phần iV
các phong trào phật giáo
Từ phong trào chấn hưng Phật giáo - một số
suy nghĩ về Phật giáo Việt
Nam
với tiến trình thống nhất dân tộc
Hòa
thượng THÍCH THANH TỨ
Phó Chủ tịch Hội
đồng Trị sự GHPGVN
Trong
buổi tiếp xúc với đại biểu Hội nghị Thống nhất Phật giáo (PG) Việt Nam ngày 8-11-1981,
tại Phủ Chủ tịch, ngài Phạm Văn Đồng (khi đó là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng)
đã nói: “Trong quá khứ, PG Việt Nam đã gắn chặt với dân tộc trong sự nghiệp
dựng nước và giữ nước. Lịch sử đã xác nhận PG Việt Nam là một tôn giáo, từ bản
chất bản sắc, từ trong thực tiễn hoạt động của mình biểu hiện truyền thống yêu
nước, gắn bó chặt chẽ với dân tộc, với Tổ quốc”
(1). Thật xác đáng và ý
nghĩa sâu sắc lời nhận định của một vị nguyên thủ về PG Việt Nam, trong bối
cảnh lần đầu tiên trong 2000 năm lịch sử PG Việt Nam, 6 năm sau khi nước nhà
thống nhất, đại biểu của đủ các tổ chức, giáo hội, hệ phái PG từ khắp ba miền
vân tập về thủ đô Hà Nội với một quyết tâm chung xây dựng hoàn thành ngôi nhà
chung Giáo hội PG Việt Nam.
Nhân ý đó, trong
khuôn khổ của cuộc Hội thảo “300 năm PG Gia Định-Sài Gòn-TP Hồ Chí Minh”, tôi
có đôi dòng suy nghĩ về phong trào vận động chấn hưng PG ở Nam Kỳ trong những
thập niên đầu của thế kỷ XX, đặt nó trong cảm thức chung về PG Việt Nam với
tiến trình thống nhất dân tộc trong lịch sử.
Như chúng ta đã
biết, từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ thứ II sau Tây lịch, theo chân các Tăng sĩ và
thương nhân người Ấn, những hạt giống bồ
đề đầu tiên đã được gieo trồng và kết quả trên đất Giao Châu. Luy Lâu đã nhanh
chóng trở thành trung tâm PG sầm uất của cả khu vực.
Năm 43 sau Tây
lịch, đất nước ta rơi vào tay nhà Hán, bước vào thời kỳ 1000 năm Bắc thuộc và
chống Bắc thuộc. Trong bối cảnh nước mất nhà tan, tư tưởng - văn hóa - lối
sống PG đã hòa quyện với văn hóa - đạo lý truyền thống của người Việt cổ, trở
thành vũ khí tinh thần chống lại sự xâm lược, nô dịch tinh thần bằng Hán Nho
của các triều đại phong kiến phương Bắc. Sự tích Tứ pháp (ở Dâu - Keo) là một
hình ảnh đẹp về sự hội nhập một cách tự nhiên, hài hòa mà sâu sắc giữa PG và
dân tộc ngay từ buổi đầu gặp gỡ.
Cùng với quá trình
trưởng thành của dân tộc, sự truyền bá của các dòng
thiền (như Tỳ Ni Đa Lưu Chi năm 580, Vô Ngôn Thông năm 820), PG đã trở
thành lực lượng vật chất và tinh thần quan trọng trong sự nghiệp đấu tranh
giải phóng dân tộc. Không phải ngẫu nhiên mà Lý Nam
Đế (544-548) - vị “đế” đầu tiên của nước ta - ngay sau khi lên ngôi, việc đầu
tiên là cho dựng chùa Khai Quốc (chùa Mở
nước) ở giữa kinh đô. Vị vua
tiếp theo lại lấy hiệu là Lý Phật Tử (người con Phật họ Lý). Thần tích, thần
phả cung cấp cho ta một danh sách dài những vị tướng ở thời kỳ này có liên
quan đến PG. Cho dựng chùa “Mở nước” ở giữa kinh đô, từ thuở đó, phải chăng Lý Nam Đế đã nhận
thức rõ vai trò của PG trong việc xây dựng và củng cố khối đoàn kết thống nhất
dân tộc, mà ngày nay, chủ nghĩa Mác - Lê-nin vẫn đánh giá cao “chức năng liên
kết của tôn giáo”.
Trong buổi đầu xây
dựng quốc gia phong kiến độc lập dân tộc Ngô - Đinh - Lê, các Thiền sư cao
tăng đồng thời cũng là những nhà chính trị - quân sự - ngoại giao xuất sắc của
thời đại. Thiền sư Vạn Hạnh thực sự là “người cha tinh thần”, “người kiến trúc
sư” của vương triều Lý, là người “trụ tích trấn vương kỳ” (chống gậy thiền bảo
vệ quốc gia - thơ truy tán của Lý Nhân Tông). Chính văn hóa PG là nguồn sức
mạnh tinh thần quan trọng tạo nên những chiến công hiển hách “phạt Tống, bình
Chiêm, sát Thát” của thời đại Lý-Trần, tạo nên thần thái, bản sắc văn hóa
Thăng Long - văn minh Đại Việt huy hoàng. Các Thiền sư - hoàng đế thời Trần đã
lập nên thiền phái Trúc Lâm, một
thiền phái - hệ tư tưởng đầu
tiên và duy nhất ở Việt Nam.
Thế kỷ XVII, lịch
sử dân tộc và lịch sử PG Việt
Nam bước sang một trang mới. Do điều kiện địa - chính trị (Géo - Politique) cụ
thể, cùng với “giữ nước”, “mở nước” là yêu cầu bức thiết đặt ra lúc bấy giờ.
Cùng với những đợt di dân có tổ chức và tự do, PG cũng từ Đàng Ngoài lan
truyền vào Đàng Trong, tới tận cùng miền đất mới Nam Kỳ, xen cư và phát triển
bên các tín ngưỡng - tôn giáo bản địa. Tuy nhiên, biên giới chính trị sông
Gianh nghiêm ngặt đã chia cắt hai miền (xem hành trạng Thiền sư Hương Hải).
Năm 1802, Nguyễn
Ánh thống nhất ba miền đất nước. Tuy nhà Nguyễn coi Nho giáo là hệ tư tưởng
chính thống, nhưng các vua, vương phi, công chúa và đại thần cũng không kém
phần sùng Phật. Vùng đất Gia Định-Sài Gòn xưa - từng là hậu phương tin cậy của
Nguyễn Ánh - có nhiều chùa được “sắc tứ”. Bằng hệ thống các chính sách về kinh
tế và chính trị, các vua đầu triều Nguyễn đã tích cực và có hiệu quả trong sự
nghiệp xây dựng một nền văn hóa thống nhất, trong đó có Phật giáo. Năm 1858,
thực dân Pháp nổ tiếng súng đầu tiên xâm lược nước ta, sự nghiệp đó bị dang
dở.
Hòa ước
Pa-tơ-nốt ký ngày 6-6-1884,
thực chất là một hàng ước, đã chính thức thừa nhận nền thống trị của thực dân
Pháp trên lãnh thổ Việt Nam. Thực dân Pháp chia nước ta làm 3 kỳ, với 3 hình
thức cai trị, 3 thể chế chính trị khác nhau. Hậu quả của chính sách khai thác
thuộc địa cùng với sự du nhập xô bồ lối sống thực dụng theo kiểu tư sản phương
Tây xa lạ với truyền thống văn hóa phương Đông, thái độ bảo thủ và bất lực của
nhà Nguyễn đã gây nên một làn sóng đấu tranh để “phản đế, bài phong”, đòi hỏi
duy tân đất nước ở khắp ba miền Trung-Nam-Bắc. Hệ tư tưởng Nho giáo đã tỏ ra
bất lực trước yêu cầu mới của lịch sử, của nhu cầu duy tân đất nước. Câu hỏi
cần thiết đặt ra là : Vậy đâu là nền tảng đạo lý của công cuộc duy tân ? Ngoài
những câu hô hào chung chung như “đồng bào, đồng tâm, ái quốc”..., bằng cách
nào tập hợp được quần chúng, cố kết được đồng bào? Trước tình hình đó, những
sĩ phu Nho học có đầu óc tân tiến, những
thiền sư - học giả giàu lòng yêu
nước đã quay lại lục tìm những di sản của truyền thống, những triều đại huy
hoàng thuở trước, hy vọng tìm được câu trả lời, và họ đã tìm đến PG, như là
một lực lượng tinh thần chống lại sự nô dịch tinh thần, bảo vệ và phát triển
nền văn hóa dân tộc, như là một phương thức hữu hiệu để cổ động, tập hợp lực
lượng dân tộc.
Cùng với ảnh hưởng
của phong trào chấn hưng PG ở Trung Quốc, xuất phát từ yêu cầu của bản thân
các tổ chức PG trong nước, theo tôi, đây là một nguyên nhân quan trọng dẫn tới
sự bùng nổ và quy định mục tiêu của phong trào chấn hưng PG ở Việt Nam - một
phong trào tuy diễn ra trong một thời gian ngắn nhưng có sức lan tỏa rất rộng,
có ảnh hưởng to lớn trên mọi mặt của đời sống xã hội và tinh thần của lịch sử
Việt Nam nói chung, lịch sử PG Việt Nam nói riêng thời cận đại
(2).
Phong trào chấn
hưng PG xuất phát từ Nam Kỳ nhanh chóng nở rộ khắp cả ba miền. Hội “Nam Kỳ
Nghiên cứu Phật học” chính thức ra đời ngày 26-8-1931 tại Sài Gòn, Hội “Phật
học Kiêm tế”, Hội “Lưỡng Xuyên Phật học” của vùng sông Tiền, sông Hậu. Trung
Kỳ có Hội “An Nam Phật học” ở Huế được thành lập năm 1932. Bắc Kỳ có Hội “Bắc
Kỳ PG” thành lập ngày
18-11-1934 tại chùa Quán Sứ, và Hội “Cổ sơn môn” của tổ đình Hồng Phúc.
Dù nội dung của
phong trào rất rộng lớn, trên hầu hết các lĩnh vực của giáo lý - giáo luật -
giáo hội đều có rất nhiều vấn đề được nêu lên để thảo luận nhằm cải cách hoặc
chấn hưng, nhưng có một nội dung cực kỳ quan trọng có tính nhất quán ở cả ba
miền là : nhằm xây dựng một tổ chức PG Việt Nam thống nhất chung trong toàn
quốc và phổ cập hoằng pháp bằng chữ quốc ngữ. Từ những cuộc thăm viếng cá nhân
hoặc giữa các tổ đình hệ phái cho đến những tranh luận nhiều khi khá gay gắt
trên các cơ quan ngôn luận của các Hội, dù hữu thức hay vô thức, kết quả khách
quan đưa lại đã góp phần tìm ra tiếng nói chung, xóa đi những bất đồng, tạo ra
bầu không khí hiểu biết nhau hơn giữa các sơn môn hệ phái trong từng miền và
trên phạm vi toàn quốc. Tiếp bước của phong trào “Đông Kinh
nghĩa
thục” trong việc truyền bá chữ
quốc ngữ, một khối lượng Tam
tạng Thánh điển bằng chữ Hán và các tài liệu nghiên cứu Phật học được biên
dịch viết bằng chữ quốc ngữ được phổ biến rộng rãi trong nhân dân. Nếu khẳng
định chữ quốc ngữ là yếu tố quan trọng trong công cuộc xây dựng và củng cố nền
thống nhất quốc gia dân tộc, thì trên lĩnh vực này, đóng góp của phong trào
chấn hưng PG vượt trội phong trào Đông Kinh
nghĩa
thục cả về bề rộng lẫn chiều
sâu.
Có thể coi cuộc
vận động của Thiền sư Khánh Hòa dẫn tới sự ra đời của một “Thích học đường” và
một “Phật học thư xã” đầu năm 1928, với sự tham gia của Thiền sư Huệ Quang và
nhiều vị tôn túc khác, là khúc nhạc dạo đầu của phong trào chấn hưng PG ở Việt
Nam, với mục tiêu tiến tới xây dựng một Tổng hội PG toàn quốc, chùa Linh Sơn ở
Sài Gòn - “một giao điểm động... luôn nhạy bén với phong trào cách tân...”
(trích báo cáo đề dẫn của Ban Tổ chức Hội thảo), là nơi châm ngòi nổ cho
phong trào.
Từ trước đó, năm
1927, đọc tin trên báo Thực Nghiệm xuất bản ở Hà Nội, được biết Thiền
sư Tâm Lai có ý nguyện chấn hưng PG, Thiền sư Khánh Hòa lập tức cử người đồng
chí nhiệt tình là Thiền sư Thiện Chiếu ra Bắc, gặp Tăng cang Thiền sư Đỗ Văn
Hỷ ở chùa Bà Đá để đến tổ đình
Tiên Lữ bàn với Thiền sư Tâm Lai về việc xây dựng một Hội PG toàn quốc và chấn
hưng PG. Trên đường về Nam, Thiền sư Thiện Chiếu ghé qua Huế trao đổi vấn đề
này với các Thiền sư tôn túc ở miền Trung. Bởi nhiều lý do, tuy mục đích
chuyến đi của Thiền sư Thiện Chiếu không thành, nhưng nó đã có tác dụng lớn
trong việc cổ xúy cho phong trào chấn hưng PG ở cả ba miền, chuẩn bị một Hội
PG toàn quốc. Từ đây, việc trao đổi Tăng sinh - giảng sư giữa các tổ đình,
giữa các thiền đường, thiền viện của các miền diễn ra thường xuyên là chuyện
bình thường.
Phong trào đấu
tranh chống thực dân Pháp của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Đông Dương ngày càng lên cao. Sẵn tinh thần Lục hòa vô ngã, là Phật tử trên
đất Việt, hơn ai hết, hiểu rõ về nghĩa “Tứ ân” không phân biệt sơn môn, hệ
phái các miền, những người con Phật trong phong trào chấn hưng nhanh chóng hòa
chung vào dòng chảy cách mạng. Chùa Tam Bảo, trụ sở Hội Phật học Kiêm tế của
Thiền sư Thiện Chiếu trở thành cơ sở cất giấu vũ khí, nuôi giấu cán bộ kháng
chiến. Bản thân Thiền sư bị bắt đày ra Côn Đảo tra tấn dã man. Nhiều Thiền sư,
cư sĩ là yếu nhân của phong trào chấn hưng PG đã trở thành những cốt cán của
các tổ chức kháng chiến kiến quốc trên khắp mọi miền đất nước. Đạo hạnh và tấm
gương dấn thân cùng dân tộc của những vị như Thiền sư Thiện Chiếu, Thiền sư
Thích Trí Độ, cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám... đã có ảnh hưởng lớn tới các thế
hệ Thiền sư kế tiếp, mà tiêu biểu là các cố Hòa thượng (HT) Thích Mật Thể,
Thích Thiện Hoa, Thích Trí Thủ, Thích Minh Nguyệt, Thích Thiện Hào...
Giới tuyến 17 tạm
thời chia cắt đất nước ta làm hai miền ; một lần nữa, ý nguyện của các Thiền
sư thời chấn hưng về một Giáo hội chung của PG Việt
Nam tạm thời chưa được thực hiện. Tuy hai miền phân cách, nhưng những người
con Phật trên đất Bắc vẫn luôn dõi về miền Nam thân yêu, chia sẻ và cổ vũ
phong trào đấu tranh chống Mỹ-ngụy của đồng bào miền Nam nói chung và những
người anh em đồng đạo nói riêng, làm hết sức mình để có ngày đất nước thống
nhất, Giáo hội một nhà. Được tin HT Thích Quảng Đức noi gương hạnh nguyện đại
hùng đại lực, tự nguyện thiêu thân cúng dàng Tam bảo, phản đối chế độ độc tài
phát-xít Ngô Đình Diệm, ngày 20-7-1963, Thành hội PG Hà Nội đã kịp thời dựng
“Bảo tháp Ấn Quang” tại tổ đình
Hồng Phúc - Hòe Nhai, có bài minh tán thán công đức xả thân hộ pháp của Ngài.
Thắng lợi mùa Xuân
năm 1975 mở ra một kỷ nguyên mới cho lịch sử dân tộc, một vận hội mới cho PG
Việt Nam.
Theo lời bậc cổ đức đã chỉ bày: “tùy
thời, tùy quốc độ”, ngay từ đầu PG đã gắn bó chặt chẽ, đã là người bạn đồng
hành đáng tin cậy của dân tộc. Thực thú vị và sâu sắc, lại chính tại thành phố
Sài Gòn-Hồ Chí Minh ngày 12-2-1980 đã diễn ra cuộc gặp mặt lịch sử giữa chư
tôn giáo phẩm tiêu biểu Bắc-Trung-Nam và các hàng nhân sĩ Phật tử để tiến tới
sự nghiệp thống nhất PG Việt Nam, dưới sự chủ tọa của cố Hòa thượng Thích Trí
Thủ. Sau thời gian khẩn trương chuẩn bị, ngày 4-11-1981, lần đầu tiên trong
lịch sử PG Việt Nam, 165 đại biểu của 9 tổ chức, giáo hội, hệ phái PG vân tập
về thủ đô Hà Nội với một ý hướng chung hoàn thành ngôi nhà Giáo hội PG Việt
Nam. Sau hơn nửa thế kỷ, ý nguyện của các nhà chấn hưng Phật giáo đã được thực
hiện trọn vẹn.
Lịch sử là một tấm
gương trung thực và hàm chứa trong nó bao bài học sâu sắc. Với PG Việt
Nam, lịch sử đã chứng minh rõ ràng: thực hành chính pháp và gắn bó cùng dân
tộc là lẽ sống còn. Lịch sử đã cho phép tôi xác tín rằng: Dưới ngôi nhà chung
Giáo hội PG Việt Nam, tinh thần “Lục hòa vô ngã” và phương châm “Đạo pháp -
Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội”, mọi người con Phật trên đất Việt thân yêu sẽ cùng
nhau xây dựng ngôi nhà chung đó ngày thêm tố hảo.
Chân thành cảm ơn
quý vị để tâm theo dõi.
(1) Kỷ yếu Hội nghị Thống nhất PG Việt
Nam - 1981
(2) Trong thời gian vận động bắt đầu từ những
năm 20 ở Nam Kỳ và dư âm còn kéo dài tới giữa những năm 40, nhưng chính thức
các Hội PG ở các miền trong phong trào chấn hưng PG chỉ tồn tại từ năm 1931
đến năm 1941.
Đoàn Sinh viên Phật tử Sài Gòn
đấu tranh cho tự do tôn giáo (1963)
lương hữu định
Năm
1963, sau khi hay tin Hòa thượng (HT) Thích Quảng Đức đã tự thiêu để bảo vệ
chánh pháp, toàn thể các giới ở trong nước, nhất là giới trí thức, thanh niên,
sinh viên, học sinh, Phật tử hay không phải Phật tử, đã sôi nổi, ồ ạt đứng
lên, tham gia tích cực vào phong trào chống chế độ “gia đình trị” của ông Ngô
Đình Diệm. Động cơ của sự tham gia này có nhiều, nhưng riêng đối với tôi, thì
khi tham gia vào sự kiện này, qua Đoàn Sinh viên Phật tử Sài Gòn thời ấy, thì
động lực duy nhất là đòi hỏi tự do tôn giáo. Tôi chỉ xin trình bày các sự kiện
dưới con mắt chủ quan của tôi, còn việc đánh giá đúng sai sẽ không nói tới.
1- Sinh
viên và Phật giáo:
Gia đình tôi vốn
theo đạo Phật, nên thời thơ ấu của tôi đã đậm mùi khói hương, kinh kệ. Cứ mỗi
buổi chiều, khoảng 5 giờ, bà ngoại tôi và bà dì tôi lại lên một thời kinh (vì
mẹ tôi mất khi tôi mới 4 tuổi). Dì tôi tụng kinh gõ mõ, bà ngoại tôi ngồi lim
dim lần tràng hạt. Những ngày lễ, Tết, tôi được theo bà lên chùa. Hình ảnh
những ngôi chùa to, những pho tượng đẹp, những tu sĩ trang nghiêm và đáng
kính, đã trở thành quen thuộc với tôi. Đến độ bây giờ, chỉ cần nghe tiếng
chuông chùa từ xa vọng lại, tôi lại nhớ thấy cảnh kẻ ra người vào tấp nập,
miệng luôn chào nhau “A Di Đà Phật”.
Khi ấy, đạo Phật
đối với tôi chỉ là những nghi lễ dành cho người lớn, một cách sống của người
già. Đối với tuổi trẻ thì chùa là loại thắng cảnh để rủ nhau đi chơi vào những
ngày nghỉ, kiểu như “hôm nay em đi chùa Hương, hoa cỏ còn mờ hơi sương”
để rồi “em không dám đi mau, sợ chàng chê hấp tấp, số gian nan không giàu”.
Còn đối với con nít như tôi hồi đó, thì đức Phật là đấng ban lộc oản chuối,
xôi chè.
Cái quan niệm ấy
tôi giữ cho tới thời kỳ đi vào đại học, là sinh viên. Khi ấy, đến với Đoàn
Sinh viên Phật tử Sài Gòn, tôi chỉ muốn tìm được những người bạn cùng trang
lứa, cùng làm việc xã hội: đi thăm các cô nhi viện, các viện dưỡng lão, các
làng tình thương, và khi xảy ra thiên tai bão lụt thì đi quyên góp tiền bạc,
quần áo, đi cứu trợ. Việc lễ Phật chỉ là một nghi lễ mở đầu hay chấm dứt cho
một buổi sinh hoạt.
2- Sinh
viên và tự do tín ngưỡng:
Dần dần, việc đi
lễ mỗi sáng Chủ nhật trở thành thói quen: sáng Chủ nhật được nghỉ học, ở nhà
buồn, đi lễ cho vui. Khi ấy ở chùa Xá Lợi, sau mỗi khóa lễ từ 8 giờ tới 9 giờ,
là có một lớp giáo lý ở giảng đường, từ 9 giờ tới 11 giờ. Về sớm cũng chẳng có
việc gì làm, tôi vào dự nghe. Từ từ, những bài giảng của
đức Thích Ca đến với tôi: Tứ
diệu đế, Thập nhị nhân duyên, Bát chánh đạo... Nhất là khi ấy tôi lại học Đại
học Văn khoa, được giới thiệu các vấn đề triết học, tôn giáo, triết Đông,
triết Tây, nên tôi càng tin tưởng hơn ở một tôn giáo đã có lịch sử 2.500 năm.
Tôi có được biết
là ông Diệm theo đạo Thiên Chúa. Ông tin tưởng ở những người Công giáo hơn,
người Công giáo được ưu đãi hơn. Nhưng chưa có gì lộ liễu, cho tới đầu năm
1963.
Tháng Tư năm ấy,
ông Diệm tuyên bố không thừa nhận Phật Đản là ngày lễ chính thức và không cho
phép treo cờ tôn giáo ngoài phạm vi cơ sở tôn giáo, đúng vào dịp sắp tới lễ
Phật Đản. Cuộc tranh đấu của Phật giáo (PG) bắt đầu, đòi bình đẳng tôn giáo.
Còn đối với tôi, đó là đòi tự do tín ngưỡng, một trong những quyền căn bản của
con người. Tôi chỉ còn nhớ được vài sự kiện chính :
Ngày 8-5-1963,
đêm trước Phật Đản, tại Huế, các đồng bào Phật tử tụ tập trước Đài Phát thanh
để đợi nghe phát đi bài thuyết pháp của thầy Trí Quang đã được ghi âm từ buổi
sáng. Nhưng bài ấy đã không được phát thanh, có thể là vì trong đó thầy đòi
treo cờ PG. Đồng bào Phật tử tụ tập càng lúc càng đông, chính quyền Huế cho xe
tăng ra đàn áp. Đồng bào không chịu giải tán, kết quả có 8 người bị xe tăng
cán chết. Những tấm hình chụp được gửi đi các nơi, mọi người phẫn uất.
Ngày 25-5, Ủy ban
Liên phái Bảo vệ PG được thành lập để lãnh đạo cuộc tranh đấu đòi tự do tôn
giáo. Nguyên tắc tranh đấu là bất bạo động : chỉ tổ chức những buổi thuyết
pháp, tuyệt thực, biểu tình, phổ biến thông tin... Đoàn Sinh viên Phật tử đặc
biệt đóng góp vào việc thông tin trong giới học sinh, sinh viên, để mọi người
biết rõ sự thực, vì khi ấy chính quyền miền Nam kiểm duyệt chặt chẽ báo chí,
chỉ đưa ra những tin tức có lợi cho Nhà nước.
Ngày 11-6, HT
Thích Quảng Đức tự thiêu. Một hình thức tranh đấu đặc biệt của Phật giáo để
bảo vệ chánh pháp.
Ngày 20-8, chính
quyền miền Nam bắt đầu một cuộc bắt bớ rộng khắp, đầu tiên là các Tăng Ni ở
trong chùa, sau tới các Phật tử ở nhà. Nhiều đoàn viên sinh viên Phật tử đã bị
bắt vào dịp này, trong đó có tôi. Đầu tiên, chúng tôi bị tạm giữ ở Tổng nha
Cảnh sát đô thành để lấy lời khai. Vì chẳng có gì phải giấu diếm, nên việc lấy
cung rất nhanh. Sau đó, chúng tôi được đưa qua trại Lê Văn Duyệt, gọi là để
học tập, cho tới ngày 1-11. Đối với chúng tôi, những ngày tháng ở trại Lê Văn
Duyệt chỉ lưu lại những kỷ niệm vui nhiều hơn là buồn.
3- Bi,
Trí và Dũng:
Nhìn lại thời kỳ
sinh hoạt với Đoàn Sinh viên Phật tử và nhất là qua cuộc tranh đấu cho tự do
tôn giáo, tôi thấy rõ ba giai đoạn thể hiện ba mức độ mà tôi đến với Đoàn:
Đầu tiên chỉ là
một ước muốn được đóng góp một cái gì đó cho xã hội, cho những người nghèo
khổ; vì biết riêng mình chẳng làm được gì, nên tôi đã đến với Đoàn Sinh viên
Phật tử để gặp những người bạn cùng ước mơ ấy. Đó là Bi.
Rồi trong thời
gian học ở Đại học Văn khoa, tôi được biết về các vấn đề nhân sinh quan, vũ
trụ quan, bản thể luận, cũng như các hệ thống triết học nhằm giải quyết những
vấn đề căn bản ấy. Nên khi theo các lớp giáo lý PG, tôi thấy đó là cả một hệ
thống triết học toàn diện, chứ không chỉ là những nghi thức trong đời sống
hàng ngày. Theo Phật không chỉ là tụng kinh, gõ mõ, lễ Phật, ăn chay... dành
cho ông già bà cả hay giới Tăng sĩ, mà còn là cả một quan niệm sống, một cách
sống dành cho giới trẻ, giới trí thức. Càng biết nhiều càng say mê, đó là Trí.
Còn Dũng thì thật
là khó khăn. Dũng không phải là khỏe mạnh để đi đánh nhau với người khác, mà
Dũng là sức mạnh để tự thắng mình. Ngồi yên đó để cho bị đánh đập, bị giam
cầm, nhịn đói để biểu lộ sự phản đối, tự thiêu để cảnh tỉnh. Tôi nhìn hình ảnh
HT Quảng Đức ngồi giữa ngọn lửa bốc lên, tôi nhớ tới hình ảnh Chúa Giê-su bị
đóng đinh trên thập giá. Người ta nói trái tim của HT không cháy vì khi ấy tâm
trí Ngài tập trung về trái tim với ước nguyện cầu cho nhà cầm quyền thức tỉnh,
cầu cho PG đồ mau qua cơn pháp nạn. Tôi liên tưởng tới lời cầu xin của Chúa
Giê-su trước khi tắt thở: “Lạy Cha, xin Cha tha thứ cho những người này vì họ
không biết việc họ đang làm”.
l
Kết luận:
Khế lý và khế cơ
Thì ra, nếu chỉ
hiểu PG qua các biểu hiện ở bên ngoài thì dễ hiểu lầm PG. Nếu chỉ tụng kinh và
y kinh chú giải, thì dễ oan tam thế Phật lắm. Còn có vị
thiền sư chỉ giác ngộ khi ông thầy chẻ pho tượng Phật bằng gỗ,
bỏ vào đống lửa để sưởi ấm một đêm giá lạnh, tuyết rơi trong hang đá. Tìm
trong kinh không thấy, tìm trong ảnh tượng lại càng bị trói buộc. Vậy mà khi
đi vào đời, tới với người nghèo khổ, những lúc bản thân hay gia đình gặp khó
khăn, hoạn nạn, thì lời dạy của đức Thế Tôn lại vang lên, chỉ đường giải
thoát. Người ta đã nói về đạo Phật cho giới cư sĩ, cho giới trẻ, cho ngày nay.
Khi biết khế lý và khế cơ, thì PG sẽ là của mọi người, mọi thời đại.
Sau năm 1964, tôi
hết là sinh viên và cũng vì bị lôi cuốn theo dòng đời, tôi đã rời Đoàn Sinh
viên Phật tử, chúng tôi ít có dịp gặp lại nhau, nhưng chắc chắn là ở bất cứ
nơi nào, chúng tôi vẫn nhớ đến nhau vì lòng cùng hướng về một
đấng Từ Phụ.
Tháng 4-1998
Về phong trào Phật giáo
Sài Gòn năm 1963
PTS LÊ CUNG
(Đại học Sư phạm
Huế)
Trong
lịch sử phát triển gần 2000 năm của Phật giáo (PG) Việt Nam, phong trào PG miền Nam
năm 1963 có một dấu ấn hết sức quan trọng. Đối với đất nước, phong trào này
“đã ghi đậm nét trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân miền
Nam”
(25, 64). Có thể nói
rằng, từ sau thời đại Lý - Trần đến nay, trong nhiệm vụ phục vụ dân tộc và đạo
pháp của PG Việt Nam, chưa có sự kiện nào có qui mô và tiếng vang rộng lớn như
phong trào PG miền Nam năm 1963. Tuy nhiên, phải khách quan mà thừa nhận rằng,
trong suốt 35 năm qua, cả giới sử học Việt Nam và phía PG vẫn chưa có một công
trình chuyên khảo nào ngang tầm với phong trào này. Trong ý hướng tiến đến
việc nghiên cứu phong trào PG miền Nam năm 1963 một cách có hệ thống và toàn
diện, bài viết này xin được góp phần tìm hiểu phong trào PG Sài Gòn năm 1963.
* * *
Ngày 6-5-1963,
chính quyền Ngô Đình Diệm (NĐD) ra lệnh cấm treo cờ PG thế giới trong dịp lễ
Phật Đản 2507-1963 bằng công
điện số 9159. Tiếp theo, chính quyền NĐD gây ra vụ thảm sát tại Đài Phát thanh
Huế đêm 8-5-1963 làm 8 Phật tử thiệt mạng và nhiều người khác bị thương. Tin
“tình trạng bi đát” ở Huế lan nhanh vào Sài Gòn khiến cho phong trào PG ở đây
phát khởi. Mở đầu, ngày 9-5-1963, dưới hình thức của một “lá tâm thư” gởi toàn
thể Tăng tín đồ, giới lãnh đạo PG Sài Gòn đã vạch trần những tội ác của chính
quyền NĐD trong suốt gần 9 năm thống trị, rằng “Phật tử chúng ta (cả xuất
gia và tại gia) có nơi bị chôn sống, bị vu khống, bị tù đày, bị thiên cư, bị
nhục mạ, ngày nay lại thêm một cái tát đau đớn nữa là lá cờ PG quốc tế - linh
hồn của PG - bị hủy bỏ ngay ngày kỷ niệm đấng Giáo chủ của chúng ta, đến nỗi
cuộc hy sinh vì đạo đã phải diễn ra tại Huế”, đồng thời kêu gọi “toàn
thể Phật giáo đồ, không phân biệt xuất gia hay tại gia, người Việt hay ngoại
kiều, hễ ai còn nhiệt tâm vì đạo, chúng ta hãy tự bình tĩnh, luôn luôn muôn
người như một, sẵn sàng bảo vệ đạo, chết vì đạo”
(16).
Ngày 10-5-1963,
trong cuộc mít-tinh của Tăng Ni, Phật tử tại chùa Từ Đàm - Huế, giới lãnh đạo
PG miền Nam đã đưa ra Tuyên ngôn gồm 5 nguyện vọng tối thiểu
(*), khẳng định mục tiêu
và quyết tâm tranh đấu của mình: “Chúng tôi sẵn sàng hy sinh cho đến lúc
nào những nguyện vọng hợp lý trên đây được thực hiện”
(1).
Trong khí thế
phong trào ở Huế đang lên mạnh, ngày 14-5-1963, Mặt trận Dân tộc Giải phóng
miền Nam Việt Nam (MTDTGPMNVN) ra tuyên bố vạch rõ: “Cuộc đàn áp đẫm máu
của chính quyền phát-xít Mỹ-Diệm đối với đồng bào biểu tình tay không ngày 8-5
ở Huế là một hành động tội ác tày trời không thể tha thứ được đối với nhân dân
ta nói chung và đối với đồng bào theo đạo Phật nói riêng... Cuộc đàn áp đẫm
máu lần này đã bóc trần lời của Mỹ-Diệm vẫn thường vỗ ngực xưng là hữu thần,
là tôn trọng tự do tín ngưỡng, và nhất định nó sẽ càng nung nấu thêm lòng căm
thù và chí kiên quyết tiêu diệt chúng của tín đồ các tôn giáo ở miền Nam Việt
Nam” (9, 227). Trong
tình hình đó, ngày 15-5-1963, NĐD phải chịu tiếp phái đoàn PG, gồm các vị Tăng
già, cư sĩ cao cấp của Nam tông và Bắc tông tại Sài Gòn. Tại cuộc gặp mặt này,
ngoài 5 nguyện vọng đã nêu trong bản Tuyên ngôn ngày 10-5-1963, phái đoàn PG
Sài Gòn còn ghi thêm 2 nguyện vọng sau:
“1- Chính phủ đảm
bảo an ninh cho một phái đoàn ra thăm PG đồ tại Huế và an ủi các gia đình nạn
nhân.
“2- Ra lệnh cho
các cấp quân dân chính đừng làm điều gì trở ngại những buổi lễ cầu siêu cho
vong linh nạn nhân ở khắp các chùa toàn quốc theo chỉ thị của Tổng hội PG”
(43, 66).
Cuộc gặp hai bên
kéo dài hơn 3 tiếng đồng hồ, nhưng không một nguyện vọng nào của PG được giải
quyết; ngược lại, NĐD cho rằng thủ phạm tại Đài Phát thanh Huế là do phía
những người cộng sản gây ra.
Khi phái đoàn PG
trở về chùa Xá Lợi, họ đã bị Tăng Ni, Phật tử phản ứng dữ dội. Điều này thể
hiện rõ trong văn thư ngày 17-5-1963 của trưởng phái đoàn PG gởi cho Bộ trưởng
Công dân vụ Ngô Trọng Hiếu: “Chúng tôi trở về tới chùa Xá Lợi được một số
Tăng Ni chừng vài trăm vị đã túc trực tại đó để chào đón phái đoàn và yêu cầu
chúng tôi cho biết kết quả cuộc tiếp kiến Tổng thống... Thuyết trình xong thì
Tăng chúng nhao nhao phát biểu ý kiến, cho rằng phái đoàn đã không đem lại kết
quả nào cụ thể cả, chỉ có vấn đề cờ được thỏa mãn một phần nào mà thôi. Rồi
phái đoàn chúng tôi bị chỉ trích kịch liệt”
(38).
Không chịu lùi
bước trước những ngang ngược của chính quyền NĐD, ngày 16-5-1963, giới lãnh
đạo PG Sài Gòn tổ chức họp báo tại chùa Xá Lợi, chính thức công bố bản Tuyên
ngôn ngày 10-5-1963. Về cuộc hội ngày hôm trước, giới lãnh đạo PG cho biết
không một ai thỏa mãn. Tiếp theo, ngày
17-5-1963, tại chùa Ấn Quang, một cuộc trưng bày những hình ảnh về vụ thảm sát
tại Huế cũng được tổ chức. Tất cả đã có một sức thuyết phục to lớn đối với dư
luận về cái lý mà PG phải đứng dậy đấu tranh.
Ngày 21-5-1963,
một cuộc lễ cầu siêu cho các nạn nhân bị thảm sát tại Huế được tổ chức trên
toàn miền Nam,
thu hút hàng triệu tín đồ tham gia. Tại chùa Ấn Quang, từ sáng sớm có rất đông
PG đồ tập trung để dự lễ cầu siêu. Số người tham gia đông ngoài sức dự kiến
của Ban tổ chức. Sau lễ cầu siêu, dưới hình thức “rước linh”, gần 1.000 Tăng
Ni đã tổ chức một cuộc biểu tình hòa bình từ chùa Ấn Quang về chùa Xá Lợi. Họ
chỉ mang theo một biểu ngữ viết bằng tiếng Việt và tiếng Anh: “Tưởng nhớ những
Phật tử Việt Nam
đã chết vì chính nghĩa ở Huế”. Đoàn biểu tình đi lặng lẽ, không hô khẩu hiệu,
nhưng một hệ thống loa phóng thanh gắn ở dọc đường đã phát đi những khẩu hiệu
đòi thực hiện những yêu sách của PG. Nhân dân Sài Gòn đã làm đúng yêu cầu của
giới lãnh đạo PG là ủng hộ cuộc đấu tranh nhưng không tham gia tuần hành. Lần
đầu tiên, tại Sài Gòn, PG đã chính thức đưa cuộc đấu tranh từ trong nhà chùa
ra ngoài đường phố, tới các công trường.
Ngày 25-5-1963,
một hội nghị đại biểu của 11 tông phái và các đoàn thể PG được tổ chức tại
chùa Xá Lợi để thảo luận kế hoạch đấu tranh. Hội nghị cho thành lập Ủy ban
Liên phái Bảo vệ PG (UBLPBVPG). Sự kiện này có ý nghĩa rất quan trọng, nó thể
hiện sự thống nhất ý chí và lực lượng của PG Sài Gòn trong cuộc đấu tranh. Hội
nghị ra Tuyên ngôn “ủng hộ toàn diện 5 nguyện vọng tối thiểu... Nguyện đoàn
kết đến cùng trong cuộc tranh thủ bất bạo động và hợp pháp để thực hiện những
nguyện vọng ấy” (43, 73).
Trước những yêu
sách của PG, chính quyền NĐD trước sau vẫn không thay đổi. Thái độ này đã làm
cho giới lãnh đạo PG nhận thức rằng các cuộc điều đình và những yêu sách nhất
định không thể đưa lại kết quả, mà cần phải có những biện pháp quyết liệt hơn.
Điều này được tỏ rõ trong thư văn ngày 24-5-1963 của Hòa thượng (HT) Thích
Tịnh Khiết, Hội chủ Tổng hội PG Việt Nam gởi NĐD: “Để cho những nguyện vọng
tối thiểu và hoàn toàn thuộc phạm vi tín ngưỡng ghi trong bản Tuyên ngôn và
bản Phụ đính của chúng tôi được thấu hiểu và chấp thuận, tôi thiết nghĩ PG đồ
- mà Tăng sĩ PG là phần chính - phải có một cách nào hơn những việc đã làm. Do
đó, tôi đã chỉ thị cho các vị lãnh đạo thuộc sáu tập đoàn PG Việt Nam sẽ tuyệt
thực 48 giờ đồng hồ, có bác sĩ giám hộ, kể từ 14 giờ 30 ngày 30-5-1963”
(43, 78).
Chấp hành chỉ thị
trên đây, ngày 30-5-1963, từ 14 giờ 30, cuộc tuyệt thực của giới lãnh đạo PG
được tiến hành trên toàn miền Nam. Tại Sài Gòn, trước giờ tuyệt thực, gần 400
Tăng Ni đã biểu tình ngồi trước trụ sở Quốc hội Diệm. Chính quyền NĐD đã huy
động lực lượng cảnh sát, công an mật vụ, lực lượng đặc biệt chống biểu tình và
chỉ cần đoàn biểu tình có một bạo động nhỏ nhoi để “bạo động” gấp ngàn lần.
Nhưng đoàn biểu tình chỉ có những đầu trọc và những bàn tay chắp, khiến bạo
lực phải khoanh tay và thất bại trước sức mạnh tinh thần
(29). Cùng với Sài Gòn, những cuộc biểu tình phản đối chính quyền NĐD
đàn áp PG diễn ra trên khắp miền Nam, đặc biệt tình hình ở Huế trở nên hết sức
căng thẳng. Các chùa Từ Đàm, Báo Quốc, Linh Quang đều bị lực lượng Diệm phong
tỏa.
Trong lúc đó, khắp
nơi trên thế giới đưa tin về cuộc đấu tranh chính nghĩa của PG, phóng viên
cùng quan sát viên quốc tế đổ tới Sài Gòn càng lúc càng đông. Để giảm bớt tình
hình căng thẳng, ngày 1-6, Diệm cách chức các viên chức cao cấp trong bộ máy
chính quyền ở Thừa Thiên-Huế. Tới ngày 4-6, chính quyền NĐD cho thành lập Ủy
ban Liên bộ (UBLB) để “nghiên cứu và đề xuất từng bước nhằm giải quyết
những vấn đề đang tồn tại từ ngày 8-5”
(45, 126).
Mặc dầu ý thức
được rằng đây chỉ là một âm mưu hoãn binh của chính quyền NĐD, song tuân thủ
đúng đường lối bất bạo động, phía PG vẫn chấp nhận “hợp tác” với UBLB. Ngày
5-6, cuộc hội đàm hai bên được tiến hành. Cuộc hội đàm kéo dài 6 giờ đồng hồ,
nhưng không đem lại một kết quả cụ thể nào, trừ việc thỏa thuận cử một phái
đoàn ra Huế để giải quyết tình trạng đang căng thẳng tại đây. Tuy nhiên, chính
quyền NĐD đã tìm cách đánh lừa dư luận bằng cách phát đi một “Thông cáo chung”
nói rằng “hai bên đã gặp gỡ trong bầu không khí thân ái và hiểu biết lẫn
nhau” (20). Giới lãnh
đạo PG đã vạch rõ rằng họ không hề ký một bản tuyên bố chung nào cả: “Chúng
tôi từ chối không ký vào bản tuyên bố chung và việc công khai rằng bản tuyên
bố chung đó đã được ký kết là một biểu hiện của sự thiếu thiện chí của Chính
phủ” (20).
Trước thái độ
cương quyết của giới lãnh đạo PG, chính quyền NĐD buộc phải rút bỏ lệnh phong
tỏa các chùa ở Huế, để được xem như là một “thiện chí” trong cách giải quyết.
Tuy nhiên, trên thực tế, chính quyền NĐD vẫn ngấm ngầm bắt cóc, thủ tiêu Tăng
Ni, Phật tử, vu khống họ là “cộng sản nằm vùng”, cho công an mật vụ len lỏi
vào các quán ăn, tiệm cà-phê để theo dõi và bắt giam những người bàn tán về
cuộc đấu tranh của PG. Tại Huế, chính quyền NĐD xúi giục các gia đình có con
em tử nạn trong vụ đàn áp tại Đài Phát thanh, xin rút ra khỏi danh sách Phật
tử, danh sách Thánh tử đạo. Tại Sài Gòn, Diệm cho mật vụ giả danh Phật tử,
Tăng Ni vào các chùa để do thám và xúi giục nhằm chia rẽ hàng ngũ Phật giáo.
Nổi bật nhất là chính quyền NĐD tìm cách làm mất uy tín Tổng hội PG Việt Nam,
coi nó như là một nhóm phân liệt, bằng cách cho khánh thành một ngôi chùa mới
ở Sài Gòn cho phái PG Cổ sơn môn, một giáo phái không được Tổng hội PG Việt
Nam thừa nhận. Jerrold Schecter viết: “Cách lập luận của Chính phủ là phái
Cổ sơn môn sẽ chia rẽ hàng ngũ những người PG và sẽ làm mất giá trị và uy tín
phong trào của họ. Đó là một chiến thuật quen thuộc của Diệm nhằm làm chia rẽ
lực lượng chống đối ông”
(46,176). Ngày 8-6-1963, Phong trào Phụ nữ Liên đới ra thông cáo lên án
những người PG. Trong tình thế ấy, giới lãnh đạo PG bị bắt buộc phải đưa cuộc
đấu tranh lên một mức độ cao hơn.
Ngày 11-6-1963,
tại ngã tư đường Lê Văn Duyệt-Phan Đình Phùng (nay là đường Cách Mạng Tháng
Tám-Nguyễn Đình Chiểu), HT Thích Quảng Đức đã anh dũng tự thiêu trước sự chứng
kiến của hàng chục ngàn Tăng Ni, Phật tử cùng những quan sát viên quốc tế. Lực
lượng Diệm được điều động đến để hòng phá tan cuộc tự thiêu, nhưng bị thất bại
vì Tăng Ni, Phật tử đã kiên quyết bảo vệ bằng cách vây quanh nhiều vòng. Có
người nằm lăn trước xe cứu hỏa, xe cảnh sát không cho can thiệp. “Cuộc hy
sinh phi thường và dũng cảm của HT Thích Quảng Đức, hình ảnh cụ ngồi ngay
thẳng như tượng đá trong ngọn lửa rực hồng đã nhanh như một làn sóng điện làm
sôi nổi dư luận trong cả nước Việt Nam và trên thế giới. Ảnh của vị HT Việt
Nam Thích Quảng Đức ngồi trong ngọn lửa được đăng trên hầu hết các báo khắp
năm châu, với những dòng chữ nói lên sự khâm phục”
(9, 342).
Thật vậy, ở trong
nước, “cái chết vô úy của HT Quảng Đức là một hồi chuông cảnh tỉnh cho mọi
người, một tiếng gọi đàn cho hàng tứ chúng”
(4). Hành động cao cả của
Thích Quảng Đức đã làm tăng thêm sự công phẫn của nhân dân miền
Nam, kể cả tín đồ Thiên Chúa giáo, đối với chính quyền NĐD. Nó được xem như là
một lời kêu gọi khẩn thiết đối với tất cả những ai có lương tri hãy đứng lên
chống lại chế độ độc tài gia đình trị NĐD. Ngày 12-6, tại chiến khu, Ủy ban
Trung ương MTDTGPMNVN đã long trọng tổ chức lễ truy điệu Thích Quảng Đức. Xã
luận báo Nhân Dân, số ra ngày 13-6 viết: “Gương hy sinh anh dũng của
HT Thích Quảng Đức là một sự tố cáo, lên án trước dư luận toàn thế giới chế độ
độc tài cực kỳ tàn bạo của bọn Mỹ-Diệm. Chế độ ấy phải bị đánh đổ. Mười bốn
triệu đồng bào miền
Nam
quyết đánh đổ chế độ ấy”
(19).
Về phía Giáo hội
Thiên Chúa giáo, ngay từ đầu của cuộc đấu tranh, có người đã lên tiếng tố cáo
Diệm và bày tỏ sự ủng hộ đối với cuộc đấu tranh của PG. Sau cái chết của Thích
Quảng Đức, ngày 16-6-1963, Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình, cai quản giáo khu
Sài Gòn, đã chính thức lên tiếng trong một bức thư luân lưu. Bức thư xác định
rõ: “Giáo hội Thiên Chúa giáo Việt
Nam hoàn toàn đứng ngoài cuộc tranh chấp, mặc dù vai trò chủ động gây ra cuộc
tranh chấp là tín đồ Thiên Chúa giáo”
(33, 166). Trong bức thư thứ hai
gởi cho các hàng tu sĩ và tín đồ Thiên Chúa giáo trước lúc lên đường đi La Mã
tham dự Công đồng Vatican II, Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình nhấn mạnh:
“Giáo hội không những không gây nên biến cố, mà còn đau đớn vì những tai họa
đã và còn là ác quá của biến cố”
(33, 167).
Đối với thế giới,
sự hy sinh của Thích Quảng Đức là “một hành động tiêu biểu vĩ đại. Nó không
chỉ chống lại chế độ Diệm, để chỉ sự hiện hữu của PG và được để ý tới, mà nó
còn có ý nghĩa chống lại sự bất công, bất chính của toàn thế giới... Với một
hành động lặng thinh, không nói một lời, một vị HT Việt Nam đã nêu ra một tấm
gương sáng rùng rợn, một kháng nghị cao đẹp, lộng lẫy, chống lại mọi xấu xa,
đê hèn của loài quỷ sứ đang còn tồn tại trong thế giới này”
(7, 37-38). “Đây là
một trạng thái mới lạ và huyền ảo của bất bạo động. Nó chứng tỏ rõ rệt cái uy
quyền tối thượng của tinh thần. Không một bạo lực nào có thể làm suy giảm được
tâm hồn, sức chịu đựng của một cá thể đối với mọi ức chế đàn áp chính trị độc
tài thật vô biên” (26, 93).
Ngày 30-6-1963,
trong một bài giảng tại một nhà thờ lớn ở New York, mục sư Donalds Harrington đã xem
cái chết của Thích Quảng Đức giống như cái chết của Chúa Giê-su, Michel
Servetus, Jeanne d’ Arc. Ông cho rằng hành động mổ bụng của người Nhật cũng
không thể nào so sánh nổi với sự tự thiêu của Thích Quảng Đức, tuy rằng gan dạ
như nhau, bởi vì “sự tự thiêu của Ngài đã cứu vớt bao nhiêu sinh linh đang
chìm đắm trong khổ hận, kẻ đàn áp cũng như kẻ bị đàn áp đều bừng tỉnh. Ngài đã
tô đậm nét vàng son vào trang sử huy hoàng của PG và dân tộc”
(26, 112).
“Tại Hoa Thịnh Đốn
ngày
12-6-1963, nhân dân Mỹ đã đón nghe một cách xúc động tin cuộc biểu tình tranh
đấu của giới Phật tử miền Nam”
(11). Vụ tự thiêu đã gây
nên một chấn động mạnh, đặc biệt làm cho dư luận Mỹ quay sang chống NĐD và gia
đình y. “Uy thế của Mỹ-Diệm bị một cú đánh tinh thần mạnh như trời giáng”
(9, 343).
Trên thực tế, cái
chết của Thích Quảng Đức đã “có một tầm quan trọng rất lớn và đã chuyển
mạnh cuộc vận động của PG sang một thế mới, trên cả hai bình diện quốc nội và
quốc tế... Nó thúc đẩy cuộc vận động cho PG ở Việt
Nam cũng như ở quốc tế tiến mạnh, tiến nhanh”
(28).
Thật vậy, cái chết
của Thích Quảng Đức đã làm rung chuyển chính quyền NĐD. Chiều ngày 11-6-1963,
chính quyền NĐD ra lệnh phong tỏa các chùa, nhất là chùa Xá Lợi, nơi đang đặt
thi hài của Thích Quảng Đức. Khắp các nẻo đường dẫn về chùa Xá Lợi, cảnh sát
được huy động để ngăn chặn làn sóng người đang đổ xô về đây. Buổi tối cùng
ngày, qua đài truyền thanh, NĐD đọc thông điệp lên án vụ tự thiêu của Thích
Quảng Đức là do “một số người bị đầu độc gây án mạng”
(37) và “kêu gọi đồng
bào hãy bình tĩnh nhận định tình thế”
(37). Lời lẽ trong thông
điệp một lần nữa bộc lộ bản chất độc tài của Diệm, khi y tuyên bố: “ Sau
lưng PG trong nước còn có Hiến pháp, nghĩa là có tôi”
(37).
Mặc dầu vậy, những
con đường dẫn về chùa Xá Lợi, cảnh sát đã bị làn sóng người tràn ngập. Ngày 12-6-1963,
giới lãnh đạo cao cấp của PG từ Huế vào Sài Gòn trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu
tranh ở đây. Đám tang của Thích Quảng Đức được ấn định vào ngày 16-6 và giới
lãnh đạo PG dự định sẽ tổ chức vào dịp này một cuộc biểu tình lớn để phản
kháng chính quyền NĐD không chịu giải quyết các nguyện vọng đã đề ra. Lo sợ
một sự bùng nổ lớn vào ngày 16-6, chính quyền NĐD cấp tốc mở cuộc điều đình
với giới lãnh đạo PG. Buổi họp đầu tiên được tổ chức từ ngày 14-6. Sau 4 buổi
họp, một bản Thông cáo chung được ký kết vào lúc 2 giờ sáng ngày 16-6-1963.
Nội dung bản Thông
cáo chung về cơ bản thỏa mãn được 5 nguyện vọng mà giới lãnh đạo PG đã đề ra
trong bản Tuyên ngôn ngày 10-5-1963. Đứng về phương diện thương thuyết, việc
ký kết bản Thông cáo chung là một thắng lợi lớn của phía PG.
Dĩ nhiên, giới
lãnh đạo PG quá thừa hiểu bản chất của chính quyền NĐD, nên họ không tin tưởng
một cách ngây thơ rằng bản Thông cáo chung sẽ được thực hiện một cách nghiêm
chỉnh. Trong Thông bạch gởi toàn thể Tăng Ni, Phật tử ngày 17-6, HT Thích Tịnh
Khiết, lãnh đạo tối cao của UBLPBVPG, viết: “Một điều quan trọng mà tất cả
Tăng Ni và Phật tử đều thắc mắc tự hỏi : Liệu những lời cam kết được ghi trong
bản Thông cáo này có được thực thi đúng đắn khắp nơi trong nước hay không ?
Điều đó còn đợi thời gian trả lời, tuy nhiên chúng ta tin tưởng ở những lời
tuyên bố của Tổng thống và UBLB, nếu những lời cam kết không được thực thi
đúng thì đó không phải là trách nhiệm của chúng ta”
(43, 143-144).
Để tỏ thiện chí,
giới lãnh đạo PG còn ra lệnh hoãn đám tang Thích Quảng Đức và kêu gọi quần
chúng ở nhà (vì đám tang đã được hoãn lại) và “hãy trở lại nếp sống bình
thường, thành tâm cầu nguyện cho bản Thông cáo chung, một văn kiện được cam
kết long trọng giữa Chính phủ và PG được thi hành nghiêm chỉnh”
(43, 144).
Về phía quần chúng
Phật tử, mặc dầu có lời kêu gọi của giới lãnh đạo PG, nhưng sáng ngày 16-6,
một khối lượng quần chúng 700.000 người đã đổ ra đường phố kéo về chùa Xá Lợi,
nơi đặt thi hài của Thích Quảng Đức. Cuộc xô xát giữa quần chúng và lực lượng
cảnh sát đặc biệt của Diệm xảy ra ở ngã tư Lê Văn Duyệt và Phan Thanh Giản.
Thanh niên, học sinh, phụ nữ, bà già đã hăng hái chiến đấu hàng mấy giờ đồng
hồ. “Quần chúng hòa với nhau như những giọt nước trong đại dương và trong
tình yêu, người ta tự thấy mình lớn lên và không còn sợ hãi nữa”
(28). “Đây là cuộc đấu
tranh chính trị quyết liệt nhất ở Sài Gòn trong mấy năm nay. Nó đã làm sâu sắc
thêm mâu thuẫn giữa nhân dân ta với chế độ độc tài phát-xít Mỹ-Diệm, đẩy chúng
vào tình trạng bị cô lập hơn bao giờ hết”
(24).
Thái độ hòa hoãn
của giới lãnh đạo PG đã làm nhiều người nóng nảy bất mãn. Họ sợ rằng giới lãnh
đạo PG chỉ quan tâm đến việc thỏa mãn 5 nguyện vọng, chứ không nghĩ đến nguyện
vọng của quần chúng về tự do, dân chủ và công bằng. Để cho quần chúng khỏi ngộ
nhận về mục tiêu đấu tranh, trong lần giải thích về bản Thông cáo chung ngày
23-6 tại chùa Ấn Quang, giới lãnh đạo PG đã chỉ ra rằng: “Có người đã đi tới
chỗ cho rằng các nhà lãnh đạo PG đã bị mua chuộc”. Về nguyện vọng của quần
chúng, giới lãnh đạo PG cho rằng: “Có bình đẳng tôn giáo sẽ có bình đẳng về
mọi mặt. Bình đẳng chẳng phải là thực chất thiết yếu của dân chủ, tự do ư ?
PGViệt
Nam
đã hiểu rõ nhu cầu của dân tộc và đã đặt cuộc vận động trong cuộc đấu tranh
của dân tộc”
(28).
Về phía chính
quyền NĐD, chúng ra lệnh loan truyền bản Thông cáo chung ngay khi vừa được ký
kết bằng xe phóng thanh của Bộ Thông tin. Điện tín đánh đi các tỉnh loan tin
về nội dung của bản Thông cáo chung. Đài Phát thanh Sài Gòn loan tin trên ngay
khi trời chưa sáng. Thực ra, đối với chính quyền NĐD, việc ký kết Thông cáo
chung chỉ là một kế hoãn binh, một sự nhượng bộ tạm thời để chuẩn bị cho một
cuộc đàn áp đại quy mô nhằm đè bẹp phong trào. Âm mưu này được tiết lộ trong
một bức mật điện mang số 13242/VP/TT ngày 19-6-1963 của Văn phòng Phủ Tổng
thống đánh đi cho các Đại biểu Chính phủ các miền, Tư lệnh các vùng, nguyên
văn như sau: “Để tạm thời làm dịu tình hình và khí thế đấu tranh quá quyết
liệt của bọn Tăng Ni và PG phản động, Tổng thống và ông Cố vấn ra lệnh tạm
thời nhún nhường họ. Các nơi hãy theo đúng chủ trương trên và đợi lệnh. Một kế
hoạch đối phó thích nghi sẽ gởi đến sau. Ngay từ bây giờ, hãy chuẩn bị dư luận
cho giai đoạn tấn công mới, hãy theo dõi, điều tra, thanh trừng những phần tử
PG bất mãn và trình thượng cấp, kể cả sĩ quan và công chức cao cấp”
(15, 421). Trong một cuộc
họp của 18 tướng tá vào đầu tháng 7-1963, Ngô Đình Nhu tuyên bố: “Nếu chính
phủ này không giải quyết vấn đề PG, nó sẽ bị lật đổ vì một cuộc đảo chánh quân
sự” (46, 197). Theo
Nhu, “bất cứ chính phủ nào thay thế chính phủ này trước hết phải đập tan
những người PG” (46, 182).
Vạch trần những âm
mưu trên đây của chính quyền NĐD, ngày 21-6, Ủy ban Trung ương MTDTGPMNVN ra
lời kêu gọi đồng bào miền
Nam và tín đồ theo đạo Phật hãy nâng cao cảnh giác, kiên quyết đấu tranh. Lời
kêu gọi viết: “Hiện nay, tuy ngoài mặt bọn Mỹ-Diệm chịu nhận giải quyết một
số yêu sách của đồng bào theo đạo Phật, nhưng cuộc đấu tranh chưa kết thúc.
Với bản chất ngoan cố và xảo quyệt, Mỹ-Diệm vẫn tìm đủ mọi cách để hãm hại và
đàn áp đồng bào... Vì vậy, đồng bào theo đạo Phật cũng như các tầng lớp nhân
dân quyết không vì những lời hứa hẹn xảo quyệt của bọn Mỹ-Diệm mà buông lơi và
bỏ dở cuộc đấu tranh. Ngược lại, chúng ta cần tăng cường đoàn kết hơn nữa để
kịp thời vạch trần mọi mưu đồ xảo quyệt của chúng, buộc chúng phải tôn trọng
những lời chúng đã hứa, trả lại tự do cho những người bị bắt, bồi thường cho
những người bị thương, những gia đình có người chết và chấm dứt ngay những
hành động khủng bố trả thù đối với đồng bào theo đạo Phật và các tầng lớp nhân
dân” (21).
Đúng như nhận định
trên đây, ngay sau khi Thông cáo chung được ký kết, bằng nhiều hình thức và
biện pháp khác nhau, chính quyền NĐD liên tiếp gây ra những vụ vi phạm Thông
cáo chung. Sau đây là một số vụ vi phạm tiêu biểu tại Sài Gòn:
- Ngày 18-6, chính
quyền NĐD cho phái Lục hòa Tăng thành lập Tổng hội PG, lấy tên là Tổng hội PG
Cổ sơn môn để chống lại phong trào PG. Tổ chức này mới xuất hiện đã bị đồng
bào Sài Gòn đả kích mạnh mẽ. Ngày 29-6, Tổng hội PG Cổ sơn môn đánh điện cho
Hội PG Sri Lanka, tố cáo Tổng hội PG Việt Nam, “một chi nhánh của Hội PG Sri
Lanka”, đang lợi dụng danh nghĩa của Hội để hoạt động chính trị và yêu cầu Hội
PG Sri Lanka lên tiếng phản đối.
Ngay sau khi nhận
được điện văn, ông W.P.Daluwatte, Tổng Thư ký Hội PG Sri Lanka, đã có điện tín
trả lời cho PG Cổ sơn môn rằng: “Hội chúng tôi không có chi nhánh nào ở
Việt
Nam
cũng như ở nơi khác... Mặt khác, chúng tôi cũng biết rằng tại Việt Nam có một
Tổng hội PG, và theo như chỗ chúng tôi biết, Tổng hội này có đủ uy tín để đại
diện và thay lời cho Phật tử Việt Nam. Chúng tôi tin chắc rằng Tổng hội PG
Việt Nam này không bao giờ làm những điều gì trái hoặc thái độ nào có thể gọi
là phản PG... Hơn nữa, PG Sri Lanka đã tỏ thái độ rõ rệt của họ về những biến
cố vừa rồi ở Việt Nam và họ đã phản đối mạnh mẽ những hành động kỳ thị tôn
giáo và những đối xử có tánh cách lăng nhục. Chúng tôi đã yêu cầu Chính phủ
chúng tôi và Hội PG Thế giới dùng mọi biện pháp khả dĩ xoa dịu và cải thiện
những lỗi lầm đã xảy ra. Chúng tôi đang tiếp tục công việc này, quý Ngài có
thể phổ biến bức thư này theo ý muốn của quý Ngài”
(33, 66-67).
- Ngày 1-7, trong
một lần giải thích về Thông cáo chung tại trụ sở Thanh niên Cộng hòa, Ngô Đình
Nhu ra sức công kích, nhục mạ PG, gán cho những người biểu tình đấu tranh
chống đối từ ngày 8-5 là những “phần tử phiến loạn”. Đối với giới lãnh đạo PG,
Nhu cho là “rất hăng hái lợi dụng xuyên tạc một cách trắng trợn và ngoan cố
để đầu độc một số tín đồ và gây áp lực với các vị đại đức từ bi, hầu phát động
một chiến dịch bất tuân pháp luật”, rằng “sự nguy hiểm trong việc thiếu
giáo dục, thiếu học tập, thiếu cảnh giác nhân dân, để một số bất cứ lúc nào
cũng trở thành cuồng tín”
(43, 150)... Về sự hy sinh của Thích Quảng Đức, Nhu cho là “một vụ
làm chết người có tổ chức, bằng cách tưới xăng đốt một vị HT”
(43, 151).
Trong lúc phía PG
đang ở trong thế hòa hoãn thì chính quyền NĐD quyết định đem các nhân vật tham
gia “vụ đảo chánh hụt 11-11-1960” và “nhóm Caravelle” ra xử trước Tòa án Quân
sự đặc biệt vào ngày 8-7, trong ý đồ để cảnh cáo và “dằn mặt” những phần tử
lăm le đảo chánh; đồng thời để đánh lệch sự chú ý của quần chúng, đưa họ ra
khỏi phong trào. Để phản đối chính quyền NĐD, trước đó một ngày (7-7-1963),
nhà văn Nhất Linh uống thuốc độc tự tử. Cái chết của Nhất Linh gây xúc động
mạnh trong quần chúng và là một đòn nặng đánh vào chế độ Diệm. Deepe, đại diện
báo Newsweek tại Sài Gòn lúc đó nhận định rằng: “Sau vụ tự thiêu
của HT Thích Quảng Đức, cái chết của Nhất Linh sẽ đóng thêm một cái đinh vào
quan tài của ông Tổng thống Diệm”
(15, 203).
Mặt khác, để đề
phòng một cuộc tấn công quân sự trong nội bộ chống lại chính phủ, Diệm cách
chức một số sĩ quan giữ những nhiệm vụ quan trọng, thuyên chuyển vòng quanh để
các sĩ quan không liên kết được với nhau, đồng thời ra sức ve vãn mua chuộc,
như tặng huân chương cao nhất cho hơn 100 sĩ quan cao cấp hoặc lập ra cái gọi
là Quốc gia Nghĩa tử cuộc để đảm bảo quyền lợi cho những binh lính, sĩ quan tử
trận. Chính Mỹ cũng thừa nhận Diệm là “một tên gian ngoan, nhất mực bênh
vực quyền lợi cho gia đình, hay đàn áp một cách thô bạo những khuynh hướng
công kích lại” (10).
Tiếp theo, ngày
9-7, bằng Nghị định số 358-BNV/KS, chính quyền NĐD quy định thể thức treo cờ
PG chỉ dành riêng cho Tổng hội PG Việt Nam. Tiếp theo, ngày 11-7, UBLB gởi văn
thư số 16/UBLB cho giới lãnh đạo PG, trong đó nói rõ trách nhiệm về vụ thảm
sát tại Đài Phát thanh Huế (8-5-1963) không thuộc trách nhiệm của chính quyền
NĐD, mà là thuộc những người cộng sản: “Những nạn nhân chết đều do chất nổ
“plastic” của Việt cộng (chất này, các lực lượng võ trang Việt Nam Cộng hòa
không có), chớ không phải bị xe tăng hay xe thiết giáp đằng, như đã có trong
luận điệu trước đây” (3).
“Chiến tranh một
phía” của chính quyền NĐD không cho phép giới lãnh đạo PG hòa hoãn được nữa,
buộc họ phải phát động trở lại cuộc đấu tranh. Trong văn thư số 83 ngày 14-7
gởi NĐD, HT Thích Tịnh Khiết, Hội chủ Tổng hội PG Việt Nam, khẳng định rằng:
“Vì sự tồn vong của PG, tôi kính thưa Tổng thống tường, kể từ hôm nay, với
tư cách là lãnh đạo tối cao, tôi thấy có bổn phận chỉ thị cho Tăng Ni và thiện
tín phát động một phong trào đòi hỏi sự thực thi bản Thông cáo chung dưới mọi
hình thức bất bạo động và trong sự tôn trọng các điều khoản của bản Thông cáo
chung ấy” (39). Cũng
trong ngày hôm đó, ông gởi Thông bạch kêu gọi toàn thể Tăng tín đồ “nhất tề
thực hiện phong trào” (35).
Hưởng ứng lời kêu
gọi của giới lãnh đạo PG, cuộc đấu tranh của Tăng Ni, Phật tử trên toàn miền
Nam tiếp tục trở lại với quy mô và cường độ cao hơn trước. Tại Sài Gòn, chiều
ngày 16-7, gần 200 Tăng Ni biểu tình trước tư dinh Đại sứ Mỹ. Họ đòi Mỹ và các
nước khác không được viện trợ cho chính quyền NĐD. Chính quyền Mỹ phải chịu
trách nhiệm trước chính sách áp bức PG tại miền
Nam. Sau cuộc biểu tình, họ trở về chùa Xá Lợi và tham gia cuộc tuyệt thực.
Ngày 17-7, nhịp độ
cuộc đấu tranh gia tăng, chỉ trong buổi sáng đã có tới 2 cuộc biểu tình. Cuộc
biểu tình thứ nhất xuất phát từ chùa Giác Minh với mục đích như biểu ngữ đã
viết: “Chúng tôi đi thăm thầy chúng tôi đang tuyệt thực để đòi thực thi bản
Thông cáo chung”. Tuy nhiên, trước lúc cuộc biểu tình xuất phát, chùa Giác
Minh đã bị chính quyền NĐD bao vây với các lớp hàng rào kẽm gai. Nhiều xe phun
nước và lực lượng cảnh sát được huy động để mở cuộc đàn áp. Quần chúng phẫn nộ
đã vượt qua hàng rào kẽm gai, tràn ra đường phố, nhiều biểu ngữ có nội dung
cứng rắn xuất hiện, như: “Chúng tôi đã bị lường gạt quá nhiều”, “Cờ PG phải là
cờ của tất cả PG đồ”, “Yêu cầu Chính phủ giữ đúng lời thành tín đã hứa”, và
khi không còn vượt qua được nữa, đoàn người ngồi xuống tụng niệm. Cuộc biểu
tình đã bị đàn áp dữ dội làm nhiều người bị thương. Đoàn biểu tình rút trở lại
chùa Giác Minh. Chính quyền NĐD cho phong tỏa chùa, làm trên 600 Tăng Ni bị
vây hãm phải chịu đói khát trong suốt 54 giờ đồng hồ.
Cuộc biểu tình thứ
hai xuất phát từ chùa Xá Lợi. Bằng cách “đánh lừa” sự cản đường của lực lượng
cảnh sát Diệm, Tăng Ni từ chùa Xá Lợi đã từ nhiều ngả đường khác nhau, đến tập
hợp trước chợ Bến Thành. Họ đã căng lên nhiều biểu ngữ đòi chính quyền NĐD
phải thi hành đầy đủ và nghiêm chỉnh các thỏa thuận ghi trong Thông cáo chung.
Đại diện của đoàn biểu tình đã lên tiếng tố cáo: “Chúng tôi tới đây để tỏ
cùng quốc dân đồng bào biết rằng : Bản Thông cáo chung đã ký kết hơn tháng nay
nhưng Chính phủ đã không thực thi nghiêm chỉnh, mà còn dùng đủ mọi cách để
khủng bố, bao vây, bắt bớ, đàn áp, xuyên tạc PG đồ”
(15, 440). Đông đảo quần
chúng từ chợ đổ ra và từ các ngả đường kéo đến nhập cuộc tham gia đấu tranh,
khí thế hết sức sôi nổi. Giám đốc Cảnh sát của Diệm trực tiếp chỉ huy cuộc đàn
áp. Tăng Ni bị cảnh sát bắt quẳng lên xe bịt bùng và họ đã chống lại quyết
liệt bằng cách xiết chặt lấy tay nhau.
Không khuất phục
được ý chí đấu tranh của Tăng Ni, Giám đốc Cảnh sát bày trò thương lượng, bằng
cách hứa sẽ chở Tăng Ni về chùa Xá Lợi. Nhưng khi Tăng Ni lên xe, chúng lại
cho xe chạy về hướng Lục tỉnh. Biết mình bị lừa, Tăng Ni đã sử dụng rất nhiều
biện pháp (như đập cửa xe, đạp thắng, gạt tay lái, mở cửa xe phóng xuống
đường). Kết cục, xe phải dừng lại, Tăng Ni thoát ra khỏi xe, tập hợp lại để
tiếp tục đấu tranh. Chính quyền NĐD đã điều động một lực lượng lớn cảnh sát để
đàn áp. Tăng Ni bị đánh đập, bị bắt quẳng lên xe chở về An dưỡng địa Phú Lâm.
Tường thuật về cuộc đàn áp này, tờ Star and Stripes số ra ngày
18-7-1963, viết : “Với sự trợ lực của lính mũ sắt, cảnh sát chiến đấu đã
dùng báng súng và gậy gộc đánh các người biểu tình rồi túm cổ họ vất lên xe
camion của nhà binh đang đậu bên cạnh. Tăng Ni, đàn bà và trẻ con bị cảnh sát
đánh ngã lăn ra đường. Rất nhiều người đổ máu. Cà sa vàng của Tăng Ni và áo
dài của đàn bà bị xé rách tả tơi trong khi họ bị dồn lên xe”
(8, 220). Và khi về An
dưỡng địa, Tăng Ni vẫn tiếp tục đấu tranh. Chính quyền NĐD buộc phải trả họ về
chùa Xá Lợi sau 4 ngày giam giữ, chịu đủ mọi thứ ngược đãi.
Trước sự phục hồi
phong trào, ngày 18-7, NĐD ra “hiệu triệu” chấp thuận việc treo cờ PG “sẽ
được áp dụng cho tất cả môn phái nào tự ý công nhận PG kỳ”, đề nghị giới
lãnh đạo PG hợp tác “để cùng nghiên cứu, điều tra và giải quyết tại chỗ,
nếu cần, những khiếu nại liên quan đến sự thực thi Thông cáo chung” và kêu
gọi “quốc dân đồng bào ghi nhận ý chí hòa giải tột bực của Chính phủ trong
vấn đề Phật giáo” (12).
Trên thực tế, “ý
chí hòa giải tột bực của Chính phủ...” cũng chỉ là sự tiếp nối những thủ đoạn
chính trị như trước đây nhằm đánh lừa dư luận. Ngay khi Diệm ra lời “hiệu
triệu”, các chùa Ấn Quang, Xá Lợi, Giác Minh vẫn tiếp tục bị phong tỏa. Ngày
19-7, giới lãnh đạo PG gởi văn thư số 94 cho chính quyền NĐD, khẳng định:
“Toàn thể Tăng Ni chúng tôi trong Ủy ban Liên phái thà cam chịu chết chứ không
chịu để cho lòng tin tưởng của chúng tôi nơi thành tín của Chính phủ bị thực
tế đánh đổ một lần nữa” và yêu cầu giải quyết hết thảy những vấn đề đã xảy
ra từ ngày Phật Đản (8-5-1963), họ “mới có thể hợp tác với UBLB mà nghiên
cứu, xem xét những vấn đề khác, để cho cuộc hòa giải được hoàn toàn tốt đẹp”
(40).
Ngày 21-7, một
nhóm thanh niên mặc thường phục len lỏi vào đám đông quần chúng Phật tử tại
chùa Xá Lợi, phân phát tài liệu giả mạo. Một người trong nhóm họ bị bắt quả
tang, y khai nhận lệnh cấp trên đến chùa Xá Lợi để phát những tài liệu giả mạo
nói trên. Tiếp theo, ngày 23-7, trong lúc Sư bà Diệu Huệ đang tổ chức họp báo
tại chùa Xá Lợi, để công bố ý nguyện tự thiêu của bà để góp phần bảo vệ PG,
thì bên ngoài, chính quyền NĐD tổ chức một cuộc biểu tình mạo danh thương phế
binh, lên án và xuyên tạc cuộc đấu tranh của PG. Tuy vậy, việc làm của chính
quyền NĐD không đánh lừa được dư luận, ngày hôm sau (24-7), một nhóm thương
phế binh gởi thư cho giới lãnh đạo PG, lên án cuộc biểu tình và bày tỏ sự ủng
hộ của họ đối với phong trào: “Chúng con nguyện xin chung góp một phần nào
cuộc đấu tranh hợp pháp với tinh thần bất bạo động của đồng bào Phật tử cho
đến khi nào sự bình đẳng tôn giáo và tự do tín ngưỡng được hoàn toàn thực thi
trên lời nói cũng như việc làm trên toàn lãnh thổ Việt Nam”
(43, 238).
Trong lúc phong
trào đang được đẩy mạnh thì tín đồ các tôn giáo khác cũng lên tiếng tố cáo
chính quyền NĐD đàn áp PG và bày tỏ sự ủng hộ của họ đối với cuộc đấu tranh
của PG.
Ngày 20-7-1963,
Đoàn Sinh viên Liên giáo tại Sài Gòn ra lời hiệu triệu, nói rằng: “Việc tàn
sát PG đồ tại Huế trong ngày lễ Phật Đản vừa qua, việc giở trò lừa bịp giả ký
kết, thỏa thuận để xoa dịu những lúc lòng công phẫn trong nhân dân lên quá cao
rồi lại tiếp tục bắt bớ, tra tấn, tàn sát đẫm máu, tất cả những việc ấy đã đem
lại lợi ích gì cho quốc gia, dân tộc ? Phải chăng chỉ để thỏa mãn lòng đố kỵ
nhỏ nhen, óc kỳ thị tôn giáo hẹp hòi của một vài cá nhân?... Các tôn giáo
trong nước đều tố cáo hành vi hạn chế tín ngưỡng phản
hiến pháp của chính quyền. Ngay cả những tín đồ Thiên Chúa
giáo vô tư cũng lên án hành động của chính quyền là hẹp hòi, bẩn thỉu”
(17) và khẳng định rằng:
“Đoàn Sinh viên Liên giáo chúng tôi gồm đủ thành phần của các tôn giáo: PG,
Thiên Chúa giáo, Hồi giáo, Tin Lành giáo, Cao Đài giáo, Bahai giáo... được
thành lập với mục đích ủng hộ PG đấu tranh ôn hòa đòi tự do tín ngưỡng và hành
giáo” (17).
Ngày 24-7, đại
diện một nhóm sinh viên và thanh niên Thiên Chúa giáo tại Sài Gòn gởi thư đến
đức Khâm sứ Tòa thánh Vatican ở Việt
Nam. Bức thư viết: “Sau khi theo dõi những biến cố xảy ra tại Sài Gòn cũng
như ở Huế từ 8-5 đến nay, cũng như sau khi đã chứng kiến tận mắt cái chết vô
cùng can đảm của nhà sư Thích Quảng Đức và các cuộc biểu tình bất bạo động mới
đây của Tăng Ni, chúng con là một nhóm sinh viên Công giáo yêu chuộng tự do và
công lý không thể nhắm mắt làm ngơ trước cảnh đau khổ, bị đánh đập, bị bắt bớ
của những người dù rằng khác tín ngưỡng nhưng cũng là đồng bào anh em với
chúng con.
“Hành động đàn áp
nói trên của chính phủ Công giáo đối với PG đồ đã làm tổn thương nhiều đến
thanh danh của hàng giáo phẩm Việt
Nam nói riêng và Giáo hội nói chung. Không những thế, nó còn gây ra những phản
ứng vô cùng bất lợi cho Giáo hội Công giáo trên khắp các quốc gia Á châu...
Chúng con tin chắc rằng Đức cha
cũng đã khách quan nhận xét, đã phê phán và phúc trình về Tòa thánh những sự
việc đã diễn ra” (41).
Ngày 25-7, một
nhóm tín đồ Thiên Chúa giáo gồm nhiều thành phần xã hội khác nhau đã gởi thư
cho giới lãnh đạo PG. Bức thư viết: “Mặc dầu chúng tôi là đồng bào Công
giáo, nhưng ngay từ khi xảy ra những cuộc tàn sát, đàn áp dã man của nhà cầm
quyền đối với đồng bào PG, chúng tôi rất đau lòng vì chính những kẻ xuẩn động
đã gây ra thảm cảnh và những tiếp diễn của những thảm cảnh đó là những người
đã được ánh sáng Phúc âm rọi tới như chúng tôi. Còn đâu trong người của họ
tinh thần công bằng, bác ái, kính Chúa, yêu người như mình ta vậy? Họ đã phản
bội tinh thần Công giáo của chúng tôi”
(43, 239).
Ngày 30-7, nhân
ngày lễ chung thất của Thích Quảng Đức, giới lãnh đạo PG đã ra Thông bạch vạch
rõ thực trạng xã hội miền Nam dưới chính quyền NĐD: “Sự suy đồi của nền đạo
đức dân tộc... nền đạo giáo vẫn bị hăm dọa, quốc gia lâm vào tình trạng chia
rẽ đổ nát, người làm kẻ hưởng, nỗi bất bình oan khúc không sao kể xiết”
(36), và kêu gọi mọi giới
đồng bào hãy đình công bãi thị để phản đối thái độ ngoan cố và độc ác của
chính quyền NĐD đối với PG.
Hưởng ứng lời kêu
gọi trên, tại Sài Gòn, từ 5 giờ sáng, đồng bào đã tấp nập đổ về chùa Xá Lợi,
“ngoài thanh niên ra, hầu hết những người đến dự lễ đều là đàn bà. Họ đều
trẻ, khá hấp dẫn và duyên dáng trong bộ áo dài và quần trắng, hoặc cả bà già
nhăn nheo, răng bị nhuộm đen vì ăn trầu. Tất cả đều có đính băng nhỏ màu vàng
trước ngực, một biểu hiện thương tiếc HT Thích Quảng Đức”
(46, 193).
Sau buổi lễ, giới
lãnh đạo PG ra Tuyên ngôn tố cáo chính quyền NĐD không chịu thi hành Thông cáo
chung và khẳng định lại một lần nữa quyết tâm tranh đấu của mình “để đưa
cuộc đấu tranh đến thành công”
(34, 112).
Trong lúc cuộc đấu
tranh của PG được phục hồi và đang phát triển mạnh mẽ khắp trên các đô thị
miền Nam, nhất là ở Huế và Sài Gòn, thì Đại sứ Mỹ Frederick E.Nolting, trong
một cuộc phỏng vấn của Don Baker, ký giả của Hãng thông tấn UPI, đã bào chữa
cho chính quyền NĐD. Nolting nói: “Hơn hai năm tôi sống ở Việt
Nam, tôi chưa bao giờ nhận thấy dấu hiệu nào chứng tỏ có sự kỳ thị tôn giáo”
(43, 298).
Tiếp theo, ngày
3-8, trong cuộc nói chuyện với phụ nữ bán quân sự, Trần Lệ Xuân lên tiếng công
kích và mạ lỵ PG, rằng “hoạt động của PG là một hình thức phản bội xấu
xa...” (46, 196). Về
sự tự thiêu của Thích Quảng Đức, Trần Lệ Xuân cho là sư "nướng sư". Trả lời
phỏng vấn của ký giả báo New York Times, Trần Lệ Xuân nói: “Tôi còn
đánh sư gấp 10 lần như thế nữa à. Phương pháp giải quyết vấn đề PG là phớt
tỉnh, không cần biết tới”
(43, 307).
Trước thái độ
ngang ngược của Mỹ-Diệm, mức độ phong trào đột ngột gia tăng. Trong vòng chưa
đầy nửa tháng (4 đến 16-8) đã có tới 4 cuộc tự thiêu. Riêng Huế, phong trào
lên rất mạnh, đã có 2 cuộc tự thiêu. Ngày 17-6, Linh mục Cao Văn Luận từ chức
Viện trưởng Viện Đại học Huế, các khoa trưởng và giáo chức và giáo sinh đại
học từ chức tập thể, sinh viên đồng loạt bãi khóa. Tại Sài Gòn, ngày 12-8, nữ
sinh Mai Thị Tuyết An tự chặt tay trái của mình để phản đối chính quyền NĐD;
ngày 18-8, một cuộc lễ cầu siêu cho tất cả các vị tử đạo được tổ chức tại chùa
Xá Lợi. Sau lễ cầu siêu, Đoàn Sinh viên Phật tử Sài Gòn kêu gọi quần chúng
tham gia tuyệt thực tại chỗ, có tới 10.000 người tham gia. Suốt ngày hôm đó,
đông đảo đồng bào Sài Gòn kéo đến chùa Xá Lợi để ủng hộ cuộc tuyệt thực, khí
thế đấu tranh của quần chúng hết sức sôi nổi.
Để cứu nguy cho
chế độ, chính quyền NĐD đã cho thực hiện “kế hoạch nước lũ”, “cương quyết
thanh trừng các phần tử phản bội và quá khích trong các giới Tăng Ni, công
chức, giáo sư, sinh viên, cũng như trong các đoàn thể nhân dân”
(13) nhằm giải quyết dứt
điểm “vụ PG”. "Thời gian ấn định cho việc thực hiện xong kế hoạch là từ
21-8 đến
30-8-1963"
(13). Đêm 20 rạng ngày
21-8, chính quyền NĐD cho quân tấn công đồng loạt hầu hết các ngôi chùa được
dùng làm cơ sở đấu tranh trên toàn miền Nam.
Tại Sài Gòn, cảnh
sát dã chiến và lực lượng đặc biệt của Ngô Đình Nhu mặc quân phục (âm mưu của
lối cải trang này nhằm để đánh lừa dư luận rằng chính quân đội đã ủng hộ Diệm
trong việc “thanh trừng những phần tử phản bội và quá khích”, làm cho phía PG
tập trung mũi nhọn về phía quân đội, như vậy quân đội sẽ đứng về phía Diệm)
tấn công các chùa và bắt giữ Tăng Ni, Phật tử. Tại chùa Xá Lợi, trụ sở của
UBLPBVPG, cuộc tấn công diễn ra rất ác liệt. Mặc dầu có mật báo cho biết chính
quyền NĐD sẽ mở cuộc tấn công, nhưng giới lãnh đạo PG vẫn không một ai chịu
lùi bước. Tăng Ni, Phật tử đã chống trả mãnh liệt, cho đến lúc kiệt sức thì bị
bắt tống lên xe chở vào trại giam. Hầu hết các nhà sư trong giới lãnh đạo PG
đã bị bắt trong cuộc tấn công này.
Ở chùa Ấn Quang,
theo Phiếu đệ trình số 0289 ngày 22-8-1963 của Tư lệnh Quân đoàn III của Diệm,
thì cuộc tấn công của lực lượng Diệm cũng vấp phải sự kháng cự mãnh liệt của
Tăng tín đồ Phật tử: “Việc khám xét chùa Ấn Quang cũng gặp trở ngại vì chùa đã
tổ chức phòng thủ và báo động. Khi lực lượng an ninh tiến vào chùa thì gặp một
hàng rào kẽm gai có truyền điện nên một số nhân viên ta bị điện giật và bị
thương. Một số Tăng Ni canh gác trong chùa dùng gậy định chống trả lúc đầu,
nhưng sau đó lại rút lui lên lầu. Các sư liền sử dụng máy phóng thanh kêu gọi
đồng bào quanh vùng thức dậy để chứng kiến quân đội tấn công chùa. Trong chùa,
trống đánh ầm ĩ để báo động và sử dụng điện thoại để liên lạc với các chùa
khác.
“Các Tăng Ni tiếp
tục ném đá và ve chai vào các toán an ninh. Đặc biệt là các Tăng Ni có ném một
chất hóa học cay mắt và một chai a-xít vào trung đội an ninh trong lúc tiến
công vào chùa, nhưng may không có nhân viên nào bị thương”
(27).
Cùng lúc với “kế
hoạch nước lũ”, Diệm đọc tuyên cáo và ban hành sắc lệnh giới nghiêm, công khai
đặt miền Nam
trong sự cai trị của chế độ quân phiệt. Sắc lệnh giới nghiêm cho phép quân đội
có quyền “xét các tư gia bất cứ giờ nào, bắt giữ những người xét có hại cho
an ninh công cộng” (Điều 3), “Tất cả mọi sự vi phạm đến trật tự công
cộng đều thuộc thẩm quyền của Tòa án Quân sự” (Điều 4)
(31). Ngày 21 và những
ngày kế tiếp, chính quyền NĐD đã cho người đi bắt thêm khoảng 2.000 người khác
tại nhà riêng của họ, trong đó đa số là giáo sư, luật sư và sinh viên, đông
nhất là ở Sài Gòn và Huế.
Bằng việc đánh phá
chùa chiền, bắt giữ Tăng Ni và ban hành lệnh giới nghiêm, chế độ gia đình trị
NĐD đã “thực sự dẫm trúng vỏ chuối do PG quăng ra”
(30), đã tự chọn cho mình
một tuyệt lộ.
Sau “kế hoạch nước
lũ”, chính quyền NĐD thi hành một loạt âm mưu gian xảo nhằm đánh lừa dư luận,
hòng tránh được sự nổi dậy của quần chúng. Ngày 22-8, chính quyền NĐD ra thông
cáo cho biết đã khám xét và tịch thu được một số khí giới và dụng cụ bất hợp
pháp tại chùa Xá Lợi, Ấn Quang... Ngày 24 và 25-8, anh em Diệm tạo ra một số
thư giả mạo của giới lãnh đạo PG gởi cho NĐD, như thư của HT Thích Tịnh Khiết
nói rằng HT ủy nhiệm cho một số Thượng tọa (TT) trong Giáo hội Tăng già toàn
quốc để trông nom Phật sự, hoặc kiến nghị của 5 vị TT ở Huế nói rằng “trong
chế độ cộng hòa nhân vị do Tổng thống NĐD lãnh đạo, chúng tôi xác nhận PG được
tùy duyên phát triển tự do tín ngưỡng và hành đạo. Tổng thống và Chính phủ
không chủ trương đàn áp và kỳ thị tôn giáo”, rằng “trong cuộc đấu tranh
cho 5 nguyện vọng của PG Việt Nam đệ đạt lên Tổng thống, chúng tôi xác nhận đã
được Tổng thống giải quyết, thực thi và hòa giải tột bực”
(14).
Ngày 26-8, chính
quyền NĐD thành lập Ủy ban Liên hiệp Bảo vệ PG thuần túy. Tổ chức này họp báo
lên án giới lãnh đạo PG và tán thành cuộc đại khủng bố của chính quyền NĐD.
Ngày 10-9, Trần Lệ Xuân lên đường đi châu Âu và châu Mỹ để làm cái nhiệm vụ mà
y gọi là “giải độc” cho thế giới. Nhưng đến đâu, Lệ Xuân cũng đều bị nhân dân
thế giới tẩy chay, đặc biệt là người Việt Nam ở hải ngoại đã chống lại y một
cách quyết liệt, có nơi y đã bị nhân dân ném trứng thối và cà chua vào mặt.
Bằng tất cả những
biện pháp trên đây, chính quyền NĐD vẫn không tài nào dập tắt được phong trào.
Thật vậy, sau cuộc tấn công vào chùa chiền, phong trào không những không bị đè
bẹp mà còn phát triển sâu rộng trong hầu hết các tầng lớp nhân dân. Liền sau
“kế hoạch nước lũ”, ngày 22-8, MTDTGPMNVN ra tuyên bố chỉ rõ: “Điều quan
trọng bậc nhất hiện nay là tín đồ PG cũng như nhân dân các đô thị kiên quyết
giữ vững tinh thần, giữ vững đội ngũ, giữ vững đấu tranh... Tinh thần bất
khuất trước sau vẫn là võ khí bất khả chiến thắng của chúng ta. Với ý chí và
tinh thần ấy, chúng ta sẽ làm cho Mỹ-Diệm bị thất bại nhục nhã”
(6).
Thật vậy, những
ngày sau 21-8, cả Sài Gòn rung động trước sự phát triển của phong trào. Nhiều
bộ trưởng, khoa trưởng, giáo sư đại học từ chức. Ngày 22-8, một nhóm giáo chức
rải truyền đơn lên án chính quyền NĐD tấn công chùa và kêu gọi trí thức vùng
dậy đấu tranh: “Chúng ta phải làm gì trong khi khắp nơi, đồng nghiệp của
chúng ta thẳng thừng từ bỏ chức vụ để đòi hỏi sự giải quyết vấn đề kỳ thị tôn
giáo của Chính phủ. Hơn thế nữa, mới đây, khoảng 1 giờ đêm 20 rạng ngày
21-8-1963, để xác định tính chất tàn ác, vô nhân đạo, Chính phủ NĐD đã cho
quân đội tàn phá tất cả chùa chiền ở thủ đô và toàn quốc, bắt giết các vị Tăng
Ni và các cấp lãnh đạo PG một cách dã man.
“Quý vị nghĩ sao
trước lời kêu gọi này?
“Chúng tôi đang
đợi phản ứng của quý vị, là những thức giả có nhiệm vụ tiên phong trong giai
đoạn đấu tranh này”
(32).
Về phía sinh viên,
ngày 22-8, Ủy ban Chỉ đạo Sinh viên Liên khoa được thành lập, hai hôm sau
(24-8) đổi tên là Ủy ban Chỉ đạo Sinh viên và Học sinh. Ủy ban này “tuyên
bố bãi khóa, nghỉ học để đấu tranh cho tự do tín ngưỡng”
(42). Hầu hết các trường
đại học, cao đẳng đều bãi khóa. Ngày 24-8, tại Trường Đại học Khoa học có tới
1.200 sinh viên tới trường để thi vào năm dự bị, nhưng không chịu vào phòng
thi, họ xé phiếu báo danh, hô các khẩu hiệu: “Đả đảo Chính phủ” và hô hào bãi
khóa. Tại Trường Đại học Dược khoa, 700 sinh viên đến trường nhưng không chịu
vào lớp. Truyền đơn của UBLPBVPG dán trên bảng đen kêu gọi đình công, bãi thị,
bãi khóa để đấu tranh bảo vệ cho sự sống còn của đạo pháp và dân tộc. Tại
Trường Đại học Y và Nha khoa, sinh viên đã xông vào phòng hội đồng xé đề thi
để lộ đề thi toán. Tại Trường Đại học Luật khoa, có trên 1.200 sinh viên họp
mít-tinh lên án chính quyền NĐD và kêu gọi bãi khóa để đấu tranh
(42).
Tiếp theo, sáng
ngày 25-8, bất chấp lệnh giới nghiêm của chính quyền NĐD, thanh niên, sinh
viên, học sinh từ nhiều hướng khác nhau đổ về trước chợ Bến Thành tổ chức biểu
tình lên án chính quyền NĐD. Đông đảo đồng bào từ trong chợ đổ ra đường hưởng
ứng cuộc biểu tình. Cuộc đàn áp diễn ra, thanh niên, sinh viên, học sinh đã
chống trả quyết liệt. Cảnh sát Diệm bắn vào đoàn biểu tình, nữ sinh Quách Thị
Trang hy sinh và có tới 2.000 nam nữ sinh viên, học sinh bị bắt đưa về giam
tại Trung tâm Huấn luyện Quang Trung. Chính quyền NĐD ra huấn lệnh cho phép
các lực lượng an ninh được bắn vào bất cứ đám đông nào tụ tập trên đường phố
mà không xin phép. Để đẩy lùi cao trào nổi dậy của sinh viên, chính quyền NĐD
ra lệnh đóng cửa các trường đại học và cao đẳng, lùng bắt cán bộ chỉ đạo phong
trào.
Lên án hành động
trên đây của chính quyền NĐD, trong Lời tuyên bố ngày 18-8-1963, Chủ tịch Hồ
Chí Minh viết: “Gần đây, ở miền Nam Việt Nam lại xảy ra thêm một tình trạng
cực kỳ nghiêm trọng và đau thương. Bọn NĐD đốt phá chùa chiền, khủng bố sư sãi
và đồng bào theo đạo Phật. Chúng đóng cửa trường học, bắt bớ hàng loạt giáo sư
và sinh viên, học sinh. Tội ác dã man của chúng, trời đất không thể dung. Hành
động hung tàn của chúng, nhân dân ta đều căm giận, cả thế giới đều lên tiếng
phản đối, nhân dân tiến bộ Mỹ cũng tỏ lòng bất bình... Trước tình thế ấy, đồng
bào miền Nam
ta đoàn kết nhất trí, không phân biệt sĩ nông công thương, không phân biệt
chính kiến, tôn giáo, kiên quyết đấu tranh để giành lại tự do dân chủ, tự do
tín ngưỡng”. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định sự thắng lợi tất yếu của cuộc đấu
tranh của nhân dân miền Nam: “Dưới ngọn cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng,
cuộc đấu tranh chính nghĩa của đồng bào miền Nam được sự ủng hộ của nhân dân
yêu chuộng hòa bình trên thế giới, nhất định giành được thắng lợi”
(18).
Sau ngày 25-8,
nhìn bên ngoài, chính quyền NĐD dường như có vẻ làm chủ tình hình. Tuy nhiên,
trên thực tế, phong trào đang tìm đối sách thích ứng trước sự khủng bố dã man
của chính quyền NĐD. Ngày 6-9, đài BBC trong phần bình luận, cho rằng:
“Diệm đã nắm vững và Hoa Thịnh Đốn đã nhượng bộ, không đòi vợ chồng Nhu đi
nữa” (30). Như để cải
chính một cách hùng hồn, ngày 7-9, học sinh các trường bãi khóa. Tại Trường
Trung học Võ Trường Toản, học sinh đánh nhau hàng giờ với cảnh sát chiến đấu
và đã hô những khẩu hiệu đòi Mỹ chấm dứt viện trợ cho chính quyền NĐD và tuyên
bố là Mỹ đã đi với Diệm, không đi với dân Việt Nam. Rất nhiều học sinh nam nữ
bị bắt tống lên xe hơi có mang dấu hiệu viện trợ Mỹ để đưa đến trại giam. Buổi
chiều hôm đó, phụ huynh học sinh đã tụ tập ở Nha Cảnh sát, biểu tình đòi con.
Đoàn biểu tình đã chỉ trích Mỹ ủng hộ Diệm.
Ngày 8-9, học sinh
Trường Trung học Kỹ thuật Cao Thắng bãi khóa. Cuộc chiến đấu của học sinh
chống lại lực lượng cảnh sát Diệm diễn ra rất dữ dội. Trong lúc học sinh đang
hô hào bãi khóa biểu tình, cảnh sát chiến đấu được huy động tới bao vây và đàn
áp. Học sinh đã dùng búa và các khí cụ của nhà trường chống lại cảnh sát. Hai
bên giao tranh suốt buổi sáng làm cho một số cảnh sát Diệm bị thương tích trầm
trọng.
Cùng ngày, học
sinh Trường Chu
Văn An bãi khóa. Tại đây, học sinh đã căng lên nhiều biểu ngữ viết bằng máu tố
cáo chính quyền NĐD chà đạp tự do tín ngưỡng, đòi Mỹ ngưng viện trợ cho Diệm.
Cuộc chiến đấu chống sự đàn áp của cảnh sát Diệm diễn ra rất mãnh liệt. Học
sinh đã dùng bàn ghế và các dụng cụ sẵn có chống lại sự tấn công của cảnh sát.
Hai đợt tấn công đầu của cảnh sát Diệm đều bị đẩy lùi. Đợt thứ ba, chính quyền
NĐD huy động thêm lực lượng quân đội mới đàn áp được. Có tới 1.200 học sinh bị
bắt đưa về trại giam An Nhơn ở Gò Vấp.
Cùng với phong
trào đấu tranh mãnh liệt của quần chúng, một số nhà sư trong giới lãnh đạo PG
trốn thoát được cuộc khủng bố, hoặc bị quản thúc, vẫn tiếp tục bí mật hoạt
động lãnh đạo cuộc đấu tranh đòi trả tự do cho những Tăng Ni, Phật tử bị bắt.
Nhiều thư của giới lãnh đạo PG bí mật gởi Tổng Thư ký Liên hiệp quốc và cho
phái đoàn điều tra Liên hiệp quốc khi phái đoàn này đến miền
Nam. Thời gian này, nhiều đoàn thể được thành lập gấp rút để đối phó với tình
hình, như Đoàn Thanh niên cứu nguy PG, Thanh niên Tăng đoàn Việt Nam, Thanh
niên Quốc Tuệ, Thanh niên Ái quốc đoàn. Các đoàn thể này đã tiến hành các hoạt
động bí mật, như rải truyền đơn tố cáo chính quyền NĐD và ra lời kêu gọi nhân
dân vùng lên chống bạo quyền. Lời kêu gọi của Đoàn Thanh niên Quốc Tuệ viết:
“Gia đình họ Ngô chẳng từ một hành động tàn bạo nào! Chúng bất chấp dư
luận, bất chấp lời phản đối của nhân dân trong nước và thế giới. Chúng đã bị
vinh hoa che mờ mất lương tri và không còn lấy một chút đạo đức sơ đẳng của
con người.
“Thậm chí phá
chùa, bắt sư, xả súng vào các đám biểu tình là một hành động man rợ chưa từng
có trong lịch sử loài người.
“Các bạn thanh
niên, học sinh, sinh viên và đồng bào!
“Giờ phút lịch sử
đã điểm.
“Tất cả chúng ta
hãy kết khối vùng lên, hô to khẩu hiệu:
“Chiến đấu ! Chiến
đấu ! Quét sạch chế độ bạo tàn !”
(43, 443-444)
Trong điều kiện
lưới mật vụ cũng như lực lượng chống biểu tình của Diệm giăng ra dày đặc,
trong phong trào quần chúng xuất hiện nhiều hình thức đấu tranh mới, như các
bà mẹ đã lấy bong bóng kết theo những biểu ngữ mang nội dung chống Diệm thả
lên không trung; hoặc là những tấm áp-phích hí họa mô tả chế độ độc tài gia
đình trị NĐD; hoặc ở chợ Bến Thành có hình thức thả khỉ mang tên những anh em
Diệm v.v...
Trong lúc những
hoạt động chống đối của quần chúng liên tục diễn ra bằng đủ mọi hình thức, thì
trưa ngày 5-10, Đại đức (ĐĐ) Thích Quảng Hương tự thiêu trước chợ Bến Thành.
Một số nhà báo Mỹ bị lực lượng Diệm đánh khi họ đang chứng kiến vụ tự thiêu
này. Dư luận Mỹ sôi nổi phản đối Diệm. Trong điều kiện phong trào đang gặp rất
nhiều khó khăn, ngọn lửa Thích Quảng Hương đã chứng tỏ cho dư luận trong nước
và quốc tế biết rằng “vụ PG” vẫn còn nguyên vẹn và có tác động mạnh mẽ đến
Liên hiệp quốc trong phiên họp ngày 7-10-1963 tại New York khi bàn đến vấn đề
PG Việt Nam. Tại phiên họp này, đại biểu Sri Lanka tố cáo chính quyền NĐD đàn
áp PG và vi phạm nhân quyền, và đề nghị cử một phái đoàn sang miền Nam điều
tra “vụ PG”. Đại hội đồng Liên hiệp quốc chấp thuận và đồng ý hoãn việc thảo
luận “vụ PG” cho đến khi có phúc trình của phái đoàn về vấn đề này.
Vào lúc 0 giờ 30
ngày 24-10, phái đoàn điều tra Liên hiệp quốc đến Sài Gòn. Giữa lúc phái đoàn
điều tra Liên hiệp quốc đang hoạt động, thì vào 10 giờ ngày 27-10, ĐĐ Thích
Thiện Mỹ tự thiêu trước nhà thờ Đức Bà (Sài Gòn). Sự hy sinh của Thích Thiện
Mỹ được xem như là lời kêu gọi khẩn cấp đối với Liên hiệp quốc trong việc tố
cáo chế độ bạo tàn NĐD trước diễn đàn quốc tế, hầu mong sớm chấm dứt nỗi thống
khổ của Tăng tín đồ PG miền Nam.
Cùng với phong
trào đô thị, nổi bật là phong trào PG, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân
dân miền Nam không ngừng phát triển, làm cho mâu thuẫn Mỹ-Diệm từng bước phát
triển và trở nên gay gắt không thể nào khắc phục được. Thật vậy, từ sau chiến
thắng Ấp Bắc (2-1-1963),
Mỹ đã tính đến việc thay Diệm. Tờ New York Times, ngày 5-2-1963
nhận định rằng: “Bây giờ mà thay ngựa ở miền
Nam là một việc làm nguy hiểm, nhưng thà nguy hiểm mà sẽ đem lại những khả
năng thành công, còn sợ nguy hiểm thì chắc chắn sẽ thất bại”
(22). Tờ Tin tức hàng
ngày
Washington
viết: “Tổng thống Diệm phải hiểu rằng, giữa việc cứu vớt chế độ ông ta và
việc cứu vớt bản thân ông ta, thì việc sau là thứ yếu”
(22). Tuy nhiên, đây chỉ là ý nghĩ bước đầu của kế hoạch “thay ngựa”
của Mỹ.
Từ tháng 5 trở đi,
trước những thất bại liên tiếp và nặng nề về chính trị và quân sự, chính quyền
Kennedy bắt đầu gây sức ép với Diệm. Trong một cuộc tiếp xúc với Diệm,
Truheart - đại diện Mỹ - chỉ ra rằng: “Chính quyền Kennedy không ưa thích
rối ren” (46, 135).
Mâu thuẫn Mỹ-Diệm càng trở nên căng thẳng, nhất là từ sau khi chính quyền NĐD
tấn công chùa và ban hành lệnh giới nghiêm. Ngày 24-8, sau khi đến Sài Gòn
nhận chức Đại sứ được hai ngày, Cabodge Lodge nhận được điện văn từ Nhà Trắng,
trong đó vạch rõ: “Cố vấn Ngô Đình Nhu chịu trách nhiệm về sự tấn công đàn
áp chùa chiền. Đại sứ Hoa Kỳ phải minh danh: Chính lực lượng đặc biệt của ông
Nhu, chứ không phải quân đội tham dự... Hoa Kỳ không thể tha thứ tình trạng
quyền hành nằm trong tay Ngô Đình Nhu. Tổng thống NĐD được dành một cơ hội để
loại trừ Ngô Đình Nhu và tay chân, phải thay thế họ bằng những nhân vật quân
sự và chính trị có khả năng nhất... Nếu Tổng thống Diệm vẫn còn ngoan cố, thì
chúng ta (người Mỹ) sẽ đi tới chỗ không thể tiếp tục ủng hộ ông nữa. Ông Đại
sứ có thể loan báo cùng các vị tư lệnh quân sự liên hệ rằng: “Chúng ta sẽ trực
tiếp yểm trợ cho họ trong mọi trường hợp tạm thời gián đoạn của một chính
quyền trung ương” (5,
227-228).
Tại Sài Gòn, trong
một cuộc tiếp xúc với Diệm, Lodge đã chính thức yêu cầu Diệm gạt bỏ Nhu, nhưng
không được Diệm chấp nhận. Ngày 2-9-1963, Tổng thống Kennedy
tuyên bố: “Bằng việc thay đổi chính sách và thay đổi cả người nữa, có thể
giành được thắng lợi ở Việt
Nam”
(9, 395). Tuy nhiên, Mỹ
vẫn chưa quyết định dứt khoát việc thay Diệm. Sau khi Mc. Namara và Taylor
sang miền Nam vào cuối tháng 9 trở về báo cáo tình hình, ngày 2-10, chính
quyền Kennedy ra một bản tuyên bố 5 điểm, trong đó nói rằng: “Tình hình
chính trị tại Nam Việt Nam vẫn còn hết sức nghiêm trọng. Mỹ vẫn tiếp tục phản
đối các hành động đàn áp tại
Nam Việt Nam”
(44, 234). Tại Sài Gòn,
Lodge trách mắng Diệm “đừng phá hoại các cố gắng chiến tranh của Mỹ”
(2). Mặt khác, trong
tháng 10, Mỹ gia tăng áp lực kinh tế bằng cách cắt bỏ viện trợ cho lực lượng
đặc biệt của Nhu và một phần “viện trợ thương mãi hóa”. Mỹ còn tạo ra những
động tác đánh lừa Diệm về tình hình, như Mỹ đồng ý cho Diệm tổ chức bầu cử
“quốc hội”; Lodge báo tin cho Diệm hay y về Mỹ để thảo luận lại chính sách đối
với Diệm; Đô đốc Felt, Tư lệnh Quân đội Mỹ ở Thái Bình Dương, đi dự Hội nghị
Đông-Nam Á, đến Sài Gòn. Cả Felt và Lodge giả vờ ghé thăm Diệm vào sáng ngày
1-11-1963.
Miếng đất tốt cho
một cuộc đảo chánh quân sự đã được Mỹ chuẩn bị ráo riết bằng mọi cách. Ngày 1-11-1963,
cuộc đảo chánh thực sự đã diễn ra. Anh em Diệm-Nhu bị giết chết. Chế độ độc
tài gia đình trị NĐD sau 9 năm thống trị miền Nam bị sụp đổ. Phong trào PG
miền Nam nói chung, phong trào PG Sài Gòn kết thúc.
* * *
Đối diện với “cái
khổ” của dân tộc và đạo pháp bị ngoại bang dày xéo, bị bàn tay bạo quyền thống
trị, Tăng Ni, Phật tử Sài Gòn cũng như Tăng Ni, Phật tử trên toàn miền Nam đã
cùng với nhân dân miền Nam buộc phải đứng dậy đấu tranh. Bạo quyền NĐD đã sử
dụng hết mọi phương kế để bóp chết phong trào từ trong trứng nước, nhưng cái
đức của PG: “Từ bi, cứu khổ cứu nạn, vô ngã vị tha” vốn được nuôi dưỡng từ
mạch sống của dân tộc, đã vươn dậy cùng với cả dân tộc quật khởi. Chính quyền
NĐD bị đánh đổ.
Nhìn lại lịch sử
dân tộc và lịch sử PG kể từ khi được du nhập vào nước ta, điều khẳng định là
trên cả hai bình diện dựng nước và giữ nước cũng như trong đấu tranh chống bất
công cường quyền, Tăng Ni, Phật tử Việt Nam đã khẳng định là một bộ phận gắn
bó chặt chẽ với dân tộc, đã góp tiếng nói và công sức vào cuộc đấu tranh vì
độc lập, tự do của Tổ quốc, vì cuộc sống hạnh phúc của nhân dân. Cuộc đấu
tranh của Tăng Ni, Phật tử Sài Gòn năm 1963 góp thêm một cứ liệu hùng hồn
chứng minh cho nhận định trên đây.
Điều cần nhấn mạnh
thêm là Sài Gòn - thủ đô của “Việt Nam Cộng hòa”, cứ điểm vững mạnh nhất cả về
mặt chính trị và quân sự của Mỹ-Diệm, nơi mà anh em Diệm-Nhu dốc hết sức lực
để đàn áp, khủng bố, nhưng qua thực tế đấu tranh cho thấy Tăng Ni, Phật tử Sài
Gòn đã đóng trọn ý nghĩa vị trí tiền tiêu của mình trong phong trào PG miền
Nam năm 1963, góp phần rất xứng đáng trong cuộc đấu tranh lật đổ chính quyền
NĐD.«
Chú thích
(*) 5 nguyện vọng như sau : 1- Yêu cầu Chính
phủ Việt Nam Cộng hòa thu hồi vĩnh viễn công điện triệt giáo kỳ của PG ; 2-
Yêu cầu PG phải được hưởng một quy chế đặc biệt như các Hội Truyền giáo Thiên
Chúa đa được ghi trongDụ số 10 ; 3- Yêu cầu Chính phủ chấm dứt tình trạng bắt
bớ, khủng bố tín đồ PG ; 4- Yêu cầu cho Tăng, tín đồ PG được tự do truyền đạo
và hành đạo ; 5- Yêu cầu Chính phủ đền bồi một cách xứng đáng cho những kẻ
giết oan vô tội và kẻ chủ mưu giết hại phải đền bồi đúng mức.
Tài
liệu tiếng Việt
1- Bản Tuyên ngôn của Tăng, tín đồ PG Việt
Nam đọc trong cuộc metting của Phật tử tại chùa Từ Đàm - Huế, ngày 10-5-1963.
Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. Ký hiệu tài liệu SC.04-HS.8352.
2- Hồng Chuyên. Từ lâu
Mỹ đã chuẩn bị đảo chính quân sự để thay Diệm. Báo Nhân Dân, ngày 3-11-1963,
tr.3.
3- Công văn số 16 ngày
17-7-1963 của UBLB gởi TT Thích Thiện Minh, Trưởng phái đoàn PG. Trung tâm
Lưu trữ Quốc gia II. Ký hiệu tài liệu SC.HS.8353.
4- Diễn từ của HT Hội
chủ Tổng hội PG Việt
Nam, sau lễ hỏa thiêu nhục thân của HT Thích Quảng Đức.
Hồ sơ lưu tại chùa Từ Đàm - Huế.
5- Kiêm Đạt. Chiến tranh
Việt
Nam.
Nxb Đại Nam, Chicago, Illinois,
USA, 1992.
6- Đó là một bằng chứng
hùng hồn nhất về sự suy yếu, lúng túng, cô lập của chính quyền Diệm (Tuyên
bố của MTDTGPMNVN ngày 22-8-1963). Tuần báo Thống Nhất, số 323, ngày 30-8-1963,
tr.3.
7- Thích Mãn Giác. Ông René
De Berval. Nguyệt san Liên Hoa, Huế, ngày
27-2-1963.
8- Tuệ Giác. Việt
Nam PG tranh đấu sưã. Nxb Hoa Nghiêm, Sài Gòn, 1964.
9-
Trần Văn Giàu. Miền
Nam giữ vững thành đồng, tập II. Nxb Khoa học, Hà Nội, 1966.
10- T.H. Nội tình nhà
Diệm đang rối ren nghiêm trọng. Báo Quân đội Nhân dân, ngày 15-8-1963, tr.4.
11- Hành động phát-xít
của Mỹ-Diệm đàn áp đồng bào Pg miền
Nam đang bị dư luận thế giới lên án. Báo Quân đội Nhân
dân, ngày
15-6-1963, tr.1.
12- Hiệu triệu của Tổng
thống Việt
Nam Cộng hòa (18-7-1963).
Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. Ký hiệu tài liệu SC.04-HS.8468.
13- Kế hoạch thanh toán
vụ tranh chấp bạo động của Tổng hội PG tại Thừa Thiên. Trung tâm Lưu trữ
Quốc gia II. Ký hiệu tài liệu SC.04-HS.8466, tr.1-5.
14- Kiến nghị của 5 vị TT
ở Huế gởi Tổng thống Việt
Nam
Cộng hòa. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. Ký hiệu tài liệu
SC.04-HS.8466.
15-
Nguyễn Lang.
Việt
Nam
PG sử luận, tập III. Nxb Văn học, Hà Nội, 1994.
16-
Lá tâm thư ngày
9-5-1963 của TT Thích Tâm Châu, Phó Hội chủ Tổng hội PG Việt Nam gởi quý HT,
TT, ĐĐ Tăng Ni cùng toàn thể Phật tử Việt Nam. Hồ sơ lưu tại
chùa Từ Đàm - Huế.
17- Lời hiệu triệu của
Đoàn Sinh viên Liên giáo gởi toàn thể sinh viên, học sinh Việt
Nam.
Hồ sơ lưu tại chùa Từ Đàm - Huế.
18- Lời tuyên bố ngày
28-8-1963
của Hồ Chủ tịch về tình hình miền Nam Việt Nam
hiện nay. Báo Quân đội Nhân dân, ngày 29-8-1963,
tr.1.
19- Lửa căm hờn đang rực
cháy. Xã luận báo Nhân Dân, ngày
13-6-1963, tr.1.
20- Hùng Lý. Cửa từ bi
nổi cơn phẫn nôå. Báo Nhân Dân, ngày
12-6-1963, tr.4.
21- MTDTGPMNVN kêu gọi
đồng bào và tín đồ theo đạo Phật nâng cao cảnh giác, kiên quyết đấu tranh.
Báo Nhân Dân, ngày 22-6-1963,
tr.4.
22-
M.N. Về vai trò
của PG miền
Nam trong cuộc lật đổ chế độ độc tài NĐD. Tạp chí Nghiên cứu
Lịch sử, số 89, tháng 8-1966, tr.4-10.
23- Thích Đức Nghiệp. Hồi
ký đặc biệt về vụ tự thiêu của HT Thích Quảng Đức. Đạo Phật Việt Nam. Nxb
TP Hồ Chí Minh, 1995, 191-210.
24- Những sự kiện lịch sử
Đảng, tập III. Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội, 1985.
25- Những văn kiện chủ
yếu của MTDTGPMNVN (từ 12-1963 đến 10-1964). Nxb Sự thật, Hà Nội, 1964.
26- Quốc Oai. PG tranh
đấu. Nxb Tân Sanh, Sài Gòn, 1964.
27- Phiếu đệ trình số
0289/QĐ III/VPTL ngày 22-8-1963 của Thiếu tướng Tư lệnh Quân đoàn III kiêm Tư
lệnh vùng III chiến thuật, kiêm Tổng trấn Đô thành Sài Gòn, gởi Tổng thống
Việt Nam Cộng hòa. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. Ký hiệu tài liệu TM-HS
209.
28- Tâm Phong. Nhớ lại
cuộc vận động của PG. Tuần báo Hải Triều Âm, số 20, ngày 24-8-1963, tr.10-11.
29- Tâm Phong. Nhớ lại
cuộc vận động của PG. Tuần báo Hải Triều Âm, số 18, ngày 30-8-1963, tr.5.
30- Tâm Phong. Nhớ lại
cuộc vận động của PG. Tuần báo Thiện Mỹ, số 1, ngày 27-11-1963, tr.12.
31- Sắc lệnh ngày
20-8-1963
tuyên bố tình trạng giới nghiêm trên toàn lãnh thổ Việt Nam.
Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. Ký hiệu tài liệu SC.04 KS.8468.
32- Tài liệu rải ngoài
đường và trong trường học. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. Ký hiệu tài liệu
TM-HS.686.
33- Nam
Thanh. Cuộc đấu tranh của PG Việt Nam. Viện Hóa đạo, Sài Gòn, 1964.
34- Nguyễn Thanh. Sự thật
cuộc đấu tranh PG Việt Nam. Nxb Hoa Đạo, Sài Gòn, 1964.
35-
Thông bạch số 84
ngày
16-7-1963 của Phó Hội chủ Tổng hội PG Việt Nam gởi toàn thể Tăng đồ và tín đồ
trong nước. Hồ sơ lưu tại
chùa Từ Đàm - Huế.
36-
Thông bạch của HT
Hội chủ Tổng hội PG Việt
Nam và của UBLPBVPG gởi toàn thể PG đồ trong nước nhân ngày lễ chung thất của
HT Thích Quảng Đức. Hồ sơ lưu tại chùa Từ Đàm - Huế.
37- Thông điệp của Tổng
thống gởi đồng bào thủ đô, ngày
11-6-1963.
Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. Ký hiệu tài liệu SC.04-HS.8464.
38- Thư văn của phái đoàn
PG Việt
Nam gởi ông Bộ trưởng Công dân vụ ngày 17-5-1963. Hồ sơ lưu tại
chùa Từ Đàm - Huế.
39-
Thư văn số 83 ngày
14-7-1963 của HT Thích Tịnh Khiết, Hội chủ Tổng hội PG Việt Nam gởi Tổng thống
Việt Nam Cộng hòa. Hồ sơ lưu tại chùa Từ Đàm - Huế.
40-
Thư văn của TT
Thích Tâm Châu gởi, Chủ tịch UBLPBVPG gởi Tổng thống Việt
Nam Cộng hòa. Hồ sơ lưu tại chùa Từ Đàm - Huế.
41-
Thư ngày 24-7-1963
của đại diện một nhóm sinh viên và thanh niên Thiên Chúa giáo tại Sài Gòn gởi
đức Khâm sứ Tòa thánh Vatican
tại Việt Nam.
Hồ sơ lưu tại chùa Từ Đàm - Huế.
42-
Tin về hoạt động tôn giáo (mật) số
17357/TCSQG/CII/2/M ngày
24-8-1963. Bộ Nội vụ, Nha Tổng Giám đốc Cảnh sát Quốc gia.
Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. Ký hiệu tài liệu TM-HS.686.
43- Quốc Tuệ. Công cuộc đấu tranh của PG
Việt Nam. Tác giả xuất bản, Sài Gòn, 1964.
Tài
liệu tiếng Anh
44-
Hammer, Ellen J. A Death in
November (American in Vietnam in 1963).
E.p.Dutton, New York,
USA, 1987.
45- Nivolon, Francois. The
Vietnam Buddhist Crisis. Far Eastern Economics Review, No.2,
Volume XLI,
July 11, 1963.
46- Schecter, Jerrold. The New Face of
Buddha. John Weatherhill, Tokyo,
1967.
Sự phát triển của Phật giáo tại miền Nam
từ năm 1951 trở đi
Sa môn
MINH THÀNH
GIÁO
HỘI TĂNG GIÀ NAM VIỆT
Giáo
hội Tăng già được thành lập năm 1951 (ngày 5 tháng 6). Buổi lễ ra mắt diễn ra tại
chùa Hưng Long, số 298 đường Pierre Pasquier, gần Ngã sáu Chợ Lớn (nay là
đường Ngô Gia Tự), từ đó Giáo hội Tăng già Nam Việt (GHTGNV) đã trở thành tổ
chức quy tụ Tăng già toàn miền Nam, lãnh đạo PG tại Nam phần này, trụ sở đặt ở
chùa Ấn Quang. Sở dĩ buổi lễ ra mắt diễn ra ở chùa Hưng Long là vì hồi ấy, Ấn
Quang chỉ mới là ngôi nhà lá nhỏ, chật hẹp khuôn viên, không đủ sức chứa đại
biểu. Hưng Long là chùa xưa to, có bề thế, rộng. Trong lễ này có 3 vị trưởng
lão Hòa thượng (HT) chứng minh và mười mấy đại biểu các tỉnh cùng quan khách
Phật tử cũng như Ban Quản trị Hội Phật học Nam Việt (Hội Phật học Nam Việt
chính thức có giấy phép hoạt động trước đó mấy tháng) tham dự. Thành phần
GHTGNV ở cương vị Trung ương gồm có: HT Đạt Thanh, Lâm thời Pháp chủ; ngài Đạt
Từ (1895-1977), Trị sự trưởng; ngài Huyền Dung, Trị sự phó; ngài Nhựt Liên,
Tổng Thư ký ; ngài Phước Cần, Trưởng ban Giám luật ; ngài Quảng Liên, Trưởng
ban Hoằng pháp; ngài Thiện Hòa, Trưởng ban Giáo dục; ngài Quảng Đức, Trưởng
ban Nghi lễ; ngài Tắc Chi, Chưởng quỹ; ngài Quảng Minh (Hội trưởng Phật học
Nam Việt), Kiểm soát viên.
Từ Trung ương,
Giáo hội vận động thành lập giáo hội ở các tỉnh, một năm sau thì khắp các tỉnh
Nam phần đều có giáo hội tỉnh. Hai năm họp đại hội một lần, bầu lại Ban Quản
trị. Trong kỳ Đại hội 2, năm 1953, ngài Huyền Dung được bầu làm Trị sự trưởng,
nhưng cuối năm ấy, ngài đi du học bên Anh nên ngài Thiện Hoa thay chức ấy, và
cũng đại hội này, ngài Thiện Hoa làm Trưởng ban Hoằng pháp thay cho ngài Quảng
Liên đi du học bên Sri Lanka; ngoài ra vẫn như cũ. Đến năm 1954 thì ngài Tổng
Thư ký Nhựt Liên sang Lào trụ trì chùa Bàng Long nên Thầy Thiền Định thay Ngài
làm Tổng Thư ký. Cũng trong năm 1953, HT Huệ Quang được suy tôn lên ngôi Pháp
chủ thay thế HT Đạt Thanh vì tuổi cao xin nghỉ. Đến năm 1956, HT Huệ Quang
(1888-1956) đi dự Hội nghị PG Thế giới ở Népal, Ấn Độ, rồi Ngài viên tịch bên
ấy. Năm 1957, suy tôn HT Khánh Anh (1895-1961) lên ngôi Thượng thủ Giáo hội
Tăng già toàn quốc, sau khi HT Tuệ Tạng ở ngôi vị ấy viên tịch ở Hà Nội. Trong
Đại hội Giáo hội Tăng già toàn quốc năm 1959 này, ngài Thiện Hòa được bầu làm
Trị sự trưởng Giáo hội Tăng già toàn quốc. Ngài Trí Thủ, Trưởng ban Hoằng pháp
Giáo hội Tăng già toàn quốc và nhiều vị khác ở các chức vụ trọng yếu khác. Về
Giáo hội Tăng già Nam Việt thì từ 1955 trở đi, lãnh đạo cốt cán là hai ngài
Thiện Hòa và Thiện Hoa, cùng sự giúp sức của một số vị Tăng già trong các chức
vụ quan trọng khác. Ngài Quảng Liên về nước năm 1957, làm Đốc giáo Phật học
đường Nam Việt thay ngài Thiện Hoa, khi này ngài Thiện Hoa làm Trưởng ban
Hoằng pháp, soạn sách, dịch kinh, đi giảng Phật pháp ở các giảng đường Xá Lợi,
Ấn Quang hay những nơi có lễ lớn, chăm lo việc phát triển công việc hoằng pháp
có chiều sâu và rộng.
* Phật
sự 13 năm của GHTGNV (1951-1963):
1- Công việc
nội bộ:
Lập Tỉnh Giáo hội,
sách tấn Tăng già, làm lễ bố tát ngày 15 và 30 và nghiêm trì giới luật. Tổ
chức an cư kiết hạ hàng năm, khai Đại giới đàn, lập Tăng tịch. Năm 1956 thành
lập Ni bộ Nam Việt tại chùa Từ Nghiêm, Chợ Lớn, coi sóc hết cả Ni bộ Nam phần,
lập chi nhánh GHTGNVở Cao Miên (Campuchia), tổ chức Đại hội hai năm một kỳ bầu
Ban Trị sự Trung ương, vạch chương trình Phật sự, phúc trình mọi Phật sự trong
hoạt động kết quả hai năm. Mỗi lần Đại hội đều có những yếu tố mới, công việc
nội bộ hoàn chỉnh, tổ chức có quy củ.
2- Công việc
hoằng pháp, đào tạo cán bộ cung ứng cho ngành này:
Năm 1953, ngài
Thiện Hoa, vốn là đồng học với ngài Thiện Hòa ở trường Phật học Báo Quốc từ
năm 1938 đến năm 1945, từ Trà ôn
lên tham dự hẳn vào công việc trùng hưng PG ở trung tâm Sài Gòn. Ngài làm
Trưởng ban Hoằng pháp của GHTGNV, ban đầu là tiếp dạy hàng tuần các môn Phật
pháp, kinh điển cho học tăng tại Phật học đường Nam Việt, Ngài là Đốc giáo
(Giám học). Với hai chức vụ Đốc giáo và Trưởng ban Hoằng pháp, ngài chăm lo
công việc thật siêng năng hiếm có, suốt tháng ngày dạy học, đi giảng, dịch
kinh luận, viết sách, tối lại mở lớp dạy Việt ngữ cho đồng bào quanh đây,
phương pháp của ngài là dạy vần chữ O, chỉ một tháng là học viên đọc, viết
được chữ. Khi ấy, Hội Truyền bá Quốc ngữ đến dự, họ thấy phương pháp của ngài
rất hay, khen chí tình. Những năm kế tiếp là 54, 55, 56, 57, công việc hoằng
pháp trở nên dày đặc, ngày nối ngày với việc nối tiếp mà môn nào cũng phải gia
tâm làm tận lực. Năm 1955, ngài bắt đầu soạn Phật học phổ thông làm sao
cho dễ hiểu, giúp người mới học Phật lãnh hội nhẹ nhàng. Mỗi bài có dàn bài
chi tiết kỹ lưỡng. Ban đầu đem dạy cho học tăng, từ lớp sơ đẳng tới trung đẳng
với từng cahier bài chưa đóng tập, mỗi khóa 10 bài. Khi dạy ấy, ngài Thiện Hoa
nhằm huấn luyện người có khả năng để những năm sau sẽ đi giảng các tỉnh. Rốt
cuộc đi tới nguyện ước, thì chỉ có quý Thầy Thanh Từ, Huyền Vi, Từ Thông,
Thiền Định, Quảng Long, Chính Tiến đi giảng có kết quả khả quan vì quý Thầy
này đã tốt nghiệp Trung đẳng Phật học, tuổi lớn, tiếp nhận bài học, diễn nói
vững chãi. Thế là từ năm 1956, ngài Thiện Hoa lập Giảng sư đoàn cử đi giảng
Phật học phổ thông ở các tỉnh Nam
phần. Đây là việc phổ biến giáo lý khắp các tỉnh cho đồng bào Phật tử có tính
chất quy mô sâu rộng. Các kỳ giảng Phật học phổ thông được lên lịch kỹ
càng với vị trí địa điểm, giảng sư lưu động mỗi nơi giảng hai tuần rồi sang
tỉnh khác. Người hăng hái chuẩn bị phép tắc cũng như lo liên hệ hiệu trưởng
các trường trung học hoặc tiểu học từng trú xứ trong các tháng nghỉ hè, là
ngài Thiện Bình, trụ trì chùa Thiên Phước, Cai Lậy. Ngài là cán bộ đặc biệt
thừa lịnh hai thầy Thiện Hòa và Thiện Hoa trong mọi công việc Giáo hội. Ngài
Thiện Bình (1903-1993) vào học Ấn Quang năm 1951, vì tuổi lớn nên ngài Thiện
Hoa giao chức Tri khố. Sau thời gian học, ngài được điều đi làm Phật sự như
vừa nói. Hai thầy Huyền Vi và Thanh Từ thường đi song song từng nơi mà giảng,
còn thầy Từ Thông và Thiền Định thì đi riêng. Hai thầy Quảng Long và Chính
Tiến thì đi một hai nơi rồi nghỉ vì hai thầy nói giọng Bắc, đồng bào Nam Kỳ
nghe không được. Các buổi giảng còn có chiếu phim thời sự Phật giáo nên tạo
được không khí rộn ràng, sôi nổi. Đây là lần đầu tiên, lâu đời tới nay mới có
cuộc diễn giảng Phật pháp rộng lớn và đem đến cho mọi người nguồn giáo lý mới
lạ, đầy hấp dẫn, dễ nghe, nên các buổi giảng dù ít cũng không dưới 200 người,
còn thì từ 3, 400 trở lên. Do vậy, mượn các trường học có sân rộng, giảng ban
đêm mát mẻ, đèn sáng, âm thanh tốt. Có nơi Tỉnh trưởng cũng đi nghe, sẵn sàng
cho mượn hệ thống âm thanh, loa phát rất tốt. Sự đón rước giảng sư rất long
trọng. Cuộc giảng Phật học phổ thông thành phong trào có thế mạnh dần
từ đầu và về sau còn kéo dài suốt mấy năm. Thành công trong việc giảng Phật
học phổ thông này coi như thành quả đầy khích lệ cho công việc hoằng pháp
của GHTGNV. Quần chúng nghe hiểu giáo lý Phật càng nhiều, ở khắp nơi họ trở
thành tín đồ có hiểu biết lịch sử, giáo lý rành, từ đó quy y theo Phật càng
đông. Các Tỉnh hội Phật học Nam Việt, số hội viên cũng tăng lên. Các chùa hội
quán lần lượt được xây cất. Bấy giờ có những nơi rất nhu cầu về trụ trì.
3- Khóa huấn
luyện trụ trì đầu tiên đặt tại chùa Pháp Hội, Dược Sư:
Từ kỳ nhập hạ
1957, ngài Thiện Hoa mở khóa huấn luyện trụ trì ở hai trú xứ chùa Pháp Hội và
chùa Dược Sư. Từ đó trở đi, hàng năm đều mở hai khóa trụ trì vào mùa kiết hạ
và kiết đông. Khóa Tăng thu nhận 30 vị, khóa Ni 50 vị. Mục đích khóa này là
cung cấp toàn diện kiến thức về diễn giảng, về nghi lễ của Giáo hội cho đông
đảo Tăng Ni từng xuất thân lớp sơ đẳng Phật học đường, hay những vị Tăng Ni từ
khi đi tu xuất gia, nhưng chưa có cơ hội học qua trường lớp giáo lý. Những vị
tốt nghiệp khóa trụ trì này được Giáo hội bổ nhiệm đi trụ trì các chùa do Hội
Phật học mới xây cất ở các nơi, hay các chùa do chủ chùa cúng lại cho Giáo
hội, như chùa Giác Sanh ở Phú Thọ, Ni sư già yếu mà chùa thì cất và lưu truyền
trên 100 năm, nay Ni sư cúng lại cho Giáo hội quản cố. Giáo hội đã cử Thầy
Thiện Thành, tốt nghiệp khóa trụ trì đầu tiên đến trụ trì, và Ngài trụ nơi ấy
đến khi viên tịch. Cũng có nhiều vị xuất thân từ khóa huấn luyện trụ trì, về
sau thành giảng sư nổi tiếng. Chương trình học bao gồm phương pháp diễn giảng,
tổ chức hành chánh, nghi thức truyền Tam quy Ngũ giới, Bát quan trai, nghi lễ
theo Giáo hội tức đơn giản không như xưa, tán tụng trống đẩu quá nhiều, giáo
lý, lịch sử Phật Tổ đều được giảng, cả đến bộ Lăng Nghiêm, Duy Ma Cật cũng
được giảng tóm tắt. Giáo sư gồm ngài Thiện Hoa là chủ giảng, còn có quý ngài
Thiện Hòa, Huệ Hưng, Thiền Định. Học viên mãn khóa trở về trú xứ, rồi khóa hai
lại trở lên dự học, hai năm là 4 khóa tốt nghiệp.
Năm 1959, khóa
huấn luyện trụ trì được dời về chùa Tuyền Lâm, đường Lục Tỉnh, đổi tên là khóa
Như Lai sứ giả. Mấy khóa huấn luyện ấy đã cung cấp đủ nhu cầu, sau đó không
còn mở tiếp. Khóa Như Lai sứ giả khi mới nghe tên này, nhiều người thấy nó lớn
quá, nhưng ngài Thiện Hoa nói, tại sao lại ngần ngại. Chúng ta là Tăng sĩ,
người hành Như Lai sự, tác Như Lai sứ là đúng rồi. Chí hướng chúng ta là hoằng
truyền giáo pháp Phật Tổ, làm cho ánh sáng trí huệ Phật pháp rực sáng giữa
cuộc đời đầy đau khổ, như thế chúng ta là trưởng tử Như Lai, phải hành Như Lai
sự, tác Như Lai sứ thì đó là hạnh nguyện sung mãn rồi. Từ đó, ngài viết câu
châm ngôn cho học viên ghi lòng rằng: “Con nguyện hiến thân cho đạo pháp, nơi
đâu đạo pháp cần, chúng sanh cần thì con đến. Chẳng kể gian lao, không từ khó
nhọc”.
4- Thiết lập
kinh tế tự túc nhà chùa:
Ngài Thiện Hòa
thấy việc in kinh, luật, luận, sách cần xuất bản ngày càng nhiều, thì chỉ có
việc lập nhà in thì mới tiện lợi. Do đó, Ngài quyết định lập nhà in ngay phía
sau nhà Tổ Ấn Quang. Công việc in theo lối xưa thật là bề bộn, nào sắp chữ, đổ
bản chì, vỗ phông v.v..., thợ thì chọn Minh Đức, Thiện Thắng và mấy huynh đệ
nữa đi lên nhà in Thạnh Mậu học
sắp chữ. Thế là tháng 5 năm 1954, máy in được lắp vào vị trí và bắt đầu hoạt
động hết sức náo nhiệt, máy chạy ồn ột suốt nghe kích thích lạ, làm như ai nấy
nghe máy nhắc mình siêng năng hơn. Giàn máy này cổ lỗ, hiệu MARINONIE của
Pháp, đâu cũng mấy chục năm, nhưng còn xài được khá, do
nhà in Thạnh Mậu bán lại giá rẻ vì nhà in này sắp trang bị
giàn máy tối tân của Nhật (nhà in này lập năm 1927 ở miệt cầu Băng Ky, Gia
Định, chủ nhân là bà Thạnh Thị Mậu, hồi ấy chuyên in sách Phật, mãi đến sau
này đổi thành nhà in Hạnh Phúc,
khi này in ra mới đẹp, sáng tỏ; trước kia thì in lem nhem).
Ngài Thiện Hòa đặt
tên là Nhà in Sen Vàng, từ đó kinh, luận do ngài Thiện Hoa dịch đều in nơi đây
và còn lãnh in nhiều sách khắp nơi cho khách hàng. Giàn máy Marinonie chạy một
lần 16 trang khổ vừa, 6 năm sau thì giàn máy này cho hưu. Khi này năm 1959,
ngài Thiện Hòa bổ nhiệm thầy Tắc Phước làm quản đốc nhà in, nên suy tính công
việc, thầy cho mua máy Yoda của Nhật, hai ba máy chạy lẹ, in mau đẹp, lời hơn
in kiểu cũ. Bấy giờ sắp chữ xong là đặt lên in luôn, rồi trả chữ vào ngăn,
không còn lối vỗ phông, đổ chì như xưa nữa. Bấy giờ công nhân tay nghề giỏi
đều thuê các anh chị người đời làm cả, nào in, nào sắp giấy, đóng cắt may họ
đều làm tất. Tăng sĩ chỉ mình thầy Tắc Phước quản lý mọi thứ. Sau cử thầy Minh
Thành quản lý xưởng Bồ Đề Hương, Thầy Phước Định quản lý xưởng Vị trai Lá Bồ
Đề.
Từ năm 1957, ngài
Thiện Hoa đặt Nhà Xuất bản Hương Đạo rồi mở phòng phát hành kinh sách Ấn
Quang, phòng này do chư Tăng Ấn Quang trực tiếp điều hành, gởi sách đi phát
hành khắp nơi. Thầy Thanh Viên là chính, coi ngó mọi công việc bên ấy. Hồi đầu
khi nhà in mới lập, giấy in ra phát cho mỗi học tăng một xấp vài trăm tờ, ngồi
xếp theo cahier, các học tăng ngoại trú
chủ nhật đi làm công việc ở Phật học đường Ấn Quang, nơi mình học, như
quét lau phòng, bàn, xếp giấy, lau sàn nhà v.v... Năm 1957, thầy Thiền Định,
trưởng ban in kinh sách chữ Hán như Lăng Nghiêm, Thập Thiện,
cung cấp kinh cho học chúng học, thầy đem bộ kinh vô Chợ Lớn mướn nhà in Tàu
in, thầy đặt tên là Ban ấn hành Phật điển giáo khoa. Việc này được nhiều anh
em hưởng ứng vì tốn tiền không mấy mà có kinh để học, khỏi chép quá mất thì
giờ, và cũng in nhiều bản để phát hành như Sa di luật giải, Nhị khóa hiệp
giải, Lịch sử Phật, Trung đẳng, Sơ đẳng Phật học giáo khoa thư v.v...
nhưng cũng không dễ mua, nên phần đông học kinh chữ Hán là phải chép trước,
hoặc có những bộ kinh in bằng bột, tức viết chữ Hán trên giấy pelure bằng mực
policopie tím đậm rồi nhồi bột nếp với dầu hôi, vừa đặc đặc thì in giấy pelure
vào cho thấm, gỡ ra, khi ấy có một trang kinh, đặt tờ pelure fort vào vuốt
nhẹ, gỡ là được một trang kinh. Cứ thế, in chừng 20 bản là mờ, nhồi bột lại in
trang khác.
5- Công việc mở
mang giáo dục Tăng già - lập các Phật học đường:
Chi nhánh của Phật
học đường (PHĐ) Nam Việt là PHĐ Phước Hòa (Trà Vinh), Giác Sanh, Pháp Hội,
Bình An (Long Xuyên), Lưỡng Xuyên (Trà Vinh), Từ Nghiêm (Ni), Giác Nguyên...
Một trong những công việc hệ trọng của GHTGNV là tạo dựng các PHĐ đào tạo Tăng
tài, gồm cả PHĐ cho Ni chúng. PHĐ Nam Việt được thành lập năm 1950 tại chùa
Sùng Đức, cuối tháng 7 âm lịch năm Canh Dần 1950, dời lớp sơ đẳng xuống Ứng
Quang, tháng 10 dời toàn bộ hai lớp trung và cao đẳng xuống đây. Ngài Thiện
Hòa được Hội đồng Giáo thọ bầu cử lên chức Giám đốc PHĐ Nam Việt từ năm 1951,
vì ngài là người có tinh thần kiên nhẫn, hòa được với hết thảy mọi người cộng
tác dù Bắc hay Trung, Nam.
Vả lại, khi ấy ngài lớn tuổi hơn hết trong các vị giáo thọ, lại là người sinh
trưởng tại Nam
phần. Trong sự thiết lập thành PHĐ Nam Việt này thì thầy Trí Hữu đã đem chùa
Ứng Quang của mình hiến cho 7 vị (và ngài giữ một chân) là các Pháp sư: Thiện
Hòa, Quảng Minh, Huyền Dung, Nhật Liên, Quảng Liên, Trí Minh và Trí Hữu. Khi
ấy, Pháp sư Nhật Liên đề nghị hai việc là cử ngài Thiện Hòa làm Giám đốc, và
đổi Ứng Quang ra Ấn Quang, có nghĩa là Tổ ấn trùng quang. Đề nghị ấy được Ban
Giáo thọ chấp nhận thông suốt. Từ 1950, PHĐ Nam Việt đã mở 3 cấp: sơ, trung và
cao đẳng. Những năm đầu 1950, 1951, 1952, 1953, giáo thọ dạy đầy đủ, Phật sự
chưa nhiều lắm nên có thì giờ dạy đều, nhất là ngài Thiện Hòa hàng tuần dạy
gần như bữa nào cũng có giờ dạy từ lớp sơ đẳng đến trung đẳng. 1952-1953, lớp
sơ đẳng Ni giới tại chùa Từ Nghiêm, Dược Sư cũng được mở, ngài Thiện Hòa cũng
đến đó dạy. Năm 1953, có thêm ngài Thiện Hoa đến dạy. Coi như hai nơi ấy là
chi nhánh đầu tiên của PHĐ Nam Việt. Năm 1953, mở chi nhánh PHĐ Nam Việt lớp
sơ đẳng tại chùa Bình An (Long Xuyên), nhưng được vài tháng thì giải tán vì
gặp khó khăn ở vùng Hòa Hảo ; cũng năm 1953 mở chi nhánh PHĐ Nam Việt tại chùa
Pháp Hội dạy tiếp lớp của chùa Bình An. Lớp sơ cấp này có 40 người tốt nghiệp
cuối năm 1954. Năm 1956, mở chi nhánh PHĐ tại chùa Phước Hòa tỉnh Trà Vinh dạy
6 năm. Ban Giám đốc điều khiển chi nhánh này lần lượt có: thầy Tịnh Đức, thầy
Trường Lạc, kế có thầy Thanh Từ, thầy Hồng Tịnh, kế có thầy Hoàn Quan, thầy
Bửu Lai. Cũng năm 1956, mở lớp trung đẳng cho chư Ni tại chùa Dược Sư. Năm
1958, mở lớp sơ đẳng cho Ni chúng tại chùa Tăng Già (chùa Kim Liên - Q4) ở
Vĩnh Hội và mở lớp sơ đẳng cho chúng Tăng tại chùa Phật Ân (Mỹ Tho) và chùa
Phật học Biên Hòa. Năm 1959, khi đi giảng Phật học phổ thông ở Trà
Vinh, thầy Từ Thông thấy cơ ngơi của trường Lưỡng Xuyên còn sử dụng được nên
Thầy phát nguyện mở lớp sơ đẳng 3 năm tại đây và được thầy Thiện Hòa chấp
thuận; năm 1960, mở chi nhánh PHĐ tại chùa Giác Sanh (Phú Thọ). Điều khiển
trường này do các thầy Thiện Nghị, Liễu Minh, Minh Thành và một số các vị
khác. Vì nơi đây lên xuống Ấn Quang khá gần nên có nhiều thầy đến dạy, trông
coi học chúng.
6- Những cải tổ
tại PHĐ
Nam
Việt:
Từ năm 1954, 1955,
1956 có nhiều biến chuyển bên ngoài, như Hiệp định Genève, đình chiến, tạm
chia hai miền. Tăng chúng cũng có nhiều suy nghĩ, khuynh hướng học văn hóa trở
thành một nhu cầu. Dịp may khi ấy, năm 1954, ngài Nhất Hạnh đến trụ nơi PHĐ
Nam Việt để theo học chương trình cử nhân văn khoa, Đại học Văn khoa Sài Gòn,
nên ngài đã đề nghị ngài Thiện Hòa, Thiện Hoa sửa đổi toàn diện chương trình
học nơi đây. Do được hai thầy chấp nhận cho nên thầy Nhất Hạnh đã mạnh dạn
lập ra chương trình đào tạo mới, tức cho học văn hóa lớp 6, 7, 8, 9, 10,
11, 12 ban đêm hoặc ngày học xen giáo lý, dạy toàn chữ Việt. Chương trình này
rất thiết thực vì trình độ văn hóa khá thì học tăng mới có khí cụ sắc bén để
đi vào chính lý Phật pháp dễ dàng. Hai lớp trung và cao đẳng đã tốt nghiệp 53,
54. Như vậy, lớp sơ đẳng hồi này chia làm hai lớp bổ túc A và bổ túc B. Đến
cuối năm 1957 thì số học tăng bổ túc A, tức học hai chương trình lớp 7 và 8
xong, Ấn Quang mới gởi một số vị ra học ở Phật học viện Hải Đức (Nha Trang),
vì ngoài ấy có trường Trung học Bồ Đề gần Phật học viện, học tăng đi học và ở
Phật học viện ban đêm học kinh rất tiện. Các học tăng được gởi ra đó, mỗi
người được trường đài thọ tiền cơm là 200 đồng, như thầy Thắng Hoan, Đức Niệm,
Từ Mãn, Minh Hiện, Thiện Phú, Hồng Huệ v.v... Trí Không, Trí Hòa không ra Nha
Trang được, thì ở lại học trường tư đô thành hoặc nơi nào có duyên với trường
công mà theo học chương trình ngoại điển. Từ năm 1958 trở đi, PHĐ Nam Việt
không còn lớp chuyên dạy nội điển như cũ. Các học tăng tốt nghiệp sơ đẳng các
Phật học viện chi nhánh khi lên Ấn Quang thì được tiếp tục đi học chương trình
ngoại điển ở các trường BĐ hoặc trường trung học công lập hay tư thục. Nhiều
vị đã đậu tú tài, lên đại học hay xuất dương du học về sau như thầyTrí Sanh,
thầy Đức Niệm, thầy Trí Quảng, thầy Tịnh Hạnh...
* Từ năm 1949 ở
Huế đã thiết lập trường BĐ tức trường do Giáo hội quản lý làm chủ, dạy
theo chương trình nhà nước, hàng tuần có dạy giáo lý, giáo sử PG cho học sinh,
phần đông là con em Phật tử, có những em nghèo khó được miễn phí. Vị hiệu
trưởng là vị Tăng già có văn bằng đã tốt nghiệp chương trình học của quốc gia.
Từ ấy, một số tỉnh miền Trung lần lượt mở trường Bồ Đề cho Tỉnh hội cai quản.
Tại Nam phần, đô thành Sài Gòn, ngài Thiện Hòa mở trường Bồ Đề đầu tiên đặt
tại chùa Giác Ngộ, đường Nguyễn Chí Thanh hiện nay, dạy từ lớp Một trở lên.
Hàng tuần có quý thầy được cử đến dạy giáo lý. Trường này mở năm 1959, do ngài
Quảng Liên làm Hiệu trưởng (ngài về nước năm 1957 và năm 1960 ngài lại đi Mỹ
du học nên thầy Quảng Chánh được thay vào làm Hiệu trưởng). Lần lượt các tỉnh
Nam phần đều có mở trường trung tiểu học Bồ Đề gần trụ sở Giáo hội hay trụ sở
Hội Phật học tỉnh, theo mô thức trường Bồ Đề Trung ương Sài Gòn. Sau năm 1963
thì nhiều trường BĐ tỉnh được mở ra như
trung học Bồ Đề Long Xuyên, Long Khánh, Vĩnh Long, Long An, Bồ Đề
Nguyễn Văn Khuê Sài Gòn, Mỹ Tho, Bến Tre, Chợ Mới (An Giang) v.v..., sách giáo
khoa cho chương trình Phật pháp áp dụng ở các trường Bồ Đề cũng được ngài
Thiện Hoa cộng tác với cư sĩ Võ Đình Cường biên soạn kỹ lưỡng, từ đệ thất, đệ
lục, đệ ngũ và đệ tứ của chương trình trung học. Trường Bồ Đề cũng là một hình
thức hoằng pháp nhưng chuyên ngành về giáo dục, nuôi dưỡng tâm Bồ đề cho thanh
thiếu niên gốc Phật tử hay không Phật tử cũng tốt cả, có nhiều em là học sinh
Bồ Đề, rồi trở thành đoàn viên Gia đình Phật tử, ở đô thành hay ở các tỉnh.
Gia đình Phật tử
(GĐPT) là một tổ chức giáo dục con em Phật tử bằng hình thức sinh hoạt hàng
tuần, giống hình thức Hướng đạo sinh. Tổ chức này ra đời ở Huế vào những
năm 1940, lần lượt phát triển ở khắp nơi. Tại Nam phần, GĐPT Chánh Giác là
đầu tiên được thành lập năm 1951 tại chùa Phật Quang (Chợ Lớn) của thầy Huyền
Dung. Kế tiếp có các GĐPT Chánh Đạo, trụ sở (đoàn quán) đặt tại chùa Xá Lợi.
Lần lượt các tỉnh đa phần đều có GĐPT sinh hoạt như Trung ương. Bên trên Ban
điều hành sinh hoạt có Gia trưởng thường là vị Hội trưởng Hội Phật học hay
thành viên Hội Phật học, và có vị Tăng làm Cố vấn giáo lý, hàng tuần dạy giáo
lý, sau khi các em ca hát sinh hoạt. Cách năm thường mở khóa huấn luyện huynh
trưởng, Giáo hội cử một vị Tăng già đến phụ trách phần giáo lý cho họ. Các
GĐPT đông đảo đoàn viên thường đồng phục màu lam trông rất đẹp mắt, thuần hậu,
khả ái ; họ sống theo khẩu hiệu Hòa thuận, tin yêu, vui vẻ, đạo tình phát
triển sâu đậm, giữa chị trưởng đoàn viên và huynh trưởng đoàn viên. Các lễ lớn
như Phật Đản, Vu Lan, các GĐPT góp phần quan trọng làm cho lễ thêm trang
nghiêm, lôi cuốn với tràng hoa, hàng ngũ, tụng niệm, trang hoàng trật tự,
trình diễn văn nghệ mừng lễ, mọi việc ấy làm cho sắc diện Phật giáo khắp nơi
có những cái mới, lôi cuốn được quần chúng, cũng là một cách hoằng pháp chuyên
ngành, dành cho lứa tuổi thanh thiếu niên. Nhiều em thuở bé đi GĐPT mà lớn lên
thành bậc xuất gia hoặc người cư sĩ rất có tư cách dạn dĩ, trật tự, siêng
năng, giỏi giắn. Khởi thỉ tổ chức này có tên là Gia đình Phật hóa phổ, xuất
phát ở Huế.
7- Công việc
kiến thiết tự viện của GHTGNV:
Khởi đầu là kiến
thiết chùa Ấn Quang, là trụ sở của GHTGNV, khởi thỉ chỉ là một ngôi nhà lá
vách cà tàng, cửa nẻo đơn sơ, và chu vi chật hẹp. Từ khi xuống đây, với chức
vụ Giám đốc, ngài Thiện Hòa đã vận động kết quả khả quan nên trước là nới rộng
khuôn viên chùa, trường, điều đình chi tiền cho một số nhà lá ở sát cạnh dời
đi nơi khác. Cứ thế mà nới rộng, một căn nhà thuở ấy chỉ vài chục ngàn là có
thể dọn đi nơi khác, cất chỗ khác dễ dàng. Đầu tiên là xây dãy nhà phía trái
(từ ngoài ngó vào) 8 x 14m làm lớp học, phòng ở, lợp ngói tự chế là từng miếng
hình vuông 4 tấc bằng xi-măng mỏng, vách sườn nhà bằng gỗ, nền tráng xi-măng,
ngăn thành lớp học và phòng Giáo thọ. Ngôi nhà này hoàn thành chỉ hơn một
tháng xây cất, người góp tịnh tài nhiều nhất qua cuộc vận động là bác sĩ tại
gia đệ tử đầu tiên của HT Thiện Hòa, bác sĩ Cầm, làm Giám đốc Sở Vệ sinh Chợ
Lớn. Từ khi cảm mến đức độ ngài Thiện Hòa, hai vợ chồng phát tâm quy y, hàng
tuần chiều thứ bảy là hai ông bà
lại đến giảng đường Ấn Quang nghe ngài Thiện Hòa giảng Phật pháp. Ông bà hết
sức chăm chỉ, siêng lo Phật sự, không hề vắng một buổi nghe pháp nào. Do ảnh
hưởng uy tín của ông bà mà một số gia đình quen thân với hai người đã quy y
với ngài Thiện Hòa, tạo nên quy củ thiện tín ngoại hộ hết sức đắc lực cho PHĐ
Nam Việt buổi sơ khai này, công đức thật cao thượng.
Qua năm 1952, ngài
Thiện Hòa vận động tài chánh xây dãy nhà bên phải. Ngôi nhà này lợp ngói
vuông, tường gạch khang trang, xong ngôi nhà này thì ngài Thiện Hòa lo xây
chánh điện có mẫu giống chùa Từ Đàm (Huế). Chánh điện khánh thành năm 1953 (rằm
tháng 7 âm lịch). Ngày 8-3-1953, lễ suy tôn Pháp chủ Huệ Quang được tổ chức
cực kỳ long trọng, lễ diễn ra nơi ngôi nhà Tăng vừa xây nên trở thành trang
nghiêm. Phía hậu phông, ngài Nhựt Liên cho vẽ cảnh núi rừng với mai vàng, ý để
nhắc tới núi Huỳnh Mai Ngũ Tổ là nơi truyền y bát mà ngài Huệ Năng thành Lục
Tổ, mở mạnh nguồn thiền đầy chất hiện thực sinh khí Trung Quốc. Khi lễ diễn
ra, Thầy Bửu Huệ (1914-1992) tốt nghiệp lớp cao đẳng Ấn Quang, đã long trọng
dâng lên HT Huệ Quang y, hậu và ấn, giúp HT mặc y, hậu, tọa trên lễ đài. Bên
ngoài cờ năm sắc treo hai dãy từ chùa Ấn Quang ra tới ngã ba Vườn Lài, gối đầu
vào đường Pasquier là cổng quyền môn với đỉnh nhọn cao ngất. Từ đó, cờ năm sắc
giăng tủa xuống, chính giữa đề hàng chữ thật hùng vĩ: LỄ SUY TÔN PHÁP CHỦ.
Vùng này hãy còn toàn nhà lá, và đường Lorgeril thuở đó lồi lõm, không có điện
nước. Thế nên khung cảnh buổi lễ với trang trí sáng ngời cờ xí chập chùng,
banderol giăng ngang nhiều bức, làm cho toàn khung cảnh nổi lên kỳ lạ hấp dẫn,
vì từ xưa giờ chưa hề có cuộc lễ vĩ đại tôn nghiêm như thế. Sau ba cơ ngơi đã
hoàn tất thì cất nhà Tổ vào năm 1955. Khi ấy, với cơ ngơi vừa hoàn thành, PHĐ
Nam Việt và trụ sở GHTGNV đã như tự gánh lấy nhiệm vụ vinh quang là chùa bản
doanh, chùa gốc vì có các chi nhánh PHĐ, hình thế PHĐ Nam Việt như cánh tay
vươn tới các tỉnh, như quả tim cung cấp máu, hồng huyết cầu cho sinh hoạt khắp
các tỉnh. Hội Phật học hoạt động từ năm 1957 trở đi có tính chất riêng cho cư
sĩ, vì từ năm ấy, ông Chánh Trí Mai Thọ Truyền làm Hội trưởng suốt cho đến khi
ông viên tịch năm 1973, nhưng mọi việc làm bên Hội Phật học đều có sự phối hợp
với GHTGNV. Bên trên Hội vẫn có vị Chứng minh Đạo sư Tăng già lãnh đạo tinh
thần. Từ 5-10-1953 đã triệu tập phiên họp quan trọng tại trụ sở Giáo hội dưới
quyền chủ tọa của HT Pháp chủ Huệ Quang, giữa Giáo hội và Hội Phật học để
thống nhứt các sự việc quan trọng gồm trong bốn mục là: 1- Góp ý thảo luận và
quyết định Phật sự quan trọng; 2- Giải quyết mọi thắc mắc giữa hai bên khi có
sự việc xảy ra ở Trung ương cũng như tỉnh; 3- Khi tập đoàn này phối hợp ra
quyết định thì cấp dưới phải triệt để thi hành; 4- Tập đoàn này có tư cách
lãnh đạo tối cao cho hết thảy Phật sự. Tập đoàn cử bốn đại biểu phối hợp: hai
Tăng già, hai cư sĩ bên Hội Phật học. Ban này họp bất thường khi có sự việc.
Ngài Tổng Thư ký đệ trình công việc Giáo hội hàng tháng cho đức Pháp chủ Huệ
Quang, cũng như thỉnh ý họp phiên bất thường này. Thế nên khi Hội Phật học đưa
ý kiến xây cất chùa Xá Lợi, làm trụ sở cho Hội, cũng là nơi tôn trí xá lợi
Phật thì GHTGNV và Hội Phật học đã cổ động khắp nơi, từ các tỉnh đến đô thành.
Chùa Xá Lợi bắt đầu xây cất từ năm 1956, năm sau thì hoàn tất. Đây trở thành
ngôi chùa khang trang, nằm giữa đô thành hoa lệ. Hết thảy là do ông Chánh Trí
Mai Thọ Truyền trực tiếp thu xếp sơ đồ kiến trúc bố trí toàn khu vực, trực
tiếp trông coi việc xây cất. Như thế, chùa Xá Lợi của Hội Phật học nhưng trong
đó, Giáo hội Tăng già đã lãnh đạo, đã biến thành đạo tràng cho tất cả Phật tử.
Hàng tuần, Giáo hội đều có cử giảng sư đến giảng Phật pháp.
Nghi thức trang
trí, tôn thờ trong chánh điện Ấn Quang hay ở các Hội Phật học mới xây cất đều
có mẫu giống nhau là thờ một vị Phật, tức Giáo chủ Gautama
ngồi cội bồ đề. Sát bàn thờ là tòa cao hơn sàn gạch phía dưới, đấy là nơi vị
chủ lễ hành lễ với chuông mõ hai bên. Việc đề xướng thờ một vị Phật này xuất
phát từ Huế với An Nam Hội Phật học năm 1933. Đây là lối thờ phụng có tính cải
cách, khác với chùa xưa là chùa thờ Tam thế Phật, và nhiều vị Bồ Tát hàng lớp
cấp bực từ trên xuống. Hai bên là thờ Thập thiện, ngoài là Hộ pháp, có thể nói
chùa xưa thờ tổng cộng cả 5, 6 chục tượng Phật, Bồ Tát, Thánh Tăng. Bây giờ
chỉ độc tôn một vị Giáo Tổ thôi, do vậy chánh điện toát lên vẻ trang nghiêm
hùng vĩ, đáp ứng được nhu cầu tâm linh thời đại về tín ngưỡng, dễ thu hút lòng
tin khi chiêm bái, hành lễ, tạo được sự chú mục tập trung. Các pho tượng Phật
này đều được chăm sóc nghệ thuật tuyệt diệu. Pho tượng Bổn
sư thờ nơi chánh điện chùa Ấn Quang do ông Trương Đình Ý đắp,
ông là một kiến trúc sư tốt nghiệp Trường Mỹ thuật Đông Dương và là một Phật
tử trung kiên, thọ Bồ tát giới, trường chay. Đắp tượng là phát xuất từ cảm xúc
sâu đậm, xuất phát tự đáy sâu cõi lòng. Có như thế, pho tượng mới bốc tỏa một
vẻ tươi mát tôn nghiêm khó diễn tả.
Trong chiều hướng
phát triển nơi đào tạo Tăng tài ấy, ngài Thiện Hòa có nhiều suy nghĩ kiến tạo
cơ ngơi có đủ bề thế cho lĩnh vực tu học của Tăng Ni nên ngài nghĩ đến những
đại tòng lâm của thuở xưa và quyết định nhanh trong ý nghĩ đó, ngài đã đi Bà
Rịa kiếm đất và ngài đã khẩn 100ha đất nay là Đại Tòng Lâm này, hồi ấy
nơi đây hoàn toàn hoang vu, đó là vào năm 1956. Từ đó bắt đầu khai phá, công
việc tiến triển chậm vì chiến tranh, vì thiếu tài chánh, chỉ làm sáng bộ mặt
bên ngoài gần lộ, làm lễ phòng ranh, tức đặt cổng đi vào chính thức ngày nay.
Còn các cơ ngơi khác đều kiến thiết kế tiếp như cô nhi viện Diệu Quang, ở
xã Bình Chánh; lò thiêu, tháp Phổ Đồng, chùa Huệ Nghiêm (năm 1964 trở đi,
lớp trung đẳng chuyên khoa mở tại đây là lớp chuyên về nội điển, năm 1969 biến
thành Viện Cao đẳng Phật học Huệ Nghiêm và chánh điện ngày nay là do thầy Minh
Phát, đệ tử cố HT Thiện Hòa xây cất). Trong thời gian xây cất các chùa trước
năm 1963, ngài Thiện Hòa còn tái thiết chùa Giác Ngộ, chùa Tuyền Lâm, đó là
các chùa được cúng vào GHTGNV. Sau năm 1963, trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Thống nhất (GHPGVNTN), HT Thiện Hòa giữ chức Trưởng ban Kiến thiết. Năm 1969,
ngài trùng tu lại ngôi chánh điện Ấn Quang hiện nay. Kiến trúc này do
ngài phác họa tỉ mỉ từ ý thức dung hòa Á-Âu, Nam phương Bắc phương PG, hai
cổng vào trên nóc có hình Đại tháp Bồ Đề. Mỗi hình tượng chạm trổ tinh vi đều
biểu lộ các sự việc ý nghĩa từ nguyên thỉ gốc Ấn Độ. Năm 1957, HT đi dự lễ
Phật Đản ở Đông Hồi, qua Thái Lan và nhiều nước, mỗi nơi ngài quan sát sự kiến
trúc của mỗi xứ, nên khi trở về, lúc tái thiết ngôi chánh điện này, Ngài đã vẽ
ra và thực hiện những gì mình suy nghĩ chọn lọc tinh túy mỗi nơi kia. Do vậy,
ngôi chánh điện ngày nay, trong chừng mực nào đó, ta có thể nói nó đã bộc lộ
trọn được tinh thần dung hợp Nam-Bắc tông PG hết sức uyển chuyển. Ngôi chùa Ấn
Quang ngày nay tự nhiên có dáng dấp độc đáo, không hề có ngôi chùa nào tương
tợ như vậy trước nó. Như vậy, qua hai lần kiến thiết, từ ngôi nhà lá thuở ban
sơ mà ngày nay Ấn Quang trở thành vẻ tráng lệ đặc biệt của tinh thần dung hợp
Bắc-Nam thật quý báu.
8- Các Phật sự
khác từ 1951 đến 1963:
Năm 1952, trên
đường đi dự Hội nghị PG Liên hữu Thế giới, phái đoàn Sri Lanka đi bằng tàu
thủy, có đem theo xá lợi Phật và cho hay sẽ ghé cảng Sài Gòn trong 24 giờ, các
Phật tử Việt Nam có thể cung nghinh xá lợi Phật lên bờ để chiêm bái. Được tin
ấy, GHTGNV và Hội Phật học Nam Việt gấp rút tổ chức lễ cung nghinh thật rầm
rộ, vĩ đại chưa từng có, đúng là nghìn năm một thuở, như lời kêu gọi tham dự
lễ cung nghinh do Ban Trị sự Tăng già phát đi khắp nơi. Vai trò chính lo điều
hành, mượn địa điểm là ông Chánh Trí Mai Thọ Truyền. Ông là người thông thạo
việc tổ chức và quen biết các quan lớn trong bộ máy Nhà nước. Ông đã xin mượn
Câu lạc bộ Đông Dương (mà dân quen gọi là Nhà Kiếng) làm nơi tôn trí xá lợi.
Đây là một hội trường vĩ đại so với bấy giờ, tọa lạc tại vườn Tao Đàn ngày
nay, vô cùng thuận lợi cho lễ cung nghinh. Nhanh chóng, ông chỉ huy sắp xếp
một chánh điện tạm nhưng đầy vẻ uy nghi, hùng vĩ, ấy là do tham khảo ý kiến
Thượng tọa (TT) Tổng Thư ký GHTGNV, ngài Nhựt Liên. Bao lam tạm từ dưới trông
lên là hàng chữ hùng vĩ KIM CANG ĐẠI ĐỊNH. Bốn chữ ấy lần đầu xuất hiện làm
bao lam tạm mà lại vô cùng có ý nghĩa, gieo vào lòng thiện tín, Tăng đồ biết
bao cảm xúc. Đám cung nghinh này có mười mấy đoàn thể Phật tử, không phân biệt
hệ phái, chủng tộc, cả đô thành và các tỉnh, ước chừng 5.000 người tham dự,
trang nghiêm linh đình. Xá lợi được tôn trí trên con bạch tượng, xe này do
ngài Đạt Từ y hậu chỉnh tề phụng tống đi đầu rồi phía sau là Tăng già Ni chúng
và Phật tử với banderol, cờ năm sắc trùng điệp nối theo như bất tận, thật là
lễ cung nghinh xứng đáng, làm hoan hỷ hết thảy tình cảm thiêng liêng mà hết
thảy Phật tử dành cho đức Gautama. Suốt đêm ngày, người người lũ lượt tới
chiêm bái. Sau cùng đến giờ chia tay, xá lợi lại được đưa xuống tàu trực chỉ
Tokyo.
Cũng trong năm
1952 này, một trận hỏa hoạn thiêu rụi 3.000 căn nhà lá bên Khánh Hội. GHTGNV
và chư vị khắp các hội đoàn Phật tử, GĐPT đã lao vào cứu trợ. Lần đầu tiên,
chư Tăng PHĐ Nam Việt túa ra đi phát gạo cứu trợ, giúp đồng bào gom góp dọn
lại nền nhà v.v..., công việc thật hào hứng làm không biết mệt, không kể giờ
giấc. Cũng là lần đầu tiên ở đô thành này, người ta thấy Tăng sĩ ở đâu mà đông
dữ vậy. Rồi sang năm Thìn 1953, trận bão lụt, nước lũ tràn ngập thật sự dữ dội
mênh mông như biển, từ núi Châu Thới đứng nhìn về phía Bắc chỉ thấy mênh mông
biển trời, GHTGNV kêu gọi khẩn cấp cuộc lạc quyên cứu trợ, rồi mang phẩm vật
đi tận nơi an ủi, ban phát cho đồng bào. Ngài Nhựt Liên đáp máy bay ra Phan
Thiết tặng đồng bào bị bão 100.000 đồng.
Năm 1957, lễ Phật
Đản này, Ngô Đình Diệm phế bỏ ngày Phật Đản, tức trong các ngày lễ quốc gia,
không có kể đến ngày lễ Phật Đản. Bấy giờ Tổng hội PG gởi thơ yêu cầu tái lập
vị trí ngày lễ Phật Đản trong danh mục quốc lễ hàng năm. Thấy không chèn ép
được vội nên Ngô Đình Diệm đã ký quyết định cho ngày lễ Phật Đản được cử hành
với tư cách là ngày lễ quốc gia.
9- Phật sự từ
năm 1963 đến năm 1975 và đến nay 1998:
Lễ Phật Đản 1963
bị Ngô Đình Diệm cấm treo cờ năm sắc của PG. Từ đó, Tổng hội PG Việt Nam phát
động cuộc đấu tranh bất bạo động, đòi quyền bình đẳng tôn giáo. Ngày 11-6-1963,
HT Quảng Đức tự thiêu. Biến cố này làm cuộc tranh đấu ngày càng dữ dội hơn
lên. Bề ngoài họ Ngô hứa giải quyết nhưng bên trong là âm mưu trá ngụy nhằm
thủ tiêu PG. Cuộc tranh đấu lan khắp, tình trạng không thể yên lúc nào được vì
dư luận khắp thế giới lên án nhà Ngô bởi bao nhiêu hành động kỳ thị tôn giáo
của họ, thế nên cuối cùng ngày 1-11-1963, quân đội đã lật đổ chế độ Ngô Đình
Diệm, hai anh em chết thảm. Từ đó, PG kết hợp hết thảy mọi đoàn thể lớn lập
thành GHPGVNTN. Danh xưng Giáo hội Tăng già không còn được dùng, mà chỉ có một
Giáo hội là Phật giáo Thống nhất, khắp nơi tỉnh thành đều có Ban Đại diện.
Riêng công việc
của GHPGVNTN thì ngài Thiện Hòa về lĩnh vực kiến thiết vẫn tiến triển, ngài là
Trưởng ban Kiến thiết trong Giáo hội Thống nhất, PHĐ được mở ra nhiều nơi.
Công việc hoằng pháp cũng tiến triển. Nói chung là mọi Phật sự đều tiến mạnh
theo chiều hướng đã phát đi từ trước đó.
Năm 1981, Giáo hội
PG Việt Nam
ra đời đã tạo điều kiện cho PG Việt Nam phát triển.
lKẾT
LUẬN
Lịch sử là con mắt
nhìn thấu suốt tương lai băng qua hiện tại. Do đó, vị trí hoạt động Phật sự
của GHTGNV cũng tồn tại trong dòng lịch sử truyền thừa Phật pháp. Như trình
bày trên, ai cũng có khái niệm sáng tỏ về vai trò duy nhất của GHTGNV trong 13
năm hoạt động. Nhân kỷ niệm thành phố Sài Gòn 300 tuổi, từ năm 1698 đến năm
1998, trong phạm vi PG góp phần làm cho bản sắc dân tộc thêm tươi sáng mọi mặt
trong thời lượng 300 năm qua, để cho chúng ta thấy quá khứ hiển linh và mở
đường đi tới tương lai với nhiều kinh nghiệm quý báu. Bài tham luận này cho
chúng ta biết công việc Phật sự trong thời gian gần đây, 50 năm trở lại, dù
thời lượng ngắn nhưng rất có ý nghĩa lớn lao. Và qua đó, ta cũng biết thêm về
bao nỗi gian khổ, quyết tâm cho tiền đồ PG mà tiền bối đã dũng mãnh phụng sự
chánh pháp và dân tộc. Ngày nay, chúng ta thừa hưởng di sản, là tự thấy trách
nhiệm mình trên ý nghĩa truyền thừa thiệu long thánh chủng, truyền đăng tục
diệm, phụng sự đạo đời và chúng sinh không mệt mỏi.
Sinh hoạt buổi đầu
của Ni giới tại Sài Gòn
THÍCH NỮ NHƯ ĐỨC
Lịch
sử của Sài Gòn cũng là lịch sử chung của những thành phố quan yếu. Mỗi người, mỗi đoàn
thể, mỗi dân tộc sinh sống trên đó đóng góp cho Sài Gòn từng mảng lịch sử
riêng, và tất cả những cái riêng hòa nhập với nhau, kỷ niệm của mỗi đời sống
cùng chảy theo dòng biến động lịch sử.
Vào khoảng đầu thế
kỷ XX, Sài Gòn là nơi tập trung những hoạt động văn hóa xã hội, kể cả hoạt
động Phật giáo (PG). Tổ đình Giác Lâm, Giác Viên một thời đã đào tạo các bậc
Tăng sĩ trí thức, hàng long tượng Tăng già xuất phát từ đó cũng nhiều, chư tôn
Hòa thượng (HT) từ các miền, các tỉnh thường về Sài Gòn hoạt động, đẩy mạnh
phong trào chấn hưng PG. Trong khung cảnh ấy, Ni giới miền Nam cũng chịu ảnh
hưởng. Các bậc Ni tiền bối Sài Gòn, có dịp tiếp cận với những tư tưởng mới,
nhờ sự giáo dục và nâng đỡ của các bậc thầy, đã hoạt động tích cực để thay một
lớp áo mới cho giáo đoàn của mình. Trên văn đàn Từ Bi Âm, trong những
tập bút ký và thơ ca, còn ghi lại dấu tích của các Ni trưởng (NT) Diệu Tịnh
(khai sơn Hải Ấn ni tự), NT Diệu Tấn (sáng lập ni trường Kim Sơn), NT Diệu
Tánh (tức Sư trưởng Huê Lâm).
1- NT
Diệu Tịnh (1910-1942)
Quê quán ở Gò Công
nhưng sống ở Sài Gòn từ nhỏ, NT mang ít nhiều tính chất của người Sài Gòn dám
nghĩ dám nói dám làm. Xuất gia năm 14 tuổi tại chùa Tân Lâm (Gia Định), kinh
qua những thử thách buổi đầu khi Ni chúng thời ấy chưa có chùa riêng, NT mang
trong mình hoài bão tự lập. Khi học xong ni trường Giác Hoa (Bạc Liêu), NT về
Gia Định dịch các bộ kinh phổ thông ấn tống, sau mỗi quyển kinh đều có đăng
những bài kêu gọi các Ni cô. Nhưng bài ấy mang tên Tiếng chuông một, Tiếng
chuông hai..., thấy chưa được sự hưởng ứng mạnh, NT viết luôn bài Tiếng
chuông sắp bể. Năm 1932, tạp chí Từ Bi Âm ra đời, NT viết nhiều bài
gởi đăng, nhân diễn đàn công luận để bày tỏ quan niệm và chí hướng của mình.
Các bài viết của
NT Diệu Tịnh xoáy quanh các vấn đề giáo dục Ni chúng, nhấn mạnh bổn phận của
Ni giới trong phong trào sinh hoạt PG. Văn khí hùng mạnh, lập luận chính xác,
có thể tiêu biểu cho cách viết của giới văn học PG thời bấy giờ... “Thế nên
chị em Ni lưu chúng ta đối với PG ngày nay, phải ráng lo tu học, đạt thấu lý
huyền vi, hầu sau này đem hết năng lực liễu bồ ra lãnh lấy cái trách nhiệm
hoằng pháp lợi sanh, đặng kháng cự với tà sư ngoại đạo. Như vậy mới không phụ
cái chí khí xuất gia, lại đúng với nghĩa vụ của trang nữ lưu học Phật...”
(Trích trong bài diễn văn của NT Diệu Tịnh, Từ Bi Âm số 79).
Ngoài khả năng
viết, còn khả năng thuyết pháp giảng dạy, NT là vị Giáo thọ Ni đầu tiên của
Gia Định - trường hương Giác Hoàng năm 1933. Năm 1934, NT mở lớp gia giáo ba
tháng ở chùa Thiên Bửu (Búng). Năm 1935, mời các NT đồng thời thành lập chùa
ni Từ Hóa tại làng Tân Sơn Nhì (Gia Định), năm sau chùa dời về Tân Sơn Nhất,
đổi hiệu là Hải Ấn ni tự. Chùa Ni riêng cho Ni ở, một mình một cõi để tận tình
hóa độ và làm việc dễ dàng, ước mơ đó so với thời này thật đơn giản, nhưng
thời trước Ni chúng chưa có tổ chức riêng, thật cũng khó thực hiện. Bút ký của
NT còn ghi lại những khó khăn gian nan: chùa nghèo, thầy trò ít oi, tài sản
chỉ có một khạp nước tương mặn vì cứ thêm muối và nước, ăn cơm bằng chén đất,
đũa chà tre.
Cảnh khổ không làm
giảm khí phách, NT tiếp tục viết bài và đi thuyết giảng từ trong Nam dần ra
Trung, thành lập Bình Quang ni tự ở Phan Thiết, viếng Bình Định, Đà Nẵng. Khi
học luật Tỳ kheo tại Hà Nội, NT
được mời thuyết giảng tại Hưng Yên. Vào đến Huế, dạy Phạm Võng lược sớ
cho đức Từ Cung...
Cuộc đời của NT
đầy hào khí nhiệt tâm, Từ Bi Âm làm thơ khen tặng có những câu:
Hành vi ngôn luận
hãn siêu quần
Vì cớ sao mà hiện
nữ thân
Trăm kiếp rèn nên
gươm trí tuệ
Một tay tháo sổ
cũi phong trần...
(Tặng Diệu Tịnh ni
cô - Từ Bi Âm 73)
2- NT
Diệu Tấn (1910-1948)
Quê ở Sa Đéc, xuất
gia tu học với Hòa thượng (HT) Chí Thiền, chùa Phi Lai (Châu Đốc). Bắt đầu
tham dự vào các hoạt động tại Gia Định năm 1934, NT là người đầu tiên mở cô
nhi viện trực thuộc Hội Dục Anh Sài Gòn. Năm 1935, NT từ Gia Định ra Huế, ban
đầu dự thính các lớp Từ Đàm, Báo Quốc, sau chính thức theo học ni trường Diệu
Đức. PG Gia Định từng chịu nguồn ảnh hưởng từ PG Thuận Hóa, và con đường của
NT Diệu Tấn cũng một hướng này. Về
Nam (1939), NT mở ni trường Kim Sơn tại Phú Nhuận.
Phần Giáo thọ Tăng
có Đại đức Hành Trụ (HT Đông Hưng) sau khi tốt nghiệp Báo Quốc đã dạy tại đây,
tiếp theo là quý Thầy Như Hoàn, Hành Long, Hành Huệ, cụ Trần Huỳnh, HT Minh
Nguyệt. NT Diệu Tấn vừa là trụ trì, vừa là Giáo thọ dạy Luật và Duy thức. Phần
ngoại hộ có một vài thí chủ phát tâm, Ni chúng tự túc thêm bằng cách thêu đan.
NT giỏi thơ văn và ứng đối, giới trí thức thời ấy nhiều phen đến viếng trường
cùng đàm luận đạo lý, chứng tỏ một trường học của Ni đã có sức thuyết phục. Ni
chúng đa số là các vị tuổi trẻ, có đủ tri thức và nhiệt tâm lãnh hội Phật
pháp.
Qua phần tổ chức
sinh hoạt của ni trường đầu tiên tại Sài Gòn này, chúng ta thấy NT Diệu Tấn đã
thành công với một mô hình hoàn chỉnh, Ni giới đã có phần hội nhập vào sinh
hoạt xã hội tại Sài Gòn. Ngày nay một số vị tôn túc Ni nằm trong ban lãnh đạo
Ni bộ và trụ trì các tự viện, đều có từng học qua trường Kim Sơn.
3- NT
Diệu Tánh (tức Ni trưởng Như Thanh, 1911-1999)
So về niên đại
xuất thế thì ba vị NT đồng nhau, về năm xuất gia tuy có hơn kém nhưng các vị
đồng là bậc hảo tâm xuất gia, đều là hàng nữ lưu trí thức. NT Như Thanh quê
quán tại Thủ Đức, xuất gia tại chùa Phước Tường (Thủ Đức), trong bài thơ của
Thượng tọa Minh Phát nói về Ni trưởng có câu:
Thủ Đức từ khi gởi
chút duyên
Phước Tường xuất
thế được lưu truyền...
Ngôi chùa mà NT
trụ trì đầu tiên là chùa Hội Sơn vào năm 1935. Tại đây, ý hướng kiến tạo già
lam của NT đã phát khởi. Hội Sơn vốn là một cổ tự của vùng Thủ Đức, trải qua
nhiều đời Tổ sư trụ trì đã ghi dấu sự có mặt của Phật pháp bên bờ sông Đồng
Nai. Thấy được tính cách quan trọng ấy, NT đã vận động thân phụ là cư sĩ Hồng
Ngộ và bào huynh là kiến trúc sư Hồng Đạo xây thêm một dãy nhà thiền và nhà
trù, trùng tu cho ngôi cổ tự thêm phần mỹ quan. Ngày nay chúng ta còn được
chiêm ngưỡng vẻ đẹp của chùa Hội Sơn, cũng nhờ một phần công lao của Ni
trưởng.
... Hội Sơn một độ
ngôi phương trượng
Trùng kiến Huê Lâm
buổi ban đầu...
(Thơ của TT Minh
Phát)
Hội Sơn cũng là
nơi hoạt động Phật sự đầu tiên của NT Như Thanh. Năm 1942, sau khi tham học ở
Huế và Hà Nội về, NT mở một lớp dạy Luật cho Ni chúng. Đến năm 1944, NT khai
hạ kỳ, giảng bộ Luật Tứ phần Tỳ kheo ni lược ký, bổ túc cho Ni chúng
thêm kiến thức về Luật học. Đặc biệt trong các trường của NT Như Thanh từ
trước cho đến sau này, rất ít có hình bóng các vị Giáo thọ Tăng, điều này cho
thấy Ni chúng có thể tự túc về giáo dục, đó là một tiến triển khá lớn.
Sau khi hai NT
Diệu Tịnh và Diệu Tấn viên tịch, NT Như Thanh tiếp tục sự nghiệp giáo dục Ni
chúng. Năm 1948, NT về Chợ Lớn nhận chùa Huê Lâm, thành lập Phật học viện, mở
trường tiểu học, trung học... Toàn bộ vùng Sài Gòn-Gia Định bấy giờ có NT là
người đầy đủ uy tín để gây dựng và kết hợp Ni giới. Sau những chuyến đi vận
động, NT được sự đồng tình của tất cả quý NT miền Nam, được sự khích lệ của HT
Pháp chủ Huệ Quang, NT đã mở Đại hội Ni bộ Nam Việt tại chùa Huê Lâm (1956),
kết thúc thời kỳ sơ khai và bắt đầu thời kỳ trưởng thành của Ni chúng.
lKẾT
LUẬN
Lịch sử phát triển
của Ni bộ miền
Nam mang một phần dấu ấn Sài Gòn. Yếu tố chính là nhờ các bậc lãnh đạo Ni thời
ấy kiến thức cao rộng, hết sức kêu gọi và thúc đẩy Ni giới từ bỏ lối sống khép
kín để hòa mình vào đại cuộc. Yếu tố khách quan không kém phần quan trọng
chính là không khí thông cảm, tinh thần phóng khoáng của thành phố Sài Gòn.
Chính nhờ môi trường thuận lợi này, khoảng hơn hai mươi năm sau bài báo đầu
tiên của NT Diệu Tịnh, Ni giới đã hân hạnh tham dự vào dòng sinh hoạt PG, đóng
góp thêm cho lịch sử thành phố những điểm son tốt đẹp.«
Giai đoạn chấn hưng Phật giáo
1920 – 1930
(Trích đoạn tham luận tại Hội thảo)
lê quốc sử
Mặc
dù đông đảo quý Hòa thượng (HT) ưu tư nhiệt tình lo nghĩ đến tồn vong của Phật
giáo (PG), nhưng số lượng dấn thân chỉ đếm được trên đầu ngón tay, làm sao có
thể chống đỡ ngôi nhà PG trước nguy cơ xiêu đổ? Trong số Tăng đồ tài sức thì
ít. Còn ngoài xã hội lúc bấy giờ, các tệ trạng mê tín dị đoan, đồng bóng được
thực dân Pháp khuyến khích, chèn ép PG, lại có một số người theo Tây chẳng
biết PG là gì, làm gì, dạy gì? Một tai hại nữa là kinh điển toàn in ấn bằng
chữ Hán, chỉ một số rất ít người biết đọc biết viết và cũng chưa đủ ba tạng
kinh. Thâm độc hơn, chữ Hán thực dân Pháp lại cấm dạy và học, chỉ khuyến khích
học Pháp văn và chữ Quốc ngữ theo mẫu tự La-tinh, nhưng lại vì thành kiến tẩy
chay không học. Vì vậy chỉ có các nhà sư ở chùa mới dạy và học chữ Hán để lo
cho mình học, hiểu để hành đạo thôi.
Trước tình hình
như vậy, trong giới PG đòi hỏi phải làm một cuộc cách mạng để thay đổi cục
diện hiện thời, nên quý vị HT đầy tâm huyết vì tiền đồ Phật pháp như HT Lê
Khánh Hòa, nhà sư Thiện Chiếu khó có thể ngồi yên được, nên các
ngài phải hành động là lẽ tất
nhiên.
Năm 1911, cuộc
cách mạng Tân Hợi do Tôn Văn tức
Tôn Trung Sơn tổ chức và lãnh đạo, đã đánh đổ chế độ phong kiến Mãn Thanh,
thực hiện đường lối Tam Dân: dân
tộc độc lập, Dân quyền tự do, Dân sinh hạnh phúc. PG Trung Quốc dựa vào sự
thay đổi đó phát động phong trào chấn hưng PG rầm rộ ở Trung
quốc. Báo chí Trung quốc
phát hành hàng ngày loan tin các cơ quan của Hội Phật học liên tiếp được thành
lập và hô hào PG các nước cải tiến. Điều này có ảnh hưởng lớn đối với Việt
Nam.
Năm 1920 quý HT
họp thành lập “Lục hòa” cũng với mục đích để đoàn kết Tăng chúng phát triển
phong trào xây dựng Lực lượng hình thành tổ chức, thực hiện chấn hưng PG Việt
Nam. Nên tháng 1 năm Kỷ Tỵ, Hội Lục hòa quý vị phân công nhau đi vận động như:
HT Khánh Hòa đi vận động các chùa trong Nam, nhà sư Thiện Chiếu thì hướng dẫn
một phái đoàn ra Trung, Bắc vận động các chùa hưởng ứng phong trào chấn hưng
PG Nam Kỳ nói riêng, PG Việt Nam nói chung.
Để phục vụ cho
công cuộc chấn hưng PG, sư Khánh
Hòa cho ra tạp chí Pháp âm,
còn sư Thiện Chiếu cho xuất bản tờ Phật
hóa Tân
thanh
niên để vận động phong trào chấn hưng Phật giáo. Đây là
hai tờ báo PG chữ Việt đầu tiên, mở đường cho các tạp chí PG bằng chữ Việt sau
này. Ngoài hai tờ tạp chí trên, sư Thiện Chiếu còn cho xuất bản Phật học
toàn thư được đại đa số Phật tử và giới trí thức học giả hoan nghênh.
Cũng trong năm
này, các trường gia giáo ở Nam kỳ
lục tỉnh được mở ra để đào tạo Tăng tài và thỉnh thoảng có tổ chức thuyết pháp
cho tín đồ nghe như: chùa Tuyên Linh của
sư Khánh Hòa ở Bến Tre, đến chùa Phi Lai ở Châu Đốc của Tổ Chí Thiền,
chùa Kim Cang, Cầu Voi, Long An, chùa Giác Hoa ở Bạc Liêu dạy 100 sư
ni trẻ của bà Hai Ngó (đệ tử của
Tổ Phi Lai), phát tâm cất chùa Giác Hoa và trường gia giáo tự túc cúng đường
cho 100 sư ni tu học năm 1927,
chùa Kim Huê, Vạn An, Phước Long ở Châu Đốc, chùa Long An của Tổ Khánh Anh ở
Trà Ôn...
Ảnh hưởng của
phong trào chấn hưng, PG Nam kỳ có ảnh hưởng lan rộng trong và ngoài nước, nhờ
có sự tham gia tích cực của quý vị Tổ sư tiền bối yêu nước, hết lòng lo lắng
cho tiền đồ đạo pháp và dân tộc như: Tổ Hoan Hỉ chùa Long Thạnh (Bà Hom) đã
cùng Nguyễn Văn Bường - Phan Văn Hớn nổi dậy khởi nghĩa 18 thôn
vườn Trầu ở Hóc
môn - Bà Điểm ngày 25 tháng
chạp năm Giáp Thân. Hay Tổ Huệ
Tâm, pháp danh Trung Nghĩa, hoạt động lãnh đạo phong trào Thiên Địa
hội của Phan Xích Long năm 1913
ở Chợ Lớn. Trong những vị lãnh đạo phong trào còn có quý HT Phi Lai ở chùa Tây
An, Châu Đốc, HT Bửu Chung chùa Phước Long. Trong số các vị Tổ và HT trên có
một số vị hoạt động chống Pháp bị bắt bớ tù đày Côn Đảo nhiều lần vượt ngục
trở về vẫn có mặt trong phong trào như HT Huệ Tâm-Trung Nghĩa. Lúc bấy giờ
phong trào cách mạng ở Nam Kỳ nổi lên như: phong trào Đông Du của cụ Phan Bội
Châu, phong trào Duy Tân của cụ Phan Chu Trinh, Đảng Thanh Hòa Thanh niên cao
vọng của Nguyễn An Ninh, phong trào Công hội đỏ của cụ Tôn Đức Thắng, Thanh
niên cách mạng
đồng chí
hội đang tuyên truyền vận động giới Tăng Ni Phật tử theo
khuynh hướng tích cực tham gia yêu nước.
Ảnh hưởng báo chí
tiến bộ trong nước cũng như nước ngoài cũng góp phần không nhỏ cho các phong
trào, nó tác động tích cực vào tinh thần tư tưởng yêu nước của các Tăng Ni
Phật tử và các từng lớp nhân dân như báo Người cùng khổ, Việt Nam hồn,
báo chí Trung quốc.
Cuộc vận động chấn
hưng PG Nam
kỳ đến năm 1929-1930 mới tạo được điều kiện đưa ra tổ chức hợp pháp.
- Giai
đoạn PG hình thành đấu tranh hợp pháp (1928-1929):
Như đã kể trên, sư
Khánh Hòa và sư Thiện Chiếu đã góp công góp sức lớn trong công cuộc chấn hưng
PG Nam kỳ: các vị lập thư xã các tỉnh, dịch ba tạng kinh, xuất bản báo chí và
tạp chí Phật học... nên cả nước đều nghe tên các vị, nên ở
trung
kỳ mở trường hạ, vào thỉnh HT
Khánh Hòa ra thuyết giảng, vì quý Thầy ngoài Trung
kỳ cho rằng HT Khánh Hòa đạo lý
thâm sâu nên cung thỉnh. HT nhận lời vì một là để nắm tình hình Tăng chúng
ngoài đó và để chấn hưng PG, ngài cho HT Huệ Quang ra chùa Long Khánh, Qui
Nhơn, trước để lo chuẩn bị, trong ngày thượng tuần tháng 4 âm lịch năm Đinh
Mão, HT Khánh Hòa hướng dẫn một phái đoàn ra Trung, HT Khánh Hòa làm chủ giảng
suốt ba tháng hạ và cổ động việc chấn hưng PG. Qua giảng giải kinh điển làm
cho HT Phước Huệ ở chùa Thập Tháp cũng là bậc đạo cao đức trọng vô cùng thán
phục.
Tháng 5 âm lịch
năm Đinh Mão, sư Thiện Chiếu đi
họp ở Hà Nội về ghé Qui Nhơn gặp HT Khánh Hòa và trao cho HT bản chương trình
của PG hội Trung quốc. (Hải
Triều Âm - cơ quan ngôn luận của PG
hội Trung quốc) và đôn
đốc HT Khánh Hòa gấp rút tiến hành công việc chấn hưng PG không nên để trễ. Sư
Thiện Chiếu trụ trì chùa Linh Sơn, số 149 đường Douemont, nay là Cô Giang,
quận 1, ông là hội viên Thanh niên cách
mạng đồng chí
hội với trách nhiệm được phân công phụ trách phong trào chấn
hưng PG.
Đến ngày 10 tháng
7 âm lịch sau khi mãn hạ, từ Qui Nhơn về, HT Khánh Hòa ghé chùa Linh Sơn gặp
sư Thiện Chiếu bàn bạc kỹ về việc thành lập Hội Phật học. Hai vị nhất trí
chương trình và phân công nhau tổ chức thực hiện, HT Khánh Hòa đi về chùa
Tuyên Linh, Bến Tre, cho mời toàn thể bổn đạo họp. Trong buổi họp, HT trình
bày: Nay thời cơ đã đến, ý nguyện Tăng chúng cần trung hưng PG đang hồi suy
vong nhưng không có tiền thì khó thực hiện được. Vì vậy chúng ta nên vì sự
trường tồn của Phật pháp mà bán chánh điện chùa Tuyên Linh để lấy tiền làm
việc ấy. Bổn đạo chấp nhận ý Thầy, làng Ba Tri mua để lấy cây cất đình nay vẫn
còn với giá 1.000 đồng, lúc đó là một số tiền lớn. HT Khánh Hòa giao cho HT
Tâm Quang chùa Viên Giác và HT Từ Phong chùa Liên Trì, Bến Tre, cất giữ và vận
động thêm. Nghe quý HT trung hưng Phật pháp, bà Lê
thị Nghĩa hỷ cúng 100 đồng. Ngài
gom góp số tiền này cùng với số tiền quyên góp của sư Thiện Chiếu vận động
được để xây cất thư xã và trường Phật học. Mặt khác, HT Khánh Hòa còn vận động
được một số cư sĩ ở Trà Vinh hỷ cúng 1.000 đồng để thỉnh ba tạng kinh, nay vẫn
còn tại chùa Linh Sơn, quận 1.
Khi thành lập Phật
học viện và thư xã xong đến ngày 27 tháng
giêng năm Kỷ Tỵ 1929, ngài Khánh Hòa nhận phân công đi vận
động để thành lập Hội Nam Kỳ Phật học và trường Phật học. Cuộc hành trình đi
vận động của ngài khắp Nam kỳ
đến Nam Vang gần hai tháng. Khi kết thúc cuộc hành trình trở về
thư xã chùa Linh Sơn thì thấy
các vị đã khởi công biên tập để xuất bản tờ tạp chí đầu tiên nhan đề “Pháp
Âm”. Trong ban lâm thời tổ
chức, cả bộ Biên tập cử ngài
Khánh Hòa chức Chủ nhiệm, tạp chí Pháp Âm bắt đầu ra số thứ nhứt ngày
31 - 8 - 1929. Ngài Khánh Hòa có viết bản Tự trần đăng lên báo Pháp
âm trang 17 - 20 nói về lý do lập
thư xã và tình thế bắt buộc ngài phải đảm nhận trọng trách ấy.
Lễ khánh thành Pháp bảo phường và Thư xã và tàng kinh thất tháng 12 năm 1929. Tại chùa Linh Sơn, Sài Gòn,
Hội Phật học Nam kỳ tổ chức hội nghị giới thiệu danh sách Ban
chấp hành lâm thời, ngài Khánh
Hòa được bầu làm Chánh hội trưởng. Trường Phật học cũng được xây cất xong,
phần tuyên dương công đức các vị hữu công trong đóng góp: HT Phi Lai, Châu
Đốc, đóng góp 300 đồng, bà thí chủ Lê Thị Nghĩa, Bến Tre, đóng góp 300 đồng,
một số cư sĩ ở trà
vinh hỷ cúng 1000 đồng, và số tiến bán chánh điện chùa Tuyên Linh 1.000
đồng của ngài Khánh Hòa góp lại xây cất trường Phật học và Pháp bảo phường có
để ba tạng kinh. Trường Phật học và Pháp bảo phường, Tàng thư viện nay còn tại
chùa Linh Sơn, Cầu Muối.
Nguyên chùa Linh
Sơn là trụ sở của hội Nam Kỳ
Nghiên cứu Phật học, nguồn gốc chùa là của bà Nguyễn
thị Nghi xây cất đã lâu đời, bà đã chết không có con. Trước
chánh điện thờ Phật, sau hậu Tổ thờ Linh Sơn
thánh
mẫu. Lúc sư Thiện Chiếu làm trụ trì, theo tục lệ người Tàu vô xin xăm
bói quẻ, đến năm 1929 vì yêu cầu lập Hội nên giao lại cho ngài Khánh Hòa làm
trụ trì Linh Sơn để đủ điều kiện đứng xin thành lập
hội, Thư xá, Pháp bảo phường, Tàng kinh thất. Đây chỉ là tổ
chức lâm thời, phải chờ nghị định của Toàn quyền Pháp mới được chính thức
thành lập.
- Giai
đoạn cao trào cách mạng Việt Nam 1929-1931:
Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời xác lập vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam, làm cho các tầng lớp
nhân dân lao động, trí thức tôn giáo phấn khởi đứng lên đấu tranh chống sưu
cao thuế nặng, đòi cải thiện dân sinh, đòi tự do tín ngưỡng, bình đẳng tôn
giáo rất sôi nổi, quyết liệt.
Phong trào chấn
hưng PG như gấm thêm hoa, năm Canh Ngọ 1930,
hội Nam Kỳ nghiên cứu
Phật học được chính thức thành lập, trụ sở đặt tại chùa Linh Sơn do ngài Khánh
Hòa làm chánh hội trưởng, Hòa
thượng Chí Thiền, Từ Phong, Huệ Quang, Chánh Quả, Thiện Dư cùng quý vị cư sĩ
trần Nguyên Chấn, Nguyễn văn
Côn, Huỳnh văn Quyền, Trần
văn Khuê, Phạm Ngọc Vinh, Nguyễn
văn Nhơn, Lê văn Phô đều nằm trong Ban
chức sự của
hội.
Hội Nam
kỳ
nghiên cứu Phật học chánh thức
hoạt động ngày 25-8-1931, Hội ra tạp chí Từ Bi Âm ngày 1-1-1932 là cơ
quan truyền bá giáo lý của hội,
lập Pháp bảo phường, thỉnh Đại tạng kinh từ Trung Quốc về dịch, giảng dạy cho
học tăng. Những người có công đối với hội và PG nói chung trong giai đoạn này đối với Tăng như: ngài
Khánh Hòa chùa Tuyên Linh (Bến Tre), HT Huệ Quang, chùa Long Hòa (Trà Vinh),
Chí Thiền, chùa Tam Bảo (Rạch Giá), Chí Thiền, chùa Phi Lai (Châu Đốc), Từ
Phong, chùa Giác Hải (Chợ Lớn), Chánh Quả, chùa Kim Huê (Sa Đéc), An Lạc, chùa
Vĩnh Tràng (Mỹ Tho), Chánh Tâm, chùa Thiện Phước (Trà Ôn), Tâm Quang, chùa
Viên Giác (Bến Tre), HT Lê Phước Chí, chùa Kế Sách (Sóc Trăng), Huệ Thành,
chùa Thành Linh (Cà Mau), Tâm Chơn, chùa Pháp Võ (Châu Đốc), Diệu Pháp, chùa
Long Khánh (Trà Vinh), Thiện Chiếu, chùa Linh Sơn, Yết ma Nguyễn
văn Chức, chùa Tam Bảo (Hà
Tiên), Huỳnh Công Quảng - Minh Trường, chùa Hậu Phước (Mỹ Tho), Giáo thọ Thiên
Tâm, chùa Đại Giác (Biên Hòa), Huệ Định, chùa Phước Long (Sa Đéc), Từ Phong,
chùa Liên Trì (Bến Tre), HT Thiện Dư, Thủ tọa Điển, chùa Linh Thứu (Xoài Hột -
Mỹ Tho...).
Các cư sĩ ở Trà
Vinh thỉnh Tam tạng kinh từ Trung quốc
về hiến cho Hội, ngài Khánh Hòa biến chùa Huyền Linh làm Pháp bảo phường, HT
Nguyên Chánh Tâm hiến ruộng chùa cho Hội thu huê lợi làm Phật sự.
Về phân công phụ
trách Từ Bi Âm: ngài Khánh Hòa Chủ nhiệm, HT Bích Quy và Liên Tôn làm
Chánh phó chủ bút, ngài Trí Độ
bình dịch, Thượng tọa (TT) Thiện Quy (Mỹ Tho), TT Giác Nhựt (Cần Thơ), TT Khất
Chánh, làm trợ bút.
Tóm lược quá trình
vận động chấn hưng PG Nam kỳ
trong những thuận lợi khó khăn mà quý Ngài phải vượt qua nhưng vẫn chưa đạt
được mục đích của mình như:
Đến năm 1931 mới
được chánh thức thành lập Hội Nam Kỳ và tạp chí Từ Bi Âm, vì một số khó
khăn do nhà cầm quyền ràng buộc phép tắc, và phải có người thân Pháp đứng ra
xin phép thành lập Hội chúng mới cho... nên phải cậy đến thế lực của Commis
Trần Nguyên Chấn xin phép. Ông Chấn buộc ngài Khánh Hòa nếu muốn được ông xin
phép thì phải chấp nhận ba điều kiện: một là phải để cho rể ông là Phạm Ngọc
Vinh làm chủ nhân sáng lập Từ Bi Âm và
hội Phật học, hai là phải làm tờ
cam kết mượn chùa Linh Sơn và đất của ông để cất Thư xá, trường học, mặc dù
đất và chùa là của bà Nguyễn thị Nghi chứ không phải của ông Trần Nguyên Chấn và bà phải
nhường chức Phó Hội trưởng vĩnh viễn cho ông không ai được tranh cử. Cũng bởi
tờ cam kết có dụng ý xấu này mà về sau ông chiếm đoạt chùa Linh Sơn và hội
Phật học. Vì điều lệ hội và phép
tắc quá khó khăn nên ngài Khánh Hòa và
ban Tổ chức lâm thời phải chấp nhận. Sau khi thành lập xong
hội Nam Kỳ và trường Phật học, ngài Khánh Hòa làm Chánh hội
trưởng, bị Commis Trần Nguyên Chấn nắm hết quyền khống chế tổ chức,
hội bị tê liệt luôn, chủ trương
của ngài Khánh Hòa mở trường Phật học tại chùa Linh Sơn là để đào tạo Tăng tài
sau nhân ra các tỉnh. Nhưng năm đầu mới mở lớp dạy đã bị Trần Nguyên Chấn cản
ngăn, mật báo với chánh quyền Pháp không cho dạy kinh luật Phật, ông Chấn nói
với nhà cầm quyền Pháp, ngài Khánh Hòa dạy lý thuyết cộng sản, tuyên truyền
cộng sản, Ngài bị thực dân Pháp kêu lên tra xét hạch hỏi làm khó dễ hoài, vì
thế trường Phật học phải đóng cửa để rể ông Chấn là Phạm Ngọc Minh lấy trường
này đặt chỗ làm nhà in riêng, sau nhà in ấy dẹp ngôi trường và Pháp bảo phường
ông Chấn và ông Vinh biến thành của riêng cho con ông Chấn là bà Đá và cháu vợ
bà Thanh.
Còn nói về điều lệ
hội thì Thống đốc Nam
kỳ cho phép lập Hội Phật học
ngày 26-8-1931 quy định rất ngặt nghèo làm cho Hội không hoạt động được như:
* Sách kinh thỉnh
để thêm vào Pháp bảo phường phải trình cho chính phủ biết, những kinh dịch ra
chữ quốc ngữ phải trình cho chính
phủ biết.
* Chương trình dạy
Tăng đồ phải trình cho chính phủ xét, chính quyền có quyền hỏi cho biết những
kinh sách để dạy, và những bài học có phép đề tài thỉnh hội đường để kiểm
duyệt sách, thi hành chương trình phải cho
chính phủ biết, những giáo sư
dạy tại Thích học đường và sự dời đổi xảy ra trong Ban
giáo sư.
* Điều 15, số tiền
cúng vào hội 15 đồng thì phải có quan Thống đốc cho phép mới được nhận. Hội
chỉ được phép có gia sản đủ dùng trong sự hành động mà thôi, chẳng cho có dư.
* Điều 16 thủ quỹ
chỉ giữ 100 đồng bạc mà thôi, còn dư phải gửi nhà băng của Pháp.
Những điều của
thực dân Pháp quy định như trên của điều lệ chúng cho phép đủ thấy sự ràng
buộc gắt gao như thế nào.
Đến Đại hội kỳ
hai, tháng 1-1932, họp để bầu lại các chức vụ mới của Ban Trị sự, ông Trần
Nguyên Chấn tuyên bố chức Phó nhì Hội trưởng của ông vĩnh viễn chẳng được ai
thay đổi và buộc hội phải chấp nhận. Trong kỳ
đại hội này, bảo thủ quỹ phải
xuất tiền mua rượu Tây cho ông Chấn đãi các quan Tây do ông ta mời tham dự, ai
chỉ trích ông hăm dọa bỏ tù, nên từ đây
hội tê liệt tan rã dần.
Ngày 1-2-1933,
Từ Bi Âm số 45, ngài Khánh Hòa từ chức, chẳng còn ở
hội Nam Kỳ Phật học Linh Sơn.
Năm 1931, HT Huệ
Đăng thành lập Thiên Thai Thiền giáo Quán tông Thiên hữu
hội, trụ sở đặt tại chùa Thiên
Thai, Dinh Cố, Long Đất, Bà Rịa, Đồng Nai, và cho xuất bản tờ Bát Nhã
âm để truyền bá giáo lý
trong toàn quốc. Phái Thiên Thai Thiền giáo tông có nhiều đệ tử tài đức nổi
tiếng trở thành những Thiền sư yêu nước như HT Minh Tâm, viện chủ chùa Thiên
Quang, Hóc Môn; HT Pháp Long, chùa Thiên Minh, Chợ Cầu - Gia Định; HT Pháp
Vân, chùa Long Khánh, Vĩnh Long; HT Pháp Thân, chùa Hội Linh, Cần Thơ; HT Pháp
Tràng còn gọi HT Đông Dương, chùa Khánh Quới, Mỹ Tho; HT Minh Nguyệt, trụ trì
chùa Bửu Long, Mỹ Tho; HT Minh Đức, viện chủ chùa Thiên Tôn, quận 5; HT Pháp
Nhạc, trụ trì chùa Long An, quận nhì Sài Gòn; HT Minh Tịnh, hoạt động Thanh
niên cứu quốc Nam
bộ; HT Thiện Hào, viện chủ chùa Thiên Vân, Hóc Môn; đều là
những vị tích cực tham gia hai cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ cứu nước.
Năm 1930-1931,
phong trào chấn hưng PG lại được tiếp nhận luồng sinh khí mới là phong trào
cách mạng vô sản, làm trong giới Tăng chúng tín đồ PG phân hóa sâu sắc, bởi nó
có mối quan hệ đến quyền lợi thiết thân, tín ngưỡng, sưu cao, thuế nặng, ruộng
đất nhà chùa bị thực dân Pháp và thân Pháp dùng quyền lực chiếm đoạt.
Do đó mà Tăng chúng nhiều chùa đứng về phía cách mạng, ra sức ủng hộ, giúp đỡ
nuôi chứa cán bộ, để chùa làm trường học, cơ quan như: chùa Linh Thứu ở Xoài
Hột, Thạnh Phú, Mỹ Tho; ngài Thủ tọa Điển tức HT Hoằng Không để chùa làm cơ
quan cho cơ quan ấn loát của tỉnh
ủy Mỹ Tho và bản thân Ngài còn làm giao liên cho
xứ ủy. Sư Thiện Chiếu về đây hội
họp với chư Tăng các tỉnh, HT Trí Thiền đưa chùa Tam Bảo, Rạch Giá, làm nơi
sản xuất vũ khí đánh địch, HT Huệ Tâm-Trung Nghĩa huy động biểu tình...
Hội Phật học
Nam Việt
và chùa Xá Lợi
TỐNG HỒ CẦM
(Có sự tham khảo qua tư liệu báo Từ
Quang của Hội Phật học
Nam Việt và báo Giác Ngộ)
Trong
công cuộc phục hưng Phật giáo (PG) tại miền Nam nước Việt Nam, kể từ gần 50 năm trở
lại đây, tại thành phố này, Hội Phật học Nam Việt đã góp một phần quan trọng
vào việc xây dựng một căn bản vững chắc, cổ động một phong trào tu học hoằng
dương chánh pháp, Bi, Trí song nghiêm.
Hội Phật học Nam
Việt đã xây cất được ngôi chùa Xá Lợi là một thắng tích cho thành phố Sài Gòn
trước đây và hiện nay đã đóng một vai trò lịch sử trong việc bảo vệ PG năm
1963, cùng với Ủy ban Liên phái Bảo vệ PG chống chế độ độc tài kỳ thị tôn giáo
của gia đình trị họ Ngô.
Thời gian trôi qua
khiến nhiều việc chìm lẫn vào trong quên lãng, chúng tôi cố gắng ghi chép sau
đây lịch sử và những hoạt động của Hội Phật học Nam Việt trong gần 50 năm qua,
và những nét kiến trúc mỹ thuật của chùa Xá Lợi, để góp một phần nhỏ vào việc
biên tập lịch sử PG Việt Nam.
* * *
Hội Phật học Nam
Việt được thành lập ngày 19-9-1950 tại Sài Gòn, là đoàn thể nam nữ cư sĩ Phật
học ở miền Nam Việt Nam tổ chức có hệ thống rõ ràng, có điều lệ nội quy được
chính quyền lúc bấy giờ công nhận về mặt pháp lý để hoạt động và kết hợp bước
đầu một số Phật tử cả xuất gia lẫn tại gia nam nữ. Từ lâu về trước, ở miền
Nam chỉ có những ngôi chùa riêng rẽ của tư nhân hay làng xã, có vài vị sư
trông coi đèn nhang thờ tự, chưa có hệ thống tổ chức chặt chẽ. Năm 1930, nương
theo phong trào chấn hưng PG ở Trung Hoa của Thái Hư Đại sư, một số vị cao
tăng thạc đức Việt Nam cũng đề xướng phong trào chấn hưng PG Việt Nam, lập Hội
Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học ở Sài Gòn, kế đến là Lưỡng Xuyên Phật học Hội ở Trà
Vinh, hô hào dịch kinh in sách, đào tạo Tăng tài, thuyết pháp khuyên mọi người
tu học, ra tạp chí Từ Bi Âm và Duy Tâm, để phổ biến đạo Phật
trong các tầng lớp dân chúng. Nhưng cơ duyên chưa đủ nên hai Hội chỉ hoạt động
được vài năm rồi tan rã, dù sao cũng gây được tiếng vang, đặt được nền móng và
đào tạo được một số Tăng sĩ làm rường cột cho PG ngày nay.
Đến đầu năm 1951,
Hội Phật học Nam Việt mới chính thức hoạt động với mục đích đoàn kết các Phật
tử xuất gia và tại gia, dùng mọi phương tiện để truyền bá và thực hành Phật
pháp luôn về hai mặt giáo lý và từ thiện ; vị Hội trưởng đầu tiên là Bác sĩ
Nguyễn Văn Khỏe, có sự cộng tác đắc lực của các quý vị danh tăng : Quảng Minh,
Quảng Liên, Thiện Hòa, Huyền Dung, cùng cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền và một
số cư sĩ có kiến thức Phật học và đạo tâm khác. Hội tổ chức nhiều buổi diễn
giảng Phật pháp được hàng Phật tử hoan nghênh và ghi tên nhập Hội rất đông.
Đến ngày mùng 6 tháng 5 năm 1951, một Đại hội PG toàn quốc được triệu tập tại
Huế để thống nhất PG và thành lập một Hội lớn liên hiệp, gọi là Tổng hội PG
Việt Nam gồm có 6 tập đoàn : Giáo hội Tăng già Bắc Việt, Hội Việt Nam PG Bắc
Việt (cư sĩ), Giáo hội Tăng già Trung Việt, Hội Việt Nam Phật học Trung Việt
(cư sĩ), Giáo hội Tăng già Nam Việt và Hội Phật học Nam Việt (cư sĩ). Thực ra
thì ở Nam Việt lúc bấy giờ khởi sự chỉ có một tổ chức Phật giáo là Hội Phật
học Nam Việt công khai đại diện cho cả hai phái xuất gia và tại gia, nhưng vì
Bắc Việt và Trung Việt đều có hai phái đoàn: một xuất gia và một tại gia, nên
các vị Tăng sĩ ở Nam Việt phải tách ra thành lập Giáo hội Tăng già Nam Việt để
tham gia Đại hội PG toàn quốc lúc đó, vì vậy Hội Phật học Nam Việt từ đó chỉ
gồm có các Phật tử cư sĩ tại gia mà thôi.
Lúc đầu, Hội Phật
học Nam Việt đặt trụ sở tạm ở một ngôi chùa mượn ở khu Hòa Hưng tên là chùa
Khánh Hưng, sau dời thiệt thọ về chùa Phước Hòa, khu Bàn Cờ ở Sài Gòn. Đến năm
1958, Hội xây cất được chùa Xá Lợi để làm trụ sở và nhượng chùa Phước Hòa lại
cho Hội Việt Nam PG Bắc Việt (cư sĩ) di cư vào Nam. Hội Phật học Nam Việt đã
phát triển đều đều, trước ngày giải phóng đất nước, có hơn 40 Tỉnh hội và Chi
hội, riêng hội sở Trung ương ở Sài Gòn có hơn 6.000 hội viên thực hành có ghi
tên gia nhập, ngoài ra còn có một số công đức hội viên cùng một số đông cảm
tình viên và thí chủ hết lòng tán trợ và ủng hộ, kể cả hơn 10.000 người.
Với chủ trương đạo
và đời phải đi song song, phái xuất gia và tại gia đều là con Phật nên phải
đoàn kết với nhau, Hội Phật học Nam Việt có cung thỉnh một Ban Chứng minh Đạo
sư là chư tôn đức Tăng già tiêu biểu cho tinh thần tu hành và uyên thâm giáo
lý của đạo Phật. Trong Hội, thành viên của Ban này phải được suy tôn trong
hàng Hòa thượng (HT), Thượng tọa (TT) lão thành, đạo cao đức cả, giới luật
nghiêm trì, tinh thông kinh điển. Nhiệm vụ của Ban Chứng minh Đạo sư là chỉ
đạo về tinh thần đạo giáo cho Ban Quản trị và chủ trì các ngày đại lễ. Để làm
tròn nhiệm vụ của phái tại gia cư sĩ đối với phái xuất gia, Hội đã lập một
Tiểu ban Hộ pháp, cúng dường chư Tăng trong Ban Hoằng pháp, góp phần vật chất
giúp chư Tăng chuyên tâm tu hành, đào tạo Tăng tài, dịch sách, in kinh. Các vị
xuất gia chủ yếu chuyên trách về phần tinh thần, phát huy đạo pháp, đóng vai
trò Như Lai sứ giả.
Với mục đích là tu
học và thực hành đạo đức từ bi của đạo Phật, Hội đã tổ chức những buổi diễn
giảng giáo lý với những đề tài Phật học phổ thông vào mỗi buổi sáng Chủ nhật
sau buổi lễ Phật Tịnh độ công cộng, hợp với trình độ đại chúng. Đối với hàng
trí thức thì Hội có những buổi luận đạo tối thứ Năm, học kinh Pháp Bảo Đàn là
bộ kinh quý báu về Thiền tông cùng những bộ kinh Đại thừa như Diệu Pháp Liên
Hoa, Địa Tạng, Vô Lượng Thọ, Bát Nhã Tâm Kinh... Mọi giới đều tùy căn cơ mà
thọ lãnh và đều được thỏa thích. Ban diễn giảng lúc đầu gồm có quý Thầy Quảng
Minh, Quảng Liên, Thiện Hòa, Huyền Dung, Thiện Hoa, sau này có quý đạo hữu
Chánh Trí Mai Thọ Truyền, Võ Đình Dần, Nhuận Chưởng, Tống Hồ Cầm..., mà đạo
hữu Chánh Trí là người thường xuyên diễn giảng nhất.
Mỗi sáng Chủ nhật
đều có khóa lễ Phật Tịnh độ công cộng, theo nghi thức tụng niệm tiếng Việt, số
người đến dự buổi đầu lên đến ba, bốn trăm, bái đường tuy rộng rãi mà có khi
không đủ chỗ. Hội tổ chức những khóa lễ tụng niệm cầu an, cầu siêu, biên tập
và phát hành tạp chí Từ Quang để các Phật tử có phương tiện nghiên cứu
đạo Phật. Tờ Từ Quang là tạp chí truyền bá đạo Phật tại Sài Gòn sống
lâu nhất tại miền Nam, đến năm 1975 đã bước sang năm thứ 30; lúc sinh tiền,
đạo hữu Chánh Trí Mai Thọ Truyền làm Chủ nhiệm kiêm Chủ bút, có sự cộng tác
của Ban Biên tập gồm đủ cả Tăng, Ni và cư sĩ. Sau khi đạo hữu Chánh Trí Mai
Thọ Truyền mất năm 1973, thì việc chủ biên báo Từ Quang do hai đạo hữu
Minh Lạc Vũ Văn Phường và Tống Anh Nghị (Tống Hồ Cầm) chuyên trách, mãi đến 30-4-1975
vì hoàn cảnh khách quan mới ngưng xuất bản.
Hội còn cho thành
lập các tiểu ban phụ trách về công tác từ thiện giúp các sản phụ và cô nhi,
tại các bệnh viện, phát chẩn giúp đồng bào nghèo khó, trợ giúp nạn nhân chiến
tranh hoặc hỏa hoạn, bão lụt; Tiểu ban Tương trợ giúp các hội viên khi hữu sự;
Tiểu ban Học bổng giúp các học sinh con em hội viên thiếu kém tài chánh; Tiểu
ban Hộ niệm tới tận nhà hội viên quá cố để cầu siêu; Tiểu ban Dược Sư mỗi
tháng hai lần tụng kinh Dược Sư cầu cho quốc thái dân an. Năm 1953, Hội còn
thành lập một Ban Hướng dẫn con em Phật tử gọi là Gia đình Phật tử (GĐPT), lúc
đầu lấy tên là Gia đình Chánh Tâm, Chánh Tín, sau đó có sự chỉnh đốn của đạo
hữu Tống Hồ Cầm là Trưởng ban Hướng dẫn TƯ, đổi tên chính thức là Gia đình
Chánh Đạo, tập hợp những thanh thiếu niên nam nữ vào trong một tổ chức tuổi
trẻ chuyên học giáo lý Phật Đà, tu tập lễ bái theo nghi thức tụng niệm riêng
bằng chữ Việt, có chương trình sinh hoạt vận động thể lực, thi đua trí khôn,
vui chơi ca nhạc. Mỗi Chủ nhật, các em đến chùa lễ Phật, học tập, có các anh
chị trưởng giáo hóa rồi cùng nhau vui đùa trong khung cảnh thân thương hòa
thuận của anh em đồng đạo. Mục đích của GĐPT Chánh Đạo tại T.Ư cũng như tại
các Tỉnh hội, Chi hội Phật học là tạo tình đoàn kết giữa các thanh thiếu niên
nam nữ, khuyến khích các em phát triển trí dục và thể dục, hướng dẫn các em
học hỏi và tuân theo chánh pháp để trở nên những Phật tử thuần thành, chân
chính và những công dân tốt trong xã hội. Đến năm 1964, theo trào lưu thống
nhất PG, GĐPT Chánh Đạo và các GĐPT khác thuộc hệ thống tổ chức của Hội Phật
học Nam Việt sát nhập vào hệ thống tổ chức GĐPT trong Tổng vụ Thanh niên của
Giáo hội PG Việt Nam Thống nhất.
Hội luôn luôn nhớ
tới công ơn của quý vị Tăng già tôn túc trong Ban Chứng minh và Ban Hoằng
pháp, nên mỗi năm vào các dịp Tết Nguyên đán, lễ Phật Đản, lễ Vu Lan..., Hội
đều cử phái đoàn đi dâng lễ cúng dường chư Tăng tại một số chùa trong thành
phố, và mỗi khi quý Thầy có Phật sự như cất chùa, đắp tượng, đúc chuông, in
kinh sách, Hội đều quyên góp những số tiền quan trọng.
Để thực hành hạnh
Dược Sư và từ bi, Hội có một phòng phát thuốc miễn phí, có bác sĩ hội viên
khám bệnh, cho toa, chích thuốc mỗi ngày giúp được gần cả trăm bệnh nhân do
Tiểu ban Y tế đã quyên được một số lượng Âu dược quan trọng để cấp phát cho
đồng bào đau yếu. Ngoài ra, Hội còn lập một nghĩa trang ở gần Bà Quẹo, mỗi hội
viên vợ chồng con cái khi có tang sự được cấp huyệt mả miễn phí. Hội đã lập
được một thư viện gồm có trên 5.000 đầu sách chữ Việt, Pháp, Hoa, Anh, Nhật,
có đủ Tam tạng kinh điển, các sách về văn hóa nghệ thuật và về tôn giáo khác,
để mọi người có dịp học hỏi và nghiên cứu, hiện nay vẫn còn hoạt động.
Hội luôn luôn giữ
tình giao hảo tốt đẹp với các tôn giáo khác, ở trong nước cũng như ở ngoài
nước. Đạo hữu Hội trưởng Chánh Trí đã tham dự Hội nghị văn hóa PG tại New
Delhi (Ấn Độ) hồi tháng 11 năm 1956, dự Hội nghị văn hóa Tokyo (Nhật Bản) năm
1958, dự Hội nghị PG Thế giới lần thứ 6 tại Phnom Penh năm 1962 và được bầu
làm Phó Chủ tịch, dự Hội nghị PG Thế giới lần thứ 7 tại Bénares (Ấn Độ) năm
1964 và đã đi Hoa Kỳ với tư cách là danh khách vào năm 1962. Nhờ những cuộc du
hành hữu ích của đạo hữu Hội trưởng Chánh Trí mà tên tuổi của Hội Phật học Nam
Việt và chùa Xá Lợi được nhiều người trên thế giới biết đến và trọng thị.
Về xây cất thì Hội
Phật học Nam Việt đã kiến tạo được ngôi chùa Xá Lợi nguy nga và đẹp đẽ, một
công trình kiến trúc mới mẻ và thích hợp với phong trào canh tân PG. Chính
ngôi chùa này đã được chọn làm trụ sở cho cuộc tranh đấu của PG đồ vào năm
1963 của Ủy ban Liên phái Bảo vệ PG chống chế độ Ngô Đình Diệm độc tài kỳ thị
tôn giáo, và nghiễm nhiên trở thành ngôi chùa lịch sử.
Sau đây là nguyên
nhân và lịch sử xây cất chùa Xá Lợi.
Không biết phải vì
biết tin hâm mộ di tích Phật của tín đồ PG Việt Nam hay không, mà năm 1953,
Đại đức (ĐĐ) Narada, tọa chủ chùa Vajirarama ở Sri Lanka sang thăm Việt Nam,
phụng thỉnh theo 3 viên xá lợi của đức Phật và 3 cây bồ đề con trồng trong 3
lon sữa bò, định cúng cho 3 nơi : PG Nguyên thủy (Kỳ Viên tự), PG Đại thừa và
PG Campuchia (theo lời tuyên bố của ĐĐ lúc đến phi trường Tân Sơn Nhất).
Được ủy nhiệm, đạo
hữu Chánh Trí Mai Thọ Truyền cầm đầu một phái đoàn hợp cùng phái đoàn của Ban
cung nghinh do PG Nguyên thủy tổ chức, lên tận phi trường nghinh tiếp ĐĐ và
các bảo vật. Về đến chùa Kỳ Viên, ĐĐ lặp lại lời tuyên bố ban đầu và nói thêm
là sáng hôm sau, ĐĐ sẽ trao cho đạo hữu Chánh Trí phần xá lợi và cây bồ đề
dành cho PG Đại thừa.
Đến năm 1956, Hội
Phật học Nam Việt quyết định xây chùa mới tại một vị trí khác, để có nơi xứng
đáng phụng thờ di bảo của đức
Thế Tôn và đủ chỗ cho thiện tín đến lễ bái. Một năm rưỡi sau, nghĩa là đến năm
1958, chùa mới hoàn thành. Hội Phật học Nam Việt có kính nhờ HT Khánh Anh, lúc
ấy là Pháp chủ của Giáo hội Tăng già Nam Việt, đồng thời là Chứng minh Đại đạo
sư của Hội Phật học Nam Việt, đặt tên cho chùa. HT dạy: “Còn đặt tên gì nữa,
công chúng đã gọi là chùa Xá Lợi thì lấy tên ấy cho hợp lòng người”.
Thật vậy, trong
lúc xây cất, Hội có cho cắm một tấm bảng cổ động tại công trường về việc xây
cất chùa thờ xá lợi. Thiện tín sau đó đã gọi tắt là chùa Xá Lợi, rồi thành
danh. Trải qua nhiều biến cố, nhất là tai ách tháng 8 năm 1963 của mùa pháp
nạn, viên ngọc xá lợi vẫn uy nghiêm tồn tại như muốn nói lên cái bản chất
thường tồn bất biến của chân lý, dù dòng đời có trôi chảy, sự vật có vô
thường, Pháp Tinh vẫn Như Thị.
Chùa Xá Lợi được
xây cất trên một thửa đất thuê của đô thành Sài Gòn, diện tích hơn 2.500 mét
vuông, tọa lạc ở góc đường Bà Huyện Thanh Quan và Lê Văn Thạnh (nay là đường
Sư Thiện Chiếu). Theo Nghị định số 216-HCSV/P2 ngày 19-1-1956 của Chính phủ
tại Nam Việt, Hội Phật học Nam Việt được phép lạc quyên khắp 21 tỉnh có Tỉnh
hội và Chi hội thuộc hệ thống tổ chức của Hội Phật học Nam Việt, lấy tiền xây
chùa. Nhờ Phật gia hộ và nhờ sự sốt sắng đóng góp của các Phật tử hội viên
cũng như của khách thập phương, Hội đã thu được đủ tiền bạc để bắt tay vào
việc khởi công đào móng vào ngày 05-8-1956, công trường được đặt dưới sự đôn
đốc của hai kỹ sư Dư Ngọc Ánh và Hà Tố Thuận. Một pho tượng Phật bằng xi-măng
và thạch cao được Giáo sư Trương Đình Ý đắp rất đẹp, nhưng tiếc thay quá lớn,
không thể đem lên chánh điện trên lầu được, nên phải nhường cho một chùa khác
và nhờ trường Mỹ nghệ Biên Hòa đắp pho tượng khác bằng bột đá màu hồng, giá
lúc bấy giờ là 180.000 đồng, làm khuôn ngày 12-2-1958, tức là ngày 24 tháng
Chạp năm Đinh Dậu.
Lễ khánh thành
chùa Xá Lợi được cử hành tưng bừng trong 3 ngày 2, 3, 4 tháng 5 năm 1958, tức
là 14, 15, 16 tháng 3 năm Mậu Tuất, trong niềm hoan hỷ của mọi người. Những bộ
y vàng rực rỡ chen lẫn với áo tràng màu lam hoặc áo dài khăn đóng bên cạnh
những bộ Âu phục và những tà áo màu, những tiếng chuông mõ xen lẫn tiếng tụng
kinh bằng tiếng Việt, tiếng Hoa, tiếng Pàli... đã nói lên sự hòa hợp của mọi
giới trong niềm hoan lạc trước thành quả lớn lao của Hội Phật học Nam Việt nói
riêng, của Phật giáo Việt Nam nói chung.
Chùa Xá Lợi có một
cổng tam quan chính trông ra đường Bà Huyện Thanh Quan, một cổng tam quan phụ
trông ra đường Lê Văn Thạnh (nay là đường Sư Thiện Chiếu) và một cổng phụ để
xe cộ ra vào. Cổng tam quan chính có một tầng mái, có gắn chữ “Chùa Xá Lợi,
Hội Phật học Nam Việt”, còn cổng tam quan phụ xây cất sau thì lớn hơn, có mái
trùng thiềm, có những hàng “công sơn” chồng đấu, có đắp bốn chữ triện “Pháp
luân thường chuyển”, ở trên mái cổng có gắn hình bánh xe pháp tượng trưng cho
giáo lý nhà Phật đưa chúng sinh từ chỗ luân hồi đau khổ đến Niết bàn an lạc.
Hai cổng tam quan đều có những cánh cửa bằng sắt hoa uốn theo hình hoa sen,
cành lá cuốn quanh một bánh xe pháp.
Chùa Xá Lợi chỉ
thờ có một tượng Phật Thích Ca Mâu Ni lớn, chứ không thờ nhiều Phật như các
chùa xưa. Theo quan niệm của Hội Phật học Nam Việt thì khi lễ Phật cần phải
nhất tâm hướng về Phật, chí tâm chí thành trụ vào một nơi, đó là
đức Phật với 32 tướng tốt, 80 vẻ
đẹp, nét mặt từ bi, dáng ngồi ngay thẳng, lộ vẻ nghiêm trang đại hùng đại lực
; các Phật tử lễ Phật, niệm Phật phải đặt hết tâm trí vào một chỗ thì mới phát
huy được cái diệu dụng của tâm, có thành tâm mới có cảm ứng. Thờ một tượng
Phật thì dễ được nhất tâm bất loạn. Theo thiển ý, đây là một quan niệm rất
hay, giúp chúng ta dễ dàng định tâm, không lao chao vọng động, tâm được tịnh
thì trí tuệ mới phát sinh, có chánh kiến để biết đường phải mà theo, đường
trái mà tránh, tu tâm sửa tánh là nhờ ở trí tuệ sáng suốt, đưa đến giác ngộ và
giải thoát.
Tượng Phật ở chùa
Xá Lợi là tượng đức Thích Ca Mâu
Ni ngồi kiết già trên tòa sen, mắt hé mở, miệng hơi mỉm cười, nét mặt hoan hỷ
mà oai nghiêm, vừa từ bi vừa hùng lực, dáng ngồi ngay thẳng, thân hình khỏe
mạnh như hiện thân của Chân-Thiện-Mỹ, biểu tượng của Pháp thân bất diệt. Pho
tượng Phật ở chùa Xá Lợi là một kiệt tác mỹ thuật, làm khuôn mẫu cho nhiều
tượng Phật các chùa sau này.
Tường bao quanh
bái đường được trang trí bên trên bằng những bức tranh mô tả đời sống
đức Phật Thích Ca từ khi Đản sanh, Xuất gia, Thành đạo, Thuyết pháp đến
lúc nhập Niết bàn, do Giáo sư Nguyễn Văn Long thực hiện, tranh vẽ rất linh
động trông như phù điêu đắp nổi.
Sau chánh điện là
nơi thờ Tổ, bàn chính giữa thờ di ảnh của 4 vị cao tăng: Huệ Quang, Tuyên Linh
Lê Khánh Hòa, Khánh Anh và Quảng Đức. HT Huệ Quang là Phó Hội chủ Tổng hội PG
Việt Nam, Chứng minh Đại đạo sư Hội Phật học Nam Việt, đã góp phần rất lớn
trong việc xây dựng và phục hưng PG Việt Nam. Năm 1956, ngài đi dự Hội nghị PG
Liên hữu Thế giới nhóm họp ở Nepal và đã viên tịch ở Ấn Độ. HT Tuyên Linh Lê
Khánh Hòa là một trong những vị sáng lập Lưỡng Xuyên Phật học Hội, đề xướng
phong trào tu học Phật pháp, xương minh giáo lý Phật Đà. HT Khánh Anh là Pháp
chủ Giáo hội Tăng già Nam Việt, có công lớn trong việc đào tạo Tăng tài, in
kinh dịch sách, để truyền bá đạo Phật tại miền
Nam. HT Quảng Đức là người đầu tiên đã vị pháp thiêu thân ngày 20 tháng 4
nhuận âm lịch năm Quý Mão, tức là 11-6-1963 tại Sài Gòn, nguyện biến nhục thể
thành ngọn đuốc soi đường cho nhà cầm quyền độc tài gia đình trị họ Ngô thời
bấy giờ hãy tỉnh ngộ, sáng suốt tránh việc chia rẽ tôn giáo, đàn áp PG. HT có
lúc là trụ trì chùa Phước Hòa, trụ sở trước kia của Hội Phật học Nam Việt. Bốn
vị cao tăng này được Hội suy tôn là Tổ sư, mỗi năm đều làm lễ giỗ kỷ niệm long
trọng. Gần đây có thờ thêm di ảnh của HT Thích Thiện Hào là viện chủ, do Ban
Quản trị cung thỉnh về trụ xứ cùng Tăng chúng chùa Xá Lợi.
Tháp chuông xây
ngay gần hàng rào cạnh cổng tam quan chính cách xa chánh điện, làm trang trí
cho ngôi chùa. Tháp chuông được khánh thành ngày 23-12-1961, có 7 tầng, mỗi
tầng thờ một vị Phật, có 4 mặt phẳng lớn và 4 mặt góc nhỏ, tạo thành một hình
bát giác, có mái che cong cong bước lên hình đầu đao, đó là nét kiến trúc đặc
biệt của mỹ thuật PG Việt Nam. Các dãy nhà của chùa kiến trúc theo chiều ngang
rộng, cho ta cảm giác vững vàng yên ổn trong một khung cảnh yên tịnh thư thái,
thì cây tháp lại vọt cao để điều hòa bằng luật tương phản, cây tháp cũng tự
điều hòa chiều cao của mình bằng nhiều tầng mái ; hình dáng cao vọt của tháp
vượt khỏi vòm cây lên nền trời xanh tiêu biểu cho một mục đích cao xa, một ý
chí vươn lên, một tư tưởng siêu trần, một chủ nghĩa thoát tục.
Chánh điện có
nhiều cửa sổ cho thoáng khí, mỗi cửa sổ được gắn những kiếng màu xếp đặt thành
màu cờ PG.
Ở tầng trệt, từ
cổng tam quan chính đi thẳng vào là giảng đường, ngay đằng trước có treo một
bức hoành phi cổ, trên viết bốn chữ Nho “Đông thùy pháp vũ”, là thủ bút của Từ
Hy Thái hậu. Bức hoành phi cổ này vừa được thay thế bằng một tấm bảng có ghi
chữ “Giảng đường Chánh Trí”, để tưởng niệm công đức của cụ Chánh Trí, cố Hội
trưởng khai sáng Hội Phật học Nam Việt, đã suốt 21 năm nhất tâm hướng dẫn hàng
hội hữu trên đường tu học; cụ quy tịch ngày Rằm tháng Ba năm Quý Sửu
(17-4-1973). Ban Quản trị Trung ương Hội Phật học Nam Việt đã quyết định đặt
tên giảng đường chùa Xá Lợi là Giảng đường Chánh Trí. Ngày 01-7-1973,
lễ khai môn được cử hành hết sức trang nghiêm do ĐĐ Narada và quý Tăng chúng
trong Ban Trụ trì chùa Xá Lợi.
Giảng đường rộng
rãi, chứa được 400 chỗ ngồi ; trước đây vào mỗi sáng Chủ nhật, sau khóa lễ
Tịnh độ đều có buổi thuyết pháp thường xuyên do cụ Chánh Trí Mai Thọå Truyền
phụ trách. Giảng đường này đã hân hạnh đón tiếp nhiều giảng sư quốc tế nổi
danh như Quốc sư Diễn Bồi, ĐĐ Narada, Giáo sư Khantipalo... cũng như những
giảng sư có biệt tài trong nước thuộc Ban Hoằng pháp Giáo hội Tăng già Nam
Việt và Phật học đường Ấn Quang. Nhiều bộ kinh Phật quý báu đã được giảng giải
rành rẽ, sự lý viên dung, nhiều mật nghĩa được làm cho sáng tỏ và dễ hiểu, hợp
với trình độ hiểu biết cao siêu của hàng Phật tử trí thức. Có thể nói, giảng
đường là trọng tâm hoạt động của Hội Phật học Nam Việt, là trái tim của chùa
Xá Lợi, là nơi truyền bá chánh pháp của Như Lai. Mục đích của Hội Phật học Nam
Việt là tu và học, từ bi và trí tuệ đi đôi, phước huệ song nghiêm, nên vị trí
của giảng đường được đặt vào chỗ quan trọng, ngay thẳng cổng vào.
Về mặt kiến trúc,
thì chùa Xá Lợi là một kiến trúc theo lối mới, dùng những vật liệu nặng như
bê-tông, sắt, đá, gạch, ngói..., những nhà kiến trúc khéo léo đã cố gắng tô
điểm bằng những mái cong đầu đao, những “công sơn” chồng đấu, những bánh xe
pháp... khiến chùa vẫn còn vẻ thuần túy Á Đông, những đề tài trang trí là
những hình hoa sen có dây leo lá cuốn uốn éo vòng đi vòng lại có vẻ sinh động,
đẹp đẽ và mềm mại.
Thời thế mới nên
chùa cũng phải đổi mới, ở trung tâm thành phố nhộn nhịp, địa thế lại nhỏ bé,
không có sông núi làm điểm tựa, không thể tạo một cảnh chùa u nhàn thanh tịnh
được, nên Hội Phật học Nam Việt trước đây đã đành chấp nhận một ngôi chùa kiểu
mới để có chỗ lễ bái, tụng kinh, nghe pháp, tiện bề quy hướng, thính đạo cho
mọi người sinh sống ở thị thành. Giữa chốn phồn hoa đô hội mà giữ được lòng
không dao động thì mới là quý, tâm tịnh thì thế giới tịnh.
Chúng tôi xin nói
thêm về vai trò của Hội Phật học Nam Việt đã đóng góp vào thống nhất PG và
cuộc đấu tranh lịch sử của PG chống chính
phủ độc tài Ngô Đình Diệm để bảo vệ chánh pháp năm 1963.
Như trên đã nói,
ngày mùng 6 tháng 5 năm 1951, một Đại hội PG toàn quốc được triệu tập tại Huế
để thống nhất PG và lập thành một Hội gọi là Tổng hội PG Việt Nam, gồm có 6
tập đoàn do HT Thích Tịnh Khiết làm Hội chủ, nhưng điều lệ của Hội này không
được chính phủ lúc bấy giờ chấp
nhận, Ban Quản trị Trung ương lâm thời phải kéo dài nhiệm kỳ từ 1951 đến 1956
để giải quyết mọi trở ngại khó khăn và nắm giữ cái tinh thần thống nhất. Trong
Ban Quản trị nhiệm kỳ đầu tiên này, đại diện Hội Phật học Nam Việt là đạo hữu
Phạm Văn Vi giữ chức Ủy viên Cứu tế xã hội và đạo hữu Nguyễn Hữu Huỳnh giữ
chức Ủy viên dự khuyết.
Đến năm 1956, khi
bản điều lệ đã được chính quyền duyệt y, một Đại hội thống nhất kỳ II đã được
triệu tập tại chùa Ấn Quang (Sài Gòn) vào ngày 1-4-1956 để bầu Ban Quản trị
Trung ương chính thức, trong đó đạo hữu Chánh Trí Mai Thọ Truyền giữ chức Tổng
Thư ký; đạo hữu Tống Hồ Cầm, vốn là Phó Tổng Thư ký trong Ban Quản trị lâm
thời Trung ương từ năm 1951, nay tiếp tục và chính thức giữ chức Phó Tổng Thư
ký; đạo hữu Võ Đình Dần giữ chức Kiểm lý Ngân sách; đạo hữu Lê Văn Cầm giữ
chức Ủy viên Từ thiện, và đạo hữu Cao Văn Trí giữ chức Kiểm soát.
Đến năm 1959, một
Đại hội thống nhất kỳ III được tổ chức long trọng tại chùa Xá Lợi từ ngày 4
đến ngày 8-9-1959. Chúng tôi xin ghi dưới đây lời HT Hội chủ Tổng hội PG Việt
Nam Thích Tịnh Khiết tuyên bố trong kỳ Đại hội này: “Tổng hội PG Việt Nam
thành lập tới nay đã vừa 9 năm, nhưng ở trong hoàn cảnh khó khăn và lại thiếu
sự thuận tiện, những cố gắng và hoạt động chưa đem lại hiệu quả nào đáng kể.
Giờ đây, tôi hy vọng quý vị trong Ban Quản trị Trung ương cũng như các tập
đoàn và Phật tử toàn quốc hãy cùng nhau đoàn kết, tận lực phụng sự chánh pháp,
đem lại sự huy hoàng cho PG và dân tộc”.
Như vậy thì thấy
sự thống nhất PG chỉ mới có trên hình thức và giấy tờ, các tập đoàn PG vẫn
hoạt động riêng rẽ tại ba miền. Để tiến tới sự thống nhất thật sự, một Đại hội
kỳ III cần được tổ chức để quy tụ 6 tập đoàn trong một tổ chức duy nhất là
Tổng hội PG Việt Nam
(Confédération). Hội nghị chấp nhận ý kiến tăng cường Ban Quản trị Trung ương
bằng những phương pháp sau đây:
1)- Tuyển trạch
những vị có khả năng, đức độ, thành tâm thiện chí với công cuộc phục vụ đạo
pháp và sự thống nhất, để sung cử vào Ban Quản trị Trung ương Tổng hội PG Việt
Nam.
2)- Ủng hộ Ban
Quản trị Trung ương trên mọi phương diện tinh thần, vật chất...
3)- Các tập đoàn
phải cam kết triệt để tuân hành theo thông tư và chỉ thị của Ban Quản trị
Trung ương, để Ban này có đầy đủ uy tín và phương tiện thi hành Phật sự.
Mấy điểm trên đây
là nghị quyết lịch sử đối với nền thống nhất PG. Các tập kỷ yếu qua các kỳ Đại
hội của Tổng hội PG Việt Nam hiện còn lưu trữ tại thư viện chùa Phật học Xá
Lợi.
Trong Ban Quản trị
Trung ương nhiệm kỳ mới này (1959-1962), Ban Thường vụ gồm những ban viên đều
ở Sài Gòn và HT Hội chủ cũng vào ở Sài Gòn một thời gian lâu dài để tránh sự
chậm trễ trong các Phật sự do thư từ đi lại lâu lắc giữa các ban viên ở xa
nhau, mà các nhiệm kỳ trước của Ban Quản trị đã mắc phải. Hội Phật học Nam
Việt đã can đảm nhận lãnh những chức vụ quan trọng trong Ban Quản trị Trung
ương nhiệm kỳ này: đạo hữu Chánh Trí Mai Thọ Truyền giữ chức Phó Hội chủ; đạo
hữu Võ Đình Dần, Tổng Thư ký; đạo hữu Tống Hồ Cầm, Phó Tổng Thư ký I; đạo hữu
Lê Ngọc Diệp, Phó Tổng Thư ký II; đạo hữu Nguyễn Văn Hoanh, Chưởng quỹ. Với
thành phần Ban Quản trị Trung ương gồm các bậc Tăng già và cư sĩ hữu học,
thành tâm thiện chí, Tổng hội PG Việt Nam đã tiến mạnh trên đường thống nhất
hiệu quả hơn. Phái đoàn tham dự Hội nghị PG Thế giới kỳ 6 tại Phnom Penh năm
1962 đã được sự kính nể của các phái đoàn khác, và đạo hữu Chánh Trí Mai Thọ
Truyền đã được bầu làm Phó Chủ tịch; khi tranh đấu chống phim Sakya đã
xuyên tạc lịch sử đức Phật,
tiếng nói của Ủy ban Liên phái cũng được nhà cầm quyền nghe theo. Nghi thức
tụng niệm, y phục, tổ chức, giáo dục, hoằng pháp... đều hướng về ý niệm thống
nhất, đặc biệt là lễ Phật Đản ở nước ta được cử hành vào ngày Rằm tháng Tư âm
lịch (ngày trăng tròn) thay vì mùng Tám tháng Tư như lệ cũ trước đây.
Một biến cố quan
trọng có thể nói là một tai ách đã xảy ra trong năm 1963 để thử thách, để trắc
nghiệm sự thống nhất của PG Việt Nam. Trong dịp lễ Phật Đản năm 1963 (Rằm
tháng Tư năm Quý Mão), chính phủ
Ngô Đình Diệm ra lệnh cấm treo cờ PG tại các tư gia và có nhiều hành động chia
rẽ và kỳ thị PG, mọi người đều căm phẫn và cơn bão tố chờ dịp bùng nổ. Tại Huế
là nơi căn cứ của PG, một cuộc diễn hành của Phật tử bị nhà cầm quyền giải
tán, vài tiếng súng nổ, vài người ngã gục, thế là phong trào nổi lên với mục
đích bảo vệ đạo pháp, đòi nhà cầm quyền phải tôn trọng tự do tín ngưỡng, bình
đẳng tôn giáo, dân chúng được treo cờ PG trước tư gia trong những ngày đại lễ
và chính phủ phải bồi thường cho
các nạn nhân bị bắn chết hay bị đánh đập mang thương tích. Trước sự làm ngơ
của chính quyền, các vị lãnh đạo PG hội họp các đoàn thể PG toàn quốc và lập
Ủy ban Liên phái Bảo vệ PG... đặt trụ sở tại chùa Xá Lợi với sự đồng ý của Hội
Phật học Nam Việt.
Tạm thời, khuôn
mặt tu hành thanh tịnh của ngôi chùa lớn nhất Sài Gòn lúc bấy giờ bị che khuất
bởi những biểu ngữ chống đối nhà cầm quyền, tiếng tụng kinh xen lẫn tiếng máy
phóng thanh kêu gọi Tăng Ni Phật tử đoàn kết vì đạo pháp giành thắng lợi, và
nói chuyện giải thích rõ về thời sự. Các giới đồng bào kéo đến rất đông, lễ
bái tụng niệm thì ít, ủng hộ tranh đấu thì nhiều, không sợ hãi sự đe dọa của
chính quyền độc tài gian ác, chư Tăng ở khắp nơi trong nước đều kéo về tụ tập
ở chùa Xá Lợi để tuân theo chỉ thị của Ủy ban Liên phái. Đây là lần đầu tiên ở
Việt Nam có cuộc liên kết PG đồ, không phân biệt Bắc tông hay Nam tông, không
phân biệt Tăng già hay cư sĩ, không phân biệt Việt Nam, người Hoa hay Khơmer,
không phân biệt nam nữ già trẻ, tất cả đều đồng một lòng đoàn kết ủng hộ Ủy
ban Liên phái Bảo vệ PG. Hàng ngày, chùa Xá Lợi đều tấp nập, đông đảo, tiếng
chuông mõ xen lẫn tiếng góp ý, góp sức vì chính đạo và chính nghĩa, tạo ra
khung cảnh quyết liệt, thành khẩn ; y vàng, y nâu, y lam của Tăng Ni sát cánh
bên những phục sức quần áo đủ màu của nam nữ Phật tử.
Trước những đòi
hỏi căn bản và những nguyện vọng chân chính của PG, chính quyền cứ làm ngơ và
tìm cách chia rẽ PG, bắt bớ giam cầm nhiều người, tình hình mỗi ngày một căng
thẳng. Ngày 11-6-1963, HT Quảng Đức tự thiêu tại ngã tư Lê Văn Duyệt-Phan Đình
Phùng, nguyện lấy thân làm đuốc soi sáng chính quyền, dùng lửa từ bi để đốt
sạch mọi chướng ngại si mê, mong chính quyền chấp thuận những nguyện vọng
chính đáng của Phật giáo. Nhục thể của HT được rước về chùa Xá Lợi để làm lễ
cầu siêu trong một tuần rồi mới di chuyển xuống An dưỡng địa tại Phú Lâm để
hỏa táng. Tất cả những xương thịt của Ngài đều thành tro bụi, riêng trái tim
còn nguyên vẹn, được rước về chùa Xá Lợi ngâm vào formol và bày lên bàn thờ
cho dân chúng đến chiêm bái, mọi người cung kính đến quỳ lạy và cho là chuyện
lạ.
Toàn dân đều cảm
động trước sự hy sinh cao cả của HT Quảng Đức, nhưng
chính phủ Ngô Đình Diệm không chịu nghe theo lẽ phải mà còn
phản ứng mạnh mẽ bằng cách chiếm đóng tất cả các chùa có tham gia phong trào
bảo vệ PG, giam cầm một số lớn Tăng Ni và Phật tử vào đêm 20-8-1963.
Vì thế, chùa Xá
Lợi dĩ nhiên được đánh phá tận tình, nhà cầm quyền bắt giữ tất cả mọi người có
mặt trong chùa: HT Hội chủ, chư vị TT, ĐĐ, các Tăng Ni và Phật tử; đạo hữu
Chánh Trí Mai Thọ Truyền, Hội trưởng Hội Phật học Nam Việt, cũng bị bắt và bị
giam giữ cùng một lúc với các vị lãnh đạo Ủy ban Liên phái Bảo vệ PG, và sau
đó các ban viên tích cực khác của Ban Quản trị: đạo hữu Huệ Đức Lê Ngọc Diệp,
Tổng Thư ký; đạo hữu Tống Hồ Cầm, Ủy viên Kiểm soát của Hội cũng bị bắt vài
ngày sau đó. Chùa Xá Lợi bị phong tỏa không cho ai ra vào, chuông mõ im lìm,
đèn nhang lạnh lẽo, một bức màn sầu thảm phủ lên cả thành phố Sài Gòn, bao
trùm mọi giới đồng bào. Sức mạnh của vũ khí không chinh phục được tấm lòng sắt
son vì đạo của đồng bào, cho nên cuộc chống đối lại tiếp tục, học sinh và sinh
viên bãi khóa liên miên, 6 vị Tăng Ni lần lượt tự thiêu, nhiều Phật tử hy sinh
mạng sống vì tự do cho đạo pháp, kéo theo đình công, bãi thị, bãi khóa, biểu
tình... khắp nơi đều chấn động, tức nước vỡ bờ, việc gì phải đến đã đến.
Ngày 1-11-1963,
Ngô Đình Diệm bị giết. Cơn ác mộng đang đè nặng trĩu tâm hồn người con Phật
suốt trong thời gian qua bị phá tan. Chư Tăng Ni và Phật tử được tự do, chùa
chiền được giải tỏa, mọi người lại đổ xô về chùa Xá Lợi để vấn an chư vị lãnh
đạo Ủy ban Liên phái và mừng cho đạo pháp đã qua cơn thử thách. Đạo hữu Chánh
Trí Mai Thọ Truyền bị bắt giam cùng lúc với chư Tăng, nay lại được tự do cùng
một ngày, đồng lao cộng khổ, thật xứng đáng đại diện cho giới cư sĩ bên cạnh
giới xuất gia.
Sau đó, chùa Xá
Lợi lại được chọn làm nơi hội họp của các phái đoàn đại diện PG toàn miền Nam
vào đầu năm 1964, soạn thảo Hiến chương và thành lập Giáo hội PG Việt Nam
Thống nhất. Đạo hữu Chánh Trí Mai Thọ Truyền được hân hạnh đắc cử chức Chủ
tịch Ủy ban Soạn thảo Hiến chương và được bầu làm Phó Viện trưởng Viện Hóa
đạo. Khi mọi việc đã hoàn tất, trụ sở Giáo hội được chuyển về chùa Ấn Quang,
trả lại cho chùa Xá Lợi vẻ mặt thanh tịnh tu hành và sinh hoạt bình thường như
thuở ban đầu.
Bánh xe lịch sử
quay đều, một trang sử đã được lật qua, mọi thành công hay thất bại đã chìm
vào quên lãng, nhưng chùa Xá Lợi vẫn uy nghi tồn tại. Hội Phật học Nam Việt
vẫn từ tốn khép mình vào nền tu học thuần túy, mặc ai tranh bá đồ vương, mưu
cầu danh lợi. Những cây tùng bút vẫn xanh tươi, những khóm trúc vàng vẫn đẹp
đẽ, một số tín hữu vẫn lui tới lễ Phật, tụng kinh, nghe pháp, tượng Phật mới
được thếp vàng làm tăng phần oai nghiêm hùng lực, ngọn bảo tháp vẫn đứng cao
chót vót như thi gan cùng tuế nguyệt và tiếng chuông đại hùng trên đỉnh tháp
vẫn ngân nga theo gió sớm sương chiều, đưa hồn người lâng lâng thoát tục.
Chùa Xá Lợi, một
kiến trúc dung hòa mới cũ, tiêu biểu cho nền mỹ thuật PG chuyển mình cho kịp
thời thế đổi thay, đã trở thành bất diệt với câu thơ xưa, nay xin phỏng lại:
Gió đưa cành trúc
la đà
Tiếng chuông Xá
Lợi, canh gà Thủ Thiêm
Mãi đến ngày miền Nam
hoàn toàn giải phóng, đất nước hoàn toàn thống nhất, PG ba miền Bắc, Trung, Nam
mới thực hiện được ước mơ thống nhất trọn vẹn. Hưởng ứng sự kêu gọi của Ban
Vận động Thống nhất PG cả nước, do các bậc cao tăng và cư sĩ tiêu biểu nhất,
Hội Phật học Nam Việt là tổ chức PG của hàng cư sĩ Phật học tại miền Nam, là
một trong 9 tập đoàn tiêu biểu chính thức gia nhập Giáo hội PG Việt Nam ngày
nay.
Giáo hội PG Việt
Nam trong nước Việt Nam độc lập, tự do và hoàn toàn thống nhất, cho nên kể từ
ngày 29-12-1981 là tổ chức PG duy nhất đại diện cho PG Việt Nam về mọi mặt
quan hệ ở trong nước và nước ngoài, có Hiến chương riêng và hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Ban Quản trị nhất
tâm cung thỉnh HT Thích Thiện Hào về trụ xứ tại chùa Phật học Xá Lợi với chức
vụ viện chủ, cùng hội hữu đông đảo gắn bó với tinh thần tu học và thực hiện
Phật sự liên tục của chùa Hội. Các cư sĩ Tống Hồ Cầm, Tăng Quang, Trần Văn
Phát cũng như các đạo hữu kỳ cựu và lớp hậu tấn mới trưởng thành đều nhất tâm
chung lo bảo quản cơ sở đạo tràng này ngày thêm tốt hơn. HT trụ trì Thích Hiển
Tu và Tăng chúng vẫn thủy chung bảo trì nếp sống thanh quy tại chùa, góp phần
trang nghiêm cho ngôi phạm vũ mà chư tôn giáo phẩm hằng ân cần vãng lai hoằng
hóa, phổ độ thiện nam tín nữ quy tập về đây.«
Phật giáo Gia Định-sài
Gòn- TP. Hồ Chí Minh
300 năm
cùng nhân dân mở đất, bảo vệ Tổ quốc,
xây dựng chủ nghĩa xã hội
Tiến sĩ PHAN LẠC TUYÊN
(*)
“Những gì chúng
tôi làm cho Đạo pháp nghĩa là làm cho Dân tộc, những gì chúng tôi làm cho Dân
tộc là làm cho Đạo pháp”
Lời của Hòa thượng
Thích Trí Thủ
Ngay
từ khi mở mang đất nước về phương Nam, các vị sư Phật giáo (PG) cũng theo các
đoàn dân di cư từ các nơi đến Đàng Trong, ngược lại đã cùng với đám lưu dân từ
các tỉnh khác của Nam Kỳ ngược về sinh sống ở vùng Sài Côn-Gia Định, nơi mà
chính quyền Việt Nam đã được tổ chức vững chắc. Kể từ năm 1698 mà sự buôn bán
nhờ dân Minh Hương (người Hoa) đã định cư ở đó từ trước, và qua người Minh
Hương, tàu bè nước ngoài tới lui buôn bán sản xuất. Lúc đó, ở chùa Đại Giác
tại Đại Phố, Đồng Nai, thuộc dinh Trấn Biên (nay là
cù lao Phố, xã Hiệp Hòa, TP Biên Hòa), có Hòa thượng (HT)
Thành Đẳng trụ trì. Năm 1744, khi chúa Nguyễn mở mang vùng Sài Côn-Gia Định
thì nhiều người từ Đồng Nai về Sài Côn-Gia Định làm ăn. HT Thành Đẳng thấy rõ
việc phát triển làm ăn vùng đất mới có nhiều dân trụ ở đó làm ăn nên cử Thiền
sư Phật Ý-Linh Nhạc đi cùng dân lưu cư về vùng Sài Côn mở mang Phật pháp. Dọc
đường, nhà sư đã gặp một Tăng lữ cùng lứa tuổi (chưa tìm được thế danh và pháp
danh), hai người rất mến nhau, họ cùng đến thôn Tân Lộc (chợ
Đũi, quận 3 ngày nay) khai hoang mở ruộng, trồng rau, vào rừng đốn củi, hái
trái cây. Một tháng chia hai, nửa tháng làm ruộng, trồng trọt, tích lũy thức
ăn, nửa tháng tụng kinh niệm Phật. Họ dựng một am tranh làm nơi tu hành. Dần
dần, dân ở đó cảm thấy đức độ tu hành và lao động của hai vị Thiền sư nên ngày
Rằm và mùng Một, họ đến am tranh nghe thuyết pháp và tụng kinh. Sau hơn mười
năm tu hành, hai Thiền sư với sự giúp đỡ cúng dường của bà con trong vùng, đã
dựng được một ngôi chùa gạch lợp ngói với tên là chùa Từ Ân. Gần đó cũng có
một ngôi chùa mới lập được đặt tên là Khải Tường. Chùa Từ Ân ở vào khoảng
chợ Đũi và chùa Khải Tường ở góc
đường Lê Quý Đôn-Võ Văn Tần ngày nay.
Trong những biến
động lịch sử ở cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, hai chùa này đã trở thành
chứng tích lịch sử. Trong cuộc chiến tranh giữa Nguyễn Ánh và triều đại Tây
Sơn, thời gian từ 1788-1801, trong khi bôn ba, Nguyễn Ánh với các tướng sĩ
đóng quân ở chùa Từ Ân, còn gia đình Nguyễn Ánh ngụ tại chùa Khải Tường; và
khoảng năm 1791, Hoàng tử Đảm (sau này là Minh Mạng) do bà thứ phi họ Trần
sinh ra ở đây. Sau khi lên ngôi, Gia Long phong sắc cho hai chùa này, cấp tiền
và mọi chi phí cho các vị tu hành ở đó. Do đấy nhân dân gọi là “chùa Quan”.
Khi thực dân Pháp
vào xâm lược Việt Nam,
đánh chiếm Sài Gòn-Gia Định (1859-1861), chúng đã đốt phá chùa Từ Ân. Chùa
Khải Tường thì bị chiếm đóng làm đồn binh do tên quan ba Barbé làm trưởng đồn,
nên sau này người Pháp gọi là pagode Barbé (chùa Barbé). Thật mỉa mai và láo
xược thay ! Thực dân Pháp cũng đem pho tượng Phật Di Đà tạc bằng gỗ do vua
Minh Mạng cúng dường về trưng bày tại Viện Bảo tàng Sài Gòn mà cho tới nay
chúng ta còn thấy trong đó.
Về mặt quan hệ
truyền bá PG của Sài Gòn-TP. Hồ Chí Minh với các địa phương trong nước, phái
Lâm Tế của Đại thừa (Mahayana) đã từ Phú Xuân và Bình Định là chủ yếu. Và các
vị HT như Tổ sư Nguyên Thiều-Siêu Bạch (gốc người Trung Quốc) và các đệ tử là:
Phật Ý-Linh Nhạc lập chùa Từ Ân và Khải Tường ở Gia Định và những đệ tử trụ
trì ở nhiều ngôi chùa nổi tiếng ở Sài Gòn-Gia Định như chùa Giác Lâm, Long
Thạnh. Trong số học trò này còn có Sư Phật Chiếu-Linh Quang lập chùa Phước
Tường (Thủ Đức), Sư Thiệt Thoại-Tánh Tường lập chùa Huê Nghiêm (Thủ Đức); việc
xây dựng những chùa chiền ở vùng cư dân mới tại Sài Gòn-Gia Định có ảnh hưởng
đến phong tục tập quán, tín ngưỡng và cuộc sống nơi đây. Vào năm Canh Dần
(1770), khoảng tháng Giêng âm lịch có cọp về hại người và súc vật ở khu chợ
Tân Kiểng (lúc đó thuộc trấn Phiên An, Sài Gòn), mọi người hoảng sợ, lo lắng.
Có hai nhà sư ở đó biết chuyện đã đến đánh nhau với cọp, giết được nó nhưng
cũng bị nó cắn làm trọng thương, sau đó thì chết. Nhân dân cảm động và biết ơn
nên đã phụng thờ làm Phụ Thần Hoàng ở đình Tân Kiểng (nay thuộc quận 5, TP Hồ
Chí Minh).
Nhìn chung, từ khi
chúa Nguyễn Hoàng vào đất Thuận Hóa để nương thân, tránh việc có thể bị Trịnh
Kiểm giết thì những đời chúa Nguyễn kế tiếp thường dựa vào giới PG, và những
khi trốn tránh sự truy nã của quân Tây Sơn đều ẩn náu tại các chùa chiền.
Tháng 11 năm 1776, trong lúc lưu vong, tướng sĩ nhà Nguyễn đã họp ở chùa Kim
Chương để tôn Nguyễn Phước Thuần làm Thái thượng vương và lập Nguyễn Phước
Dương làm Tân chính vương, để chống lại quân Tây Sơn. Sau này, chùa Kim Chương
được nhà Nguyễn phong “Sắc tứ Phổ Quang tự”. Trớ trêu thay, vào tháng 3-1777,
quân Tây Sơn vào đánh Gia Định, Thái thượng vương Nguyễn Phước Thuần bị bắt
tại Long Xuyên và bị quân Tây Sơn đem về giết tại chùa Kim Chương, nơi mà mười
tháng trước đó, ông đã được các tướng sĩ tôn phong! Vấn đề chính trị cũng tác
động mạnh đến tôn giáo, sau khi thực dân Pháp đã đặt ách thống trị tại Việt
Nam, ban hành luật bắt mọi nhà, kể cả chùa chiền, miếu mạo, đền tự đều phải
chứng minh chủ quyền đất đai đang ở, nếu không có cơ sở, giấy tờ thì phải tự
xuất tiền mua đóng cho nhà cai trị hành chính lúc đó. Do đó, không ít chùa
chiền phải nộp tiền mua đất tại chính nơi mình đã có công khai phá và dựng
chùa một cách hết sức nực cười, trong số chùa đó có Phụng Sơn tự, một chùa
được lập ra từ lâu đời.
Năm Ất Dậu 1885,
cuộc khởi nghĩa của nhân dân Hóc Môn chống thực dân Pháp bùng nổ, có sự tham
dự của một số đông tín đồ PG và một số nhà sư. Theo một số nhà nghiên cứu thì
cuộc khởi nghĩa này do tông phái Minh sư
Phật đường khởi xướng và Phan
Công Hớn lãnh đạo cùng với Thiền sư Minh Hòa-Hoan Hỷ. Vị Thiền sư này tu tại
chùa Long Thạnh (Bà Hom) cùng thầy là Hòa thượng Tiên Cần-Từ Nhượng.
Mối quan hệ giữa
PG ở Sài Gòn-Gia Định lúc đó, rất có thể thông qua người Minh Hương đã ở đây
từ lâu nên khá chặt chẽ. Năm Nhâm Thìn (1892), một nhà sư là Lão sư Lưu Đạo
Nguyên đã từ Trung Quốc tới Đàng Trong, ở Qui Nhơn một thời gian rồi vào Sài
Gòn giảng kinh kệ của phái Minh sư
Phật đường với đường lối chính
trị là “phản Thanh, phục Minh”. Tông phái này xây điện Ngọc Hoàng ở Đa Kao để
làm nơi trụ trì và giảng đạo. Sau đó, phái Minh
sư Phật
đường xây thêm chùa Phổ Tế Phật
đường ở vùng Chợ Đệm và từ đó
phát triển rộng rãi ra các vùng Chợ Lớn, Tân An, Gò Công và vùng đồng bằng
sông Cửu Long. Tuy chưa có thể khẳng định được vì còn thiếu những tài liệu
gốc, nhưng những ảnh hưởng của phái Minh
sư Phật
đường đã chứng tỏ ảnh hưởng giao
lưu của phái này đối với một số đạo giáo ở đồng bằng sông Cửu Long như Tứ Ân
Hiếu Nghĩa, Hòa Hảo... Đồng thời, Minh sư Phật đường có tham gia tích cực vào
phong trào Duy Tân và Đông Du.
Qua những sự kiện
này, thực dân Pháp có luật lệ cứng rắn đối với PG. Năm 1898, Toàn quyền Đông
Dương là Paul Doumer ra nghị định, những người tu hành ở chùa phải có giấy
chứng nhận và mỗi khi làm đàn chay cúng kiến phải xin phép.
Một vấn đề khác có
tác động đến sự liên hệ giữa PG và bọn thực dân Pháp là nhà cầm quyền cai trị
lúc đó thông qua cơ quan ngôn luận Lục tỉnh tân văn đả kích đạo Phật và
tín ngưỡng dân gian. Tờ báo này, trong một số ấn hành khoảng tháng 11-1907, có
bài nói về phong tục, tín ngưỡng, tôn giáo có câu viết: “Trả PG cho Chà Và (Ấn
Độ) và Quan Công cho Chệt (Trung Quốc)”.
Vào năm 1922, một
số binh lính người Việt trong quân đội thuộc địa Pháp đóng tại Sài Gòn có hùn
hạp tiền bạc làm công quả xây một ngôi chùa có tên là Quán Thế Âm tại vùng Phú
Nhuận mà giới bình dân gọi là chùa Mạch Lô (matelot: lính thủy).
Nhà cầm quyền thực
dân Pháp ở Sài Gòn-Gia Định bắt đầu trực tiếp cho tay chân can thiệp vào PG
thông qua ông Cò-mi Chấn (Commis) là chức Tham tá làm việc ở bộ máy cai trị
của Thống đốc Nam Kỳ. Ông này được Thống đốc Nam Kỳ là Kautreimer cho phép lập
Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học và ấn hành nguyệt san Từ Bi Âm. Thống
đốc Nam Kỳ được mời làm Hội trưởng danh dự cùng một số công chức cao cấp người
Pháp và Việt là hội viên danh dự. Tháng 9 năm 1933, Cò-mi Chấn tố giác với bọn
mật thám thực dân Pháp là một số nhà sư hoạt động cộng sản đã khiến cho một số
vị tu hành bị mời lên Sở Mật thám điều tra. Chùa Sắc tứ Linh Thứu bị lục soát,
kinh sách bị tịch thu và HT Huệ Tâm bị bắt cầm tù tại trại giam Côn Đảo.
Mối quan hệ giữa
PG ở Sài Gòn-Gia Định đối với một số quốc gia có tín đồ PG đông đảo như
Campuchia và Lào được dần dần chặt chẽ. Năm 1936, Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật
học (trụ sở tại Sài Gòn) có cử một đoàn do HT Huệ Pháp làm trưởng đoàn, mang
kinh sách sang tặng cho Hội PG Campuchia và Lào, đoàn đã được đón tiếp nồng
hậu. Vào khoảng tháng 6 năm 1936, có HT Karlis Feunisons và Tăng sĩ Frédéric
N.Lustig sang thăm các chùa ở Sài Gòn. Ngoài ra, khoảng năm 1935, một vị sư là
Minh Tinh từ Sài Gòn đã hành hương sang Ấn Độ và có thỉnh được xá lợi ngọc đem
về khiến giới Phật tử phấn khởi, vui mừng.
Do ở gần nhau nên
PG Tiểu thừa ở Campuchia và PG Đại thừa ở Việt Nam, nhất là ở Sài Gòn, thường
có những giao lưu liên lạc với nhau, đặc biệt ở Nam Kỳ, số người Việt gốc
Khmer rất đông, chùa chiền sư sãi nhiều, ngay cả tại Sài Gòn-Gia Định, chùa
chiền, sư sãi, tín đồ PG Tiểu thừa không ít. Năm Canh Thìn (1940), ông Nguyễn
Văn Hiếu đại diện một số đông cư sĩ PG tại Sài Gòn lên Phnom Penh thỉnh Sư Hộ
Tông đã theo học đạo tại Phnom Penh về lập chùa Bửu Quang ở Gò Dưa, Thủ Đức.
Cũng bắt đầu từ đây, Giáo hội Tăng già Nguyên thủy Việt Nam được thành lập và
chùa Bửu Quang là ngôi chùa đầu tiên của PG Nguyên thủy ở Việt Nam.
Chúng ta cũng
không thể bỏ qua được một sự kiện lịch sử quan trọng có liên hệ với PG, hoặc
vì hoàn toàn đặt sự kiện đó trong lịch sử cách mạng ở Nam Bộ. Ở đây không khai
thác khía cạnh thuộc phạm trù lịch sử cách mạng mà chỉ muốn nêu rõ trong quá
trình PG tồn tại trong xã hội, trong nhân dân Việt Nam ở Nam Bộ, những quan
hệ, tác động qua lại không phải chỉ đơn thuần là tín ngưỡng, là đạo pháp, tôn
giáo, mà những tác động dội lại của xã hội, lịch sử, chính trị đã xuất hiện
những cái nhìn mới mẻ và rộng rãi hơn. Nếu thường tình, người tín đồ PG hay
nói: “Đạo cứu Đời” thì tác động của Đời sẽ làm Đạo đẹp hơn. Do đó, khi cuộc
Nam Kỳ khởi nghĩa nổ ra ngày 23-11-1940 do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo,
hàng vạn nông dân và những người yêu nước ở khắp Nam Bộ, đặc biệt là Hóc Môn,
Bà Điểm và vùng Cai Lậy, Chợ Bưng, Tam Bình đã nổi dậy dưới lá cờ đỏ búa liềm
để giành chính quyền. Sau một thời gian cướp chính quyền ở nhiều nơi, cuộc
khởi nghĩa bị bọn thực dân Pháp và tay sai đàn áp tàn khốc dã man bằng súng
đạn, đốt phá, chém giết, tù đày. Trong số những chiến sĩ cách mạng, có nhiều
tín đồ và nhà tu hành PG bị chém giết, bị bắt bớ tra tấn tù đày mà ta còn nhớ
được như HT Đạt Thanh (chùa Long Quang ở Hóc Môn), Yết ma Pháp Long (chùa
Thiên Quang ở Hóc Môn), Lão sư Đinh Đạo Ninh (Khánh Nam Phật đường), Sư Phước
Trí (chùa Thiền Lâm, Hóc Môn). Đây chỉ là nói ở vùng Hóc Môn mà thôi.
Tiếp tục những
liên lạc với cách mạng, ngay từ năm 1943, chùa Giác Hoàng ở Bà Điểm đã là nơi
hội họp của những nhà sư yêu nước và những cán bộ cách mạng. Đồng thời, chùa
này cũng là một trong những cơ sở hậu cứ của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945
tại vùng Sài Gòn-Gia Định.
Sau khi Cách mạng
Tháng Tám thành công và ngày 2-9-1945 Hồ Chủ tịch đọc bản Tuyên ngôn Độc lập
của Tổ quốc Việt Nam, trong cuộc mít-tinh tại trụ sở Ủy ban Khởi nghĩa (nay là
Ủy ban Nhân dân thành phố), hàng ngàn tín đồ PG và các nhà tu hành dưới sự
hướng dẫn của các HT Hồng Từ (chùa Giác Lâm), HT Hồng Kề (chùa Sùng Đức), HT
Thiện Tòng (chùa Trường Thạnh) đã tới tham dự và trưng nhiều biểu ngữ hoan hô
cách mạng thắng lợi và đề nghị PG được gia nhập Mặt trận Việt Minh.
Từ đây trở đi,
trong vận hội mới của Tổ quốc Việt
Nam - thời đại Hồ Chí Minh, ánh sáng vàng của PG Việt Nam lại càng thêm phần
rực rỡ.
Từ năm 1954 đến
1963, Diệm-Nhu đã đàn áp PG dữ dội, hàng vạn Tăng Ni bị khủng bố ở Sài Gòn như
vụå thủ tiêu Sư Thành Đạo chùa Phật Ấn; Yết ma Thiền Nghi ở chùa Đức Lâm, bắt
đày ra nhà tù Côn Đảo; Sư Minh Giác ở chùa Long Vân; Sư Huệ Chi ở Phật học
đường Chợ Lớn. Năm 1963, vào ngày Phật Đản ở Huế, Diệm-Nhu đã cho binh lính,
xe thiết giáp đàn áp Phật tử khiến nhiều người chết và bị thương. Tăng Ni,
Phật tử ở Huế đã vào Sài Gòn để tổ chức phối hợp đấu tranh. Trong khi đó, Mặt
trận Dân tộc Giải phóng miền Nam (MTDTGPMNVN) ra tuyên bố ủng hộ năm điểm đấu
tranh của Tăng Ni, Phật tử tại Sài Gòn và các tỉnh. HT Thích Thiện Hào, Ủy
viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTDTGPMNVN, đã tố cáo với thế giới tội ác
của bọn Diệm-Nhu đối với PG và gửi điện cho Ban Thư ký thường trực Hội PG Thế
giới tố cáo tội ác của bọn chúng. Ngày
11-6-1963, HT Thích Quảng Đức đã tự thiêu ở ngã tư Phan Đình Phùng-Lê Văn
Duyệt (nay là đường Nguyễn Đình Chiểu-Cách Mạng Tháng Tam). Ngay sau đó, hơn
hai chục ngàn sư sãi ở Phnom Penh
xuống đường biểu tình phản đối trước các cơ quan đại diện của Ngô Đình Diệm.
Tại một số các nước như Sri Lanka, Lào, Ấn Độ, Miến Điện (Myanmar), Nhật Bản,
Trung Quốc, Mông Cổ, Triều Tiên... đã nổ ra những cuộc biểu tình rầm rộ phản
đối sự kỳ thị tôn giáo và tội ác của Diệm-Nhu. Tại khu giải phóng miền Nam
Việt Nam
đã có buổi truy điệu HT Thích Quảng Đức do Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ và các vị
trong Chủ tịch đoàn tổ chức long trọng. Đêm 20-8-1963, Diệm-Nhu lại tiến hành
đàn áp đẫm máu tại nhiều chùa ở Sài Gòn như chùa Xá Lợi, Ấn Quang, Giác Minh,
Từ Quang...
Nhân dân ta vô
cùng căm phẫn. Ngày
25-8-1963, khoảng 50.000 đồng bào ta tại thủ đô Hà Nội đã xuống đường biểu
tình phản đối tội ác đàn áp đẫm máu sư sãi và Phật tử ở Sài Gòn, Huế và các
tỉnh. Ngày 28-8-1963,
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân danh cả nước, đã phát biểu lời tuyên bố: “Gần đây, ở
miền Nam Việt Nam
lại xảy thêm một tình trạng cực kỳ nghiêm trọng và đau thương. Bọn Ngô Đình
Diệm đốt phá chùa chiền, khủng bố sư sãi và đồng bào theo đạo Phật... Tội ác
dã man của chúng, trời đất không thể dung. Hành động hung tàn của chúng, nhân
dân ta đều căm giận. Cả thế giới đều lên tiếng phản đối, nhân dân tiến bộ Mỹ
cũng tỏ lòng bất bình” (1).
Dù có bày vẽ những
kịch bản hòng che giấu tội ác, Diệm-Nhu và tay sai cuối cùng cũng bị lột trần
bộ mặt hung ác, tàn bạo của chúng là xâm phạm tự do tín ngưỡng đối với sư sãi
Tăng Ni và Phật tử ở Sài Gòn, Huế và các tỉnh ở miền Nam Việt
Nam.
Sau ngày giải
phóng miền Nam,
thống nhất Tổ quốc, sự tự do tín ngưỡng, tôn giáo đã được thực hiện nghiêm túc
như Hiến pháp Việt Nam ghi rõ : Tôn trọng tự do tín ngưỡng, luật pháp bảo vệ
những cơ sở tôn giáo hợp pháp.
Ngày 7-8-1975, để
thống nhất những việc hoằng pháp của các Tăng Ni, các vị tu hành và các tín đồ
trong tình hình đất nước đã thống nhất, để tích cực đóng góp vào công việc xây
dựng đất nước, Ban Liên lạc PG Yêu nước TP. Hồ Chí Minh được thành lập; HT
Thích Minh Nguyệt, một nhà tu yêu nước, đã được bầu làm Chủ tịch, trụ sở đặt
tại chùa Vĩnh Nghiêm.
Trong mối giao lưu
với các tôn giáo khác ở ngoài nước, PG đã có những hành động thân hữu. Ngày 8-5-1977,
một phái đoàn Giáo hội Ky-tô thế giới được HT Thích Minh Nguyệt tiếp tại chùa
Vĩnh Nghiêm. Sau đó đã có những tiếp xúc giữa Ban Liên lạc PG Yêu nước TP. Hồ
Chí Minh với phái đoàn vô tuyến
truyền hình Mỹ NBC ngày 13-2-1977; phái đoàn truyền hình Pháp đến thăm một vài
ngôi chùa trong thành phố ngày 2-5-1977, phái đoàn PG Nhật Bản đến thăm Ban
Liên lạc PG Yêu nước TP.Hồ Chí Minh và một số phái đoàn PG ở các nước lần lượt
tới thăm thành phố và tiếp xúc với Ban Liên lạc PG Yêu nước TP. Hồ Chí Minh.
Chức sắc giới PG
thuộc Ban Liên lạc PG Yêu nước cũng như sau này của Giáo hội PG Việt Nam đã
được chính quyền tạo điều kiện đi thăm viếng giao lưu với PG quốc tế như đoàn
của HT Bửu Chơn thăm hữu nghị Phnom Penh (Campuchia) và dự lễ Đôn-ta ở đó;
ngày 17-9-1978, đoàn của HT Thích Minh Châu tham dự Hội nghị PG ở Anh quốc
ngày 19-9-1978 và sau đó sang thăm chùa Trúc Lâm được xây dựng ở ngoại ô Paris
do HT Thích Thiện Châu trụ trì, đoàn của HT Thích Trí Thủ sang Moskva dự Hội
nghị các nhà hoạt động tôn giáo chống nguy cơ chiến tranh hạt nhân từ 10-5 đến
14-5-1982; đoàn của HT Thích Minh Châu tham dự Hội nghị lần thứ V thuộc Tổ
chức Tôn giáo và Hòa bình thế giới họp tại Úc tháng 1-1989 và tại một số nước
khác.
Về các hoạt động
giao lưu đóng góp với công việc xây dựng đất nước, giới tu hành PG đã được
phép ra tờ báo Giác Ngộ (1-1-1976), lập các trường cơ bản Phật học và cao
cấp Phật học cơ sở II, tới năm 1997 thì đổi là Học viện PG Việt Nam tại thành
phố Hồ Chí Minh. Khóa học khai giảng năm 1997 là khóa thứ IV của chương trình
đào tạo theo chủ trương “Đạo pháp-Dân tộc-Chủ nghĩa xã hội” của Giáo hội PG
Việt Nam.
Một điểm đáng chú ý nữa là không ít các bậc cao tăng, Đại lão HT, Thượng tọa
(TT) , các vị tu hành và tín đồ PG ở thành phố Hồ Chí Minh đã tích cực tham
gia cách mạng dưới nhiều hình thức tại thành phố Sài Gòn (trước 30-4-1975) và
tại các địa phương các tỉnh như các HT Thích Minh Nguyệt, HT Thích Trí Thủ, HT
Thích Thiện Hào, HT Thích Minh Châu, HT Thích Trí Quảng, TT Thích Giác Toàn,
Ni trưởng Huỳnh Liên... Khá nhiều người khác đã hy sinh và bị tù đày trong các
trại giam của ngụy quyền Sài Gòn. Sự quan hệ mật thiết không chỉ hạn định
trong việc quan hệ giới tu hành PG với xã hội, cuộc đời, giữa thành phố Hồ Chí
Minh với các địa phương và nước ngoài mà còn có một nội dung khác rất đáng chú
ý. Đó là ngay trong các lớp Phật học, đặc biệt là tại Trường Cao cấp Phật học
trước đây hay Học viện PG Việt Nam hiện nay (kể từ 1997), trong giáo trình bốn
năm học đã có hai phần : nội điển (kinh, luật, luận của giáo lý PG) và ngoại
điển (triết học Mác - Lê-nin và những kiến thức cơ bản về tổ chức Nhà nước
Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân tộc học, tôn giáo học, văn học Việt Nam, mỹ
học, lịch sử Việt Nam, văn minh Việt Nam...). HT Tiến sĩ Thích Minh Châu vừa
là Viện trưởng Học viện PG Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh, vừa là đại biểu
Quốc hội nhiều nhiệm kỳ cho tới Quốc hội khóa này. Tăng Ni sinh của Học viện
đều đã học các lớp Phật học cơ bản, trung cấp và bắt buộc phải có bằng tốt
nghiệp lớp 12 trung học. Học viện ở thành phố Hồ Chí Minh chiêu sinh đều phải
thi tuyển. Sau khi tốt nghiệp Trường Cao cấp Phật học, một số Tăng Ni đã được
phép của Giáo hội và Nhà nước, đi du học ở Ấn Độ và một vài nước khác.
Như vậy, những
người tu hành còn được đào tạo để hiểu biết trách nhiệm đối với Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa, đối với xã hội, dân tộc, đồng bào mà trong giáo lý PG đã nói tới:
Ân đối với quê hương đất nước, ân đối với tổ tiên cha mẹ, ân đối với Tam bảo
(Phật, Pháp, Tăng). Tóm lại, thời đại Hồ Chí Minh, trong sự phát triển của
nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, PG tại thành phố Hồ Chí Minh cũng như
trong cả nước đã có sự chấn hưng rõ rệt, không những chỉ trong phạm vi công
tác xã hội hay nghĩa vụ công dân, mà còn được mở rộng ra cả trong phần nhận
thức luận về nội dung giáo lý tu hành và hoằng pháp trong một thời đại mới.
1998
* Hiện đang công tác tại Trung tâm
Khoa học xã hội và Nhân văn TP HCM, Giáo sư thỉnh giảng của Học viện PG Việt
Nam tại TP Hồ Chí Minh và TP Huế.
(1) Trần Văn Giàu, Miền
Nam giữ vững thành đồng, Hà Nội, 1966, tập II, tr. 354.
Phật giáo với nhân dân
Gia Định-Sài Gòn và TP Hồ Chí Minh
Hòa
thượng THÍCH NHƯ NIỆM
Gia
Định - Sài Gòn xưa và TP. Hồ Chí Minh ngày nay là một địa danh vinh quang đã đi
vào lịch sử dân tộc. Ngược dòng thời gian, thì vào năm 1698, khi lập ra phủ
Gia Định, chỉ có hai huyện Tân Bình và Phước Long. Ước tính lúc đó số dân chỉ
có vài chục vạn người, chủ yếu là dân di cư từ miền Thuận-Quảng. Vì cuộc chiến
tranh Trịnh-Nguyễn nên họ lâm vào cảnh đói rét, chết chóc, buộc phải đi “tha
phương cầu thực”. Với việc sắp đặt thành lập địa giới thì đình và
chùa cũng được dựng lên. Đình ở đây là biểu tượng của đời sống thế tục,
chùa là biểu tượng của đời sống tinh thần, thiêng liêng - thiêng liêng nhưng
không xa cách, không có sai biệt, cũng như linh thể và tục thể không đối lập
mà thống nhất đồng quy về một mục đích, đạt tới chân lý con người. Hiện nay
đình làng Phú Nhuận (Phú Long), chùa Từ Ân, chùa Khải Tường, Giác Lâm, Giác
Viên... và biết bao nhiêu đình, chùa khác nữa không phải là một bằng chứng
lịch sử Phật giáo (PG) có mặt sớm từ buổi đầu hình thành Gia Định - Sài Gòn đó
sao?
Tôi không dám bàn
sâu về mối quan hệ PG với cộng đồng dân cư đã và đang sống trên mảnh đất Gia
Định-Sài Gòn này, nhưng có một số điều rõ nét xin đưa ra:
- Ở đình, ngoài sự
ảnh hưởng của PG trong lễ tống ôn, tống khách, các lễ nghi liên quan đến vong
hồn cô độc, còn thâm nhập nghi thức tụng kinh cầu an. Cầu an như là một nghi
thức đầu tiên nhằm mục đích cầu xin sự an lành cho dân làng, cho một cộng đồng
dân cư địa phương. Người đứng lễ không ai khác chính là nhà sư hoặc thầy cúng,
tụng kinh Phổ Môn, đọc sớ... Bàn thờ cúng, thờ ảnh Phật Quan Âm. Gặp
hoàn cảnh khó khăn nhất, ngặt nghèo nhất, tiếng phát ra đầu tiên ở miệng người
ta là: “Nam mô A Di Đà Phật”, “cầu Trời, khẩn Phật”, “lạy Phật”. Ở đất Gia
Định - Sài Gòn này từ xưa đến nay đại bộ phận tín đồ theo đạo Phật, và những
gia đình mới hiểu ít về đạo Phật họ đều thờ ảnh Phật. Thờ Phật như là một nhu
cầu tâm linh không thể thiếu được, vì họ tin Phật, muốn gởi gắm nơi đức Phật
một ngưỡng vọng, cầu sự yên ổn, tốt lành, hạnh phúc. Tất nhiên đâu phải người
nào cũng hiểu ý niệm về cái Bi, cái Trí, cái Dũng, về Vô thường, Vô ngã... của
đạo Phật.
Song song với sự
phát triển kinh tế, chính trị thì chùa, thiền viện cũng được xây dựng khắp
nơi. Ở đâu có dân sinh sống ở đó có chùa, có thầy. Như đã nêu ở trên, con
người ta ngoài nhu cầu ăn mặc, còn phải tĩnh lặng chiêm nghiệm cuộc đời, gỡ
rối khó khăn bằng tâm linh, thường họ đến chùa. Xin đưa ra một vài con số để
minh chứng. Chùa, Tăng sĩ, tín đồ ngày một phát triển: - Năm 1899: Ở
Gia Định có 305 ngôi chùa; Tăng sĩ: 82; Sư cô: 49 và 211.057 Phật tử. Năm
1963: Ở Gia Định có 246 chùa, ở đô thành Sài Gòn: 180 chùa. Năm 1994:
TP Hồ Chí Minh có 921 chùa và hàng triệu tín đồ. (Theo tài liệu của Trung
tâm Lưu trữ quốc gia II và Thành hội PG TP. Hồ Chí Minh).
Một đặc điểm bao
trùm, đậm nét nhất là PG Việt
Nam bao giờ cũng gắn liền với dân tộc; thịnh suy, vui buồn cùng tồn tại bên
nhau. Trong công cuộc chống ngoại xâm để bảo vệ đất nước, chùa chiền, tu sĩ,
tín đồ theo đạo Phật ở Gia Định-Sài Gòn không tách ra khỏi vòng xoáy đó. Nhiều
chùa đã trở thành cơ sở cách mạng, nuôi giấu cán bộ, làm nơi hội họp như chùa
Long Thạnh, Giác Lâm, Pháp Hoa, Từ Vân, Phổ Quang... nhiều Tăng sĩ Phật giáo
tùy hoàn cảnh hoặc “cởi áo cà sa, khoác chiến bào” hoặc ẩn mình dưới “mái chùa
che chở hồn dân tộc”, như Hòa thượng (HT) Minh Nguyệt,
sư Thiện Chiếu và hình ảnh Ni sư Huỳnh Liên cùng đoàn Ni giới
PG xuống đường biểu tình chống Thiệu, đòi hòa bình.
Ngọn đuốc thiêng
của HT Thích Quảng Đức và nhiều Tăng Ni ẩn tích vô danh khác là bản anh hùng
ca bất tử. Khi thực dân Pháp đánh chiếm Gia Định-Sài Gòn, chúng đã tuyên bố:
“PG còn thì dân tộc Việt
Nam còn”, nên chùa chiền, Tăng sĩ là đối tượng triệt hạ của chúng. Theo sử
sách còn ghi lại, thực dân Pháp tìm cách xóa bỏ những chùa lớn, mặt đường, chỉ
để lại ít chùa nhỏ trong hẻm. Mục đích của chúng là làm thay đổi đức tin. Như
chùa Kim Chương, chùa Phật lớn
(đường Nguyễn Trãi ngày nay), chùa Hải Tường, chùa Pháp Võ (bệnh viện Chợ Rẫy), chùa Chúc Thọ (xóm
thuốc, Gò Vấp)...
Tổ chức từ thiện -
xã hội là bản chất vốn dĩ của Phật. Đạo Phật sớm đi vào nhân dân Gia Định-Sài
Gòn và TP. Hồ Chí Minh từ buổi đầu. Chủ trương là khuyến thiện, cổ động hành
vi công ích cứu tế, giúp người neo đơn, tàn tật, trẻ mồ côi, cho thuốc chữa
bệnh, đã thu hút cảm tình và niềm tin tôn trọng của mọi người.
“Dù xây chín bậc
phù đồ,
Không bằng làm
phước cứu cho một người”
Từ trước, hầu hết
các chùa đều có phòng thuốc
Nam từ thiện giúp đỡ cho đồng bào. Chỉ tính vào những năm chống Mỹ, nhiều tổ
chức từ thiện PG ra đời, nhà cô nhi viện Quách Thị Trang, Lâm Tỳ Ni, Hội Từ
thiện Việt-Hàn... ngoài yếu tố tích cực giúp đỡ vật chất cho người bất hạnh,
còn nhiều chuyện phải bàn, phân tích sâu sắc hơn để hiểu rõ mục đích đa dụng
của nó.
Tuệ Tĩnh đường,
trung tâm nuôi dạy trẻ khuyết tật, cô nhi viện, hoạt động cứu trợ đồng bào bị
thiên tai lũ lụt, xóa đói giảm nghèo, xây nhà tình nghĩa, trường học... được
diễn ra liên tục ở các chùa, tịnh thất, tịnh xá, niệm Phật đường, vòng hơn 20
năm qua thật sự có ý nghĩa, xuất phát lòng từ bi, cứu khổ, cứu nạn của đạo
Phật. Đạo đức của PG đã có ảnh hưởng vô cùng to lớn trong môi trường sống hiện
tại của TP. Hồ Chí Minh ngày nay; bởi vì đạo Phật là tiếng nói của một con
người gởi tới những con người khác, để cùng giúp nhau vượt qua bể khổ cuộc
đời. Vì vậy, đạo Phật mang tính xã hội và đạo đức rất cao. Đạo Phật đâu chỉ
dừng lại công việc chia sẻ xã hội: hòa bình, thịnh vượng, công bằng; mà hướng
người ta lấy điều thiện làm lẽ sống, làm phương tiện và mục đích thăng hoa cho
con người - xã hội. Chỉ định luật nhân quả và nghiệp báo đủ lý giải hết bản
chất của đạo Phật.
Từ phần trình bày
có tính chất sơ lược ở trên, chúng ta có thể đi đến kết luận: Đạo Phật đã
chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống của người dân Gia Định-Sài Gòn và
TP. Hồ Chí Minh từ ngày thành lập cho đến nay.«
Phật giáo Sài Gòn trong lịch sử
300 năm của TP Hồ Chí Minh
Cư sĩ Nguyễn Văn Hàm
Nguyên Ủy viên HĐTS GHPGVN
Nguyên Phó ban Tôn giáo TP
Nguyên Phó Chủ tịch UBND TP
Nguyên dân biểu đối lập
Nguyên Ủy viên Tổng vụ Cư sĩ GHPGVNTN
Cách
đây 300 năm, năm 1698, chúa Nguyễn lập nên trấn Gia Định, cử Lễ Thành hầu
Nguyễn Hữu Cảnh trấn nhậm, nên năm nay ta mới có kỷ niệm ba trăm năm Sài Gòn.
Dưới mắt các nhà sử học được đào tạo chính quy, từng phải nghiên cứu phương
pháp sử học, niên biểu học, quan chế học... thì cụm từ "ba trăm năm Sài Gòn"
chưa chỉnh lắm, vì đất Gia Định hồi đó không chỉ gồm có Sài Gòn hiện nay mà cả
đất Nam bộ, và sau đó, cho đến
trước hiệp ước Nhâm Tuất (1862),
Gia Định là một trong 6 tỉnh: Biên Hòa, Gia Định, Định Tường (miền Đông) và
Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên (miền Tây). Sài Gòn nay là thành phố Hồ Chí Minh
thực chất vẫn là trung tâm văn hóa, chính trị, kinh tế của cả các tỉnh phía
Nam, cho nên khi nói Phật giáo (PG) và 300 năm Sài Gòn thì hàm chứa ý nghĩa PG
và 300 năm phát triển của cả Nam bộ,
mang tính chất bất khả phân ly của một vùng đất mới khai phá rộng lớn, đồng
bằng sông Đồng Nai và sông Cửu Long. Ba trăm năm nay, PG đã đóng góp gì cho
Sài Gòn (tên cũ là Sài Côn), cho đất Nam
bộ, mà ông cha ta, trong cuộc
Nam tiến cần mẫn, đầu thế kỷ mười lăm theo chân nàng công chúa quốc sắc thiên
hương Huyền Trân “nước non ngàn dặm ra đi” vào đến hai châu Ô và Lý (Quảng
Nam-Quảng Ngãi).Sau thời gian ổn định, năm 1558, tiên chúa Nguyễn Hoàng vào
trấn thủ Thuận Hóa, đã mở mang bờ cõi cho ông bà các dòng họ chúng ta lại từ
căn cứ Ngũ Quảng (Bình, Trị, Đức, Nam, Ngãi) mà chân cứng đá mềm tìm kiếm một
cách không ngừng nghỉ một bình nguyên mới, đã vào đến đây, nói như lời thơ
Huỳnh Văn Nghệ, lời thơ mà các bạn trẻ ở
thành đoàn đã
tặng tôi trong cánh thiếp chúc xuân
1975 (trước giải phóng).
Cho con núi rộng sông dài
Cho con lưỡi kiếm
đã mài nghìn năm.
Ông cha chúng ta
từ miền Bắc vào tới miền Trung, rồi lại từ miền Trung vào tới miền
Nam. Ông cha ta đi đến đâu thì chùa chiền mọc lên đến đấy, mở mang ruộng rẫy,
dạy cho cháu con làm lành tránh dữ.
“Thiền sư bất trảm
thảo”, nhưng sư Hồng Ân ở Tân
Kiểng bây giờ, ngày xưa từng đánh cọp dữ, bảo vệ dân làng. Đó là một nhà sư
không phải chỉ của kinh sách mà còn của đời sống, tha thiết với mối an nguy
của chúng sanh. Nông thiền là hình thức sản xuất lúa nước quen thuộc của nhà
chùa: chùa Thiên Mụ xã Mỹ Lộc, trùng tên với ngôi đại cổ tự mà tiên chúa đã
xây giữa thế kỷ XVII (1621) bên bờ sông Hương, có cả một vùng ruộng lớn từ ba
trăm năm trước. Nay, còn dấu tích chỉ cách Sài Gòn non vài chục cây số. Nhưng
không phải chỉ có PG làm cho Sài Gòn mà ngược lại, mối quan hệ tương tác chẳng
khác nào các hạt cơ bản của nguyên tử trong vật lý lý thuyết, Sài Gòn, miền
đất mới cũng mang lại cho PG Việt Nam một sắc thái vô cùng đặc biệt. Đó là PG
300 năm Sài Gòn, PG Nam bộ. Phật
giáo đó có gì lạ?
Nếu PG miền Bắc,
trải qua hàng ngàn năm phát triển cùng lúc với chế độ phong kiến trung ương
tập quyền, thì dù xưa kia không mang tính thiệp thế, nó vẫn ít nhiều chịu ảnh
hưởng cung đình, từ kiến trúc, cách thờ tự cho đến tôn ty trong
tăng giới thì đạo Phật Sài Gòn
ba trăm năm là một thứ đạo Phật rất bình dân với những ông đạo Ghe, đạo Dừa,
đạo Chuối, ông sư Vãi bán khoai, ẩn tích vào trong cỏ nội hoa ngàn và sẵn sàng
xuất hiện cứu dân độ thế như một thảo dã anh hùng rất Nam
bộ. Hay như ông Bụt của nàng Tấm trong cổ tích luôn hiện ra
hỏi “vì sao con khóc?” để lúc nào cũng có cách cứu giúp, bố thí thật cụ thể và
kịp thời. Đạo Phật Sài Gòn là thứ đạo Phật thật dân dã, nó diễn giảng giáo
pháp của đức Thế Tôn một cách
thực dung dị: “Có đạo, mới có gạo nấu”. Thiền tông Lâm Tế từ Trung Hoa truyền
sang đây đã được Việt hóa cụ thể nhất bằng hình thức quấn chiếc y vàng Nam
tông mà kinh kệ thì Bắc tông, lại diễn ra bằng những câu ca dao dễ hiểu, dễ
nhớ mà ta có thể lấy phái khất
sĩ của tổ sư Minh Đăng Quang làm
một ví dụ. Cũng thật dễ hiểu khi phái đó cung cấp cho thời đại một vị nữ tu
kiên quyết đi theo cách mạng, đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc trước
đây: ni sư Thích nữ Huỳnh Liên.
Nếu ta vận dụng Loi des tris états của Auguste Comte vào bối cảnh của ba trăm
năm trước thì Sài Gòn bấy giờ đầy cá sấu, hùm, beo, rắn độc, phải có những nhà
truyền giáo, đây là những nhà sư, nhân danh Trời Phật hướng đạo thì dân chúng
mới đủ sức tin mà dấn thân vào chốn còn hoang vu, luôn bị đe dọa bởi bão lụt,
dịch bệnh, sấm sét. Lịch sử đã chứng minh rằng, sự tuyên úy tinh thần đó thật
là cần thiết trong bước sơ cơ của những người dân định cư của bất cứ dân tộc
nào thời xưa. Ông đạo vừa sống đời, chặt cây làm chiếc am, sạ lúa để có cái
ăn, vừa sống đạo, giảng giải đạo lý bằng những lời lẽ mộc mạc quê mùa. Trời
Phật qua nhà sư, trở thành chốn nương tựa tinh thần của dân khẩn hoang để họ
có thể an tâm cuốc cày, đoàn kết, chịu đựng sơn lam chướng khí, dần dà khắc
phục những bất trắc của thời tiết, những thịnh nộ của thiên nhiên, thuần hóa
đất đai, thích nghi với thủy tổ, tích trữ lương thực, sinh con đẻ cháu, dưới
sự dìu dắt của những nhà sư, dĩ nhiên vị nào cũng có cái học Nho uyên thâm,
từng bước chăm lo “thứ chi, phú chi, giáo chi”, quá trình tất yếu của các cuộc
dinh điền. Có thể giả định là một thế chân vạc, một loại tam đầu chế không cần
công cứ mà nảy sinh theo đúng yêu cầu của cuộc sống, bấy giờ đã hình thành.
Quan lại, binh
lính triều đình các chúa Nguyễn giữ vững biên cương.
Các tiền và hậu
hiền từng địa phương lãnh đạo, đốc thúc dòng họ mình tận lực gia công khẩn đất
(Thiên hà ngôn tai nhi tứ thời hành yên, nam nữ cấu tinh nhi vạn vật hóa dục).
Và các nhà sư,
trong các ngôi chùa lá ẩn khuất trong từng thôn xóm đóng hoàn hảo vai trò
tuyên úy, dìu dắt tinh thần cho từng cộng đồng nông thôn.
Như thế, đến nay
đã ba thế kỷ. Trong mỗi giai đoạn lịch sử, PG có cái cách đóng góp riêng của
mình, có lúc là hóa giải các dị biệt để dân tộc thống nhất mà chiến thắng xâm
lăng như thiền sư Vạn Hạnh đã
giúp Lý Thái Tổ, có lúc một vị về sau trở thành Sơ
tổ Thiền tông nước ta, Trúc Lâm Đầu Đà Trần Nhân Tông đích
thân cầm quân đánh giặc. Cái chung nhất cho đạo Phật với dân tộc hơn hai ngàn
năm nay, là luôn luôn hiếu hòa, tĩnh lặng, tan vào trong hồn dân tộc, như một
cánh cò trắng trên cánh đồng, như một lời ca dao:
Dẫu xây chín đợt
phù đồ
Không bằng làm
phúc cứu cho một người.
Cho nên tôi chỉ
xin nói đến đóng góp của PG Sài Gòn, không đến những ba trăm năm, mà chỉ một
phần mười khoảng thời gian ấy thôi, PG Sài Gòn ba mươi năm: 1955-1985, mà tôi
đích thân là chứng nhân trước bao tấm gương PG sáng chói, trong đấu tranh cho
độc lập, trong phẩm cách cao quý cũng như trong lập ngôn để lại cho mai sau.
Trước hết, những người PG Việt
Nam trên khắp đất nước phải biết cảm ơn Sài Gòn. Vì chính tại đây, từ những
năm 20, hạt giống đầu tiên của phong trào chấn hưng PG đã nảy mầm tại chùa
Giác Hải của thiền sư Từ Phong.
Và cũng chỉ có Sài Gòn mới có được một ngôi chùa như Ấn Quang, chẳng những là
nơi tiến hành cuộc thống nhất đầu tiên(1) và
là trung tâm chống Mỹ-ngụy suốt hai mươi năm (55 - 75) cũng như nòng cốt cho
công cuộc vận động cho Giáo hội PG Việt Nam 75 - 81 sau này. Từ thập kỷ 20,
chính Sài Gòn đã giúp cho các vị cao tăng như Khánh Hòa, Huệ Quang, Khánh Anh,
Trí Thiền, Thiện Chiếu... một tầm nhìn xã hội và tôn giáo mình để dựng lên
ngọn cờ đầu cho một phong trào rộng lớn khắp nước mà Trung
kỳ rồi Bắc
kỳ bắt chước làm theo: Hội Nam
Kỳ Nghiên cứu Phật học cùng hai người em của nó, Lưỡng Xuyên và Kiêm Tế, đã
tiên phong xuất hiện cho các hội
Phật học An nam và Bắc kỳ ra đời
sau đó. Chẳng những thế, sư
Thiện Chiếu ở chùa Linh Sơn (149 đường Cô Giang, quận 1) có lẽ là nhà sư đầu
tiên nghiên cứu chủ nghĩa Mác và gia nhập Đảng Cộng sản, Đảng đã thổi một
luồng sinh khí mới vào lòng yêu nước vốn có của những người PG Việt Nam. Sài
Gòn khai sáng cho tổ chức, Sài Gòn cung cấp nơi chốn và quần chúng cho tổ chức
(quần chúng và chùa Ấn Quang), Sài Gòn của đất lành chim đậu, có thể biến quýt
chua thành ngọt, làm xuất hiện những nhà lãnh đạo chơn tu vàâ yêu nước khiến
Đạo có thể tròn nhiệm vụ của mình đối với Đời, chỉ nói trong khoảng ba mươi
năm thôi đã có cơ man là những tấm gương sáng chói, ta chỉ có thể khái lược
qua ba giai đoạn: một từ 1955 đến 1963, hai từ 63 đến 75 và ba, từ 75 đến 85.
Hãy xem trong ba mươi năm ấy, thời gian gấp hai lần để nàng Kiều có thể qua
bên kia sông Tiền đường, giã từ
bao trôi nổi của số phận mà đạt một cuộc sống thanh thản tu hành, thanh bình
của Tam Hợp đạo cô. Sở dĩ PG Sài Gòn có duyên đóng góp vào vận mạng của cả dân
tộc trong thời gian cận đại, nét son trong lịch sử Sài Gòn ba trăm năm, vì bấy
giờ, Sài Gòn là đầu não của ngụy quyền, các vị
thiền sư và Phật tử Sài Gòn, do
duyên nghiệp đã tụ lại đây trong một cuộc đối đầu trực diện với xâm lăng.
A/ Giai
đoạn tiền thống nhất (1955-1963)
Ngay sau khi nhận
lệnh Mỹ về Việt Nam, hất Bảo Đại, Ngô Đình Diệm quyết tâm tiêu diệt người yêu
nước, đề ra “quốc sách tố Cộng”, lê máy chém đi khắp nơi, lập ấp chiến lược
giam dân chúng mà đa phần là Phật tử trong vòng kềm kẹp. Nhưng những hành vi
tàn ác đó không ngăn cản được những người con Phật. Cố Hòa thượng (HT) Thích
Thiện Hào ra chiến khu, Thích Minh Nguyệt bị tù đày Côn Đảo, nữ đạo hữu Nguyễn
thị Thanh Quyên luôn nhiều năm
trong khám đường Sài Gòn, người con dâu của đ/c Võ Văn Tần đã xuất gia nhưng
vẫn dùng chùa mình làm nơi giao liên, tiếp tế thuốc men vũ khí. Đồng thời ở Củ
Chi, Bà Điểm, Hóc Môn, và cả Phú Thọ Hòa, sát hang ổ địch vẫn là căn cứ quần
chúng, bí mật đào hầm, nuôi giấu cán bộ, đặc công, bộ đội kháng chiến. Chùa
Thiên Tôn, đường Trần Hưng Đạo, quận 5, là nơi các đ/c lãnh đạo Thành ủy từng
nhiều lần về hội họp chỉ đạo phong trào. Đồng thời, Diệm lợi dụng đạo Công
giáo, gán chiêu bài và xúi giục người Công giáo chống Cộng. Bắt người lương và
Phật tử phải theo đạo Thiên Chúa thì người PG Sài Gòn đã chống lại: không chịu
vào đạo vì bị bắt ép, không nhận rửa tội để ra khỏi trại giam.
hành động thất nhân tâm của Diệm đã bị phản tác dụng: để biểu
thị thái độ chống Mỹ-Diệm, những người lương vào PG. Vào PG ở thời điểm đó là
một hình thức của lòng yêu nước. Bị đe dọa, bắt bớ - mặc, các chiếc am tranh
chùa lá Sài Gòn cứ mọc thêm lên như một thách thức, chống đối Diệm. Khởi đầu
là đi lễ chùa, bị bắt bỏ tù. Ra: lại tham gia hội thảo, phát truyền đơn, tuyệt
thực, biểu tình. Cuối cùng, liên lạc với cách mạng để hoạt động có tổ chức và
bảo đảm thành công hơn. Đấy là con đường mà biết bao người con Sài Gòn đã đến
với Đảng, thông qua PG. Tất cả áp bức, khủng bố, dồn nén đó lâu ngày uất tức,
đến năm 1963, bùng nổ thành quả bom nguyên tử. Năm ấy, Vĩnh Hội, quận 4, có
hỏa hoạn làm hàng ngàn gia đình nghèo khổ lâm cảnh màn trời chiếu đất. HT Hội
chủ Thích Tịnh Khiết thông bạch cho các nơi tổ chức Phật Đản đơn giản để dành
tiền cứu trợ. Ở Huế, việc treo cờ và loan báo chương trình bị chế độ Diệm ngăn
cản, từ đó xảy ra cuộc tuần hành chiều 7-5-63 (14-4 âm) của Phật tử đến
đài
phát thanh, rồi súng, lựu đạn
nổ, 8 người chết, 4 bị thương, có 3 em bé nát đầu. Sài Gòn lập tức cầu siêu.
Ngày 21-5, hơn một ngàn tăng
ni Sài Gòn từ chùa Ấn Quang rước
vong các nạn nhân về chùa Xá Lợi, trong khi đó gần 400
tăng ni khác từ
Xá Lợi diễu hành xuống Quốc hội ngang qua chợ Bến Thành. Cũng chỉ với sự trẻ
trung và tính năng nổ của một Sài Gòn yêu nước, ngày 25-5, một Ủy ban
liên phái PG ra đời, trực tiếp
dàn trận đối đầu với Diệm bằng một bản tuyên ngôn mang chữ ký của hầu hết giáo
lãnh các môn phái có mặt tại hòn
ngọc Viễn Đông vào lúc ấy: Tịnh Khiết, Minh Trực, Thiện Hòa, Thanh Thái, Bửu
Chơn, Lâm Em, Mai Thọ Truyền, Sơn Thái Nguyên, Nguyễn Văn Hiếu... hàng trăm
chùa, hàng ngàn tăng
ni ở Sài Gòn tổ chức tuyệt thực chống độc tài và đàn áp tôn
giáo. Sài Gòn - trung tâm PG đã chuyển mình, thì bốn bề, các tỉnh miền Đông,
miền Tây Nam bộ và miền Trung cũng rừng rực lửa đấu tranh. Ngụy quyền ngăn
chặn các cửa ngõ vào thành phố nhưng vô hiệu, bằng đường mòn ngõ tắt, nghe
tiếng gọi của Sài Gòn, Phật tử các nơi vẫn đổ về hòa nhịp trái tim mình với
nội đô. Rồi từ một ngôi chùa lá nhỏ ở Phú Nhuận, một nhà sư già, ốm đã đến
chùa Xá Lợi, điềm tĩnh ra ngã tư Lê Văn Duyệt - Phan Đình Phùng để tự mình
biến thành bó đuốc sống cảnh tỉnh Ngô Đình Diệm và cả loài người vô minh. Đó
là ngày 11-6-1963,
cả thế giới bàng hoàng rúng động, biết đến Sài Gòn, biết đến Việt Nam. Ở thời
đại của chúng ta, có ai trở thành Bồ Tát chưa? Nhưng thế giới đã tôn xưng Ngài
là Bồ Tát, ngài đã hóa thân ở
Sài Gòn, dù Sài Gòn chỉ mới có ba trăm năm.
Từ đó Sài Gòn lên
cơn sốt, suốt một trăm ba chục ngày, ngày nào cũng có tuyệt thực biểu tình.
“Sài Gòn đẹp lắm, Sài Gòn ơi”, đã có một bài hát như thế. Phải, nhất là
Sài Gòn PG ba mươi năm đó. Những nữ sinh PG xinh đẹp, tươi thắm mộng đời, đã
biết từ bỏ cái quý nhất là mạng sống của mình mà hy sinh cho dân tộc, tất cả
đều rất trẻ: Nhất Chi Mai, Quách Thị Trang, Mai Tuyết An. Một
bộ trưỏng ngoại
giao của PG Sài Gòn cạo đầu, một nhà văn Phật tử Sài Gòn dùng độc dược quyên
sinh, những người đó ở một nhãn quan chính trị khác có thể bị phê phán, nhưng
hành động của các Phật tử đó đã có một thời đánh động đến lương tâm nhân loại
và không phải là không có góp phần vào thắng lợi của nhân dân ta vào
30-4-1975.
Sau khi
bồ
tát Thích Quảng Đức tự thiêu,
đến 20-8-1963, Sài Gòn có bốn cuộc biểu tình lớn: 19-6 đưa Ngài vào An dưỡng
địa Phú Lâm, 10 và 17-7 phẫn nộ kéo đến tư gia Đại sứ
mỹ, 17-7 biểu tình ra chợ Bến
Thành rồi về Xá Lợi, tuyệt thực, bị đánh đập, máu me nhuộm đỏ bê bết bao tấm
cà sa, lia lên xe nhốt chó rồi mang ra Phú Lâm giam giữ. PG Sài Gòn là tấm
gương để cả miền Nam noi theo trong đấu tranh chống Mỹ-Diệm bấy giờ: các
tăng
ni Nguyên Hương ở Phan Thiết,
Thanh Tuệ và Tiêu Diêu ở Huế, Diệu Quang ở Ninh Hòa, tự thiêu. Càng đàn áp,
phong trào càng lên mạnh, ngoan cố và điên cuồng, ngày 20-8-63, Diệm-Nhu tấn
công tất cả các chùa chiền Sài Gòn và miền Nam, Phật tử gọi là ngày Pháp nạn,
được ví với thời kỳ tam Võ nhất Chu bên Tàu, hàng vạn
tăng
ni và cư sĩ bị bắt giam. Năm hôm
sau, học sinh, sinh viên các trường đại học, trung học, công và tư Sài Gòn
nhất tề đứng dậy. Trong một đoàn biểu tình ra chợ Bến Thành hôm ấy, nữ sinh
Quách Thị Trang bị bắn chết. Gần như tấm gương Thích Quảng Đức, sự hy sinh của
Trang như một phát pháo lệnh làm bùng nổ những cuộc đấu tranh dữ dội của giới
trẻ làm rung chuyển Sài Gòn, cả nước và thế giới Á-Phi, khiến Liên hiệp quốc
phải cử một phái đoàn đến để điều tra tội ác của Diệm-Nhu. Cuối cùng, Sài Gòn
mở đầu bằng ngọn lửa Quảng Đức, cũng khép lại trang khuyết sử bạo quyền bằng
bó đuốc Quảng Hương. Hai vị sư, một già một trẻ, cũng từ vùng đất thiêng Sài
Gòn thắp lên ánh sáng xua đuổi được đêm tối của vô minh. Tất cả đã dẫn tới
việc sụp đổ hoàn toàn chế độ độc tài gia đình trị Ngô, góp phần vào việc phát
triển các lực lượng giải phóng miền
Nam của Mặt trận Dân tộc Giải phóng (MTDTGP). Đấy, chín năm của giới PG Sài
Gòn đóng góp vào lịch sử 300 năm của thành phố (1954-1963).
B/ Mười
hai năm PG Sài Gòn chống Thiệu (1963-1975)
Chín năm chống
Diệm, PG Sài Gòn vừa nhằm tiêu diệt một chế độ độc tài, vừa mặc nhiên biết
rằng mình gián tiếp tiếp sức với MTDTGP miền
Nam làm lỏng chân Mỹ-ngụy. Những cuộc đấu tranh cũng mang lại cho PG Sài Gòn
bài học về tinh thần đoàn kết. Riêng nội bộ Bắc tông, không thể giữ nguyên
trạng sáu tập đoàn, một tăng già, một cư sĩ cho mỗi miền mà có thể làm bất cứ
điều gì từ giữ gìn giáo luật, hoằng khai chánh đạo cho tới đào tạo
tăng tài, lập trường học phổ cập đại chúng... huống chi là
thống nhất với các môn phái khác như Nam tông, Nguyên thủy, Cổ sơn môn, Lục
hòa tăng... Ủy ban
liên phái ra đời trong thời gian
ngắn ngủi tàn canh nhà Ngô có thể xem như một tiền diễn tập cho công cuộc
thống nhất. Cho nên, sau khi nhà Ngô đổ, Sài Gòn cũng cầm đầu cho cả miền Nam
bấy giờ thực hiện thống nhất PG. Lại một điểm son nữa cho 300 năm thành phố:
tại chùa Xá Lợi, ngày 4-1-1964, 11 tập đoàn PG cùng ký tên vào một văn kiện
khai sinh Giáo hội thống nhất.
Giáo hội thống nhất đâu dè rằng,
lịch sử của Sài Gòn đã trao vào tay mình một công cuộc cực kỳ khó khăn và gian
khổ đến thế. Là suốt mười hai năm sau đó phải đối địch với những kẻ cầm đầu
một cuộc chiến tranh quy ước ác liệt nhất thế kỷ, bằng những phương tiện giết
người hiện đại nhất, xuất phát từ một quốc gia đệ nhất siêu cường: khi những
tà áo nâu sồng, cuộc sống muối dưa đạm bạc qua bữa, những lời kinh từ hòa, và
đám tín đồ nghèo khổ chất phác phải hứng chịu hàng triệu tấn bom, phải chết
đói, phải làm bia đỡ đạn ngoài chiến trường...
1. Ngay sau khi
Diệm bị giết, PG Sài Gòn đã sớm thấy rằng Mỹ chưa từ bỏ ý định xâm lược Việt
Nam mà việc họ gật đầu cho các tướng lãnh làm đảo chánh chỉ là để thay ngựa
giữa dòng, thiết lập một thứ ngụy quyền khác, một “chính phủ Diệm không có
Diệm” theo thuật ngữ thời bấy giờ mà thôi. Cho nên PG chẳng lấy gì làm ngạc
nhiên khi Nguyễn Khánh đã bày trò “chỉnh lý” vào ngày 30-1-1964 và kết tội
Dương Văn Minh là trung lập. Suốt năm 1964, Ấn Quang phải chật vật đối phó với
một là công cụ của quân phiệt tức Hiến chương Vũng Tàu của Nguyễn Khánh và hai
là chính phủ chống cộng cứng rắn
Trần Văn Hương. Ngày 16-6-1964, Khánh tuyên bố
hiến chương quân phiệt thì cũng
từ đó, Phật tử Sài Gòn bày tỏ ngay thái độ chống đối, biểu tình khắp nơi,
tăng ni tuyệt thực. Ngày
25-8, học sinh sinh viên kéo nhau ra chợ Bến Thành kỷ niệm một năm ngày Quách
Thị Trang hy sinh và đả đảo quân phiệt, độc tài, đông đảo đến nỗi Khánh cũng
phải gờm và buộc lòng hoan hô Phật tử, đả đảo chính mình, xé
hiến chương, cạo bộ râu cằm hài hước, hứa từ bỏ bớt quyền
hành.
2. Chống
chính phủ Trần Văn Hương : Lại
mọc lên tại Sài Gòn một tập đoàn chống cộng, tự xưng là chuyên viên và có tính
cách kỳ thị địa phương. Lên ngôi được chỉ 5 ngày, ngày 6-11-1964, học sinh,
sinh viên Phật tử các trường Sài Gòn đã mít tinh hội thảo đả đảo Trần Văn
Hương. Miền Nam lại sục sôi khí thế đấu tranh chống ngụy quyền. Ngày 22, học
sinh trường Hồng Lạc, Chu Văn An dùng gạch đá đánh nhau với cảnh sát, chính
quyền phải điều động lính nhảy dù đến đàn áp, ông Hương gọi các
tăng
ni chống đối là “những lưu manh
cạo đầu bận áo cà sa toan nướng chả” và đòi đánh đòn các sinh viên học sinh
Phật tử. Trong những trận xáp lá cà đó, hàng trăm người bị thương, học sinh Lê
Văn Ngọc bị chết, hơn 300 bị bắt, các trường học phải đóng cửa. Ngày 20-11,
đức tăng thống và các
thượng tọa (TT) Tâm Châu, Thiện Hoa, Trí Quang, Pháp Trí, Hộ Giác, Minh
Châu... tuyệt thực phản đối chính
phủ Hương đàn áp Phật giáo. Khắp nơi biểu tình bạo động, sinh viên Phật tử kéo
tới tòa Đại sứ Mỹ đòi quyền dân tộc tự quyết, đốt thư viện Mỹ.
Nhưng cũng phải chờ tới khi nữ Phật tử Đào Thị Yến Phi tự mình biến thành bó
đuốc, trước Tết Ất Tỵ mấy hôm, Hương mới đổ.
3. Chống cái gọi
là Ủy ban lãnh đạo Quốc gia của
Thiệu và chính phủ Bắc tiến
Nguyễn Cao Kỳ (1965-1966), Phật giáo chỉ có tấm lòng và bao giờ cũng đứng về
phía nhân dân. Con người thể hiện trọn vẹn đường lối ấy là cố Hòa thượng (HT)
Thích Thiện Hoa. Sinh thời, ông đã thuyết phục được các vị trong Giáo hội
Thống nhất của ông luôn đứng trên lập trường dân tộc. Một phần tư thế kỷ sau
ngày ngài viên tịch, hôm nay ta có thể bình tâm thấy rất rõ điều ấy. Ba năm
xáo trộn đủ cho những người Mỹ hiếu chiến bấy giờ gây ra vụ tàu Madox mà lấy
cớ ném bom miền Bắc rồi đưa quân vào Việt Nam, theo một tài liệu thì tới ngày
30-6-65 lên đến 2.563.861 người! Trước đó, ngày 19-6, Thiệu-Kỳ lên ngôi nguyên
thủ và thủ tướng ngụy quyền. PG
Sài Gòn, cụ thể là Giáo hội thống
nhất ngày đó tự cho mình có cái trách nhiệm vì nhân dân cương quyết và cực lực
chống xâm lăng và tay sai. Ròng rã trong mười năm liền (1965-1975), chùa Ấn
Quang của Sài Gòn là trung tâm chống Mỹ-ngụy, bao che, nuôi giấu cán bộ, trao
những chức vụ trong cơ cấu của mình (thành viên
hội đồng Tổng vụ,
vụ trưởng,
tổng thư ký...) cho một
số anh em hoạt động nội thành nắm để bí mật tổ mật tổ chức đoàn ngũ, tiến hành
các cuộc đấu tranh chính trị có, võ trang có, theo ba phương châm chiến lược:
nông thôn, thành thị và binh vận. Phải mấy ngàn trang tham luận mới kể hết
những hoạt động của PG Sài Gòn suốt mười năm ngắn ngủi nhưng đầy hy sinh cao
cả đó trong lịch sử 300 năm của thành phố. Viện trưởng
viện Hóa đạo PG Thống nhất,
thầy Thiện Hoa, đã nhiều lần
mang chiếc bảng to trước ngực, đòi vào tù thay cho sinh viên để chống đôn quân
bắt lính; thầy Trí Thủ, viện
trưởng kế nhiệm và thầy Quảng Độ, Tổng
thư ký, đòi người Mỹ không được tiếp tục can thiệp vào Việt Nam;
thầy Thiện Minh bị CIA ám sát
tới què chân và bị Thiệu xử tù hơn mười năm vì nuôi giấu nhiều cán bộ
thành đoàn; thầy Trí
Quang, “kẻ làm rúng động nước Mỹ”, như lời ghi chú trên tấm hình in trên bìa
một số báo Times, đã có lần tuyệt thực gần chết chống Thiệu-Kỳ... Cho
nên, ở đây ta chỉ có thể nhắc lại một vài sự kiện chính. Lãnh đạo Phật tử nổi
dậy đòi dân sinh dân chủ ở Đà Nẵng, Huế, lôi kéo một số lớn hàng sư đoàn quân
đội làm binh biến, chiếm chính quyền các cấp và
đài phát thanh
trong nhiều tháng trời. Ngày 31.3.66, nhân giỗ
tổ Hùng Vương, biểu tình ở chợ Bến Thành với các khẩu hiệu: “down
with obstruction. We want independence”. T.T Thiện Minh họp báo tuyên báo:
“Chống Thiệu-Kỳ đến cùng dầu phải đổ máu”. Ra lệnh đóng cửa tất cả các trường
học và đàn áp dã man ngày 10.5.1966 thì ngay hôm sau hàng trăm
tăng
ni tuyệt thực ở Viện Hóa đạo,
giáo hội Thống nhất chủ trương
không tổ chức đại lễ Phật
đản Bính Ngọ. Thiệu-Kỳ cho nhảy
dù, thủy quân lục chiến ra Đà Nẵng, Huế tấn công chùa chiền và Phật tử, hàng
ngàn người chết. Giáo hội Thống nhất đã bằng lập trường đứng về phía nhân dân
của mình khiến cho năm viên tướng ngụy (trung tướng Tôn Thất Đính, Nguyễn
Chánh Thi, Huỳnh Văn Cao, Thiếu tướng Phan Xuân Nhuận, Nguyễn Văn Chuân) đã
phải mềm lòng, sau đó bị phạt trọng cấm và có người bị sa thải. Trong trận đó,
ngày 31.5, nữ sinh Nguyễn Thị Vân tự thiêu. Ngày 1.6, T.T Thiện Minh bị ám sát
gần chết gần Viện Hóa đạo, sau này trở thành tàn tật suốt đời. Ngày 3.6,
ni cô Bảo Luân tự thiêu ở Viện Hóa đạo; hôm sau, lại một học tăng tự
thiêu. Tại trụ sở Thanh niên Phật tử vụ, 294 Công Lý, xuất hiện bandrol: “Đả
đảo Mỹ và Thiệu-Kỳ mưu sát TT Thiện Minh”. TT Trí Quang tuyệt thực đến gần
chết, đức Tăng thống phải ban
giáo chỉ ra lệnh chấm dứát để cùng quí TT khác còn lo Phật sự lâu dài. Giữa
hàng giáo phẩm Trung-Nam-Bắc kể trên, cả các
tT Thiện Siêu, Trí Tịnh... có
một sự đồng tâm nhất trí chặt chẽ, nhờ đó Phật tử Sài Gòn vững lòng tin bước
tới. Biểu tình liên tục, đốt xe Mỹ liên miên, Sài Gòn mùa mưa 66 chìm trong
nước ngập khói mù, những buổi chiều qua phố người dân không khỏi cám cảnh cho
đất nuớc mình tang thương. Tất cả đã làm rung chuyển con tim mọi người và dần
dần thôi thúc chính mình hành động mà lần đi theo con đường cách mạng. Nhiều
bạn trẻ đã đến với Đảng như thế, bắt đầu là từ những chủ trương chống đối
chính phủ tay sai Mỹ của
giáo hội
thống nhất.
Bàn thờ xuống
đường,lại một nữ sinh bị bắn chết, 6 vị
tT đến tòa Đô chính đòi
vào tù. Thích Hạnh Tuệ, một tăng
sinh trẻ đầy triển vọng, bị bắt đày đi Côn Đảo và hy sinh tại đấy, cùng mấy
ngàn Phật tử bị bắt từ Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng và các nơi khác. Ngày 18.6, Đào
Thị Tuyết tự thiêu ; ngày 29, ni
cô Diệu Ngọc và hôm sau đó, nữ Phật tử Hồ Thị Châu, hàng vạn người tiễn đưa
đến An dưỡng địa Phú Lâm. Đến nỗi nữ tiến
sĩ người Đức - Barbara - cũng cầm lòng không đậu, bèn tuyệt thực theo, để cầu
nguyện cho hòa bình ở Việt Nam.
Để có được cái quốc hội dỏm ở
miền Nam, b Sài Gòn năm 66 đã tốn đến ngần ấy máu xương và tâm huyết của bao
tT, đại đức
tăng
ni.
Chống bầu cử gian
lận: Không phải Giáo hội thống nhất không biết bản chất của hiếu chiến Mỹ và
Thiệu-Kỳ là gian lận, nhưng Giáo hội thống
nhất vẫn chống gian lận để tạo điều kiện cho các thế lực tiến bộ trong nước.
20.3.1967, PG đặt viên đá ở ngã tư Lê Văn Duyệt - Phan Đình Phùng xây tháp
thờ Tăng ni tử đạo. 16.5 khai
kinh cầu nguyện hòa bình cho Việt Nam tại chùa Ấn Quang, cũng là ngày Nhất Chi
Mai tự thiêu, người con gái “chết mới nói được nên lời”. Thiện Hoa, Thiện
Minh, Trí Quang, Pháp Tri, Thiện Hòa, Trí Tịnh, Minh Châu... cương quyết loại
trừ kẻ theo Mỹ - Thích Tâm Châu - ra khỏi PG và Viện Hóa đạo chính thức dời về
Ấn Quang. Ngày 24.9.1967, các TT Thiện Luật, Từ Quang, Huyền Quang, Pháp Tri
chống Hiến chương phản động và phủ định việc bầu cử Tổng thống; Ủy ban Thanh
niên đấu tranh đòi dân chủ có chỗ dựa, đã họp tại 4 Duy Tân hàng ngàn người
đòi hủy bỏ kết quả và lên án Mỹ. Các tT
trên cùng TT Quảng Long, Pháp Lan và hơn 100
tăng
ni đến ngồi trước
dinh Độc Lập và
tòa Tỉnh trưởng Gia Định. Hai tuần sau, đức Tăng thống tới
thăm. Các nơi khác ở miền
Nam lại đình công, bãi thị hưởng ứng.Ngày 3.10, Ni cô Tri Túc tự thiêu ở Cần
Thơ, TT Trí Quang công bố 100 đơn tình nguyện khác. Hội đồng
đại diện sinh
viên đại học Sài Gòn, Vạn Hạnh,
Cần Thơ gởi kháng thư chống chính
phủ bắt bớ sinh viên. 7.10, tăng
sinh Thích Minh Trang cắt tay lấy máu viết thư gửi Tổng thư ký Liên hiệp quốc và Johnson ; hôm sau,
ni cô Trí Châu tự thiêu; ngày 22.10,
ni cô Huệ Lạc tự thiêu trước
chùa Giác Viên. Đêm 31.10, đúng lúc Thiệu-Kỳ đang ăn mừng tựu chức bằng gian
lận bầu cử, thì được nếm 4 quả đạn cối bắn vào vườn
dinh Độc Lập, cả bọn chạy tán loạn.
4. Yểm trợ Tổng
tấn công Mậu Thân không thể kể hết được số tên những ngôi chùa của Giáo hội
Thống nhất trên toàn miền Nam đã giúp đỡ, băng bó, tiếp tế lương thực, dẫn
đường cho bộ độ giải phóng miền Nam trong dịp Tổng tấn công Mậu Thân. Tại
Quảng Ngãi là nơi rất căng thẳng, thiền
sư Thích Hồng Ân trên ngôi chùa danh thắng miền Trung, chùa Thiên Ấn, đã nấu
cơm thết đãi bộ đội giải phóng và khi quân cách mạng bị phản công, Sư đã ếm
giấu bộ đội trong hậu liêu. Chùa Phổ Quang, gần Tân Sơn Nhất, cũng đã có một
hành động dũng cảm tương tự. Cũng dịp này, những vị cao tăng như
thiền sư Thích Đôn Hậu, nữ cư sĩ
tuần Chi cũng đã thoát ly ra vùng kháng chiến. Ai biết được có
biết bao sinh viên, học sinh Phật tử Sài Gòn đã lên chiến khu
tết Mậu Thân cách đây đúng ba
mươi năm trong lịch sử 300 năm Sài Gòn? Khiến cho các TT Trí Quang, Hộ Giác,
đại đức Nhật Thường, Pháp Siêu,
Liễu Minh... được Thiệu-Kỳ” ưu ái cho đi “bảo vệ an ninh” khá kỹ từ sau Tết
mãi đến 30.6.1968.
5. Vụ án TT Thích
Thiện Minh hoạt động cho cộng sản: Ngày 25.2.1969, Trang Sĩ Tấn họp báo công
bố: “Đã tìm thấy tài liệu cộng sản và vũ khí trong nhà 294 Công Lý do TT Thiện
Minh quản lý”, bắt TT và 66 sinh viên. Đoàn
sinh viên Phật tử Sài Gòn gửi
kháng thư chống đối. Mặc. Ngày 12.3 TT Thiện Minh, thế danh Đỗ
xuân Hàng và 19 thanh niên bị
đưa ra tòa án
quân sự Mặt trận, TT tọa bị
tuyên án 5 năm cấm cố và 10 năm khổ sai. Ngày niên cùng nguyệt tận năm này là
vụ thảm sát Mỹ lai, tại Quảng
Ngãi, quê tôi. Hạ bán thập kỷ 60, chùa Quán Thế Âm của
thầy Thông Bửu đã cưu mang, nuôi
giấu, tạo điều kiện cho nhiều cán bộ cách mạng hoạt động, một số anh em này
trở thành những cán bộ cốt cán của Đảng được tin yêu như anh Bảy Việt (hiện là
Trưởng ban Tôn giáo thành phố), anh Ba Sơn (Đại tá Công an), Ba Sơn (hiện ở
ban Tôn giáo của
chính phủ), anh Xuân Sơn...
6. Con đường hòa
giải là đặc trưng của Giáo hội thống
nhất trong lịch sử PG Sài Gòn năm Canh Tuất: Chỉ một ngày sau khi dân biểu Đào
Văn Thụy và HT Minh Thành ký giấy giao Việt Nam Quốc tự lại cho Ấn Quang thì
tối hôm đó, 5.5, Tâm Châu đem cả binh lính và võ sư nhu đạo tái chiếm và gây
ra thảm sát nhiều tăng
ni Phật tử chống Mỹ-ngụy, trong
số có đại đức Thiên Ân. Chính
con đường hòa giải và thông điệp Về Nguồn những năm 70 - 72, với các hoạt động
chống đôn quân bắt lính, cầu nguyện hòa bình của Giáo hội
thống nhất đã góp phần đấu tranh
chính trị thúc ép Mỹ phải ký hiệp định Paris, chấm dứt chiến tranh, tạo điều kiện cho các
lực lượng nội thành có cơ sở pháp lý và mạnh dạn thêm trong công cuộc chống
Mỹ-ngụy. Rất tiếc, chỉ vài hôm trước ngày ký Hiệp định Paris, HT Thích Thiện
Hoa, vị lãnh tụ của Giáo hội, người cưu mang nhiều nhất đối với anh em cách
mạng hoạt động nội thành đã viên tịch trong lòng vô cùng thương tiếc của tín
đồ tăng
ni khắp miền Nam.
7. Những hoạt động
vũ bão, đưa ma chế độ cũ: Sau hiệp
định Paris,
Tăng ni Phật tử nhất tề vùng
dậy, nhất là khi Thiệu tỏ rõ ngoan cố, không chịu ra đi. Phong trào PG cách
mạng của TT Pháp Lan, Hội phụ nữ
đòi quyền sống của ni sư Huỳnh
Liên và chị Ngô Bá Thành, Tổ chức Nhân dân đòi thi hành thỏa hiệp Paris của
luật sư Trần Ngọc Liễng, một
Phật tử trường trai, Mặt trận Nhân dân Cứu đói của TT Hiển Pháp và dân biểu
Nguyễn Văn Hàm, đã tổ chức nhiều cuộc biểu tình cứu đói, Ký giả ăn mày... lần
đầu tiên hàng vạn người ngay tại trung tâm Sài Gòn, các tỉnh miền Trung, Nam
bộ và cao nguyên, xa luân chiến,
đánh nhau với cảnh sát giữa lòng các đô thị, tay không đối đầu với vũ khí tối
tân trang bị tận răng của đệ nhất siêu cường. Bao nhiêu người chết, bị tàn
phế, 23 năm qua chúng ta chưa có dịp liệt kê đầy đủ. Nếu không có PG Sài Gòn,
sẽ không có Giáo hội thống nhất
thì chắc rằng, chúng tôi, những người trong cuộc bấy giờ cũng sẽ không bao giờ
làm nổi. Kỳ tích đấu tranh chính trị chống Mỹ-ngụy ở nội thành Sài Gòn hồi xưa
thuộc về PG Sài Gòn hai mươi năm đó, chỉ bằng một phần mười lăm trong lịch sử
ba trăm năm của nó, nhưng có ý nghĩa thật lớn lao trong tràng kỳ lịch sử của
dân tộc, nhất là trong chiến tranh vệ quốc ba mươi năm trước 75!
8. Miệng nói, tay
làm, chống xâm lược suốt mươi năm nhưng vẫn không quên công cuộc xây dựng,
Giáo hội thống nhất còn hoàn
chỉnh Hiến chương, tổ chức bộ máy, thông tin hai chiều, nắm tình hình Phật tử
bị áp bức khủng bố ở nơi nào cũng đều có can thiệp kịp thời mà cứu khổ. Cũng
không quên công tác cứu trợ thiên tai bão lụt, nuôi các con em nhà nghèo, mồ
côi, TT Minh Châu mở trường Đại học Vạn Hạnh, trung học Bồ Đề ở Sài Gòn và
khắp các tỉnh; các TT Thiện Hòa, Trí Tịnh, Trí Thủ, Thiện Siêu, Trí Quang
không ngừng phiên dịch, trước tác, ấn hành bộ Phật học phổ thông của
Thiền sư Thích Thiện Hoa, kim chỉ nam cho những người sơ cơ học Phật. Các ngôi
tổ đình Ấn Quang, Vĩnh Nghiêm,
Pháp quang, Từ Đàm, Bảo Quốc,
Thiên Ân, Thập Tháp, Linh Sơn... được tu tạo và tân tạo đem lại không khí
thanh tịnh, trang nghiêm cho giáo
hội, giúp người trưởng dưỡng đạo tâm, tạo tiền đề khá chu đáo cho Giáo hội
Phật giáo Việt Nam thật sự thống nhất khi nước nhà hoàn toàn độc lập sau này
mà công tích lớn lao của nó chỉ trong vòng non vài chục năm nay (1981-1998)
tôi không sao kể xiết ra đây vì phải nhường cho một bản tham luận khác, chỉ
xin tóm tắt.
C/ PG
Sài Gòn sau 1975
PG Sài Gòn vẫn là
cái nôi của PG cả nước. Sau giải phóng, Ban
liên lạc PG
yêu nước ra đời, cũng tại Sài
Gòn. Lại một kỳ công nữa của PG thành phố Hồ Chí Minh. Hầu hết các vị trong
Giáo hội thống nhất cũ đã, trên
cái nền vững chắc của Ban Liên Lạc Phật giáo Yêu nước thành phố Hồ Chí Minh mà
vận động thống nhất, thực hiện giấc mơ của bao thế hệ Tăng
ni và Phật tử Việt Nam trải qua
hơn hai ngàn năm nay và cũng chính vị Viện trưởng Viện Hóa đạo Thống nhất
Thích Trí Thủ, vị sư đúng mực và tài hoa, đã hoàn thành công cuộc thống nhất
thực sự ấy vào năm 1981. Tất nhiên phải kể tới sự ủng hộ nhiệt thành về người,
về của của Đảng, mặt trận và
Chính phủ vào công tác đó. Hôm nay, sau gần một phần tư thế kỷ, nhiệm vụ của
Giáo hội Thống nhất đã hoàn mãn 23 năm rồi.
Nói chung, quần
chúng Phật tử rất cảm ơn cách mạng đã giải phóng họ khỏi cảnh kềm kẹp của
chiến tranh xâm lược, khỏi đói và chết phi lý vì chiến tranh, cảm ơn cách mạng
đã đổi đời cho họ.
---o0o---