Ðại Tạng No. 1451
CĂN BẢN THUYẾT
NHẤT THIẾT HỮU BỘ
- Mùla-Sarvàstivàda -
TỲ-NẠI-DA TẠP SỰ
-
Mùla-Sarvàstivàda Vinaya Ksudraka Vastu -
(Cuộc đời đức Phật và các đệ tử)
Hán dịch:
Tam Tạng Nghĩa Tịnh, đời Ðường, Trung Quốc
Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh, PL 2542 - TL 1998
--- o0o ---
Thành kính đảnh lễ đức Thế
Tôn, Ngài là bậc Ứng Cúng, Ðấng Chánh Biến Tri.
Quyển thứ mười
ba
--- ooOoo ---
Nhiếp tụng tổng biệt môn thứ ba:
Tam y cập y giá
Hà biên tạo tự diêm
Thức diện, thức thân cân
Tự tọa đao ưng súc.
Nhiếp tụng một trong biệt môn thứ
ba:
Tam y điều diệp lượng
Sàng khước phất du trần
Hành xứ trước cù du
Chử thạch tu thính hứa.
* Duyên khởi tại thành Thất La
Phiệt. Như Phật dạy:
- Các Bí-sô nên dùng chi phạt la
(y) cắt rọc.
Các Bí-sô cắt rọc vải, điều dài
điều ngắn không đều nhau nên đem việc này bạch Phật.
Phật dạy:
- Ðiều dài, điều ngắn không nên so
le, nên cắt cho bằng nhau.
Họ không biết cắt bằng nhau như thế
nào. Phật dạy:
- Ðiều dài điều ngắn tùy theo cỡ
của nó, nên dùng miếng tre để định cỡ dài ngắn.
* Duyên xứ như trước.
Các Bí-sô làm y, cắt từng lá điều
không cân đối nhau làm cho tấm y không đẹp. Họ đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:
- Khi làm y nên cắt lá điều cân đối
nhau.
Bí-sô không biết thế nào là cân
đối.
Phật dạy:
- Nên dùng miếng tre để đo cỡ rộng
hẹp, sau đó mới cắt.
Như lời Phật dạy nên đo cỡ lá y,
các Bí-sô làm lá y quá lớn. Phật dạy:
- Không nên làm quá lớn, nhưng có
ba cỡ lá điều là lớn vừa và nhỏ. Cỡ lớn rộng bốn ngón tay, hoặc bằng gang chân
con quạ. Cỡ nhỏ bằng hai ngón tay hay bằng mặt ngón cái. Cở vừa là trung bình
hai khoảng trên.
Các Bí-sô may y nơi đất bẩn làm y
bị dơ. Phật dạy:
- Nên quét sạch đất, dùng phân bò
trát láng nền, chờ khô sạch rồi may y trên đó.
Phật dạy:
- Nên làm nền, gặp nơi khó có phân
bò.
Phật dạy:
- Dùng nước rưới lên đất, quét sạch
rồi làm y ở trên.
* Duyên xứ như trước. Các Bí-sô sắm
giường chân nhọn làm nền đất bị hư. Phật dạy:
- Không được làm chân giường bén
nhọn, nên cắt cho bằng.
Nhưng vẫn còn hư nền đất, Phật dạy:
- Nên dùng bọc trấu đặt dưới chân
giường hoặc bó bằng vải cũ.
* Duyên xứ như trước. Có Bà-la-môn
nọ ra khỏi thành, đi du ngoạn, muốn nghỉ mệt nên vào rừng Thệ Ða. Gặp giờ ăn,
ông này thấy nơi dọn ăn bày biện chỗ ngồi xinh đẹp và thức ăn uống thơm ngon,
nên cho là hiến có và phát tín tâm, nên cổi tấm áo của mình trải lên chổ ngồi
trên, rồi đi ra khỏi cửa. Sau đó một thời gian, tấm áo bị dơ bẩn, vị tri sự đem
tấm áo trải xuống chỗ ngồi dưới. Sau đó, vì có việc cần, vị Bà-la-môn kia lại
vào chùa, đến nơi nhà ăn, không thấy tấm áo ở chỗ ngồi trên nữa. Lần lượt đi tìm
thấy trải ở tòa dưới, ông ta suy nghĩ: "Tấm áo của ta còn mới lại là vật quý
giá, vì sao nay lại dơ bẩn thế này, hãy nán lại một lúc, xem vì sao như vậy ".
Ông ta thấy vị tri sự bố trí chỗ
ngồi xong, dùng tấm áo quét đất. Thấy vậy, biết rõ vì sao tấm áo bị dơ nên ông
ta nói với vị tri sự:
- Ðây là việc nhỏ mà ngài không
biết hay sao? Nên rưới nước trước, rồi quét cho sạch, sau đó mới trải chỗ ngồi.
Vì không biết nên mới làm hư áo của tôi.
Vị tri sự xấu hổ bỏ đi. Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:
- Mỗi khi sắp dọn chỗ ngồi nơi nào,
trước rưới nước, sau đó quét cho sạch, rồi mới trải tòa là đúng pháp.
Khi ấy, người tri sự trải tấm nệm
trên chỗ ngồi có bụi đất làm cho dơ bẩn, bị lỗi như trước. Phật dạy:
- Trước phải quét sạch sàng tòa,
sau đó mới trải tấm nệm.
Bí-sô không biết lấy gì lau quét,
Phật dạy:
- Nên lấy một góc áo lau sàng tòa.
Khi ấy, người tri sự dùng áo còn
tốt để quét, Phật dạy:
- Nên dùng áo cũ.
Người tri sự dùng áo cũ để lau, lâu
ngày hư rách nên vứt bỏ hết. Phật dạy:
- Không nên vứt ngay, xé ra từng
tua nhỏ cột trên đầu gậy làm chổi quét sàng tòa.
Dùng chổi này quá lâu, không còn xử
dụng được, họ đem bỏ. Phật dạy:
- Tuy không còn dùng được, nhưng
không nên vứt bỏ, nên băm nhỏ trọn với bùn và phân bò để bít lỗ cột, hoặc tô
vách bị nứt, vì muốn cho phước lợi của thí chủ tăng thêm.
* Duyên xứ như trước. Một Bí-sô trẻ
tuổi thường xuyên kinh hành ở một chỗ, làm cho đất nơi kinh hành bị hư lở. Có
một trưởng giả vào chùa chiêm bái, đến chỗ kinh hành, suy nghĩ: "Mặt đất còn hư
như thế, vậy chân của thánh giả ấy như thế nào!" Sau khi suy nghĩ, ông ta hỏi:
- Thánh giả, ai làm cho mặt đất nơi
này bị hư lở vậy? Mong ngài đưa chân lên cho con được xem.
Bí-sô giở chân lên, da chân đều bị
rách lủng. Thấy vậy, trưởng giả sinh thương xót, thưa:
- Thánh giả, con có tấm thảm, muốn
trải trên đường kinh hành để chân Ngài không bị thương.
Ðáp:
- Trưởng giả, đức Phật chưa cho
phép.
- Thánh giả, Ðức Ðại-sư của ngài có
lòng từ niệm, chắc chắn cho phép việc này.
Bí-sô đem việc này bạch Phật. Phật
dạy:
- Nay, Ta cho phép Bí-sô tinh cần
sách tấn kinh hành, được tùy ý dùng tấm thảm, không phạm.
Bí-sô đến bảo trưởng giả được phép
trải thảm. Bí-sô nhận lấy, đi kinh hành quá nhiều nên làm đứt ra hai đoạn, mỗi
phần một bên. Trưởng giả thấy tấm thảm bị bỏ phế, hỏi:
- Thánh giả, vì sao tấm thảm bị bỏ
phế ở đây, nếu thấy chỗ hư sao không may sửa lại?
Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật
dạy:
- Lành thay! Lời nói của trưởng giả
thật đúng. Thấy có chỗ hư nên may lại hoặc dùng vật khác tu bổ. Nếu nó quá hư
nát không thể sửa chửa được, nên dùng trộn bùn hoặc trộn phân bò trát láng nơi
kinh hành, làm cho thí chủ tăng trưởng phước điền.
* Duyên xứ như trước. Có Bí-sô bị
bệnh đến gặp y sĩ bảo:
- Hiền thủ, tôi có bệnh như vậy,
xin ngài điều trị.
Y sĩ đáp:
- Thánh giả! Hãy dùng thuốc như vậy
sẽ bình phục.
Nhận toa thuốc xong, Bí-sô trở về
trú xứ. Khi điều chế thuốc, Bí-sô cần chày đá nên đến nhà khác mượn về dùng.
Ðược họ cho mượn, Bí-sô dùng nghiền thuốc xong đem trả lại. Họ đáp:
- Thánh giả! Con cúng vật này, ngài
tùy ý đem về.
Ðáp:
- Ðức Phật chưa cho phép.
- Nếu vậy, Ngài hãy để dưới đất rồi
đi.
Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:
- Nay, Ta cho phép giữ chày đá và
trục. Nếu họ dâng cúng tùy ý nhận lấy.
Nhiếp tụng hai trong biệt môn ba:
Y giá tinh đăng lung
Vật sử trùng thương tổn
Nhiệt khai tam diện xá
Khả ký Nan-đà thân.
* Duyên tại thành Thất La Phiệt.
Các Bí-sô để bừa bải y phục có nhiều cáu bẩn, nên bị trùng muổi cắn phá hư lủng.
Bí-sô bạch Phật.
Phật dạy:
- Không được để y phục một cách bừa
bải, nên làm giá mắc y phục.
Bí-sô đục vách để mắc y phục làm
vách bị hư. Phật dạy:
- Không nên đục vách. Khi xây chùa
nên chừa giá gỗ, trên đặt sào mắc y phục.
Trong phòng, Bí-sô đặt sào mắc y
phục, không làm trước hiên. Phật dạy:
- Trước hiên cũng làm chớ bỏ phế.
* Duyên xứ như trước. Như Phật dạy
nên làm giá mắc y. Bí-sô ở Lan nhã không tìm được tre. Phật dạy:
- Nên dùng dây sắn treo ngang để
mắc y.
* Duyên xứ như trước. Như Thế Tôn
dạy, đêm tối nên tụng kinh. Khi họ tụng kinh, có rắn bò đến. Người nhỏ tuổi thấy
vậy kinh sợ kêu lớn:
- Xương dài! Xương dài.
Các Bí-sô phàm phu đều kinh sợ, làm
cho người nghe kinh bị gián đoạn. Họ đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:
- Nên thắp đèn lên để tụng kinh.
Vào mùa hạ, Bí-sô đốt đèn làm chết
trùng. Phật dạy:
- Nên làm lồng che đèn.
Bí-sô không biết làm. Phật dạy:
- Nên dùng thanh tre làm lồng, lấy
vải mỏng che lại. Nếu khó tìm vật này thì dùng tấm vân mẫu để che. Nếu khó tìm
vật này, thì làm bình trăm mắt.
Bí-sô không biết nên làm thế nào.
Phật dạy:
- Bảo thợ gốm làm lồng che đèn bằng
gốm, chung quanh xoi nhiều lỗ nhỏ.
Khó tìm thợ gốm, Phật dạy:
- Nên dùng ống bằng đất, bỏ phần
đáy, xoi nhiều lỗ nhỏ chung quanh. Ðặt dĩa đèn ổn định xong, chụp ống lên trên.
Nếu có trùng chui vào lỗ, nên dùng giấy lụa hay vật mỏng để che lại.
* Duyên xứ như trước. Vào mùa nắng
gắt, Bí-sô khổ vì nóng, thân thể vàng vọt, gầy ốm yếu ớt. Khi ấy, tuy biết nhưng
Thế Tôn cố hỏi Cụ thọ A Nan Ðà:
- Vì sao thân thể các Bí-sô bị vàng
vọt gầy ốm yếu ớt?
Tôn giả thưa lại việc trên. Phật
dạy:
- Nên làm nhà hóng mát.
Bí-sô không biết làm như thế nào.
Phật dạy:
- Nên gần ngoài chùa làm nhà ba
mặt. Ba mặt làm vách phên có cây chống lên, che sơ để gió lồng vào, không giống
với chùa bốn mặt có vách.
Bí-sô làm vách bên trong, bên ngoài
bố trí hàng cột. Phật dạy:
- Nên an trí cột ở giữa.
Họ lại không mở cửa sổ làm bên
trong bị nóng. Phật dạy:
- Nên làm cửa sổ.
Khi họ làm cửa hoặc quá cao hay quá
thấp. Phật dạy:
- Nên làm ngang bằng với giường.
Có nhiều chim sẻ bay vào phòng.
Phật dạy:
- Nên làm song cửa ngăn chúng bay
vào; bị mưa gió tạt vào, nên làm cánh cửa sổ.
Khi ăn, Bí-sô đóng cửa, làm phòng
bị tối. Phật dạy:
- Khi ăn nên mở cửa. Trời nóng,
Bí-sô ở trong phòng, chỉ mặc y dưới và tăng khước kỳ, tùy ý đọc tụng, thuyết
pháp, làm y phục ... trong bốn uy nghi đều không phạm.
* Duyên xứ như trước. Bấy giờ, Thế
Tôn đã cho Nan Ðà cạo tóc xuất gia và thọ cận viên rồi đưa đến núi Hương túy,
trời 33, và địa ngục, xem xét khắp một vòng rồi trở về rừng Thệ Ða. Các Bí-sô
khách chưa biết Nan Ðà. Thấy thân hình vị này màu vàng kim đủ ba mươi tướng
trang nghiêm, Bí-sô già cho là đức Như Lai nên đứng dậy nghênh tiếp. Khi biết
ra, Bí-sô này xấu hổ. Bí-sô đem việc này bạch Phật.
Phật dạy:
- Nên nhớ rõ y phục của Nan Ðà. Nếu
có người như vậy, cũng nên ghi nhớ, đây là Bậc Chánh Giác, đây là người khác.
Nhiếp tụng ba trong biệt môn thứ
ba:
Hà biên chế xỉ mộc
La hổ khiển xuất môn
Hợp ha, bất hợp ha
Nhị hành ưng dữ phục.
* Duyên khởi tại thành Thất La
Phiệt. Khi ấy, các Bí-sô ở bên bờ sông Thắng Tuệ, dùng phương tiện thiện xảo
sách tấn siêng năng tu tập, đoạn các phiền não chứng quả A-la-hán. Khi ấy, các
Bí-sô với uy nghi đĩnh đạc, hành động đàng hoàng, làm cho mọi người rất kính
tín.Thế Tôn bảo các Bí-sô:
- Dân chúng trong những làng xóm
gần trú xứ của các Bí-sô bên cạnh sông Thắng Tuệ được nhiều lợi ích tốt đẹp.
Nghe Phật nói như vậy, cụ thọ A Nan
Ðà hiểu được ý nghĩa ấy vì do làm thị giả gần gủi lâu ngày với bậc Ðại Sư, hoặc
nghe lời nói, hoặc thấy hành động, đều có thể hiểu ý. Nếu Thế Tôn muốn gặp nên
nói ra lời khen ngợi, Tôn giả liền hiểu và gửi lời đến báo cho các Bí-sô ở bờ
sông Thắng Tuệ:
- Các Cụ thọ! Thế Tôn khen ngợi
muốn gặp, các vị hãy đến đây gặp Ngài.
Nghe như vậy, các vị ấy bảo nhau:
- Ðức Thế Tôn có lời khen chúng
ta,việc này cần phải gặp, chúng ta nên làm gì đây?
Một người bảo:
- Còn làm gì nữa, chúng ta nên đi,
không quan sát thì biết làm việc gì, nếu không quan sát thì bậc A-la-hán cũng
không dự liệu được.
Sau khi cùng bàn luận, đi là việc
tốt, họ thưa với các Bí-sô:
- Quý vị nên biết, Ðại sư Thế Tôn
tán thán chúng tôi, ý Ngài muốn gặp, vậy lúc này có thể đi.
Các Bí-sô nói:
- Nếu vậy, chúng tôi cùng đi.
Họ cùng nhau lên đường, đi bộ dần
dần đến thành Thất La Phiệt. Các Bí-sô cựu trú ra tiếp đón thăm hỏi làm cho
ngoài chùa có tiếng ồn ào. Nghe như vậy, tuy biết nhưng Thế Tôn vẫn hỏi A Nan
Ðà:
- Vì sao ngoài chùa có tiếng ồn ào
lớn vậy?
A Nan Ðà thưa:
- Chúng Bí-sô ở bờ sông Thắng Tuệ
cùng nhau đến, tạm thời đang ở ngoài chùa. Những vị trong chùa ra nghênh tiếp,
cùng nhau thăm hỏi nên ồn ào như vậy.
Thế Tôn bảo A Nan Ðà:
- Thầy hãy đến bảo các Bí-sô ở bờ
sông Thắng Tuệ nên đi nơi khác, không được ở đây.
Tuân lệnh của Phật, Tôn giả đến bảo
các Bí-sô:
- Cụ thọ nên biết! Thế Tôn có lệnh
các vị hãy đi nơi khác, chớ có ở đây.
Nghe như vậy, các vị ấy thu xếp y
bát đi vào nhân gian. Thế Tôn bảo các Bí-sô:
- Những thôn xóm chỗ ở nào, có các
Bí-sô ở bờ sông Thắng Tuệ trú lại, dân chúng ở chung quanh vùng ấy đều được lợi
ích lớn.
Nghe như vậy, A Nan Ðà nhắn tin đến
cho họ. Dù trở lại đến ba lần, các Bí-sô cũng mặc y mang bát du hành nhân
gian.Khi ấy, Thế Tôn lại bảo các Bí-sô:
- Những người sống gần chỗ cư trú
của các Bí-sô ở bờ sông Thắng Tuệ đều được lợi ích.
Nghe Phật tán thán họ, A Nan Ðà lại
sai người đưa tin cho họ. Các Bí-sô ấy cùng nhau bàn luận:
- Các Cụ thọ! Vì sao Thế Tôn khen
ngợi và muốn gặp chúng ta, nhưng nhiều lần đến gặp đều bị Ngài bảo đi nơi khác.
Chắc là chúng ta nói ồn ào với nhiều người nên bị đuổi đi. Nay, chúng ta nên bảo
mọi người đến im lặng.
Bấy giờ, các Bí-sô lặng lẽ mang y
bát, đến gặp Thế Tôn, lạy sát chân Phật, ngồi qua một bên. Ðức Phật bảo cụ thọ A
Nan Ðà:
- Thầy hãy tìm căn phòng nào yên
tịnh, xếp đặt chỗ ngồi cho Ta và các Bí-sô ở bờ sông Thắng Tuệ.
Vâng lời Phật, xếp đặt chỗ xong, Tôn giả A Nan đến gặp Phật,
thưa:
- Ðại Ðức! Con đã xếp đặt chỗ ở tại
một nơi, xin Phật định liệu.
Sau khi đi đến chỗ ở của các Bí-sô
bờ sông Thắng Tuệ, rửa chân ngoài cửa, Thế Tôn vào phòng và trải tòa ngồi kiết
già ngay thẳng đặt niệm trước mặt. Các Bí-sô cũng rửa chân, vào phòng ngồi yên
đặt niệm trước mặt. Khi ấy, Thế Tôn nhập sơ định. Các Bí-sô bên bờ sông Thắng
Tuệ cũng vào sơ định. Xuất khỏi sơ định, Thế Tôn nhập vào định thứ hai, thứ ba,
thứ tư rồi lần lượt nhập vào không xứ, thức xứ, vô sở hữu xứ, rồi phi tưởng phi
phi tưởng xứ. Các Bí-sô ở bờ sông Thắng Tuệ cũng như vậy, nhập và xuất các định
theo Thế Tôn. Thế Tôn xuất khỏi phi tưởng phi phi tưởng vào vô sở hữu định ...
cho đến vào sơ định. Các Bí-sô cũng như vậy, nhập vào sơ định.
Thế Tôn suy nghĩ: "Ta vào sơ định,
các Bí-sô cũng vào sơ định. Ta vào đến phi tưởng phi phi tưởng định, các Bí-sô
cũng vào định này. Ta lại từ phi tưởng phi phi tưởng xuất ra cho đến về lại sơ
định, các Bí-sô cũng đồng như Ta. Nay, ta nên biểu hiện tướng trạng khác để vào
sơ định, không thuộc cảnh giới hoạt động của Ðộc giác, Thanh văn". Sau khi suy
nghĩ như vậy, Thế Tôn nhập vào định ấy.
Sau khi bảo nhau: - Các vị nên
biết! Ðại sư Thế Tôn đang trú trong định của mình, chúng ta cũng nên trú trong
định của mình. Các Bí-sô liền trú trong định của mình.
Ðến sáng sớm, Thế Tôn xuất khỏi
định. Ðại chúng đều tập họp. Ðức Phật trải tòa ngồi giữa đại chúng. Khi ấy, cụ
thọ A Nan Ðà rời tòa đứng dậy, chỉnh y phục bày vai phải, lạy sát hai chân Phật,
quỳ gối phải xuống đất, chắp tay cung kính bạch Phật:
- Ðại Ðức! Thế Tôn thường khen ngợi
các chúng Bí-sô ở bờ sông Thắng Tuệ, ý muốn gặp họ. Khi các Bí-sô cùng đến đây
lại không được Ngài thăm hỏi gì đến cả?
Phật bảo:
- Này A Nan Ðà! Ta đã cùng nói
chuyện với họ rồi, y vào thánh ngữ thánh pháp luật để an ủi họ.
A Nan Ðà bạch Phật:
- Con chưa hiểu thế nào là dùng
thánh ngữ thánh pháp luật an ủi nhau.
- Này A Nan Ðà! Như Ta cùng các
Bí-sô đều rửa chân ngoài cửa xong, thứ tự vào phòng an tọa, ngồi thẳng người đặt
niệm trước mặt. Ta nhập sơ định, các Bí-sô bờ sông cũng vào sơ định. Ta xuất sơ
định, vào nhị, tam, tứ định, rồi vào không xứ, thức xứ, vô sở hữu xứ, rồi vào
định phi tưởng phi phi tưởng xứ. Các Bí-sô bờ sông cũng như vậy, nhập và xuất
các định theo Ta. Ta xuất khỏi định phi tưởng phi tưởng xứ, vào vô sở hữu xứ
định, rồi Ta lần lượt trở lại sơ định. Các Bí-sô ấy cũng vậy, về lại sơ định.
Này A Nan Ðà! Sau khi suy nghĩ: "Nay Ta nên biểu hiện tướng trạng khác để vào sơ
định không thuộc cảnh giới hoạt động của Ðộc giác, Thanh văn, Ta nhập vào định
ấy". Bấy giờ, các Bí-sô bờ sông nói với nhau: - "Ðại sư Thế Tôn trú nơi định của
mình, vậy chúng ta cũng nên trú nơi định của mình". Này A Nan Ðà! Ðây là dùng
thánh ngữ, thánh pháp luật để an ủi nhau. Ta đã an ủi họ như vậy.
A Nan Ðà bạch Phật:
- Lành thay! Thưa Ðại Ðức, an ủi
nhau bằng thánh ngữ, thánh pháp luật. Rất tốt! Thưa Thế Tôn, an ủi nhau bằng
thánh ngữ, thánh pháp luật. Thế Tôn đã cùng với các Bí-sô bờ sông an ủi nhau
bằng thánh ngữ, thánh pháp luật.
Lời nói này được phổ biến khắp nơi,
mọi người nói với nhau:
- Ðức Phật cùng các Bí-sô bờ sông
dùng thánh ngữ, thánh pháp luật để an ủi nhau.
Nghe sự việc như vậy, các trưởng
giả, Bà-la-môn đều đến lễ bái các Bí-sô bờ sông. Các Bí-sô này thuyết giảng pháp
yếu cho các trưởng giả Bà-la-môn nghe. Miệng các Bí-sô có mùi hôi. Bấy giờ,
những người ở hai bên liếc tìm xem, bảo nhau:
- Mùi hôi này từ đâu bay đến đây?
Các Bí-sô nói:
- Mùi hôi này từ miệng tôi bay ra.
- Thánh giả! Chẳng lẽ hằng ngày quý
ngài không đánh răng hay sao?
Ðáp:
- Không đánh.
- Vì sao vậy?
Các Bí-sô nói:
- Phật chưa cho phép.
Ðáp:
- Thánh giả! Nếu không đánh răng mà
thanh tịnh hay sao?
Các Bí-sô đành im lặng chẳng biết
nói gì, đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:
- Các Bà-la-môn trưởng giả kia có
hành động chê trách là đúng phép . Tại nơi khác, Ta đã dạy các Bí-sô đánh răng
nhưng các ngươi không biết. Vì sao? Ðánh răng có năm lợi ích. Thế nào là năm?
1- Trừ bệnh nóng vàng
2- Trừ đàm nóng
3- Miệng không hôi hám
4- Dễ ăn uống
5- Mắt sáng sạch.
Khi Phật đã chế Bí-sô dùng cây xỉa
răng. Có một Bí-sô trẻ tuổi dùng cây ngắn xỉa răng ở chỗ trống. Thấy Thế Tôn đi
đến, Bí-sô này rất xấu hổ, suy nghĩ: "Làm sao trước mặt Thế Tôn mà nhả cây xỉa
răng ".Vì vậy, vị này liền nuốt cây xỉa răng và bị mắc trong cổ họng. Thường
pháp của chư Phật là luôn luôn chánh niệm. Khi ấy, Thế Tôn đưa bàn tay trái
trang nghiêm bằng vô lượng trăm ngàn công đức với chữ Vạn xoay quanh có thể trừ
sợ hãi, ban cho sự an ổn, giữ lấy đầu của Bí-sô trẻ tuổi, đưa ngón tay phải vào
họng vị kia, móc cây xỉa răng ra kéo theo cả máu. Thế Tôn bảo:
- Thầy làm gì vậy?
Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Sau
khi suy nghĩ, xỉa răng tại nơi trống trải có lỗi như vậy, Phật bảo các Bí-sô:
- Có một Bí-sô trẻ tuổi xỉa răng
tại nơi trống trải gây ra lỗi lầm như vậy. Thế nên, các Bí-sô tại nơi trống trải
không được xỉa răng và không được dùng cây xỉa răng ngắn. Bí-sô nào vi phạm bị
tội vượt pháp.
Như lời Phật dạy, Bí-sô không được ngồi xỉa răng nơi trống trải,
có Bí-sô trẻ tuổi ngồi xỉa răng trước vị lớn tuổi. Phật dạy:
- Không nên như vậy. Có ba việc nên
làm chỗ khuất là đại tiện, tiểu tiện và xỉa răng. Không được dùng cây xỉa răng
quá ngắn.
Bấy giờ, Lục chúng dùng cây xỉa
răng quá dài, các Bí-sô thấy vậy cùng sinh cơ hiềm, bảo:
- Cụ thọ! Có phải các vị cầm gậy để giỡn hay sao?
Ðáp:
- Phật dạy đánh răng, sao gọi là
giỡn? Các vị không thấy người kia do xỉa răng bằng cây ngắn mà sắp chết, nhờ
Phật cứu hộ mới được sống lại. Lẽ nào vì hy vọng được lấy y bát của tôi mà các
vị mong tôi chết sớm để cùng nhau làm yết ma hay sao? Nhưng cây xỉa răng dài
cũng có chỗ lợi ích: 1- Dùng nhen lửa nấu cơm; 2- Dùng đánh mấy thầy nhỏ.
Nghe như vậy, các Bí-sô im lặng
bạch Phật. Phật dạy:
- Bí-sô không nên dùng cây xỉa răng
dài. Ai dùng cây xỉa răng dài bị tội vượt pháp.
Bí-sô không biết thế nào là cây xỉa
răng dài ngắn.
Phật dạy:
- Có ba loại là dài mười ngón tay,
ngắn tám ngón, vừa trung bình giữa hai loại trên.
Phật dạy:
- Nên xỉa răng ở chỗ khuất.
Có Bí-sô già bệnh suy nhược không
thể đi đến chỗ khuất. Phật dạy:
- Người bệnh nên sắm bồn súc miệng.
Bí-sô xử dụng bồn đất tùy tiện và
để trong phòng, đụng vào làm nghiêng đổ nước dơ, bẩn mặt đất. Phật dạy:
- Bồn súc miệng, hình dạng như dấu
chân voi.
Khi ấy, có Bí-sô tìm bồn không có.
Phật dạy:
- Nên đến bên cạnh cống nước để
đánh răng.
Bí-sô đánh răng xa miệng cống. Phật dạy:
- Nên gần trong phạm vi một gang
vuông.
Khi Phật chế việc dùng cây xỉa
răng, Bí-sô không biết nạo lưỡi nên miệng bị hôi. Phật dạy:
- Ðánh răng rồi, cần phải nạo lưỡi.
Bí-sô không biết dùng vật gì nạo
lưỡi. Phật dạy:
- Nên sắm cây nạo lưỡi.
Khi Phật đã cho sắm cây nạo lưỡi,
Lục chúng Bí-sô dùng vàng bạc, lưu ly, pha lê, vật quý để làm. Các Bà-la-môn
trưởng giả thấy vậy hỏi:
- Thánh giả, đây là vật gì?
Ðáp:
- Hiền thủ! Thế Tôn bảo chúng tôi
dùng cây nạo lưỡi.
- Lẽ nào Sa-môn Thích tử các ông
còn tham dục lạc hay sao?
Lục chúng nghe nói đành im lặng.Các
Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:
- Bí-sô được chứa bốn loại nạo
lưỡi. Ðó là loại làm bằng đồng, sắt, thâu thạch, đồng đỏ.
Các Bí-sô dùng nạo lưỡi bén, làm
lưỡi bị thương. Phật dạy:
- Không nên làm bén.
Bốn loại trên khó tìm, Phật dạy:
- Nên chẻ cây xỉa răng ra, uốn cong
lại, dùng nạo lưỡi.
Bí-sô chẻ cây xỉa răng ra có dăm,
dùng nạo lưỡi, gây vết thương. Phật dạy:
- Chẻ cây xỉa răng ra, dùng hai
mảnh mài nhau, làm sạch dăm trên mặt rồi mới dùng.
Bí-sô dùng cây chà răng xong, không
lên tiếng, ném trên đầu thiên thần hộ chùa làm cho họ sinh hiềm khích. Phật dạy:
- Không được im lặng ném, nên lên
tiếng. Ai không lên tiếng bị tội vượt pháp.
Bí-sô chỉ lên tiếng trong việc ném
cây chà răng, ngoài ra các việc đại tiểu tiện, khạc nhổ, nhổ nước ... vứt các
vật khác đều không lên tiếng. Phật dạy:
- Phàm có những việc vứt bỏ như vậy
đều phải lên tiếng.
Ðức Ðại sư đã chế dùng cây chà
răng, Bí-sô đột nhiên đi đường, tìm khó có, nên không dám ăn.Phật dạy:
- Không nên bỏ ăn. Nếu không có cây
chà răng, nên dùng tháo đậu, đất bột, phân bò khô hoà cả ba với nước súc cho
sạch miệng; tuỳ ý dùng cơm chớ nghi ngại.
* Duyên khởi như trước. Cụ thọ Xá
Lợi Tử có hai cầu tịch. Một tên Chuẩn Ðà, một tên La Hổ La. Vào lúc nọ, muốn du
hành trong nhân gian, Tôn giả Xá Lợi Tử bảo hai đệ tử:
- Ta muốn du hành trong nhân gian
theo sở thích, hai ngươi ở lại hay đi?
Chuẩn Ðà thưa:
- Ô Ba Ðà Da, con xin đi theo.
La Hổ La thưa:
- Ô Ba Ðà Da, con ở lại đây.
Xá Lợi Tử nói:
- Nếu vậy thì gửi ngươi cho ai?
Ðáp:
- Xin gửi con cho Tôn giả Ô Ðà Dy.
Con sẽ y chỉ vị ấy.
- La Hổ La, vị ấy là người xấu, sợ
làm việc phi pháp.
Ðáp:
- Ô Ba Ðà Da! Con phục vụ vị ấy như
cha, vị ấy làm sao làm việc xấu được?
Sau khi gửi La Hổ La, Xá Lợi Phất
du hành nhân gian. Sau đó chưa lâu, Ô Ðà Dy bảo La Hổ La:
- Ngươi đi làm việc như vậy như vậy
...
Ðáp:
- Không làm!
Ô Ðà Dy tức giận nói:
- Ðồ ngu si! Việc này còn chẳng làm
thì chịu làm việc gì.
La Hổ La nói:
- Chẳng phải ngài là thân giáo sư
và quỹ phạm sư hay sao?
Cơn giận càng tăng, Ô Ðà Dy nắm cổ
La Hổ La lôi ra khỏi cửa chùa. La Hổ La đứng khóc ngoài cửa.
Khi ấy, Bí-sô ny Ðại thế chủ và năm
trăm môn nhân, đến làm lễ Phật, thấy Tôn giả đứng khóc nên hỏi: - Thánh giả La
Hổ La vì sao khóc vậy?
Ðáp:
- Kiều Ðáp Di ơi! Ðại đức Ô Ðà Di
dùng tay kẹp cổ tôi lôi ra khỏi chùa.
Với suy nghĩ: "Ta không nên bỏ mặc
con của Phật ở đây để đi chỗ khác ", Ðại thế chủ cùng môn đồ đứng quanh đó.Thứ
đến có vua Thắng Quang chúa nước Kiều Tát La định vào vườn để lễ Phật, thấy La
Hổ La và hỏi đáp như trước. Sau khi suy nghĩ: "Ta không nên bỏ mặc con Phật và
Phật mẫu ở đây để đi nơi khác ", nhà vua cũng đứng lại đó.Ðến lượt trưởng giả
Cấp Cô Ðộc cũng vào vườn để lễ Phật, thấy La Hổ La và hỏi đáp như trước. Sau khi
suy nghĩ: "Ta không nên để con của Phật, Phật mẫu và nhà vua ở đây để đi nơi
khác ", trưởng giả cũng đứng chung lại đó.
Bấy giờ, ngoài cửa đại chúng tập
họp đông đảo nên có tiếng ồn ào. Ðã biết nhưng Ðại sư Thế Tôn vẫn hỏi Cụ thọ A
Nan Ðà:
- Vì sao ngoài cửa có nhiều người
tụ họp gây tiếng động ồn ào vậy?
Tôn giả đem sự việc trên trình bày
đầy đủ với Phật.Phật hỏi:
- Thật có sự việc Bí-sô này đuổi
Bí-sô khác ra khỏi chùa không?
Ðáp:
- Ðại Ðức! Thật có việc này!
Phật bảo A Nan Ðà:
- Bí-sô chỉ được làm chủ trong
phòng của mình, không được trong phạm vi chùa đuổi Bí-sô khác ra khỏi chùa. Ai
vi phạm bị tội vượt pháp.
Khi Thế Tôn đã chế không được đuổi
Bí-sô ra khỏi chùa, các Bí-sô không dám khiển trách môn nhân đệ tử. Do đó, họ
khinh thường phép tắc không chịu tuân hành.Phật dạy:
- Cần phải khiển trách.
Bí-sô không biết khiển trách như
thế nào. Phật dạy:
- Có năm pháp khiển trách.
1- Không nói chuyện.
2- Không dạy bảo.
3- Không thọ dụng chung.
4- Ngăn thiện sự của họ.
5- Không cho y chỉ.
- Không nói chuyện là không nói
chuyện hỏi đáp với họ.
- Không dạy bảo là không kêu dạy bảo họ việc lợi và hại.
- Không thọ dụng chung là không nhận sự dâng cúng phục vụ của họ, không quan
hệ về y phục, thức ăn và pháp.
- Ngăn thiện sự là không bảo họ làm những việc như tu tập thiện phẩm, thắng sự
...
- Không cho y chỉ là cắt đứt sự quan hệ về y chỉ thầy trò, không ở cùng phòng.