,
thiện pháp hưng thịnh.
Bà-la-môn thưa:
- Ðại đức! Nếu nhân dân trong nước ấy chỉ cần
thi hành một trong bảy pháp, vua Vị Sinh Oán cũng không thể chinh phạt họ, huống
chi họ thực hành đủ bảy pháp.
- Thưa Ðại-đức Kiều Ðáp Ma! Con còn nhiều việc,
xin cáo từ.
Phật bảo:
- Tùy ý.
Nghe Phật dạy xong, Bà-la-môn hoan hỷ vâng làm.
Sau khi Bà-la-môn ấy từ giã, Phật bảo A Nan Ðà:
- Ông hãy đi bảo hết các Bí-sô ở vùng núi Thứu
Phong này cùng nhau tập họp trong ngôi nhà phục vụ.
Sau khi đi bảo hết các Bí-sô ở vùng núi Thứu
Phong này cùng nhau tập họp trong ngôi nhà phục vụ, A Nan Ðà trở về gặp Phật,
đứng qua một bên, thưa:
- Thế Tôn! Các Bí-sô đã tập họp lại hết, xin
Ngài định liệu.
Ðến nơi, sau khi an tọa, Phật bảo các Bí-sô:
- Ta sẽ giảng bảy pháp không suy giảm cho các
ông. Các ông hãy lắng nghe và hết sức chú ý. Bảy pháp ấy là:
1. Bí-sô các ông thường tập họp để bàn luận
pháp luật thì biết phúc đức của Bí-sô tăng trưởng, thiện pháp không suy giảm.
2. Bí-sô các ông nếu thường cùng tập họp, cùng
ngồi, cùng đứng dậy để làm các pháp sự trong sự hòa hợp, thì biết phúc đức của
Bí-sô tăng trưởng, thiện pháp không suy giảm.
3. Bí-sô các ông không cố tìm cầu những việc
không nên cầu, không làm cho mất đi những thiện pháp đã đạt được, thường xuyên
hoan hỷ thực hành những pháp chân chính. Như vậy nên biết phúc đức của Bí-sô
tăng trưởng, thiện pháp không suy giảm.
4. Này các Bí-sô, những khát ái cùng tham câu
sinh với hỷ mong muốn về tương lai, do các nghiệp tương tục nên luân hồi.
Bí-sô trừ bỏ thứ này thì biết được sống an ổn, làm cho phúc đức của Bí-sô tăng
trưởng, thiện pháp không suy giảm.
5. Này các Bí-sô, đối với vị xuất gia đã lâu,
tịnh tu phạm hạnh mãn hai mươi hạ, bậc trưởng lão, kỳ túc được Ðại-sư khen
ngợi, là vị tri-thức cho các vị đồng phạm hạnh, đại chúng đều cung kính tôn
trọng cúng dường và hoan hỷ nghe theo những lời họ dạy bảo. Như vậy nên biết
phúc đức của Bí-sô tăng trưởng, thiện pháp không suy giảm.
6. Này các Bí-sô, nếu Bí-sô cư ngụ ở nơi thanh
vắng yên tịnh, nhận ngọa cụ tầm thường với tâm hoan hỷ biết đủ; nên biết phúc
đức của Bí-sô tăng trưởng, thiện pháp không suy giảm.
7. Này các Bí-sô, nếu Bí-sô đối với các vị
đồng phạm hạnh có tâm ân cần tôn trọng, thường giữ chánh niệm mong mỏi những
vị đồng phạm hạnh chưa đến xin đến đây, những vị đã đến làm cho sống an lạc,
tâm không nhàm chán việc cung cấp y phục mới, thức ăn, ngọa cụ, thuốc trị
bệnh, vật cần dùng, không để thiếu thốn ... phúc đức của Bí-sô tăng trưởng,
thiện pháp không suy giảm.
- Này các Bí-sô! Khi thường thực hành bảy pháp
như vậy, nên biết thiện pháp của Bí-sô luôn tăng trưởng, không bị suy giảm, sống
an lạc.
Này các Bí-sô, lại có bảy pháp không suy giảm mà
các ông hãy lắng nghe. Bảy pháp đó là:
1. Nếu đối với Bâïc Ðại-sư, các Bí-sô cung
kính cúng dường, tôn trọng tán thán. Khi hành động như vậy, được sống an lạc,
làm cho chúng Bí-sô tăng trưởng, thiện pháp không suy giảm.
2 đến 7. Như vậy, nên biết các Bí-sô đối với
pháp, với giới, với việc được dạy bảo, với việc không phóng dật, với việc ngọa
cụ, với việc tu tập thiền định, có tâm tôn trọng cung kính cúng dường. Khi
hành động như vậy thì sống an lạc làm cho chúng Bí-sô được tăng trưởng, thiện
pháp không suy giảm.
- Này các Bí-sô! Lại có bảy pháp không suy giảm
khác mà các ông hãy lắng nghe. Bảy pháp đó là: Nếu các Bí-sô không ưa thích làm
các việc thế sự, không ưa nói nhiều, không ưa thích ngủ nghỉ, không ưa tụ tập,
không ưa thân cận bạn xấu, không tham danh lợi, thường tham vấn người khác về
việc tu tập thiền định, không thỏa mãn với sự chứng pháp tăng thượng mà luôn
tinh tấn không ngừng nghỉ cho đến khi chứng đắc chân-thật-đế. Khi tu tập như
vậy, được sống an lạc làm cho chúng Bí-sô được tăng trưởng, thiện pháp không suy
giảm.
- Này các Bí-sô! Lại có bảy pháp
không suy giảm khác mà các ông nên lắng nghe. Bảy pháp đó là: Bí-sô nào có tín
tâm thanh tịnh, tàm, quý, đủ đại tinh tấn, niệm, định, tuệ. Khi tu tập như vậy
được sống an lạc, làm cho chúng Bí-sô được tăng trưởng, thiện pháp không bị tổn
giảm.
- Này các Bí-sô, lại có bảy pháp không suy giảm
khác mà các ông nên lắng nghe. Bảy pháp đó là: Biết pháp, biết nghĩa, biết thời,
biết tri túc, biết tự thân, biết môn đồ, biết hành động của người khác. Khi tu
tập như vậy được sống an lạc, làm cho chúng Bí-sô được tăng trưởng, thiện pháp
không bị tổn giảm.
- Này các Bí-sô! Lại có bảy pháp không suy giảm
khác mà các ông nên lắng nghe. Bảy pháp đó là: Các Bí-sô khi tu tập quán sát về
niệm giác phần, sống nơi hoàn toàn yên tịnh, sống ly dục, sống tịch diệt xa lìa
tai nạn. Cũng như vậy, khi Bí-sô tu tập quán sát về trạch-pháp, tinh-cần,
khinh-an, định, xả giác phần, sống nơi hoàn toàn yên tịnh, sống ly dục, xa lìa
tai nạn. Khi tu tập như vậy, được sống an lạc làm cho chúng Bí-sô tăng trưởng,
thiện pháp không suy giảm.
- Này các Bí-sô! Ðấy là bảy pháp làm cho không
suy giảm, cần phải thường xuyên tu tập. Các ông phải nhất tâm ân cần hộ trì làm
cho chúng Bí-sô được tăng trưởng, thiện pháp không suy giảm.
Này các Bí-sô! Lại có sáu pháp làm cho người
khác hoan hỷ, hãy chú ý lắng nghe Ta nói. Sáu pháp ấy là:
1. Thân nghiệp của ta nên thực hành từ bi,
nghĩa là đối với Bậc Ðại-sư và các vị hiền thánh đồng phạm hạnh, ta đem thân
kính lễ với thiện tâm từ bi, quét dọn lau chùi nền nhà, rắc hoa, đốt hương
cúng dường, hoặc xoa bóp tay chân cho các vị ấy, tùy lúc phục vụ cung cấp khi
họ bị bệnh. Khi ta thực hành như vậy làm cho vị khác hoan hỷ, thương mến kính
trọng thân cận nhau, hòa hợp hỗ trợ không tranh cãi nhau, một lòng làm việc
như nước hòa với sữa.
2. Ngữ nghiệp của ta nên thực hành từ bi,
nghĩa là đối với Bậc Ðại-sư và các vị hiền thánh đồng phạm hạnh, ta phải phát
sinh thiện tâm từ bi dùng nói khen ngợi đức độ tốt đẹp chân thật của họ làm
cho những người chưa nghe được nghe, đọc tụng pháp suốt ngày đêm không nghỉ.
Khi ta tu tập như vậy làm cho vị khác hoan hỷ, yêu mến kính trọng cùng nhau
thân cận, hòa hợp giúp đỡ nhau không có tranh cãi, một lòng làm việc như nước
hòa với sữa.
3. Ý nghiệp của ta nên thực hành từ bi, nghĩa
là đối với các vị hiền thánh đồng phạm hạnh, ta phải phát sinh thiện tâm từ bi
không có ý tư?ng gây hại, ganh ghét, hành động thân nghiệp và ngữ nghiệp luôn
luôn với suy nghĩ từ bi không cho đoạn tuyệt, dù gặp tai nạn cũng không mất
chánh niệm huống chi lúc bình thường. Với các loài chúng sinh, ta phải có tâm
từ bi, không giết chết, không gây đau khổ cho chúng. Ta phải xa lìa phiền não,
đạt đến chỗ giải thoát. Khi ta thực hành như vậy, làm cho vị khác hoan hỷ, yêu
mến kính trọng cùng nhau thân cận, hòa hợp giúp đỡ nhau không có tranh cãi,
một lòng làm việc như nước hòa với sữa.
4. Ðối với những lợi dưỡng nhận được như pháp,
cho đến một chút thức ăn trong bát, ta đều hoan hỷ cùng hưởng thụ chung với vị
khác, không ăn riêng, không có lòng hơn thua với các vị đồng phạm hành. Khi ta
thực hành như vậy làm cho vị khác hoan hỷ, yêu mến kính trọng cùng nhau thân
cận, hòa hợp giúp đỡ nhau không có tranh cãi, một lòng làm việc như nước hòa
với sữa.
5. Ðối với giới đã thọ, không nứt, không lủng,
không vỡ, không cấu, không uế, ta giữ gìn thanh tịnh từ đầu đến cuối, được bậc
trí khen ngợi, không bị các vị đồng phạm hạnh khinh bỉ, cùng giữ tịnh giới,
đồng hưởng pháp thực. Khi ta thực hành như vậy, làm cho vị khác hoan hỷ ...
như nước hòa với sữa.
6. Ðối với những chánh kiến đã có, không còn
nghi ngờ, là pháp xuất ly của bậc Thánh không thể bị phá hoại, mau vượt qua
cảnh giới khổ, ta cùng trao đổi với các vị đồng phạm hạnh những tri kiến này.
Khi ta thực hành như vậy, làm cho vị khác hoan hỷ ... như nước hòa với sữa.
- Này các Bí-sô, đây là sáu pháp hoan hỷ, phải
thường xuyên tu tập, ân cần hộ trì, làm cho chúng Bí-sô được tăng trưởng, thiện
pháp không suy giảm.
Nghe đức Phật dạy như vậy, các Bí-sô đều hoan hỷ
tín thọ phụng hành.
CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ
TỲ-NẠI-DA-TẠP-SỰ
Quyển thứ ba mươi lăm hết.
--- o0o ---
--- o0o ---
Source:
BuddhaSasana website (
By Binh Anson)
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày 01-11-2002