Kút Chăm, một dạng
nghĩa địa thuộc Mẫu hệ của dòng thiêu Bà – La –Môn. Nơi mà tronmg dó lưu
giữ những mảng xương trán của những người đã quá vãng sau khi hoả thiêu,
được dòng tộc đưa về tôn thờ trong một khong gian trống trải đồng thời
tuyệt đối tĩnh lặng. Trên một khuôn viên đã qui định, hình tượng Kút được
người Chăm kiến tạo một cách độc đáo, đó là những phiến đá trơn tru hay
những hình hoa văn cách điệu đặt trưng với những nét uốn lượng mềm mại
thon thả biểu hiện nét thanh thoát nhưng đượm vẻ thiêng liêng, mầu nhiệm.
Có lẽ một không gian trống trải và tĩnh lặng cùng với phiến đá trơn là
hình thái tuyệt vời về sự kết hợp các yếu tố nghệ thuật – tâm linh trong
tâm thức của người Chăm vốn ưa sự suy tư triết học, một cặp phạm trù kết
hợp hài hoà giữa những yếu tố Thiên – Địa, Aâm – Dương, Linga – Yoni mà
đối với cộng đồng Chăm không bao giờ thiếu vắng. Có phải vì thế hay không
mà cặp phạm trù này đã đi vào cuộc sống người Chăm tựa như dòng nước trôi
về biển cả. Điều đó đã đi vào tận cùng trong vô thức nhưng khi ngoái nhìn
lại nó đã ẩn chứa cả một hêï thống hàm súc về một ý thức thực tại, là sự
dung chứa biết bao những tìm lực triết học một cách siêu thoát trong cuộc
sống cộng đồng người Chăm. Nhiều nhà nghiên cứu văn hoá Chăm cho rằng “
Kút” là gạch nối của nghệ thuật điêu khắc và sự chuyển biến từ nghệ thuật
rực rỡ đến suy tàn của vương quốc Chămpa. Tuy nhiên, nếu xét trên khía
cạnh nổi ta sẽ dễ dàng thấy điều này, nhưng thực ra “ Kút” Chăm không phải
là gạch nối của nghệ thuật phát triển hay tàn lụi của vương quốc Chămpa đã
được cộng đồng Chăm đưa về mảng siêu thực đỉnh cao của nghệ thuật, trong
đó tượng Kút là trrung tâm của nghệ thuật siêu thực trong văn hoá đương
đại. Tìm về nguồn gốc của Kút Chăm, tra lục các thư tịch cổ Chăm để lại
chúng ta được biết – Kút Chăm được xuất hiện vào thời vương triều Po
Kluang Garai (TK X – XI). Trong giai đoạn này, vì nhận thấy sjw suy yếu
của vương quốc Chămpa do sự phận tranh quyền lực cũng như vấn đề bảo vệ
lãnh thổ, cho nên các triết gia Chămpa đã lập thành hình tượng Kút để bảo
lưu hình tượng văn hoá – triết học cho thế hệ mai sau, nên từ đó Kút cùng
với việc tôn thờ tự xương trán của các vị vua hay tướng lãnh trong đền
tháp được xuất hiện, đồng thời trở thành một cuộc sống tín ngưỡng và tập
tục của cộng đồng Chăm cho đến ngày nay. Từ quan niệm ban đầu giữ lại vết
tích liên quan đến tâm linh thông qua hình tượng “Kút”, theo từng giai
đoạn những triết gia Chăm dã đưa vào mảng đá vô tri này bqao nguồn triết
học đặc sắc, mang mảng nghệ thuật độc đáo mà bản thân những phiến đá này
phải có trọng trách gìn giữ. Phản ảnh một cách hoàn thiện vềâ văn hoá Chăm
vốn đang là bức màn bí ẩn vẫn chưa được hé mở bao nhiêu.
ĐÁ : CHẤT LIỆU KIẾN
TẠO KÚT CHÍNH – MỘT LINH HỒN BẤT TỬ HAY MỘT VŨ TRỤ BAO LA
Nếu như trong điêu
khắc Chăm từ thế kỷ thứ II đến XVI chất liệu để kiến tạo những chất phù
điêu, tượng, bệ thờ, đều xuất phát từ đá. Trên ngôi tháp uy nghi trầm mặc,
những ô cửa nhỏ hình lá nhĩ là những tấm phù điêu rực rỡ với hình tượng
Siva, Visnu, Vũ nữ, hộ pháp…mang đặc điểm nhân chủng Chămpa tạo nên vẻ
hùng dũng giữa hai ngọn đồi chồng chất thời gian thì những phiến đá ấy lại
được người Chăm tôn thờ một cách thành kính. Nếu ta thâm nhạp vào đời sống
tín ngưỡng của cộng đồng Chưm thì mới thấy hết được tầm quan trọng của
những phiến đá ấy. Những phiến đá được người thợ Chăm tôn thờ là những
loại đá sa thạch không có dấu vết gò đẽo, có hình dáng hơi tròn ở đầu được
mang đến từ bờ sông, con suối hay phải lặn hụp từ biển đưa về. Những phiến
đá ấy luôn luôn gắn liền với huyền thoại, sự tích và bắt đầu giả từ kiếp
sống vô tri của đất đá để hoá thân thành một thần linh, có linh hồn, có
tinhsa cách và có khả năng nhiệm mầu để phán xét cuộc sống trần thế. Hơn
thế, phiến đá lúc này không phải là một linh hồn bình thường mà là một
linh hồn siêu Việt, một tÝnh cách siêu xuất để cai quản linh hồn cuat Tiểu
ngã mỗi cá thể con người nhập vào Đại ngã vô biên. Tất cảnhững ý nghĩa
trên được biểu thị bằng nghi thức nhập “ Kút” mà Pô Dhìa - một tu sĩ cao
nhất của Bà – La –Môn Chăm được thực hiện thông qua động tác nghi lễ như
sau:
- Danăt
rangăl richo (nghi thức hành lễ và vị trí thánh tẩy) : nghi thức này được
thực hiện sau khi đã làm lễ xin động thổ để dựng Kút (Pakak tanưk padăng
Kút ), Pô Dhìa cử hành nghi lễ bao gồm thùng nước, cát được lấy từ sông,
gạo, nếp rang nổ ( Lyman), Mhu, bông…hàm ý của nghi lễ này là tẩy sạch
những “bản chất” vốn có của đá một linh hồn hiện hữu ( Dhok Dhoăn) đẻ đẩm
trách công việc của đại ngã – Danăk da – à- pa tau Kút ( nghi thức hành lễ
thỉnh đá là biểu tượng Kút) : sau khi phíên đấ kia đã đảm trách hoàn toàn
công việc của một linh hồn Đại ngã, lúc này Pô Dhìa cung kính thỉng về đặt
vào một vị trí cố định mà ở dưới nó là những mảng xương của người đã chết.
Việc này biểu trưng cho Đại ngã ( phiến đá) bao la che chở cho những Tiểu
ngã( xương trán người chết) vốn bé nhỏ. Nhưng khi đã hoàn thành các nghi
lễ, Tiểu ngã được người Chăm quên hẳn và chỉ chấp nhận phiến đá kia là một
linh hồn bất tử. Từ đây ta thất triết lý của Rig – Vệ Đà đã được người
Chăm rút gọn chỉ bằng Xương trán người chết và phiến đá dựng đứng ẩn chứa
một ý nghĩa biểu trưng : con người là một Chân ngã ( Atman) và coi đây là
hiện thân của Đại ngã ( Brahma) tuyệt đối. Trong toàn thể vũ trụ là cái
ngã tìm ẩn trong lòng ta ( Atman ) là Brahman, Brahma và Atman là một thực
tại đồng nhất. Triết ký đó được cộng đồng người Chăm biểu thị bằng hòn đá
vô tri nhưng ẩn chứa sự vận chuyển của vũ trụ.
LINGA – YONI : YẾU
TỐ ÂM DƯƠNG
Nếu phiến đá là một
biểu tượng của linh hồn bất tử “ một” tuyệt đối thì cũng ngay hình thức
Kút ta lại bắt gặp một hiên thân của cặp bệ Linga – Yoni ( Âm) được đặt
thành bệ dính liền nhau, ở đây muốn nói đến sự dung hoà giữa trời đất nó
liên quan chặt chẽ trong cuộc sống con người, và chính nhờ sự dung hoà này
mà con người được sinh tồn và phát triển.
Từ quan niệm trên,
công đồng người Chăm đã đưa cặp Linga – Yoni vào hình tượng Kút. Nhưng
không phải hình tượng những bệ cao đồ sộ với nghệ thuật điêu khắc sắc sảo
mà ở đây đã đơn giản hoá, không có Siva thể hiện bằng một hình tượng vị
thần cầm các vật dụng được tạo một cách sắc sảo, cộng đồng Chăm đẫ đưa
Linga – Yoni ưor Kút chỉ là những phiến đá trơn tru không cầu kỳ, chỉ đứng
lặng lẽ giữa một không gian tĩnh lặng trầm mặc.
Tóm lại: Biểu tượng
Kút Chăm là một sự dung chứa những tinh ba của các nguồn văn hoá, cộng
đồng Chăm đã dồn tất cả tâm lực vào vấn đề bảo lưu không phải bằng những
tạng kinh đẻ lại đồ sộ , mà chỉ thông qua hình tượng Kút đã phản ánh gần
như trọn vẹn một nguồn văn hoá đặc sắc của cộng đồng, một triết lý siêu
việt, trong sự dung hoà một cách tự nhiên giữa các tư tưởng Bà – la – môn
và Phật giáo một cách hoàn hảo.
Ai đã một lần đi qua
vùng Chăm Ninh Thụân, Bình Thuận ghé về với làng Chăm, thấp thoáng đâu đây
những nghĩa địa “ Kút” được kiến tạo trên một không gian tróng vắng, những
phiến đá vô tri nằm kề cận nhsu ta cứ tưởng chỉ là một không giân đơn
điệu, nhưng nếu ta biết được những gì mà các lão làng kể lại lúc đó ta
mới thật sự sửng sốt trước một trí tuệ tuyệt vời của một cộng đồng vốn ưa
sống cuộc sống nội tâm.