...... ... |
. |
Luận Đại
Trí Độ
( Mahàprajnàparamitàsatra)
Tác giả:
Nàgàrjuna (Long Thọ)
Dịch Phạn ra Hán:
Cưu Ma La Thập
Dịch Hán ra Việt:
Thích Thiện Siêu
Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt
Nam
Ấn hành 1997
---o0o---
Tập 3
Cuốn 46
GIẢI THÍCH: PHẨM
THỪA THỪA THỨ 16
(Kinh Ðại Bát nhã ghi:
Phần 2, phẩm Thừa Ðại thừa thứ 14)
Kinh:
Bấy giờ Tuệ mạng Xá lợi phất hỏi Phú lâu na: Sao gọi là Bồ
tát ma ha tát cưỡi xe lớn (Ðại thừa)?
Phú lâu na đáp Xá lợi phất rằng: Bồ tát ma
ha tát khi tu hành Bát nhã ba la mật cưỡi Thí ba la mật, cũng
chẳng có được Thí ba la mật, cũng chẳng có được Bồ tát, cũng
chẳng có được người thọ nhận vì dùng vô sở đắc (làm phương
tiện – ND); ấy gọi là Bồ tát ma ha tát cưỡi Thí ba la mật.
Bồ tát ma ha tát khi tu hành Bát nhã ba la mật cưỡi Giới ba la
mật, Nhẫn nhục ba la mật, Tinh tấn ba la mật, Thiền ba la mật,
cưỡi Bát nhã ba la mật, cũng chẳng có được Bát nhã ba la mật,
cũng chẳng có được Bồ tát, vì dùng vô sở đắc; ấy gọi là Bồ tát
ma ha tát cưỡi Bát nhã ba la mật.
Như vậy, Xá lợi phất! Ấy gọi là Bồ tát ma
ha tát cưỡi xe lớn.
Lại nữa, Bồ tát ma ha tát cưỡi xe lớn là
nhất tâm tương ưng Trí nhất thiết chủng, tu bốn niệm xứ, vì pháp
hoại (pháp bất khả đắc – ND), cho đến nhất tâm tương ưng
với Trí nhất thiết chủng, tu mười tám pháp không chung, vì pháp
hoại ấy cũng không thể có được. Như vậy, Xá lợi phất! Ấy gọi là
Bồ tát ma ha tát cưỡi xe lớn.
Lại nữa, Xá lợi phất! Bồ tát ma ha tát
nghĩ rằng: Bồ tát chỉ có danh tự, vì chúng sinh không thể có
được, ấy gọi là Bồ tát ma ha tát cưỡi xe lớn.
Lại nữa, Xá lợi phất! Bồ tát ma ha tát
nghĩ rằng: sắc chỉ có danh tự, vì sắc không thể có được; thọ,
tưởng, hành, thức chỉ có danh tự, vì thức không thể có được. Mắt
chỉ có danh tự, vì mắt không thể có được; cho đến ý cũng như
vậy. Bốn niệm xứ chỉ có danh tự, vì bốn niệm xứ không thể có
được; cho đến tám Thánh đạo phần chỉ có danh tự, vì tám Thánh
đạo phần không thể có được. Nội không chỉ có danh tự, vì nội
không không thể có được; cho đến vô pháp hữu pháp không chỉ có
danh tự, vì vô pháp hữu pháp không không thể có được; cho đến
mười tám pháp không chung chỉ có danh tự, vì mười tám pháp không
chung không thể có được. Các pháp như như chỉ có danh tự, vì như
như không thể có được. Pháp tướng, pháp tánh, pháp trụ, pháp vị,
thật tế, chỉ có danh tự, vì thật tế không thể có được. Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác và Phật chỉ có danh tự, vì Phật không thể
có được.
Xá lợi phất! Như vậy gọi là Bồ tát ma ha
tát cưỡi xe lớn.
Lại nữa, Xá lợi phất! Nếu Bồ tát ma ha tát
từ khi mới phát tâm đến nay đầy đủ Bồ tát thần thông, thành tựu
chúng sinh, từ một nước Phật đến một nước Phật cung kính, cúng
dường, tôn trọng, tán thán các đức Phật, theo các đức Phật nghe,
lãnh thọ giáo pháp, gọi là Bồ tát cưỡi xe lớn. Bồ tát cưỡi xe
lớn, từ một nước Phật đến một nước Phật thanh tịnh Phật độ,
thành tựu chúng sinh, ban đầu không có tưởng Phật độ, cũng không
có tưởng chúng sinh, người này trụ trong pháp bất nhị, vì chúng
sinh thọ thân, tùy chỗ ứng hợp của chúng sinh mà tự biến hiện
thân để giáo hóa họ; cho đến khi được Trí nhất thiết, không bao
giờ lìa xe Bồ tát (Bồ tát thừa). Bồ tát ấy được Trí nhất thiết
chủng rồi, chuyển pháp luân mà hàng Thanh văn, Bích chi Phật,
trời, rồng, quỉ, thần, A tu la, nhân dân thế gian không thể
chuyển được. Bấy giờ, chư Phật như số cát sông Hằng ở mười
phương đều hoan hỷ xưng danh tán thán rằng: Phương ấy, nước ấy,
Bồ tát ma ha tát ấy cưỡi xe lớn, được Trí nhất thiết chủng,
Chuyển Pháp luân.
Xá lợi phất! Ấy gọi là Bồ tát ma ha tát
cưỡi xe lớn.
Luận.
Phú lâu na lấy ba việc thuyết minh nghĩa Ma ha tát: Trên kia
đã nói hai việc, nay hỏi việc thứ ba là việc cưỡi xe lớn (thừa
đại thừa).
Phú lâu na đáp: Có người nói, Bồ tát chỉ bố
thí tài vật trong ngoài, mà không phá được tướng ta, tôi; ấy gọi
là đại trang nghiêm. Nếu phá được tướng ta, tôi, nhập vào chúng
sinh không, chưa nhập vào pháp không, ấy gọi là đại trang
nghiêm. Nhân chúng sinh không mà vào pháp không, tu hành Thí ba
la mật, không thấy ba việc là người cho, người nhận, và tài vật,
được như vậy gọi là cưỡi xe lớn; các Ba la mật khác cũng như
vậy. Bồ tất ấy dùng tâm không tạp loạn, lìa các phiền não và tâm
nhị thừa, vì Trí nhất thiết chủng mà tu bốn niệm xứ, tu cũng
không thể có được, vì rốt ráo thanh tịnh; ấy gọi là cưỡi xe lớn;
cho đến mười tám pháp không chung cũng như vậy.
Lại nữa, nếu Bồ tát biết hết thảy pháp chỉ là
giả danh tự, hết thảy thế gian hoặc xuất thế gian đều là giả
danh, ấy gọi là cưỡi xe lớn.
Lại nữa, Bồ tát phát tâm đại trang nghiêm,
đầy đủ thần thông của Bồ tát. Vì đấy đủ thần thông của Bồ tát
nên thành tựu chúng sinh, từ một nước Phật đến một nước Phật.
Các nước trải qua, mưa hoa sen bảy báu, cúng dường chư Phật, đưa
chúng sinh ra khỏi ba đường ác, biến ra vô số thân, mỗi mỗi đến
trước chư Phật, nghe lãnh pháp hóa Ðại thừa. Từ trước chư Phật
thú hướng tướng Ðại thừa, cưỡi xe lớn ấy, từ một nước Phật đến
một nước Phật, thành tựu chúng sinh, thanh tịnh Phật độ, không
sinh tướng chúng sinh, không sinh tướng Phật độ, trú trong địa
vị bất nhị nhập, tùy các chúng sinh đáng được độ thì hóa độ họ.
Vì chúng sinh nên thọ thân, thường cưỡi xe lớn, chưa bao giờ
ngừng nghỉ, ấy là Bồ tát cưỡi xe lớn, được thành Phật, Chuyển
Pháp luân mà hàng Thanh văn, Bích chi Phật không thể chuyển
được, huống gì các kẻ phàm phu nhỏ nhoi. Chư Phật như số cát
sông Hằng ở mười phương tán thán Bồ tát ấy rằng: Phương ấy, nước
ấy, Bồ tát ấy cưỡi xe lớn, thành tựu chúng sinh, Chuyển Pháp
luân. Tướng trạng như vậy gọi là cưỡi xe lớn.
Lại nữa, xe lớn gọi là sáu Ba la mật rốt ráo
thanh tịnh, Bồ tát ma ha tát khi cưỡi xe lớn, lấy năm thần thông
để tự trang nghiêm. Bồ tát trú trong xe ấy trong một lúc biến ra
vô số thân, đi đến mười phương thế giới cúng dường các đức Phật,
độ thoát chúng sinh, ấy là Bồ tát thường không lìa chư Phật, cho
đến được thành Phật đạo, thường cưỡi xe lớn này.
GIẢI THÍCH: PHẨM
TRANG NGHIÊM THỨ 17
(Kinh Ðại Bát nhã ghi: Phần 2, Phẩm
Vô Phược Giải thứ 15)
Kinh:
Bấy giờ Tu bồ đề bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn! Bồ tát ma
ha tát đại trang nghiêm ( Kinh Ðại Bát nhã ghi: Mặc áo giáp
Ðại thừa), thế nào là đại trang nghiêm? Thế nào là Bồ tát có
thể đại trang nghiêm?
Phật dạy Tu bồ đề: Bồ tát ma ha tát đại
thừa đại trang nghiêm là Thí ba la mật cho đến Bát nhã ba la mật
trang nghiêm; bốn niệm xứ trang nghiêm cho đến tám Thánh đạo
phần; nội không trang nghiêm cho đến vô pháp hữu pháp không;
mười lực cho đến mười tám pháp không chung và Trí nhất thiết
chủng trang nghiêm. Biến thân như Phật trang nghiêm, ánh sáng
chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới, cũng chiếu khắp thế giới
như hằng hà sa số ở phương đông, phương tây, nam, bắc, bốn góc
trên dưới cũng như vậy. Ba ngàn đại thiên thế giới sáu cách rung
động, cũng rung động cả thế giới như hằng hà sa số ở phương
đông, phương tây, nam, bắc, bốn góc trên dưới cũng như vậy. Bồ
tát ma ha tát ấy trú Thí ba la mật đại thừa trang nghiêm, là ba
ngàn đại thiên thế giới biến thành lưu ly, hóa làm Chuyển luân
Thánh vương, tùy sự ưa muốn của chúng sinh, cần ăn cho ăn, cần
uống cho uống, y phục, đồ nằm, hương hoa, anh lạc, hương giã,
hương ướp, phòng xá, đèn đuốc, thuốc thang các thứ cần dùng, đều
cấp cho đủ, cho rồi thuyết pháp là nên nói sáu Ba la mật. Chúng
sinh nghe pháp ấy, không bao giờ lìa sáu Ba la mật, cho đến khi
được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Như vậy Tu bồ đề! Ấy gọi là Bồ tát ma ha
tát đại thừa đại trang nghiêm.
Tu bồ đề! Thí như thầy huyễn thuật hoặc
học trò huyễn thuật, ở giữa ngã tư đường, hóa làm đại chúng ở
trước mặt, cần ăn cho ăn, cần uống cho uống, cho đến các thứ cần
dùng đều cấp cho hết.
Tu bồ đề! Ý ông nghĩ sao? Thầy huyễn thuật
ấy thật có chúng sinh, có cấp cho chăng?
Tu bồ đề thưa: Thưa không, bạch Thế Tôn!
Tu bồ đề! Bồ tát ma ha tát cũng như vậy,
hóa làm Chuyển luân Thánh vương, đầy đủ các thứ, cần ăn cho ăn,
cần uống cho uống, cho đến các thứ cần dùng đều cấp cho hết, tuy
có bố thí mà thật không cho gì, vì cớ sao? Tu bồ đề! Vì tướng
các pháp như huyễn vậy.
Lại nữa, Tu bồ đề! Bồ tát ma ha tát trú
trong Giới ba la mật, hiện sinh vào nhà Chuyển luân Thánh vương,
lấy mười thiện đạo giáo hóa chúng sinh, lại lấy bốn thiền, bốn
tâm vô lượng, bốn định vô sắc, bốn niệm xứ, cho đến mười tám
pháp không chung, giáo hóa chúng sinh. Người mới nghe được pháp
ấy cho đến khi chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác trọn
không lìa pháp ấy, thí như thầy huyễn thuật hoặc học trò huyễn
thuật, ở giữa ngã tư đường, hóa làm đại chúng, lấy mười thiện
đạo giáo hóa bảo làm; lại lấy bốn thiền, bốn tâm vô lượng, bốn
định vô sắc, bốn niệm xứ, cho đến mười tám pháp không chung giáo
hóa bảo làm.
Tu bồ đề! Ý ông nghĩ sao? Thầy huyễn thuật
ấy thật có chúng sinh giáo hóa bảo làm mười thiện đạo, cho đến
mười tám pháp không chung chăng?
Tu bồ đề thưa: Thưa không, bạch Thế Tôn!
Tu bồ đề! Bồ tát cũng như vậy. Lấy mười
thiện đạo giáo hóa chúng sinh bảo làm, cho đến mười tám pháp
không chung mà thật không có chúng sinh làm mười thiện đạo, cho
đến mười tám pháp không chung, vì cớ sao? Vì các pháp như huyễn
vậy.
Tu bồ đề! Ấy gọi là Bồ tát ma ha tát trú
trong Nhẫn ba la mật, giáo hóa chúng sinh nhẫn nhục.
Tu bồ đề! Thế nào là Bồ tát ma ha tát trú
trong Nhẫn ba la mật giáo hóa chúng sinh trú trong Nhẫn ba la
mật?
Tu bồ đề! Bồ tát ma ha tát từ khi mới phát
tâm lại đây, đại trang nghiêm như vầy: Nếu hết thảy chúng sinh
đến mắng nhiếc, đao gậy làm tổn hại, Bồ tát ma ha tát không khởi
một niệm đối với việc ấy, cũng dạy hết thảy chúng sinh làm hạnh
nhẫn nhục như vậy, thí như thầy huyễn thuật, hoặc học trò huyễn
thuật ở giữa ngã tư đường, hóa làm đại chúng, khiến tu nhẫn
nhục, ngoài ra như trên đã nói.
Tu bồ đề! Ấy gọi là Bồ tát ma ha tát đại
trang nghiêm.
Lại nữa, Tu bồ đề! Bồ tát ma ha tát trú
trong Tinh tấn ba la mật, dạy hết thảy chúng sinh khiến tu Tinh
tấn ba la mật.
Tu bồ đề! Thế nào là Bồ tát ma ha tát trú
trong Tinh tấn ba la mật, dạy hết thảy chúng sinh khiến tu Tinh
tấn ba la mật?
Tu bồ đề! Bồ tát ma ha tát tâm tương ưng
với Trí nhất thiết chủng, thân tâm tinh tấn, giáo hóa chúng
sinh, thí như thầy huyễn thuật hoặc học trò huyễn thuật ở giữa
ngã tư đường hóa làm đại chúng, dạy khiến tu thân tâm tinh tấn,
ngoài ra như trên đã nói. Ấy gọi là Bồ tát ma ha tát đại trang
nghiêm.
Lại nữa, Tu bồ đề! Bồ tát ma ha tát trú
Thiền ba la mật, dạy hết thảy chúng sinh khiến tu Thiền ba la
mật.
Tu bồ đề! Thế nào là Bồ tát ma ha tát trú
trong Thiền ba la mật, dạy hết thảy chúng sinh khiến tu Thiền ba
la mật?
Tu bồ đề! Bồ tát ma ha tát trú trong các
pháp, không thấy pháp hoặc loạn hoặc định. Như vậy, Tu bồ đề! Bồ
tát ma ha tát trú trong Thiền ba la mật, dạy hết thảy chúng sinh
khiến tu Thiền ba la mật, cho đến khi chứng được Vô thượng Chánh
đẳng Chánh giác, trọn không lìa Thiền ba la mật; thí như thầy
huyễn thuật hoặc học trò huyễn thuật ở giữa ngã tư đường, hóa
làm đại chúng, dạy khiến tu Thiền ba la mật, ngoài ra như trên
đã nói.
Tu bồ đề! Ấy gọi là Bồ tát ma ha tát đại
trang nghiêm.
Lại nữa, Tu bồ đề! Bồ tát ma ha tát trú
trong Bát nhã ba la mật, dạy hết thảy chúng sinh khiến tu Bát
nhã ba la mật.
Tu bồ đề! Thế nào là Bồ tát ma ha tát trú
trong Bát nhã ba la mật, dạy hết thảy chúng sinh khiến tu Bát
nhã ba la mật?
Tu bồ đề! Bồ tát ma ha tát tu Bát nhã ba
la mật, không có pháp được bờ kia, bờ này, như vậy là Bồ tát ma
ha tát trú trong Bát nhã ba la mật, dạy hết thảy chúng sinh
khiến tu Bát nhã ba la mật, thí như thầy huyễn thuật, hoặc học
trò huyễn thuật, ở giữa ngã tư đường, hóa làm đại chúng, dạy
khiến tu Bát nhã ba la mật.
Tu bồ đề! Ấy gọi là Bồ tát ma ha tát đại
trang nghiêm.
Lại nữa, Tu bồ đề! Bồ tát ma ha tát đại
trang nghiêm là ở trong mười phương thế giới số như hằng hà sa,
tùy chỗ ứng hợp, tự biến thân trú trong Thí ba la mật, cho đến
Bát nhã ba la mật, cũng dạy chúng sinh khiến tu Thí ba la mật
cho đến Bát nhã ba la mật. Chúng sinh ấy tu pháp ấy cho đến khi
chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, trọn không lìa pháp ấy.
Tu bồ đề! Thí như thầy huyễn thuật, hoặc học trò huyễn thuật, ở
giữa ngã tư đường, hóa làm đại chúng, dạy khiến tu sáu Ba la
mật, ngoài ra như trên đã nói.
Như vậy, Tu bồ đề! Ấy gọi là Bồ tát ma ha
tát đại trang nghiêm.
Lại nữa, Tu bồ đề! Bồ tát ma ha tát đại
trang nghiêm là tâm tương ưng với Trí nhất thiết chủng, không
sinh niệm rằng: Ta dạy ngần ấy người trú trong Thí ba la mật,
không dạy ngần ấy người trú trong Thí ba la mật, cho đến Bát nhã
ba la mật cũng như vậy; không sinh niệm rằng: Ta dạy ngần ấy
người trú trong bốn niệm xứ, không dạy ngần ấy người trú trong
bốn niệm xứ, cho đến mười tám pháp không chung cũng vậy; cũng
không sinh niệm rằng: Ta dạy ngần ấy người khiến được quả Tu đà
hoàn, quả Tư đà hàm, quả A na hàm, quả A la hán, Bích chi Phật
đạo, Trí nhất thiết chủng, không dạy ngần ấy người khiến được
quả Tu đà hoàn, cho đến Trí nhất thiết chủng. Ta sẽ khiến vô
lượng vô biên vô số chúng sinh trú trong Thí ba la mật, cho đến
Bát nhã ba la mật, dựng lập chúng sinh nơi bốn niệm xứ, cho đến
mười tám pháp không chung, khiến vô lượng vô biên vô số chúng
sinh được quả Tu đà hoàn cho đến Trí nhất thiết chủng; thí như
thầy huyễn thuật hoặc học trò huyễn thuật, ở giữa ngã tư đường
hóa làm đại chúng, dạy khiến tu sáu Ba la mật, cho đến chứng
được Trí nhất thiết chủng. Ngoài ra như trên đã nói.
Tu bồ đề! Ấy gọi là Bồ tát ma ha tát đại
trang nghiêm.
Luận:
Ở trên Phú lâu na nói đại trang nghiêm và tướng phát đại thệ
trang nghiêm, nay Tu Bồ đề khởi niệm rằng: Phú lâu na chưa
được trí nhất thiết, tuy nói Ðại trang nghiêm, hoặc có sai
lầm, nên hỏi Phật để thủ lấy quyết định. Phật vì Tu bồ đề nói
Thí ba la mật đại trang nghiêm, cho đến Trí nhất thiết là quả
báo của thiện pháp nên được sức thần thông lớn của Bồ tát; vì
hạng chúng sinh mến đạo xuất gia nên hóa làm thân Phật, phóng
ánh sáng lớn, chiếu mười phương thế giới, rung động đại địa,
khiến chúng sinh phát tâm tu thiện pháp, tùy căn cơ thích hợp
mà thuyết pháp cho, khiến được ba thừa, vì chúng sinh tại gia
ham vui, làm Chuyển luân Thánh vương, biến ba ngàn đại thiên
thế giới thành lưu ly, vì không chướng ngại, cưỡi xe bảy báu,
thân phóng hào quang, mưa các bảo vật, tùy chúng sinh cần
dùng, đều khiến cho đầy đủ, vậy sau nói pháp Bồ tát. Bồ tát
trú trong đại thừa, lấy hai sự bố thí làm lợi ích chúng sinh,
đó là tài thí và pháp thí, chúng sinh nghe rồi tu sáu Ba la
mật cho đến mười tám pháp không chung, đến khi chứng được Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác, trọn không lìa pháp ấy. Bồ tát
tuy trú trong biến hóa ấy cũng không sinh chấp trước tướng đối
với các pháp, cũng không tự cao. Tu bồ đề khởi niệm rằng: Bồ
tát hành được đại sự như vậy. Lại chưa sạch hết các lậu hoặc,
làm sao không đắm trước các pháp, cũng không sinh tâm tự cao
được? Trong đây Phật tự nói thí dụ, thí như thầy huyễn thuật ở
giữa ngã tư đường, hóa làm các thứ vật, tùy chỗ người cần đều
có thể cho hết. Tu bồ đề! Ý ông nghĩ sao? Thầy huyễn thuật ấy
thật có cho chăng? Có người thọ nhận, có người cần dùng chăng?
Tu bồ đề thưa: Ðó chỉ là hư dối, thật không
có gì.
Phật dạy: Bồ tát cũng như vậy, tuy hiện làm
thân Phật, thân Chuyển luân Thánh vương, lấy của và pháp thí cho
chúng sinh, cũng như thầy huyễn thuật thật không có cho gì, vì
sao? Vì các pháp rốt ráo không, như huyễn. Năm Ba la mật kia
cũng như vậy, tùy theo nghĩa mà phân biệt.
Lại nữa, do nhân duyên Thí ba la mật, Giới
ba la mật, nên làm Chuyển luân Thánh vương giàu sang trong
loài người, do các Ba la mật khác hoặc làm Phạm vương, hoặc
làm pháp thân Bồ tát.
Hỏi:
Ngoài sáu Ba la mật còn có pháp gì
có thể trang nghiêm không?
Ðáp:
Các công đức đều thu nhiếp trong
sáu Ba la mật. Có người nói còn có trí Ba la mật và phương tiện
Ba la mật v.v... ở trong mười phương thế giới số như hằng hà sa,
tùy chỗ đáng độ, bày các nhân duyên thuyết pháp khiến chúng sinh
trú trong sáu Ba la mật.
Lại nữa, quyết định thệ nguyện gọi là đại
trang nghiêm, nghĩa là Bồ tát không khởi niệm rằng: Ta độ ngần
ấy người khiến trú trong Thí ba la mật, mà không thể độ người
khác. Cho đến mười tám pháp không chung cũng như vậy, cũng
không khởi niệm rằng: Ta khiến ngần ấy người được quả Tu đà
hoàn mà không thể khiến ngần ấy người được quả Tu đà hoàn; cho
đến thành Phật đạo cũng như vậy. Ta sẽ khiến hết vô lượng vô
số chúng sinh trú trong các công đức, Thí ba la mật cho đến
Trí nhất thiết chủng, như thầy huyễn thuật, như trước đã nói;
ấy gọi là phát thệ nguyện đại trang nghiêm.
Kinh:
Bấy giờ Tu bồ đề bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn! Như ý nghĩa
con theo Phật nghe được Bồ tát ma ha tát không có đại trang
nghiêm là đại trang nghiêm, vì các pháp tự tướng không, nghĩa là
sắc, sắc tướng không; thọ, tưởng, hành, thức, thức tướng không;
mắt, mắt tướng không cho đến ý, ý tướng không; sắc, sắc tướng
không, cho đến pháp, pháp tướng không; nhãn thức, nhãn thức
tướng không cho đến ý thức, ý thức tướng không; nhãn xúc, nhãn
xúc tướng không cho đến ý xúc, ý xúc tướng không; thọ do nhãn
xúc làm nhân duyên sinh, thọ tướng không, cho đến thọ do ý xúc
làm nhân duyên sinh, thọ tướng không.
Bạch đức Thế Tôn! Thí ba la mật, Thí ba la
mật tướng không; cho đến Bát nhã ba la mật, Bát nhã ba la mật
tướng không. Nội không, nội không tướng không; cho đến vô pháp
hữu pháp không, vô pháp hữu pháp không tướng không; bốn niệm xứ,
bốn niệm xứ tướng không, cho đến mười tám pháp không chung, mười
tám pháp không chung tướng không; Bồ tát, Bồ tát tướng không.
Bạch đức Thế Tôn! Do nhân duyên ấy nên biết Bồ tát ma ha tát ấy
không có đại trang nghiêm là đại trang nghiêm.
Phật bảo Tu bồ đề: Như vậy, như vậy! Như
lời ông nói. Tu bồ đề! Trí nhất thiết chủng, chẳng phải pháp tạo
tác, chúng sinh cũng chẳng phải pháp tạo tác, Bồ tát đại trang
nghiêm vì chúng sinh ấy.
Tu bồ đề bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn!
Do nhân duyên gì mà Trí nhất thiết chủng chẳng phải pháp tạo
tác, chúng sinh ấy cũng chẳng phải pháp tạo tác, Bồ tát đại
trang nghiêm vì chúng sinh ấy?
Phật bảo Tu bồ đề: Vì người làm không thể
có được, nên Trí nhất thiết chủng chẳng phải pháp tạo tác sinh
khởi. Các chúng sinh ấy cũng chẳng phải tạo tác sinh khởi, vì
sao? Tu bồ đề! Vì sắc chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo
tác; thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải tạo tác, chẳng phải không
tạo tác. Mắt chẳng phải tạo tác, chẳng phải không tạo tác cho
đến ý chẳng phải tạo tác, chẳng phải không tạo tác. Sắc cho đến
pháp, nhãn thức cho đến ý thức, nhãn xúc cho đến ý xúc, thọ do
nhãn xúc làm nhân duyên sinh cho đến thọ do ý xúc làm nhân duyên
sinh chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác.
Tu bồ đề! Ngã chẳng phải tạo tác chẳng
phải không tạo tác, cho đến kẻ biết, kẻ thấy chẳng phải tạo tác,
chẳng phải không tạo tác, vì sao? Vì các pháp ấy rốt ráo không
thể có được.
Tu bồ đề! Mộng chẳng phải tạo tác chẳng
phải không tạo tác, vì sao? Vì rốt ráo không thể có được. Huyễn,
tiếng vang, bóng, sóng nắng, biến hóa chẳng phải tạo tác chẳng
phải không tạo tác, vì sao? Vì rốt ráo không thể có được. Tu bồ
đề! Nội không chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác, vì
rốt ráo không thể có được, cho đến vô pháp hữu pháp không chẳng
phải tạo tác chẳng phải không tạo tác, vì rốt ráo không thể có
được.
Tu bồ đề! Bốn niệm xứ chẳng phải tạo tác,
chẳng phải không tạo tác, vì rốt ráo không thể có được, cho đến
mười tám pháp không chung, chẳng phải tạo tác, chẳng phải không
tạo tác, vì sao? Vì pháp ấy rốt ráo không thể có được. Tu bồ đề!
Các pháp như như, pháp tướng, pháp tánh, pháp trụ, pháp vị, thật
tế, chẳng phải tạo tác, chẳng phải không tạo tác, vì rốt ráo
không thể có được.
Tu bồ đề! Bồ tát chẳng phải tạo tác chẳng
phải không tạo tác, vì rốt ráo không thể có được. Tát bà nhã và
Trí nhất thiết chủng chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo
tác, vì rốt ráo không thể có được.
Do nhân duyên ấy, Tu bồ đề! Tát bà nhã
chẳng phải pháp tạo tác, sinh khởi, chúng sinh ấy cũng chẳng
phải pháp tạo tác, sinh khởi. Bồ tát đại trang nghiêm vì chúng
sinh ấy. Bấy giờ, Tu bồ đề bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn! Như
con xem xét nghĩa của Phật dạy: Sắc không trói không mở; thọ,
tưởng, hành, thức cũng không trói không mở.
Bấy giờ Phú lâu na Di đa la ni tử nói với
Tu bồ đề rằng: Sắc là không trói không mở; thọ, tưởng, hành,
thức là không trói không mở.
Tu bồ đề nói: Như vậy, như vậy! Sắc là
không trói không mở, thọ, tưởng, hành, thức là không trói không
mở.
Phú lâu na Di đa la ni tử hỏi Tu bồ đề
rằng: Thế nào là sắc không trói không mở; thọ, tưởng, hành, thức
không trói không mở?
Tu bồ đề nói: Sắc như mộng không trói
không mở; thọ, tưởng, hành, thức như mộng không trói không mở.
Sắc, thọ, tưởng, hành, thức như tiếng vang, như bóng, như huyễn,
như sóng nắng, như biến hóa không trói không mở.
Này Phú lâu na Di đa la ni tử! Sắc quá khứ
không trói không mở; thọ, tưởng, hành, thức quá khứ không trói
không mở. Sắc vị lai không trói không mở; thọ, tưởng, hành, thức
vị lai không trói không mở. Sắc hiện tại không trói không mở;
thọ, tưởng, hành, thức hiện tại không trói không mở, vì sao
không trói không mở? Vì sắc ấy không có gì, nên không trói không
mở; thọ, tưởng, hành, thức không có gì, nên không trói không mở,
vì lìa, vì tịch diệt, vì không sinh nên không trói không mở.
Này Phú lâu na! Sắc, thọ, tưởng, hành,
thức lành không trói không mở; sắc, thọ, tưởng, hành, thức chẳng
lành không trói không mở. Sắc vô ký không trói không mở; thọ,
tưởng, hành, thức vô ký không trói không mở. Sắc thế gian, xuất
thế gian, hữu lậu, vô lậu không trói không mở; thọ, tưởng, hành,
thức cũng không trói không mở, vì sao? Vì không có gì, vì lìa,
vì tịch diệt, vì không sinh, nên không trói không mở.
Này Phú lâu na! Hết thảy pháp không trói
không mở, vì không có gì, vì lìa, vì tịch diệt, vì không sinh.
Này Phú lâu na! Thí ba la mật không trói
không mở; Giới ba la mật, Nhẫn ba la mật, Tinh tấn ba la mật,
Thiền ba la mật, Bát nhã ba la mật không trói không mở, vì không
có gì, vì lìa, vì tịch diệt, vì không sinh nên không trói không
mở.
Này Phú lâu na! Nội không cũng không trói
không mở, cho đến vô pháp hữu pháp không cũng không trói không
mở. Bốn niệm xứ không trói không mở, cho đến mười tám pháp không
chung cũng không trói không mở, vì không có gì, vì lìa, vì tịch
diệt, vì không sinh nên không trói không mở. Vô thượng Chánh
đẳng Chánh giác không trói không mở; Trí nhất thiết, Trí nhất
thiết chủng không trói không mở. Bồ đề không trói không mở, Phật
cũng không trói không mở, vì không có gì, vì lìa, vì tịch diệt,
vì không sinh nên không trói không mở.
Này Phú lâu na! Các pháp như như, pháp
tướng, pháp tánh, pháp trụ, pháp vị, thật tế, pháp vô vi không
trói không mở, vì không có gì, vì lìa, vì tịch diệt, vì không
sinh nên không trói không mở.
Này Phú lâu na! Ấy gọi là Bồ tát ma ha tát
Thí ba la mật cho đến Bát nhã ba la mật, không trói không mở;
bốn niệm xứ cho đến Trí nhất thiết chủng không trói không mở.
Bồ tát ấy trụ trong Thí ba la mật cho đến trụ trong Bát nhã ba
la mật, không trói không mở; trú trong bốn niệm xứ không trói
không mở, cho đến trú trong Trí nhất thiết chủng không trói
không mở, thành tự chúng sinh không trói không mở, tịnh quốc
độ Phật không trói không mở, sẽ cúng dường chư Phật không trói
không mở, sẽ nghe pháp không trói không mở, trọn không lìa chư
Phật không trói không mở, trọn không lìa các thần thông không
trói không mở, trọn không lìa năm mắt không trói không mở,
trọn không lìa môn Ðà la ni không trói không mở, trọn không
lìa các Tam muội không trói không mở, sẽ sinh Ðạo chủng trí
không trói không mở, sẽ được Trí nhất thiết chủng không trói
không mở; Chuyển Pháp luân không trói không mở, an lập chúng
sinh nơi tam thừa không trói không mở.
Như vậy Phú lâu na! Bồ tát ma ha tát tu
sáu Ba la mật không trói không mở, sẽ biết hết thảy pháp không
trói không mở, vì không có gì, vì lìa, vì tịch diệt, vì không
sinh.
Phú lâu na, ấy gọi là Bồ tát ma ha tát đại
trang nghiêm không trói không mở.
Luận:
Tu bồ đề nói: Như nghĩa con được nghe Phật dạy không có đại
trang nghiêm là đại trang nghiêm, vì sao? Vì tự tướng không vậy.
Hỏi:
Tu bồ đề cớ sao nói như vậy?
Ðáp:
Phật dạy nghĩa phát đại trang nghiêm rất sâu, khó được khó
hiểu. Chúng sinh ở trong hội chúng nghe việc ấy, tâm hoặc bị
thối mất.Trang nghiêm rốt ráo Không, như vậy cũng do sức thần
thông nên trong một lúc có thể khắp đến thế giới mười phương
số như hằng hà sa, chúng sinh thích ý nói đây là việc thánh
chúa, chúng ta làm sao biết được, vì thế nên Tu bồ đề nói phát
đại trang nghiêm chẳng phải sâu chẳng phải khó, chẳng phải chỉ
phát đại trang nghiêm, tự tướng không, dễ tu dễ được. Sắc,
trong sắc định tướng không thể có được, cho đến mười tám pháp
không chung cũng như vậy. Nếu Bồ tát biết được tướng Không
tịch diệt của các pháp như vậy, mà không bỏ bổn nguyện tinh
tấn, cho nên gọi là phát đại trang nghiêm chẳng phải khó được.
Phật ấn chứng lời Tu bồ đề nói, nên nói: “như vậy”. Pháp tạo
tác đều là hư dối, nên nói Tát bà nhã là pháp không tạo tác,
vì chúng sinh rốt ráo không, cũng là pháp không tạo tác. Phật
dạy người làm là không thể có được, nên hết thảy chẳng phải
tướng tạo tác. Vì chúng sinh không thể có được, nên người làm
không thể có được, vì người làm không thể có được, nên Tát bà
nhã chẳng phải tướng tạo tác sinh khởi.
Lại nữa, sắc cũng không thể làm, vì pháp
không, cho đến các Phật pháp cũng như vậy. Tu bồ đề gọi trong
các pháp không có tướng định làm, như huyễn, tuy không có sự
thật mà có tướng đi lại, vì thế nên Phật dạy như huyễn, như
sóng nắng, không có tướng tạo tác, vì rốt ráo không thể có
được.
Khi ấy người nghe suy nghĩ rằng: Mười tám
Không có thể phá hết thảy pháp, thế là có tác dụng, thế thời
là thật, nghĩa là có tạo tác? Vì vậy nên Phật dạy: Nội không
không tạo tàc, cho đến vô pháp hữu pháp không, mười tám pháp
không chung cũng không có tạo tác.
Hoặc nói: Mười tám không là hữu vi hư dối
không thật, nên có thể không tạo tác, còn như, pháp tánh, thật
tế, là pháp chơn thật, nên phải có tạo tác, vì sao? Vì hết
thảy pháp hữu vi mỗi mỗi đều có nhân chung, pháp vô vi cũng
làm nhân cho pháp có tạo tác? Nên Phật dạy: Như như, pháp
tánh, thật tế, pháp trụ, pháp vị, cũng không tạo tác.
Lại hoặc nói: Bồ tát, Phật, Trí nhất thiết
chủng, là pháp thật có, có thể có tạo tác? Vì vậy nên Phật
nói: Pháp ấy cũng vì rốt ráo không, nên cũng không tạo tác, vì
tướng tạo tác do nhân duyên sinh.
Hành giả nghĩ rằng: Phậy pháp rất khó, rất
là hy hữu, các pháp đều không tạo tác, không trói không mở,
chúng ta làm sao sẽ từ khổ được thoát? Thế nên Tu bồ đề bạch
Phật rằng: Như con biết nghĩa của Phật nói năm uẩn không trói
không mở? Pháp người phàm phu hư dối không thể có được nên
chẳng phải trói, pháp thánh nhân rốt ráo không, không thể có
được nên chẳng phải mở. Năm uẩn như mộng, và năm uẩn trong ba
đời, năm uẩn thiện bất thiện, hết thảy pháp cũng như vậy, cho
đến thật tế, cũng như vậy, vì không có gì, vì lìa, vì không
sinh, nên không trói không mở; ấy gọi là đạo Bồ tát không trói
không mở của Bồ tát ma ha tát. Ở trong đạo ấy, các phiền não
không kéo rơi vào trong phàm phu, cho nên nói không trói,
không lấy các pháp vô lậu phá phiền não nên nói không mở.
Giáo hóa chúng sinh, tịnh quốc độ Phật, cho
đến năm thần thông, năm mắt, các môn Tam muội, Ðà la
ni, trọn không lìa Phật, và an lập chúng sinh trong tam thừa
cũng không trói không mở, vì cớ sao? Vì các pháp không có gì,
vì lìa. vì tịch diệt, vì không sinh, vì rốt ráo không.
Do các nhân duyên như vậy, ấy gọi là tướng
Bồ tát đại trang nghiêm, nghĩa là không trói không mở.
GIẢI THÍCH: PHẨM ÐẠI
THỪA THỨ 18
(Kinh Ma ha Bát nhã ba la
mật ghi: Phẩm Vấn Thừa)
(Kinh Ðại Bát nhã ghi:
Phần 2, Phẩm Tam ma địa thứ 16)
Kinh:
Bấy giờ Tu bồ đề bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là
tướng Ðại thừa của Bồ tát ma ha tát? Làm sao biết Bồ tát ma ha
tát phát tâm thú hướng Ðại thừa? Thừa ấy phát xuất từ chỗ nào?
Thừa ấy đi đến chỗ nào? Thừa ấy trú chỗ nào? Ai cưỡi Ðại thừa ấy
đi ra?
Phật bảo Tu bồ đề: Ông hỏi thế nào là
tướng Ðại thừa của Bồ tát ma ha tát ư? Tu bồ đề! Sáu Ba la mật
là Ðại thừa của Bồ tát ma ha tát. Những gì là sáu? Thí ba la
mật, Giới ba la mật, Nhẫn ba la mật, Tinh tấn ba la mật, Thiền
ba la mật và Bát nhã ba la mật.
Sao gọi là Thí ba la mật? Tu bồ đề! Bồ tát
ma ha tát đem tâm tương ưng với Trí nhất thiết chủng, bố thí tài
vật trong ngoài, cùng hết thảy chúng sinh hồi hướng đến Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác, vì dùng vô sở đắc. Tu bồ đề! Ấy
gọi là Bồ tát ma ha tát Thí ba la mật.
Sao gọi là Giới ba la mật? Tu bồ đề! Bồ
tát ma ha tát đem tâm tương ưng với Trí nhất thiết chủng, tự làm
mười thiện đạo, cũng dạy người khác làm mười thiện đạo, vì dùng
vô sở đắc. Ấy gọi là Bồ ma ha tát chẳng chấp trước Giới ba la
mật.
Sao gọi là Nhẫn ba la mật? Tu bồ đề! Bồ
tát ma ha tát đem tâm tương ưng với Trì nhất thiết chủng, tự đầy
đủ nhẫn nhục, cũng dạy người khác tu nhẫn nhục, vì dùng vô sở
đắc, ấy gọi là Bồ tát ma ha tát Nhẫn ba la mật.
Sao gọi là Tinh tấn ba la mật? Tu bồ đề!
Bồ tát ma ha tát đem tâm tương ưng với Trí nhất thiết chủng, tu
năm Ba la mật, siêng tu không nghỉ, cũng an lập hết thảy chúng
sinh nơi năm Ba la mật, vì dùng vô sở đắc; ấy gọi là Bồ tát ma
ha tát Tinh tấn ba la mật.
Sao gọi là Thiền ba la mật? Tu bồ đề! Bồ
tát ma ha tát đem tâm tương ưng với Trí nhất thiết chủng tự lấy
phương tiện vào các thiền, không sinh theo thiền cũng dạy người
khác khiến vào các thiền, vì dùng vô sở đắc; ấy gọi là Bồ tát ma
ha tát Thiền ba la mật.
Sao gọi là Bát nhã ba la mật? Tu bồ đề! Bồ
tát ma ha tát đem tâm tương ưng với Trí nhất thiết chủng, không
đắm hết thảy pháp, cũng quán hết thảy pháp tánh, vì dùng vô sở
đắc; cũng dạy người khác không đắm hết thảy pháp, cũng quán hết
thảy pháp tánh, vì dùng vô sở đắc, ấy gọi là Bồ tàt ma ha tát
Bát nhã ba la mật. Tu bồ đề!
Ấy là tướng Ðại thừa của Bồ tát ma ha tát.
Lại nữa, Tu bồ đề! Ðại thừa của Bồ tát ma
ha tát là nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không,
đại không, đệ nhất nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất
cảnh không, vô thỉ không, tán không, tánh không, tự tướng không,
chư pháp không, bất khả đắc không, vô pháp không, hữu pháp
không, vô pháp hữu pháp không.
Tu bồ đề bạch Phật rằng: Thế nào là nội
không? Phật dạy: Nội không là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Mắt,
mắt không chẳng phải thường, chẳng phải đoạn, vì sao? Vì tánh nó
tự như vậy. Tai, tai không; mũi không; lưỡi, lưỡi không; thân,
thân không; ý, ý không chẳng phải thường chẳng phải đoạn, vì
sao? Vì tánh nó tự như vậy; ấy gọi là nội không.
Sao gọi là ngoại không? Pháp ngoài gọi là
sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Sắc, sắc không chẳng phải
thường chẳng phải đoạn, vì sao? Vì tánh nó tự như vậy. Thanh,
thanh không; hương, hương không; vị, vị không; xúc, xúc không;
pháp, pháp không chẳng phải thường chẳng phải đoạn, vì sao? Vì
tánh nó tự như vậy; ấy gọi là ngoại không.
Sao gọi là nội ngoại không? Pháp trong
ngoài gọi là trong sáu nhập, ngoài sáu nhập. Pháp trong, pháp
trong không chẳng phải thường chẳng phải đoạn, vì sao? Vì nó tự
như vậy. Pháp ngoài, pháp ngoài không chẳng phải thường chẳng
phải đoạn, vì sao? Vì tánh nó như vậy; ấy gọi là nội ngoại
không.
Sao gọi là không không? Hết thảy pháp
không, không ấy cũng không, chẳng phải thường chẳng phải đoạn,
vì sao? Vì tánh nó như vậy; ấy gọi là không không.
Sao gọi là đại không? Phương đông, phương
đông không chẳng phải thường chẳng phải đoạn, vì sao? Vì tánh nó
như vậy. Phương nam, tây, bắc, bốn góc trên dưới không chẳng
phải thường chẳng phải đoạn, vì sao? Vì tánh nó như vậy; ấy gọi
là đại không.
Sao gọi là đệ nhất nghĩa không? Ðệ nhất
nghĩa tức là Niết bàn; Niết bàn, Niết bàn không chẳng phải
thường chẳng phải đoạn, vì sao? Vì tánh nó như vậy; ấy gọi là đệ
nhất nghĩa không.
Sao gọi là hữu vi không? Pháp hữu vi là
cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc; cõi Dục, cõi Dục không; cõi Sắc,
cõi Sắc không; cõi Vô sắc, cõi Vô sắc không; chẳng phải thường
chẳng phải đoạn, vì sao? Vì tánh nó tự như vậy, ấy gọi là hữu vi
không.
Sao gọi là vô vi không? Pháp vô vi gọi là
tướng không sinh, tướng không trụ, tướng không diệt; pháp vô vi,
pháp vô vi không chẳng phải thường chẳng phải đoạn, vì sao? Vì
tánh nó tự như vậy; ấy gọi là vô vi không.
Sao gọi là rốt ráo không? Rốt ráo tức là
các pháp rốt ráo không thể có được, chẳng phải thường chẳng phải
đoạn, vì sao? Vì tánh nó như vậy; ấy gọi là rốt ráo không.
Sao gọi là vô thỉ không? Hoặc pháp chỗ bắt
đầu đến không thể có được, chẳng phải thường chẳng phải đoạn, vì
sao? Vì tánh nó như vậy; ấy gọi là vô thỉ không.
Sao gọi là tán không? Tán là các pháp
không diệt, chẳng phải thường chẳng phải đoạn, vì sao? Vì tánh
nó như vậy; ấy gọi là tán không.
Sao gọi là tánh không? Hết thảy pháp tánh,
hoặc tánh pháp hữu vi hoặc tánh pháp vô vi, tánh ấy chẳng phải
Thanh văn, Bích chi Phật làm, chẳng phải Phật làm, cũng chẳng
phải các người khác làm ra. Tánh ấy tánh không, chẳng phải
thường chẳng phải đoạn, vì sao? Vì tánh nó tự như vậy, ấy gọi là
tánh không.
Sao gọi là tự tướng không? Tự tướng sắc là
hư hoại, thọ là tướng lãnh thọ, tướng là tướng thử lấy tướng,
hành là tướng tạo tác, thức là tướng hiểu biết. Như vậy các pháp
hữu vi, vô vi, mỗi mỗi tự tướng không, chẳng phải thường chẳng
phải đoạn, vì sao? Vì tánh nó như vậy; ấy gọi là tự tướng không.
Sao gọi là các pháp không? Các pháp là
sắc, thọ, tưởng, hành, thức; mắt, tai, muĩ, lưỡi, thân, ý; sắc,
thanh, hương, vị, xúc, pháp; nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới
cho đến ý thức giới, ý thức giới. Các pháp ấy, các pháp không,
chẳng phải thường chẳng phải đoạn, vì sao? Vì tánh nó tự như
vậy, ấy gọi là các pháp không.
Sao gọi là bất khả đắc không? Tìm cầu các
pháp không thể có được, ấy là bất đắc không, chẳng phải thường
chẳng phải đoạn, vì sao? Vì tánh nó như vậy; ầy gọi là bất đắc
không.
Sao gọi là vô pháp không? Hoặc pháp không
có ấy cũng không, chẳng phải thường chẳng phải đoạn, vì sao? Vì
tánh nó như vậy; ấy gọi là vô pháp không.
Sao gọi là hữu pháp không? Pháp có là các
pháp trong sự hòa hợp có tự tánh tướng, pháp có ấy không, chẳng
phải thường chẳng phải đoạn, vì sao? Vì tánh nó tự như vậy; ấy
gọi là hữu pháp không.
Sao gọi là vô pháp hữu pháp không? Trong
các pháp không có pháp, trong các pháp hòa hợp, có tướng tự tánh
(Kinh Ðại Bát nhã ghi: Thế nào là vô tánh tự tánh không? Vô
tánh tự tánh là các pháp không thể có tánh hòa hợp và có tự tánh
hòa hợp –ND) Vô pháp hữu pháp ấy không, chẳng phải thường
chẳng phải đoạn, vì sao? Vì tánh nó tự như vậy; ấy gọi là vô
pháp hữu pháp không.
Lại nữa, Tu bồ đề! Pháp, pháp tướng không;
vô pháp, vô pháp tướng không; tự tánh, tự tánh tướng không; tha
pháp, tha pháp tướng không.
Sao gọi là pháp, pháp tướng không? Pháp là
năm uẩn, năm uẩn không; ấy gọi là pháp, pháp tướng không.
Sao gọi là vô pháp, vô pháp tướng không?
Vô pháp là pháp vô vi; ấy gọi là vô pháp, vô pháp tướng không.
Sao gọi là tự pháp, tự pháp tướng không?
Các pháp, tự tánh không, cái không ấy chẳng phải trí làm, chẳng
phải cái thấy làm; ấy gọi là tự pháp, tự pháp tướng không.
Sao gọi là tha pháp, tha pháp tướng không?
Hoặc ra đời, hoặc Phật chưa ra đời, pháp trụ, pháp tướng, pháp
vị, pháp tánh, như như, thật tế, quá các pháp không này; ấy gọi
là tha pháp, tha pháp tướng không (Kinh Ðại Bát nhã ghi: Hết
thảy pháp hoặc Phật ra đời hoặc không ra đời, pháp trụ, pháp
định, pháp tánh ,pháp giới, pháp bình đẳng tánh, pháp ly sinh
tánh, chơn như bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, thật tế, đều
do tha tánh nên không, ấy gọi là tha tánh do tha tánh nên không,
ấy gọi là tướng Ðại thừa của Bồ tát ma ha tát – ND).
LUẬN.
Hỏi: Kinh này tên là Bát nhã ba
la mật, lại Phật khiến Tu bồ đề vì Bồ tát nói Bát nhã ba la mật,
Tu bồ đề nên hỏi Bát nhã ba la mật, Phật cũng nên đáp Bát nhã ba
la mật, sao nay Tu bồ đề lại hỏi tướng Ðại thừa, Phật cũng đáp
Ðại thừa?
Ðáp:
Bát nhã ba la mật và Ðại thừa cùng một nghĩa, chỉ có danh tự
khác nhau, hoặc nói Bát nhã ba la mật, hoặc nói Ðại thừa,
không lỗi. Ðại thừa là Phật đạo, thực hành pháp ấy được đến
Phật, đó là sáu pháp Ba la mật. Lớn nhất trong sáu Ba la mật
là Bát nhã ba la mật, như ở phẩm sau Phật nói các nhân duyên
lớn, nếu nói Bát nhã ba la mật, thời nhiếp hết sáu Ba la mật.
Nếu nói sáu Ba la mật thời nói đủ Bồ tát đạo. Nghĩa là bao gồm
từ khi mới phát tâm cho đến khi thành Phật; ví như vua đến,
chắc chắn có kẻ tùy tùng; tuy không nói kẻ tùy tùng, mà nên
biết chắc chắn có. Ðại thừa cũng như vậy.
Bồ tát ban đầu phát tâm tu hành vì cầu Phật
đạo, tu tập thiện pháp, tùy chúng sinh có thể độ mà nói các
pháp, đó là kinh Bổn khởi, kinh Dứt hết thảy sinh nghi, kinh Hoa
thủ, kinh Pháp hoa, kinh Mây, kinh Mây lớn, kinh Mây pháp, kinh
Di lặc hỏi, kinh Sáu Ba la la mật, kinh Ðại Bát nhã ba la mật.
Như vậy vô lượng vô biên vô số kinh, hoặc Phật nói, hoặc Hóa
Phật nói, hoặc đại Bồ tát nói, hoặc Thanh văn nói, hoặc trời đắc
đạo nói, việc ấy hòa hợp đều gọi là Ðại thừa. Trong các Kinh ấy,
Bát nhã ba la mật rất lớn, nên nói là Ðại thừa, tức biết đã nói
Bát nhã ba la mật. Các pháp trợ đạo khác không có Bát nhã ba la
mật hòa hợp thời không thể đi đến thành Phật. Vì vậy hết thảy
pháp trợ đạo đều là Bát nhã ba la mật. Như phẩm sau, Phật bảo Tu
bồ đề: Ông nói Ðại thừa không khác Bát nhã ba la mật.
Hỏi:
Nếu như vậy, cớ sao lúc đầu không nói Ðại thừa trước?
Ðáp:
Ở trên tôi đã nói Bát nhã ba la mật rất lớn cho nên phải nói
trước. Lại, ý Phật muốn nói Ðại thừa Bát nhã ba la mật nên phóng
ra ánh sáng lớn, mười phương các Bồ tát đều tự hỏi Phật, nay sao
có ánh sánh đó? Chư Phật đều đáp: Ở thế giới Ta bà có Phật hiệu
Thích ca Mâu ni muốn nói Bát nhã ba la mật, các Bồ tát kia và
các trời người hòa hợp đi đến.
Xá lợi phất hỏi Phật: Bạch đức Thế Tôn! Vì
sao Bồ tát ma ha tát muốn biết hết thảy pháp phải nên tập hành
Bát nhã ba la mật? Lại, trong phẩm đầu, Phật mỗi mỗi tán thán
công đức Bát nhã ba la mật rằng, nếu ai muốn được như vậy hãy
nên học Bát nhã ba la mật. Có các nhân duyên như vậy, nên ban
đầu nói Bát nhã ba la mật. Phật bảo Tu bồ đề: Ông hãy vì các Bồ
tát nói Bát nhã ba la mật. Tu bồ đề khiêm nhường nói: Bồ tát
“không” chỉ có tên gọi; tiếp sau lại nói là biết rõ hiểu được
tướng Bồ tát như vậy, tức là hành Bát nhã ba la mật. Ðã biết như
vậy rồi lại hỏi cú nghĩa Bồ tát, tiếp đến hỏi nghĩa Ma ha tát.
Trong nghĩa Ma ha tát có Ðại thừa đại trang nghiêm; ví như dũng
sĩ tuy có dao gậy trang nghiêm mà không cưỡi ngựa hay, thời
không thể làm gì.
Ðại thừa, Thiên trúc gọi là Ma ha Diễn
(Mahayana). Chư Phật vì dứt pháp ái, và vì nói rõ nghĩa Bát nhã
ba la mật không khác, nên Phật không quở trách. Vì vậy, Tu bồ đề
lại dùng tên khác hỏi Ma ha Diễn.
Hỏi:
Như trong lời tựa Ma ha Diễn nói: Từ khi mới phát tâm cho đến
khi thành Phật đạo, vì Phật đạo nên nhóm hết thảy thiện pháp,
đều gọi là Ma ha Diễn. Sao nay chỉ nói sáu Ba la mật là Ma ha
Diễn?
Ðáp:
Như trước nói: Nói Bát nhã ba la mật, thời đã nói sáu Ba la mật,
nói sáu Ba la mật thời đã nhiếp hết thảy thiện pháp. Vì vậy
không nên hỏi các thiện pháp có nhiều sao chỉ nói sáu Ba la mật.
Lại nữa, Ma ha Diễn, ban đầu phát tâm lập
nguyện, cho đến về sau sáu Ba la mật phương tiện v.v... Các pháp
ấy tuy không gọi là Ba la mật, nhưng theo nghĩa đều ở trong sáu
Ba la mật. Như ban đầu phát tâm lập nguyện vì tâm đại bi v.v...
có sức lớn nên gọi là Tinh tấn ba la mật; bỏ lợi nhỏ, thủ lấy
Ðại thừa, thời gọi là Bát nhã ba la mật.
Phương tiện tức là trí tuệ, trí tuệ thanh
tịnh nên đổi gọi là phương tiện.
Giáo hóa chúng sinh, tịnh quốc độ Phật v.v...
đều ở trong sáu Ba la mật, tùy nghĩa thu nhiếp nhau.
Hỏi:
Nếu như vậy, cớ sao lại nói mười tám pháp không, 108 Tam muội
v.v... gọi là Ma ha Diễn?
Ðáp:
Sáu Ba la mật là thể Ma ha Diễn, về sau chỉ phân biệt rộng nghĩa
nó. Như mười tám không, bốn mươi hai chữ v.v... là nghĩa Bát nhã
ba la mật, 108 Tam muội là nghĩa Thiền ba la mật. Vì vậy nên ban
đầu nói sáu Ba la mật.
Hỏi:
Cớ sao chỉ nói đúng Ba la mật, không nhiều không ít?
Ðáp:
Phật là đấng Pháp vương, tùy chúng sinh có thể độ, hoặc có khi
lược nói một, hai, ba, bốn, hoặc có khi nói rộng, như kinh Hiền
Kiếp nói 84.000 ba la mật.
Lại nữa, sáu đạo chúng sinh đều chịu thân
tâm khổ não, như chúng sinh địa ngục bị khổ tra khảo, trong
súc sinh bị khổ tàn hại lẫn nhau, trong ngã quỷ bị khổ đói
khát, trong loài người bị khổ tìm cầu dục lạc, ở cõi trời bị
khổ xa lìa điều ưa muốn, A tu la bị khổ đấu tranh; Bồ tát sinh
tâm đại bi muốn dứt khổ cho sáu đạo chúng sinh nên phát sinh
sáu Ba la mật. Vì vậy nên nói sáu Ba la mật, không nhiều không
ít hơn.
Hỏi:
Thí ba la mật có nhiều tướng, sao trong đây Phật chỉ nói năm
tướng là dùng tâm tương ưng với Trí nhất thiết chủng, xả tài vật
trong ngoài, đem phước ấy chung với chúng sinh, hồi hướng đến Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác, vì dùng vô sở đắc, sao không nói
đến tâm đại từ bi, cúng dường chư Phật, và thần thông, bố thí
v.v... ?
Ðáp:
Năm tướng ấy gồm nhiếp hết thảy bố thí. Tâm tương ưng với Trí
nhất thiết chủng mà bố thí là duyên theo Phật đạo, nương Phật
đạo.
Xả tài vật trong ngoài
là xả hết thảy phiền não; chung với chúng sinh là tâm đại bi.
Hồi hướng là
đem sự bố thí này chỉ cầu Phật đạo; không cầu quả báo gì khác.
Dùng vô sở đắc
là được khí phần của Bát nhã ba la mật về thật tướng các pháp.
Thí ba la mật chẳng phải hư dối, chẳng phải
điên đảo, cũng không cùng tận.
Hỏi: Nếu như vậy thời không cần năm tướng,
chỉ nói tâm tương ưng với Trí nhất thiết chủng là đủ?
Ðáp: Việc ấy có thể như vậy. Chỉ vì chúng
sinh chẳng biết nghĩa thế nào là tâm tương ưng với Trí nhất
thiết chủng mà bố thí, cho nên lấy bốn việc phân biệt nghĩa kia.
Tâm tương ưng với Trí nhất thiết chủng
là tâm Bồ tát cầu Trí nhất thiết chủng của Phật làm duyên, làm
ức niệm để buộc tâm; đem tâm ấy mà bố thí nên được quả Trí nhất
thiết chủng, chứ không cầu nhân duyên đời nay, tiếng tăm, trả
ân, cũng không cầu đời sau làm Chuyển luân Thánh vương, vua
trời, chỗ giầu sang. Vì độ chúng sinh, không cầu Niết bàn, chỉ
muốn đầy đủ các Phật pháp Nhất thiết trí v.v... vì dứt hết khổ
cho hết thảy chúng sinh, nên gọi là tâm tương ưng với Trí nhất
thiết chủng.
Tài vật trong ngoài
là, trong là đầu não, xương tủy, máu thịt v.v... vì khó xả bỏ
nên nói trước; vật ngoài là quốc độ, vợ con, bảy báu, uống ăn
v.v...
Cùng với hết thảy chúng
sinh là, quả báu phước đức bố thí cho hết thảy chúng sinh dùng
chung; ví như nhà giàu trồng lúa cho mọi người ăn chung. Quả báu
phước đức của Bồ tát, hết thảy chúng sinh đều đến nương nhờ; ví
như cây có quả tốt, chim chóc đều qui tụ.
Hồi hướng
là, bên cạnh phước đức, không cầu quả báo khác, chỉ cầu Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Hỏi:
Trước tiên nói tâm tương ưng với Trí nhất thiết chủng, sau nói
hồi hướng, có sai khác gì?
Ðáp:
Tâm tương ưng với Trí nhất thiết chủng là nhân duyên sinh khởi
các phước đức, còn hồi hướng là không cầu quả báo khác, chỉ cầu
Phật đạo.
Lại nữa, tâm tương ưng với Trí nhất thiết
chủng, vì ứng hợp với Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nên bố
thí, như nghĩa ở trước nói Trí nhất thiết chủng làm chủ, hết
thảy công đức đều vì Trí nhất thiết chủng.
Tán thán trí tuệ Phật có hai thứ: 1. Chánh
trí vô thượng, gọi là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. 2. Trí
nhất thiết chủng, gọi là Tát bà nhã.
Dùng vô sở đác
là, dùng tâm Bát nhã ba la mật để bố thí, thuận với thật tướng
các pháp mà không hư dối.
Như vậy, là nói về nghĩa Thí ba la mật.
Hỏi:
Giới ba la mật thời tổng nhiếp hết thảy giới pháp; ví như biển
lớn tổng nhiếp các dòng. Nghĩa là không uống rượu, không ăn quá
ngọ, không đánh đập chúng sinh v.v... việc ấy không nhiếp vào
trong mười thiện, cớ sao chỉ nói mười thiện?
Ðáp:
Phật nói tổng tướng Ba la mật, mười thiện là tổng tướng giới,
biệt tướng thời có vô lượng giới. Không uống rượu, không ăn quá
ngọ... nhập vào trong điều thiện không tham; không gia hại chúng
sinh nhập vào trong điều thiện không giận; các việc khác tùy
nghĩa mà nhiếp theo sau.
Giới là nhiếp vào bảy thiện đạo, thân nghiệp
có ba, khẩu nghiệp có bốn.
Mười thiện đạo và đầu cuối, như khởi tâm muốn
giết, khi ấy khởi phương tiện miệng nói dữ, đánh đập, trói buộc,
cắt chém cho đến sắp chết, đều thuộc giai đoạn đầu. Sau khi chết
lột da, ăn, nuốt, cắt xẻ, vui mừng đều gọi là giai đoạn cuối.
Cướp mạng sống là điều căn bản; ba việc ấy hòa hợp chung gọi là
bất thiện đạo về sát. Vì vậy nên biết nói mười thiện đạo thời
thu nhiếp hết thảy giới.
Lại nữa, Bồ tát sinh tâm từ bi, phát tâm Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác, bố thí lợi ích chúng sinh, tùy chỗ
họ cần đều cấp cho, trì giới không não hại chúng sinh, không gia
thêm các khổ, thường thí vô uý, lấy mười thiện nghiệp đạo làm
căn bản. Ngoài ra, các việc khác là nhân duyên xa không não hại
chúng sinh. Giới luật vì thủ chứng Niết bàn tại đời này, dâm dục
tuy không não hại chúng sinh, mà vì tâm bị trói buộc nên đại
tội. Vì vậy nên dâm dục đứng đầu trong giới luật, kẻ bạch y thì
giới bất sát ở trước. Vì cầu phước đức nên Bồ tát không cầu Niết
bàn, trong đời này, qua lại sinh tử trong vô lượng đời để tu các
công đức. Mười thiện là cựu giới, các luật nghi là khách.
Lại nữa, nếu Phật ra đời vào thời kỳ tốt đẹp,
thời không có giới luật này. Như đức Phật Thích ca Văn, tuy ở
đời ác, mà sau khi thành đạo mười hai năm cũng không có giới
này, vì vậy nên biết nó là khách.
Lại nữa, có hai thứ Giới: Giới lúc có Phật
hoặc có hoặc không và mười thiện, dù lúc có Phật không có Phật
vẫn thường có.
Lại nữa, Giới trong Giới luật, tuy là vi tế
sám hối thời thanh tịnh, còn phạm mười thiện giới, tuy sám hối
mà tội ba ác đạo không thể trừ. Như Tỳ kheo giết súc sinh, tuy
được sám hối, nhưng tội báo vẫn không trừ. Do các nhân duyên như
vậy, chỉ nói mười thiện nghiệp đạo, cũng tự làm, cũng dạy người
khác làm, gọi là Giới ba la mật.
Mười thiện đạo, bảy việc là giới, ba việc
là thủ hộ. Gọi chung là Giới ba la mật. Các Ba la mật khác
cũng như vậy, tùy nghĩa mà phân biệt. Như đã luận nghĩa nói
rộng ở trong phẩm đầu.
Kinh này gọi là Bát nhã ba la mật. Bát nhã ba
la mật gọi là tướng lìa bỏ, vì vậy nên đối với hết thảy pháp đều
dùng vô sở đắc.
Hỏi:
Nếu dùng hữu sở đắc để nhóm các thiện pháp thời đã còn khó,
huống gì dùng vô sở đắc? Nếu được trí vô sở đắc thời lúc ấy có
thể trở ngại làm việc thiện, hoặc sinh tà nghi; nếu không được
trí vô sở đắc thời lúc ấy không trở ngại làm việc thiện, cũng
không sinh tà nghi?
Ðáp:
Phật cũng không khen tâm chấp trước thủ tướng làm các việc
thiện, vì sao? Vì hư dối ở thế gian, cuối cùng tiêu hết. Nếu
chấp trước tâm tu thiện, bị phá rất dễ, nếu chấp trước Không,
thời sinh hối hận, trở lại mất đạo; ví như lửa sinh trong cỏ,
gặp nước thì tắt, nếu lửa sinh trong nước, thì không vật gì làm
tắt được. Bồ tát ban đầu tập hành mà chấp trước tâm thủ tướng tu
phước đức, giống như cỏ sinh lửa, dễ cháy, dễ tắt. Nếu Bồ tắt
thể hội được thật tướng các pháp, lấy tâm đại bi tu các hạnh,
khó thể phá được; như lửa sinh trong nước, không thể diệt được.
Vì vậy nên dùng tâm vô sở đắc tu các hạnh, tâm cũng không nhu
nhược, không sinh nghi hối.
Ấy là lược nói sáu Ba la mật, còn nói rộng
như trong phẩm đầu, mỗi mỗi Ba la mật đều đầy đủ.
Mười sáu không là trong sáu Ba la mật nói
nghĩa của Bát nhã ba la mật là không nhiễm trước các pháp, vì
sao? Vì mười tám không. Luận nghị về mười tám không, như trong
phẩm đầu Phật bảo Xá lợi phất rằng: Bồ tát ma ha tát muốn an trụ
mười tám không hãy học Bát nhã ba la mật. Nghĩ ấy nên như đã nói
rộng trong ấy.
Hỏi:
Mười tám không, sau nội không v.v... đều nói chẳng phải thường
chẳng phải diệt, nghĩa ấy thế nào?
Ðáp:
Nếu người không tu tập hai không ấy, tức rơi vào hai bên hoặc
thường hoặc đoạn diệt, vì sao?Vì nếu các pháp thật có thời không
có nghĩa diệt, bị rơi vào chấp thường; như người ra khỏi nhà này
đi vào nhà khác, mắt tuy không thấy mà không gọi là không có.
Các pháp cũng như vậy, từ đời vị lai đi vào đời hiện tại, từ đời
hiện tại đi vào đời quá khứ, như vậy thới không diệt.
Hành giả vì lo sợ có, mà dùng không để phá
tâm chấp có, song lại quí không mà đắm vào không, thời bị rơi
vào đoạn diệt. Vì vậy nên tu hành không ấy để phá có, cũng
không đắm không. Xa lìa hai bên ấy, lấy trung đạo để hành mười
tám không, dùng tâm đại bi mà độ chúng sinh, thế cho nên sau
mười tám không, đều nói chẳng phải thường chẳng phải diệt; ấy
gọi là Ma ha Diễn. Trái với đây là hí luận của người cuồng, ở
trong Phật pháp luống không được gì, như người ở giữa đống
trân bảo lượm lấy ngọc thủy tinh, mắt tuy thấy đẹp mà chẳng có
giá trị gì.
Hỏi:
Nếu mười tám không đã nhiếp hết các không, cớ sao còn nói bốn
không?
Ðáp:
Trong mười tám không, hiện không nhiếp hết, Chư Phật có hai cách
thuyết pháp, hoặc đầu nói lược sau nói rộng, hoặc đầu nói rộng
sau nói lược. Ðầu lược sau rộng là vì giải nghĩa; đầu rộng sau
lược là vì dễ thọ trì. Hoặc vì chúng sinh đến sau nên lược nói
yếu nghĩa, hoặc nói bằng kệ, tụng. Nay Phật đầu nói rộng mười
tám không, sau lược nói tướng bốn không.
Pháp, pháp tướng không
là trong hết thảy pháp, pháp tướng chẳng thể có được, như trong
sắc, sắc tướng chẳng thể có được.
Lại nữa, trong pháp chẳng sinh pháp, gọi là
pháp pháp không.
Vô pháp, vô pháp không
là pháp vô vi, gọi là vô pháp, vì sao? Vì tướng nó không thể có
được.
Hỏi:
Phật dùng ba tướng nói pháp vô vi, tại sao nói vô tướng?
Ðáp:
Không phải vậy, phá sinh nên nói vô sinh, phá trụ nên nói vô
trụ, phá diệt nên nói vô diệt; đều từ bên sinh, trụ, diệt mà có
tên gọi đó, không phải riêng có pháp vô sinh, vô diệt gọi là vô
pháp, vô pháp không. Nghĩa này như đã nói trong phẩm vô vi
không.
Tự pháp, tự pháp không
là tự pháp, tự tánh các pháp. Tự tánh có hai: 1. Như pháp thế
gianđất có tánh cứng v.v... 2. Như như, pháp tánh, thật tế mà
Thánh nhân rõ biết pháp ấy không, vì sao? Vì không do trí thấy
biết. Có hai tánh không, như trước nói.
Hỏi:
Như như, pháp tánh, thật tế, đã nhiếp vào trong pháp vô vi, sao
còn nói lại?
Ðáp:
Trong khi quán xét phân biệt nói thật tướng năm uẩn, là pháp
tánh, như như, thật tế. Lại chẳng phải do trí Không quán sát làm
cho nó không, mà tánh nó tự không như vậy.
Hỏi:
Như sắc là tự pháp, thức là tha pháp, trong đó vì sao nói như,
pháp tánh, thật tế, có Phật không Phật vẫn thường trú, quá đây
gọi là tha pháp không?
Ðáp:
Có người vì chưa khéo dứt kiết sử tà kiến nên mỗi mỗi sinh tâm
chấp trước, người ấy nghe nói như như, pháp tánh, thật tế, thì
cho rằng vượt quá đây còn có pháp khác, vì vậy nên nói vượt
quá như như, pháp tánh, thật tế cũng không.
(Hết cuốn 46 theo bản
Hán)
--o0o --
|
|