TỔNG TẬP
VĂN
HỌC PHẬT GIÁO VIỆT NAM
Lê Mạnh
Thát
---o0o---
Tập III
=================
51.
THIỀN SƯ ĐẠO HẠNH
(1)
Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn Tây, mục Tự quan, viết: “Chùa Thiên Phúc
tại xã Sài Tây, huyện An Sơn, xưa gọi là am Hương Giang (nên đọc hải) lại
gọi là viện Phổ Đà. Chùa bên trái thờ Từ thiền sư bên phải thờ tượng Lý
Thần Tông, ở giữa thờ tượng Phật. thiền sư họ Từ tên Lộ, tự Đạo Hạnh,
người Yên Lãng huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Hà Nội, là bậc cao tăng của thời đó
đến trác tích ở đây. Lý Nhân Tông tuổi đã cao mà chưa có con nối dõi. Em
vua là Sùng Hiền Hầu cũng chưa có con, cùng với Đạo Hạnh nói việc cầu tự.
Đạo Hạnh hẹn ngày kia khi phu nhân sắp sinh thì nên báo trước cho biết.
Sau đó, khi phu nhân sắp sinh, bèn đi báo. Đạo Hạnh tức khắc thay áo quần
tắm rửa, vào trong động mà thi giải. Phu nhân liền sinh một người con trai
ấy là Thần Tông. Người làng cho đó là điều lạ, đem thây bỏ vào trong khám
mà thờ. Mỗi năm đến ngày 7 tháng 3, tục truyền đó là ngày kỵ của Sư, sĩ nữ
tụ họp đông đảo, làm thành một chỗ du ngoạn đẹp đẽ của địa phương. Văn
nhân danh sĩ phần nhiều có làm thơ vịnh. Thây của Sư đến khoảng Minh Vĩnh
Lạc thì bị người Minh đốt cháy. Người làng lại đúc tượng Sư mà thờ. Trong
khoảng Lê Quang Thuận, cha của Hoàng hậu Trường Lạc là Nguyễn Đức Trung đi
cầu tự cho hậu ở trong động chùa đó thì có một mảnh đá bay tới. Bèn cầm về
tạc thành một tượng Phật mà thờ. Khi đã làm vậy, thì sau đó hậu mộng thấy
rồng vàng vào sườn bên trái, bèn sinh ra Hiến Tông. Trong khoảng Cảnh
Thống, bàn lập bia am Hiển Thụy khắc vào đá nay còn. Triều ta phong thần
Từ Đạo Hạnh đại thiền sư”.
(2)
Lịch triều hiến chương loại chí 3 tờ 8a6b1 viết: “Núi (nguyên văn viết
chùa, nay sửa) Phật Tích ở xã Thủy Khê, huyện An Sơn, một tên là Sài Sơn,
lại gọi là Cổ Sài. Cảnh núi đẹp đẽ trông ngang xuống mặt hồ trên núi có
hang sâu là chỗ Từ Đạo Hạnh thi giải. Vách hang đang còn có dấu đầu và dấu
chân. Trên đó có am Hương Hải và viện Phổ Đà đều do Từ Công dựng nên, nay
là chùa Thiên Phúc”.
Kiến văn
tiểu lục 6 tờ 2a7-3a1 viết: “Sài Sơn của huyện Yên Sơn, đời Lý gọi là núi
Phổ Đà lạc, đời Trần gọi là núi Phật Tích. Trên núi có chùa và tiên động
các nơi. Trong động có tám chỗ lõm, như dấu đầu người va vào, lại có dấu
chân như của người khổng lồ. Dưới núi có chùa Thiên Phúc, trước có hồ lớn,
sau có lầu chuông, có chuông do thiền sư Đạo Hạnh đúc thành, vào năm Long
Phù Nguyên Hóa thứ 9 (1109) triều Lý, đệ tử Huệ Hưng soạn ký, trước tác
lang Nghiêm Thường khắc chữ. Trên chuông có khắc hình cây bồ lao, dùng dây
sắt mà treo. Đấy là vật xưa 700 năm đến nay. Dưới lời ký có khắc sắc chỉ
của vua Trần Anh Tông cấp ruộng cúng vào năm Hưng Long thứ 12 (1304). Bên
cạnh có am Hiển Thụy dựng trong khoảng Cảnh Thống, có bia ký do Thượng thư
Nguyễn Bảo soạn. Xét An Nam chí có nói rằng: Núi Phật Tích có một tảng đá,
trên có dấu chân người khổng lồ. Dưới chân núi có hồ, chu vi hơn ba dặm.
Hai bên hồ và núi có dựng nhà thủy tạ. Tháng 5 tháng 6 hoa sen nở đầy hồ,
mùi thơm sặc cả người. Trên núi có chùa Thiên Phúc, sơn phết rực rỡ, thực
là danh thắng một phương, chỉ nói trên núi Phật Tích có chùa Tư Phúc, có
am Biện Tài và am Cực Lạc. Người của châu và những con em của phường du
lịch thường mỗi năm vào tháng 3 đến dạo chơi xem lễ, đèn nhang chất đống,
xe ngựa dập dìu, văn nhân danh sĩ phần nhiều đều có đề thơ vịnh cảnh. Tức
là núi đó”.
Xem thêm
Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn Tây, mục Sơn xuyên và mục phụ khảo về
núi.
(3)
Làng Yên Lãng đây tức là làng Yên Lãng thuộc huyện Vĩnh Thuận của Bắc
thành địa dư chí lục 1 và Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn Tây, mục Từ
miếu và Tự quán, tức làng Láng ở gần phía tây Thủ đô Hà Nội ngày nay. Làng
này hiện có chùa thờ Đạo Hạnh, tục gọi là chùa Láng. Bắc thành địa dư chí
lục 1 chép chuyện đấy vào thế kỷ thứ 19 như sau: “Chùa Yên Lãng tại trại
Yên Lãng huyện, Vĩnh Thuận, thế truyền là chỗ tu hành của thiền sư Từ Đạo
Hạnh triều Lý. thiền sư là kẻ có thù với thiền sư Đại Điên xã Dịch Vọng.
Đạo Hạnh sau đó đi Tây Vức học đạo, trở về giết Đại Điên, nên lệ chùa Yên
Lãng mỗi năm vào tháng 3 phải rước thần qua chùa hai xã Yên Quyết và Dịch
Vọng, đốt pháo múa gậy, giống như có việc đánh nhau, để diễn lại chuyện
đó. Nay chùa Yên Lãng có một hòm gỗ trong đựng một miếng đồng có chữ Phạn
viết bằng son. Đó là di tích của Sư. Sau Đạo Hạnh đến tu đạo tại Sài Sơn,
tỉnh Sơn Tây, rồi đầu thai làm Lý Thần Tông”.
(4) Đây
như vậy chỉ nói tên cha và trú quán, nhưng không nói tên mẹ và nguyên quán
của Từ Đạo Hạnh. Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn Tây, mục Từ miếu, nhân
viết về Từ Đạo Hạnh thiền sư ở chân núi Sài Sơn huyện Yên Sơn, nói: Xét
trong đền thì bên trái thờ tượng Từ Đạo Hạnh, bên phải thờ tượng Lý Thần
Tông, ở giữa thờ tượng Phật. Một thuyết nói rằng Đạo Hạnh là người thôn
Đồng Bụt, huyện Yên Sơn, cha là Từ Vinh, mẹ là Tăng Thị Loan. Nay tương
truyền ở Đồng Bụt có nền cũ nhà họ Từ, trước chùa có 70 mẫu ruộng là ruộng
họ Từ, nay đem làm tự điền cho thôn ấy”.
Cứ đây
thì nguyên quán của Đạo Hạnh là thôn Đồng Bụt, huyện Yên Sơn, tỉnh Sơn
Tây. Truyện Đạo Hạnh ở đây nói rõ Yên Lãng là trú quán của Hạnh, nên ta
khỏi phải đặt nghi vấn về chuyện đâu là quê quán của Hạnh, như Đại nam
nhất thống chí đã làm.
(5)
Đại Việt sử lược 2 tờ 16a10 viết: “Năm Quảng Hựu thứ 7 (1091) kiến quan Lê
Toàn Nghĩa dâng rùa năm sắc”. Đại Việt sử ký toàn thư B3 tờ 12a9 cũng ghi
chuyện này, nhưng không ghi chức quan của Nghĩa.
(6)
Truyện Từ Đạo Hạnh trong Lĩnh nam chích quái truyện tờ 28-31 chép hoàn
toàn giống truyện Từ Đạo Hạnh ở đây, nhưng sau câu “hậu ứng tăng quan ngự
thí trúng”, nó lại thêm 7 chữ “Bạch liên khoa, vị cơ phụ Vinh”, trước khi
viết tiếp “dĩ tà thuật hãn Diên Thành Hầu”. Truyện Đạo Hạnh ở đây, sau câu
“hậu ứng tăng quan ngự thí trúng”, lại bỏ trống một đoạn đúng chỗ cho 7
chữ, rồi viết tiếp “dĩ tà thuật hãn Diên Thành hầu”. Chúng tôi nghĩ rằng
khoảng trống 7 chữ đây đúng là chỗ của 7 chữ hiện còn chép trong Lĩnh nam
chích quái mà để bản của bản in Thiền uyển tập anh năm 1715 đã bị rách hay
mọt ăn mất, nên người hiệu đính cho bản in đây đã để trống đúng 7 chỗ cho
những chữ mất đó. Đây là một ưu điểm lớn của bản in năm1715 giữa những ưu
điểm khác của nó. Bản in đời Nguyễn không để một khoảng trống nào cả, nên
dù có bản của Lĩnh nam chích quái chăng nữa, ta cũng không thể nào nhận ra
khoảng đấy thiếu mấy chữ. Chúng tôi do thế đề nghị thêm 7 chữ trên vào chỗ
trống ở tờ 53b10 của Thiền uyển tập anh, để cho ý nghĩa của câu “hậu ứng
tăng quan ngự thí trúng..”. và câu “dĩ tà thuật hãn Diên Thành hầu” ở
trước và sau khoảng trống đấy được rõ hơn. Nếu chấp nhận, hai câu ấy bây
giờ đọc: “Hậu ứng tăng quan thí trúng Bạch liên khoa. Vị cơ phụ Vinh dĩ tà
thuật hãn Diên Thành Hầu”, mà ta có thể dịch thành: “Sau đó Sư ứng thi
điện thí tăng quan, trúng khoa Bạch liên. Chẳng bao lâu, cha Sư là Vinh
dùng tà thuật làm mích lòng Diên Thành Hầu..”.
Khoa
Bạch liên là khoa gì vào thời Lý, chúng ta hiện chưa có một thông tin nào.
(7)
Diên Thành Hầu (?-1117) là con của Lý Thánh Tông và em của Nhân Tông. Tính
tình của vị hầu này chắc nóng nảy lắm. Đại Việt sử lược 2 tờ 20a3 ghi lại
một chứng sau: “Năm Long Phù Nguyên Hóa thứ 4 (1104), mùa thu tháng 9 ngày
mồng một, Diên Thành Hầu lấy hốt đánh Trung Nghĩa Hầu ở điện Thiên An”.
Trung Nghĩa Hầu (?-1117) cũng là con của Thánh Tông và chắc là em của Diên
Thành, và điện Thiên An là nơi thị triều của vua. Thế mà, giữa mặt bá quan
văn võ, Diên Thành đã lấy hốt đánh Trung Nghĩa.
(8)
Tức Nguyễn Đại Điên, mà truyện Thần Nghi tờ 40a11 nói tới như đại biểu cho
một dòng thiền của thời Lý. Cứ vào truyện Đạo Hạnh ở đây, ta có thể đoán
Đại Điên bị Đạo Hạnh đánh chết vào khoảng năm 1110 bởi vì cuối truyện có
chua câu: “Giác Hoàng, hoặc có người nói là Đại Điên ấy vậy”. Mà Giác
Hoàng theo Đại Việt sử lược 2 tờ 21a4, thì vào năm Hội Tường Đại Khánh thứ
3 (1112) là đã 3 tuổi rồi. Vậy Hoàng phải sinh năm 1110. Bấy giờ, nếu bảo
Giác Hoàng là Đại Điên thì đương nhiên Điên phải chết vào năm Hoàng sinh,
tức năm 1110 ấy, mới đầu thai thành Hoàng được, tối thiểu là bằng vào sự
tin tưởng huyền thuật đương thời. Cho nên, việc liên hệ Đại Điên với sự
sinh của Giác Hoàng phải giả thiết rằng Điên chết vào năm Hoàng sinh.
Về
nguyên quán của Điên, Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn Tây, mục Tăng
thích, có ghi một vị sư tên Nguyễn Đạo Hạnh và nói: “Sư người huyện Tiên
Phong là miêu duệ của thiền sư Thái Điên, bình sanh cùng sư Nguyễn Minh
Không và Từ Đạo Hạnh làm bạn, học thuật tu luyện, sau hóa thân ở xã Chiêu
Nhân, thổ nhân bèn lập đền thờ”. Thái Điên đây, chúng tôi nghi cũng là Đại
Điên, bởi vì Việt sử tiêu án 1 tờ 108b9 dẫn Ngoại truyện nói: “Cha Đạo
Hạnh là Từ Vinh vì pháp thuật bị sư Thái Điên đánh giết”. Kiến văn tiểu
lục 9 tờ 16a1-17a2 viết rất là dài về cuộc đời nhà sư Nguyễn Đạo Hạnh đây
và nói: “Ông người xã Vịnh Phệ, huyện Tiên Phong”. Nếu vậy Điên là người
xã Vịnh Phệ
Cuối
cùng, về ngôi chùa trú trì của Điên, Bắc thành địa dư chí lục 1 nhân viết
về chùa Yên Lãng dẫn trước nói “Đạo Hạnh có thù với thiền sư Đại Điên xã
Dịch Vọng”. Như thế, vào thế kỷ thứ XIX người ta coi Điên sống ở xã Dịch
Vọng. Làng Dịch Vọng này, Đại Việt sử ký toàn thư B3 tờ 3a 3-8 nói là nơi
có chùa Thánh Chúa. Ở đây đã có vị sư dạy Nguyễn Bông cái thuật đầu thai
thành Lý Nhân Tông. Dã sử về thần tích Ỷ Lan nói rõ ra vị sư chùa Thánh
Chúa, đấy không ai khác hơn là Đại Điên. Từ đó, ngôi chùa Đại Điên ở chắc
không ngôi nào khác hơn là chùa Thánh Chúa, làng Dịch Vọng, huyện Từ Liêm
ngày trước, tức huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Đông ngày nay. Sự việc Nguyễn Bông
xảy ra vào năm 1063. Thế thì, Điên sống tại chùa đấy vào khoảng từ năm đó.
(9) Bắc
thành địa dư chí lục 1 viết: “Sông Tô Lịch ở phía đông của thành (Hà Nội)
phân lưu từ sông Nhị, theo thành từ phía Bắc mà chảy qua phía tây gặp sông
Hà Liễu và sông Nhuệ, hai sông cùng chảy đổ vào. Sông này, mùa đông và
xuân thì khô cạn, mùa thu và hạ thì thuyền đi được... Quốc sử của Ngô Sĩ
Liên nói: “Sông này hễ khi có mưa lớn thì nước đầy ứ mà chảy ngược”. Họ
Ngô nói: “Sông Tô Lịch chảy đi ra từ sông Nhị bắt đầu từ phường Hà Khẩu
chảy qua Tây Hồ, Thụy Chương, Yên Hoa và Yên Quyết thì cạn thuyền đi không
được, vì dân ở hai bên sông cứ để ngói đá lấp đầy, khi mưa to nước ứ lại
không chảy được, nên phải chảy ngược lại thì không có gì là lạ”.
(10) An
nam chí lược 1 tờ 24 viết: “Sông Tô Lịch chảy quanh La Thành. Sông có năm
cầu đều rất đẹp”. Nhưng nó không cho biết năm cầu đó. Ta ngày nay có thể
truy nhận tối thiểu tên của ba cầu đó, đấy là cầu Tây Dương, cầu Yên Quyết
và cầu Nhân Mục. Đại Việt sử ký toàn thư B10 tờ 21b 2-5 trong khi mô tả
diễn tiến của chiến dịch Tốt Động, Chúc Động, đã viết về những hướng xuất
quân của Vương Thông từ thành Đông Quan như sau: “Ngày mồng 6, Vương Thông
v.v... của nhà Minh đem lính cũ lính mới 10 vạn người phân làm ba đạo quân
đánh ta. Vương Thông do ngã Khâu Ôn qua cầu Tây Dương đến đóng ở bến Cổ
Sở, dựng cầu nổi cho quân đi. Phương Chính xuất quân từ cầu Yên Quyết,
đóng ở cầu Sa Đôi. Sơn Thọ và Mã Kỳ đi ra từ cầu Nhân Mục, đóng ở cầu
Thanh Oai. Chúng dựng doanh trại vài chục dặm, cờ xí rợp đồng, giáp trượng
sáng trời, tự bảo rằng chúng chỉ một lần đánh là bắt hết nghĩa quân”.
Cầu Nhân
Mục, tên nôm gọi là cống Mọc, ngày nay thuộc làng Nhân Chính, huyện Hoài
Đức, tỉnh Hà Đông, vết tích hiện còn là chiếc cầu bắc ngang sông Tô Lịch
tại làng đấy.
Còn cầu
Yên Quyết, tên Nôâm gọi là cống Cót, ngày nay là chiếc cầu bắc ngang sông
Tô Lịch tại địa phận làng Yên Quyết huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Đông. Vì cầu
Yên Quyết có tên nôm là cống Cót, cho nên chữ Quyết kiều ở đây đúng ra
phải dịch là cống Cót, nhưng vì không chắc chữ Cót phát âm như thế nào vào
thơi Lý, nên chúng tôi vẫn để nguyên và dịch là: “Cầu Quyết”. Hoàng Xuân
Hãn trong Lý Thường Kiệt tr. 499 vì chấm câu lộn, nên đã đọc thành cầu Vu
Quyết. Về cầu Tây Dương thì cứ trên đường hành quân của Vương Thông, nó
phải là cầu Giấy, bởi vì để đi từ Đông Quan tới Cổ Sở, người ta phải đi
qua cầu Giấy ở sông Tô Lịch, rồi qua cầu Diễn hay Phù Diễn ở sông Nhuệ thì
tới bến Cổ Sở trên sông Đáy thuộc làng Yên Sở ngày nay. Như vậy, cầu Tây
Dương không gì khác hơn là cầu Thượng Yên Quyết, mà Đại nam nhất thống
chí, tỉnh Hà Nội, mục Tân lương, nói là “tục gọi cầu Giấy, cầu dài ba
trượng, có lợp ngói ở về huyện Từ Liêm”.
(11)
Mọi răng vàng hay Kim Xỉ Man là tên một dân tộc ít người, vào thời Đường
đang còn ở phần đất thuộc vương quốc Pyu, nhưng đến đời Nguyên cho tới nay
thì phần đất ấy thuộc tỉnh Vân Nam của Trung Quốc. Xem Nguyên sử 16 tờ
8a4.
Gọi là
mọi răng vàng vì dân tộc ấy dùng vàng lá mà trang sức răng mình, “khi ăn
thì lấy ra”. Họ có nhiều giống, mà Tân đường thư 222 hạ tờ 15b-16a liệt ra
như giống Tú Cước, giống Tú Diện, giống Điêu Đề, giống Xuyên Tỷ. An nam
chí lược 1 tờ 19 nói: “Đà Giang lộ tiếp giáp với Kim Xỉ”. Kim Xỉ đây đương
nhiên là Kim Xỉ man. Và nếu như vậy, thì Đạo Hạnh vừa mới vượt khỏi biên
giới nước ta thôi.
(12)
Tức Tứ Thiên Vương, đấy là Trì Quốc ở phía đông, Tăng Trưởng ở phía nam,
Quảng Mục ở phía tây, và Tỳ Sa Môn ở phía bắc của tầng thứ tư núi Tu Di,
quản thủ bọn Dạ xoa và La sát. Chúng có nhiệm vụ bảo vệ thế giới, theo vũ
trụ quan thần thoại của một số trường phái Phật giáo. Xem chú thích (7)
truyện Khuông Việt, và Khí thế nhân bản kinh 6 tờ 394c.
(13)
Chú thích (10) trên cứ vào đường hành quân của Vương Thông do Đại Việt sử
ký toàn thư ghi lại, đã đồng nhất cầu Tây Dương với cầu Giấy. Mà cầu Giấy
theo Đại nam nhất thống chí, tỉnh Hà Nội, mục Tân lương là tên Nôm của cầu
Thượng Yên Quyết. Làng Yên Quyết thực ra có hai, đó là làng Thượng Yên
Quyết và Hạ Yên Quyết. Đại Việt lịch triều đăng khoa lục có ghi một số
tiến sĩ xuất thân từ hai làng đó như Đặng Công Toản khoa 1520, Nguyễn Sằn
Khoa 1554, Nguyễn Dụng Ngãi khoa 1574, của làng Thượng yên quyết, Hoàng
Quán Chí khoa 1393, Nguyễn Như Uyên khoa 1409, Nguyễn Khiêm Quang khoa
1523, Nguyễn Nhật Tráng khoa 1595, Nguyễn Dụng Triêm khoa 1602 v.v... của
làng Hạ Yên Quyết. Vậy thì, cầu Quyết hay cầu Yên Quyết của truyện đây là
cầu Hạ Yên Quyết, còn cầu Tây Dương hay cầu Giấy là cầu Thượng Yên Quyết.
Bến Quyết cũng ở làng Hạ Yên Quyết. Xác định như thế, bây giờ nó trở thành
rõ ràng là Đại Điên trụ trì chùa Thánh Chúa làng Dịch Vọng ở sát làng
Thượng Yên Quyết, thì khi đánh chết Từ Vinh, xác Vinh tất ném xuống sông
Tô Lịch từ khoảng cầu Tây Dương, trôi xuôi cho đến cống Cót, nơi có nhà
Diên Thành Hầu, rồi dừng lại. Tới khi Đạo Hạnh ném gậy mình từ bến Cót,
nếu trôi ngược nó tất nhiên phải lên đến cầu Tây Dương hay cầu Thượng Yên
Quyết, chứ không thể cầu nào khác.
Cầu Tây
Dương gọi là cầu Giấy tối thiểu bắt đầu từ thời Lý, bởi vì gần cầu đó có
xóm chuyên chế tạo giấy, tên là xóm Chỉ Tác hay xóm làm Giấy. Xem Đại Việt
sử lược 3 tờ 29a11.
(14)
Thái Bình đây chắc là phủ Thái Bình, nơi có chùa Khai Thiên do Nguyễn
Quang Lỵ dựng và Ma Ha trụ trì. Xem chú thích (10) truyện Ma Ha. Tuy
nhiên, vùng Hưng Yên, đất của phủ Thái Bình cũ, không thấy có làng nào thờ
Đạo Hạnh cả. Trái lại, theo Đại nam nhất thống chí, tỉnh Nam Định mới có
một số làng thờ Đạo Hạnh thuộc huyện Nam Chân như làng Chân Nguyên, làng
Vân Chàng, làng Kinh Lủng... rồi nó viết tiếp: “Hạnh thuở nhỏ ưa đi chơi,
đến xã Chân Nguyên, dựng chùa Đại Bi, ở đấy trú trì, sau dân làng tôn làm
Tổ sư. Thế thì, vùng Thái Bình do Kiều Trí Huyền giáo hóa phải chăng nằm
tại đất tỉnh Nam Định? Đây là một có thể. Về Kiều Trí Huyền, nay ta không
biết gì hết về tông tích tông phái của ông.
(15) Cơ
xan khát ẩm, cách ngữ của thiền gia chỉ đạo lý thiền không ở đâu xa, mà ở
ngay trong chính những công tác thường nhật nhất. Sư Nguyên Tân đến hỏi
thiền sư Đại Châu Huệ Hải: “Hòa thượng tu đạo có dụng công không?”. Hải
đáp: “Dụng công”. Hỏi: “Dụng công ra sao?”. Đáp: “Đói đến thì ăn cơm, mệt
lại thì đi ngủ”. Xem Truyền đăng lục 6 tờ 247c1-3.
(16) An
nam chí nguyên tờ 209 dẫn ý chính của đoạn này về Đạo Hạnh: “Thiền sư Đạo
Hạnh là vị sư huyện Thạch Thất, thường đi khắp tòng lâm tìm tòi bậc trí
thức, khi duyên đạo đã chín, pháp lực có thêm, Sư có thể sai sử chim rừng
thú nội họp nhau đến chịu phục. Sư cầu mưa trị bệnh, không gì là không ứng
nghiệm. nay xác thịt đang còn”.
Việc sử
dụng những ngữ cú và văn ý đồng nhất với Thiền uyển tập anh như đây chứng
tỏ tác giả An nam chí nguyên hay tác giả một cuốn sách khác mà ông vẫn
phải sử dụng Thiền uyển tập anh. Do vậy, trước bản in năm 1715, Thiền uyển
tập anh phải có in một lần nào đó. Chính qua bản in hay tối thiểu bản chép
trước năm 1715 mà An nam chí nguyên hay một cuốn sách trước nó đã rút
những dẫn trên về Đạo Hạnh.
(17)
Đại Việt sử lược 2 tờ 21a4-b5: “Hội Tường Đại Khánh năm thứ 3 tháng 2
người Thanh Hóa nói rằng: ở Hải Tân có một đứa bé lạ lùng, tuổi mới lên
ba, mà hiểu được tiếng nói, tự xưng là đích tử của Hoàng đế, gọi mình là
Giác Hoàng, hễ vua cử động thì không gì là nó không biết trước. Vua sai
Trung sứ đến hỏi xem thì những gì người ta nói đều đúng cả, bèn rước về ở
tại chùa Báo Thiên. Vì sự linh dị của nó, vua thương yêu nó càng nhiều.
Bấy giờ, vua không có người nối dõi, muốn lập nó làm Thái tử, quần thần
không chịu, mới thôi. Bèn liền lập trai hội ở trong cung cấm, muốn khiến
Giác Hoàng đầu thai vào làm con mình.
Có nhà
sư núi Phật Tích là Từ Lộ Đạo Hạnh nghe việc ấy mà không vui bèn sai người
chị mình là Từ Thị đến phó hội, lén lấy vài hạt châu có kết ấn rồi trao
cho, bảo: “Đến chỗ hội thì hãy nhét vào đầu mái diềm, đừng để cho ai thấy
biết”. Từ Thị làm theo lời dặn của sư. Giác Hoàng bỗng chốc mắc bệnh sốt
trẻ con, bèn nói với người ta rằng: “Tôi thấy khắp cả nước đều có lưới sắt
bao phủ, không có ngõ nào mà thác sinh vào cung được”. Vua ra lệnh mở một
cuộc lùng soát lớn thì bắt được những hạt châu do Từ Thị giấu, bèn bắt Lộ
trói ở lang Hưng Thánh, muốn đặt vào tội xử tử. Gặp khi Sùng Hiền Hầu vào
chầu, Lộ gào khóc thảm thiết nói rằng: “Xin Hầu ra tay cứu vớt bần tăng
nếu may mà được thoát chết thì sẽ vào làm con Hầu để đáp lại ân đức”. Hầu
bằng lòng, nên khi vào gặp vua, Hầu mưu cứu bằng trăm lối, nói rằng: “Giác
Hoàng nếu thật có thần lực mà lại bị Lộ thư giải thì rõ ràng Lộ hơn Giác
Hoàng vậy. Thần nghĩ không gì hơn là cho Lộ thác sanh vậy”. Vua bèn xá tội
Lộ. Đại Việt sử ký toàn thư không ghi chuyện này.
(18)
Đại Việt sử ký toàn thư B3 tờ 16a2-6: “(Hội Tường Đại Khánh) năm thứ ba,
bây giờ tuổi vua đã cao, mà không có con nối dõi, xuống chiếu chọn con tôn
thất vào làm nối dõi. Em vua là Sùng Hiền Hầu cũng chưa có con nối dõi.
Gặp lúc nhà sư núi Thạch Thất là Từ Đạo Hạnh đến nhà Hầu để cùng nói
chuyện cầu tự, Đạo Hạnh nói: “Ngày kia khi phu nhân lâm bồn thì nên trước
báo cho biết, bởi vì tôi đã vì Ngài đến cầu xin ở thần núi rồi”. Ba năm
sau, phu nhân nhân thế mà có thai, sinh ra con trai Dương Hoán”.
(19)
Đại Việt sử ký toàn thư B3 tờ 16b6-17a4: “(Hội Tường Đại Khánh ) năm thứ
bảy, mùa hạ tháng sáu, thầy Từ Đạo Hạnh thi giải ở chùa núi Thạch Thất....
Trước đó, phu nhân của Sùng Hiền Hầu là Đỗ thị có thai. Đến lúc ấy, khó
sanh, Hầu nhớ lại lời nói ngày trước của Đạo Hạnh, sai người chạy đến báo.
Đạo Hạnh tức khắc tắm rửa thay áo, vào trong hang thi giải mà mất. Phu
nhân liền sanh được người con trai, tức là Dương Hoán vậy. Người làng cho
là chuyện lạ, đem thi bỏ vào trong khám mà thờ. Núi Phật Tích ngày nay tức
là chỗ của nó vậy. Mỗi năm đến ngày 7 tháng 3 mùa xuân, sĩ nữ tụ hội lại ở
chùa, làm nó trở nên một nơi du ngoạn nổi tiếng. Người sau ngoa truyền đó
là ngày kỵ của Thầy”.
Đại Việt
sử lược 2 tờ 22a5: “(Hội Tường Đại Khánh thứ 7) mùa hạ tháng 6 thầy Đạo
Hạnh hóa thân - Thần Tông sinh ra”.
(20)
Tam thập tam thiên (Phạn: Trayastrimsà), một tên gọi khác của cõi trời Đao
lợi hay Đâu suất đà (Phạn: Tusita), nơi ngự trị của Đế Thích theo huyền
thoại Phật giáo. Xem Trường a hàm 20 và Câu xá luận 11.
(21)
Đại Việt sử ký toàn thư B3 tờ 17a4-5: “Xác của Sư đến khoảng năm Vĩnh Lạc
đời Minh mới bị người Minh đốt. Người làng đúc lại tượng của Sư mà thờ như
xưa, nay còn”. Thì rõ ràng, xác của Đạo Hạnh đang còn vào thời Trần, khi
tác giả Thiền uyển tập anh viết tác phẩm của mình. An nam chí lược 15 tờ
147-148 cũng nói: “Sư nhục thân kim thượng tồn”. An nam chí nguyên 3 tờ
209 viết: “Kim chân hình thượng tồn”.
(22)
Nguyên văn: “Án Quốc sử, Hội Tường Đại Khánh bát niên, (nhân) Sùng Hiền,
Thành Khánh, Thành Quảng, Thành Chiêu, Thành Kỳ, Hầu tử, nghênh nhập trung
cung giáo dưỡng. Sùng Hiền (Khánh thọ bát niên đông thập nhị nguyệt đế
băng) Hầu tử, niên phương nhị tuế, đế thâm ái chi, toại lập vi Hoàng thái
tử, chí Thiên Phù Khánh Thọ nguyên niên đông thập nhị nguyệt đế băng, Thái
tử tức vị, xuân thu nhị thập nhất niên, tại vị phàm thập nhất niên, thụy
viết Thần Tông, tức Sư thị giả, Giác Hoàng hoặc Đại Điên thị giả”.
Những
chữ đặt trong vòng ngoặc là những chữ chúng tôi coi như diễn tự và loại bỏ
không dịch, cứ vào lời chiếu tìm con tôn thất vào nuôi dưỡng trong cung
của Lý Nhân Tông trong Đại Việt sử ký toàn thư B3 tờ 18a8-b3: “Hội Tường
Đại Khánh thứ 8 mùa đông tháng 10... xuống chiếu nói rằng: ‘Trẫm trị muôn
dân, đã lâu không có con nối dõi, ngôi thứ của thiên hạ, thì có thể truyền
lại cho ai. Vậy phải nên nuôi dưỡng con của Sùng Hiền, Khánh Thành, Thành
Quảng, Thành Chiêu và Thành Hưng Hầu, rồi chọn đứa tốt nhất trong chúng mà
lập lên’. Bấy giờ con của Sùng Hiền Hầu là Dương Hoán, tuổi mới lên hai mà
đã thông minh lanh lợi, vua rất thương yêu, bèn lập làm Hoàng thái tử”.
(23)Lĩnh nam chích quái tờ 28-31 chép truyện của Từ Đạo Hạnh hoàn toàn
đồng nhất với truyện đây, trừ một sai khác đáng chú ý là việc Đạo Hạnh thi
trúng khoa Bạch liên, mà Thiền uyển tập anh không nói rõ. Còn Từ Đạo Hạnh
đại thánh sự tích thật lục do “Đạo nhân tam quán Tam Thanh” chép phụ vào
Việt điện u linh tập tờ 221-225, tuy cốt truyện vẫn giống, nhưng có một số
chi tiết khá lôi cuốn đáng ghi, nên đề nghị dịch lại sau:
“Xưa Từ
Đạo Hạnh, họ Từ tên Lộ cha là Vinh, dùng đạo Thích làm giáo tôn, làm quan
triều Lý đến chức Tăng quan đô sát, trước thường (qua chơi) làng Yên Lãng,
cưới con gái họ Tăng tên Loan, làm nhà ở xóm Láng nam, làng Yên Lãng, gặp
được chốn đất làm nhà là quí địa, nên bẩm sinh Đạo Hạnh có tiên phong đạo
cốt.
Hạnh lúc
nhỏ ham hơi, tính tình hào hiệp, có chí lớn, hành động cử chỉ, người ta
không thể lường. Thường cùng nhà nho Phí Sinh, đạo sĩ Lê Toàn Nghĩa và
người hề Phan Ất làm bạn. Ban đêm, Hạnh siêng năng chịu khó đọc sách,
nhưng ban ngày thì đánh cầu, thổi sáo, đánh bạc làm vui. Cha Hạnh thường
quở trách Hạnh hoang chơi biếng nhác. Một hôm, ông lén nhìn vào phòng
Hạnh, thấy ngọn đèn leo lét như hạt đậu, sách vở chất đống, Đạo Hạnh tựa
vào bàn ngủ, mà tay vẫn chưa buông sách. Ông do thế không còn lo lắng nữa.
Sau Hạnh ứng thí khoa Bạch liên, đỗ đầu, nhưng không thích ra làm quan,
ngày đêm chỉ nghĩ tới việc báo thù cho cha.
Cha Hạnh
nguyên ngày trước dùng diệu thuật xúc phạm đến Diên Thành Hầu. Nhà Hầu có
pháp sư Đại Điên dùng bùa yếm giết chết, quăng thây xuống sông Tô Lịch.
Trôi đến cầu Tây Dương, chỗ nhà Diên Thành Hầu, thây dừng lại đó, suốt
ngày không chịu trôi đi. Hầu sợ, chạy báo cho Điên. Điên đến, nói kệ rằng:
‘Tăng giận không đầy đêm sao? Vả, sống là trường du hý, chết mới thành đạo
Bồ đề’. Thây đáp lại lời nói mà trôi đi, đến chỗ Hàm rồng làng Nhân Mục
cựu thì dừng lại. Người ta thấy nó có linh dị, xã đó xây lăng miếu, đúc
tượng phụng thờ, mỗi năm kỵ vào ngày 10 tháng giêng. Bấy giờ mẹ Hạnh táng
tại chùa Ba Lăng, xã Thượng Yên. Nay chùa Hoa Lăng phụng thờ cả hai vị
Thánh cha và Thánh mẹ.
Đạo Hạnh
chí nhằm phục thù, mà không tìm ra kế. Một hôm, rình lúc Đại Điên đi ra
sắp làm pháp thuật, bèn lấy gậy sắp đánh Đại Điên, bỗng nghe trên không có
tiếng mắng bảo thôi. Đạo Hạnh bèn quăng gậy, trở về nhà, buồn rầu tức
giận, muốn đi Tây thiên, tìm học phép lạ, để chống Đại Điên. Bèn liền cùng
Minh Không và Giác Hải ra đi, đến nước Răng Vàng đường đi hiểm trở, muốn
trở về thì thấy một ông già cưỡi một thuyền con, thảnh thơi đi trên sông.
Họ cùng đến hỏi: “Tới Tây thiên còn bao xa”. Ông già trả lời: “Đường núi
hiểm cao, đi bộ không được. Lão có chiếc thuyền nhỏ này, xin giúp chở đi,
lại có cây gậy nhỏ đây, nhắm thẳng Tây quốc mà tới thì chẳng xa, lão xin
bằng lòng ngay”. Lại nói bài kệ:
Cùng đi
đường đạo lẽ đương nhiên
Nhiều ông xa học
quyết nên danh
Mênh
mông muôn ngả sao nhọc trải
Chỉ nhắm Hoàng
Giang thấy thánh sanh.
Nói kệ
xong, trong khoảng nháy mắt, bỗng chốc đã đến trên bờ sông Tây thiên có
nhiều thần thông phép thiêng. Đạo Hạnh giữ thuyền. Giác Hải và Minh Không
lên bờ, học được phép thiêng, liền tự trở về trước. Đạo Hạnh giữ thuyền ba
ngày, không thấy tin tức hai người bạn, tự nhiên gặp một bà lão đến bên bờ
sông, bèn chèo đên hỏi: “Bảo bà lão có từng thấy hai người đến cầu đạo
không?”. Bà lão trả lời: “Hai đứa đó đã nhận phép thiêng do ta dạy, đắc
đạo trở về rồi”. Đạo Hạnh liền vái, vừa kể lại chuyện ba người cùng đi,
bây giờ bỏ nhau, rất lấy làm buồn. Bà lão nghe nói, tức sai Đạo Hạnh gánh
hai thùng nước về nhà, ta sẽ dạy cho ngươi vài phép thiêng cùng phép cho
rút đất chân truyền và đà la ni.
Đạo Hạnh
tự hiềm hai người bạn đã thất ước, bèn tụng chú. Giác Hải và Minh Không đi
đến nửa đường thì bị chú làm đau tim, khó di động được. Hai người bạn nhìn
nhau kinh hãi. Bên ngoài tuy họ bị quấy rầy, nhưng bên trong nhờ đã học
được linh thuật, nên đang hoàn toàn tỉnh táo, biện biệt được hư thật, biết
rằng nó quả là do Đạo Hạnh tạo ra. Họ nhìn nhau nói: “Ngươi muốn biết hậu
thân của thân này, thì hãy nhắm ta mà nói”. Đạo Hạnh nhân thế đáp: “Ta
cùng học đạo Thế Tôn, đạo quả đã thành, hậu thân sẽ sinh lại thế gian làm
bậc nhân chủ, lại sinh mắc bệnh, quyết không thể tránh, các ngươi có duyên
với ta, xin đến cứu nhau”.
Từ đó,
hận xưa hết sạch, cùng nhau truyền bá Phật pháp. Đi mặt nước, bay trên
không, hàng rồng phục cọp, lên trời rút đất, muôn quái nghìn kỳ, xuất quỷ
nhập thần, chẳng lường được mầu nhiệm. Họ bèn nhượng Đạo Hạnh làm anh cả,
Minh Không làm anh thứ và Giác Hải làm em. Chỗ đó nay gọi là cầu Beo ấy
vậy. Minh Không và Giác Hải giã từ trở về chùa Giao Thủy. Đạo Hạnh ở lại
tu luyện tại chùa Thiên Phúc núi Thạch Thất. Trước chùa có đôi cây tùng
già, người ta gọi là long thụ. Đạo Hạnh thường ngày chuyên trì chú Đại bi
tâm đà la ni đủ ức vạn ngàn biến thì một nhánh cây rơi xuống. Khi đọc chú
xong thì cả đôi cây đều trụi. Hạnh tưởng được đức Quan Thế Âm đã đến ứng
giúp, sức chú gia trì đã thấu tới thiên đường. Một hôm, thấy thần nhân
hiện đến trước mặt, chân không đạp đất, Hạnh hỏi: “Thần nào đó?” Vị thần
trả lời: “Đệ tử là Tứ trấn thiên vương, cảm động đức trì kinh của Sư, nên
đến hầu hạ, để tiện việc sai sử”. Đạo Hạnh biết lục trí của mình đã viên
thành, thù cha có thể trả. Bèn trở về ở tại Yên Lãng làng xưa, thân hành
đến cầu An quyết sông Tô Lịch, quăng một cây gậy xuống sông. Cây bỗng trên
mặt nước, trôi ngược lên như bay, đến cầu Tây dương mới dừng lại. Đạo Hạnh
vui mừng nói: “Phép ta thắng Đại Điên rồi vậy”. Bèn đi thẳng đến chỗ Điên.
Điên thấy, nói: “Mày không nhớ chuyện ngày trước sao?”. Đạo Hạnh ngửa mặt
ngó lên trời, vắng vẻ không thấy gì cả, nhân thế đánh mạnh. Điên chết, lại
quăng xác vào sông Tô Lịch để trả thù xưa.
Thù xưa
rửa sạch, niềm tục lắng trong, Hạnh lại đi khắp tòng lâm, cầu xin ấn
quyết. Nghe Cao Trí Huyền hóa đạo ở Thái Bình, Hạnh lễ phép đến tham yết,
tỏ hết chân tâm, có bài kệ rằng:
Lâu mắc bụi đời chưa biết vàng
Chẳng may đâu đó ấy lòng chân
Nguyện xin chỉ dạy bày phương tiện
Nương thấy Bồ đề khỏi nhọc tìm.
Trí
Huyền đáp lại bài kệ:
Bí quyết
chân truyền giá vạn kim
Rõ ràng
cái đó ấy thiền tâm
Hà sa
thế giới nên thôi nói
Chẳng
phải Bồ đề cách vạn tầm
Từ Đạo
Hạnh mang nhiên không hiểu, bèn đến pháp hội của Sùng Phạm tại chùa Pháp
Vân, thong dong hỏi rằng: “Thế nào mới là chân tâm?”. Phạm đáp: “Chỗ nào
lại không là chân tâm”. Đạo Hạnh bỗng nhiên tự ngộ, bèn lại trở về chùa
Thiên Phúc núi Thạch Thất tu đạo luyện pháp xưa. Từ đó pháp lực càng thêm,
lòng thiền càng thục, có thể sai sử chim rừng thú nội đều bay đến nép phục
xung quanh. Hễ dân các phương có ai bị tật dịch, phù bay giát chạy, phép
Hạnh lập tức có nghiệm. Đem cứu người, người đều thấm ơn.
Bấy giờ
vua Lý Nhân Tông không có con nối dõi, cầu đảo không nghiệm. Em vua là
Sùng Hiền Hầu mời Đạo Hạnh về nhà cùng nói chuyện cầu tự. Từ Công nguyện
thác thai, để tạ ân đức của Hầu. Lúc đó, phu nhân đang tắm ở nhà sau, bỗng
thấy Đạo Hạnh hiện ở trong thau nước. Phu nhân sợ, đem nói với Hầu. Hầu rõ
biết ý Hạnh, lén gọi phu nhân nói: “Bóng hiện trong thau nước, ấy là chân
nhân đã nhập vào trong tử cung rồi, cẩn thận chớ sợ hãi nghi ngờ. Phu nhân
trong lòng cảm thấy mình có thai. Từ Công bèn từ tạ ra về, dặn rằng: “Lúc
lâm bồn thì nên đi báo cho ta”. Đến khi thai đủ tháng, phu nhân cảm thấy
chuyển bụng muốn đẻ, nhưng rất khó. Hầu bảo: “Nên mau đi báo cao tăng”. Từ
Công thấy người đi báo đến, bèn gọi đồ đệ đến nói: “Nhân xưa chưa hết, ta
tạm phải ra đời làm con cõi người để làm vua, thọ hết lại làm (chủ) cõi
trời Tam thập tam. Nếu thấy chân thân ta hoại diệt thì ta mới vào Niết bàn
, không còn ở trong sinh diệt nữa. Môn nhân nghe nói, không ai là không
cảm động đến rơi nước mắt. Bèn lải rải nói kệ rằng:
Thu qua không báo nhạn về đây
Dễ khiến người đời xót thương thay
Tỏ dấu người đời không ý tiếc
Thầy xưa bao thuở vẫn thầy nay
Nói
xong, đi lên Động Tiên, va đầu vào vách đá, dẫm chân lên bàn đá nghiễm
nhiên thi giải mà mất. Ấy là năm Bính Thân Hội Tường Đại Khánh thứ 3 mùa
xuân tháng 3 ngày mồng 7. Đạo Hạnh Niết bàn, ra đời làm con của Sùng Hiền
Hầu, không phiền nuôi nấng mà mau lớn, không nhọc dạy dỗ mà thông minh,
nhan sắc đẹp đẽ, tài năng hết sánh. Vua xuống chiếu đem vào nuôi dưỡng ở
trong cung, sau phong làm Hoàng thái tử. Nhân Tông băng, vua lên ngôi, ấy
là Thần Tông..”.
Từ Đạo
Hạnh đại thánh sự tích thật lục này, Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn Tây,
mục Tục biên chép với một vài sai khác không đáng kể cho lắm. Trừ việc nó
thiếu bài thơ thị tịch của Hạnh và thêm bài thơ báo mộng cho Lý Nhân Tông
cùng chuyện nhờ Minh Không sau này chữa bệnh hộ mình.
An nam
chí lược 15 tờ 147-148 viết: “Từ Đạo Hạnh là Nho sinh, ưa thổi sáo ngày
cùng bạn leo núi du ngoạn, đêm đọc sách đến sáng. Một hôm, Hạnh vào núi
Phật Tích, thấy trên đá có dấu bàn chân bên phải, bèn lấy bàn chân mình án
lên trên thì giống như một. Bèn trở về nhà, giã từ mẹ mình, vào núi dựng
am tu hành. Vua Lý vô tự, sai danh tăng cầu đảo. Có một vị tăng không dự,
dùng thuật yểm đi. Vua nghe được sai bắt các vị tăng trong nước. Sư cũng
bị hạ ngục. Vị Hoàng tử đem sức ra cứu, nên Sư khỏi được. Vị hoàng tử nói:
“Tôi cũng không có con nối dòng, xin Sư cầu đảo giùm tôi”. Sư bèn nói với
vị Hoàng tử nên sai phu nhân vào trong nhà tắm. Sư đi qua ngoài nhà. Phu
nhân cảm được mà có thai. Đến khi sinh, vị Hoàng tử cho mời Sư, nhưng Sư
đã ngồi mà hóa. Phu nhân bèn sanh một người con trai kỳ vĩ. Vua Lý lấy làm
người nối dõi. Nhục thân Sư nay vẫn còn”.
Việt sử
tiêu án 1 tờ 101a1-16 chép: “Xét phu nhân Sùng Hiền Hầu có thai gặp Sư núi
Thạch Thất là Từ Đạo Hạnh đến nhà cùng bàn việc cầu tự. Sư hẹn khi sắp đẻ,
nên trước báo cho Sư biết. Đến lúc ấy phu nhân đẻ khó, Hầu nhớ lại lời Sư,
sai người đi báo. Sư liền thay áo, tắm rửa, vào trong hang thi giải mà
chết. Phu nhân liền sanh một người con trai, tức Dương Hoán. Núi Thạch
Thất ở tại làng Lật Sài, huyện Yên Sơn, cao vút xanh đẹp, mọc lên giữa một
đám đất bằng. Động đá có in dấu đầu và dấu chân, hình như rồng lân, tục
truyền là nơi thi giải. Người làng cho đó là điềm lạ, bỏ thây vào trong
khám mà thờ. Mỗi năm đến ngày 7 tháng 3 là thắng hội của một địa phương.
Sau trong khoảng Vĩnh Lạc, người Minh đốt thây đó. Dân làng mới đắp tượng
cùng thờ với Thần Tông. Trong khoảng Lê Quang Thuận, sai Nguyễn Đức Trinh
đến cầu tự ở trong động thì điềm lạ là có một mảnh đá bay tới. Bèn cung
kỉnh rước về dâng lên. Khi đã vậy, Thái hậu Trường Lạc mộng thấy rồng vàng
vào hông bên phải của mình, bèn sinh ra Hiến Tông. Từ đó dấu thiêng càng
hiện rõ”.
Rồi nó
nhận xét thế này: “Xét Dã sử thì Đạo Hạnh là con của Từ Vinh, dòng dõi nổi
tiếng về pháp thuật, chẳng phải là một cao tăng. Việc thi giải đầu thai
của ông quái đản không thường. Cao tăng minh tâm kiến tánh, tất không dùng
phép thuật mê hoặc mọi người. Sách sử nên bỏ chuyện lạ lùng, chỉ ghi lại
việc thường, thì không nên đem chuyện thần quái mà mê hoặc đời”. Dẫu vậy,
với dẫn chứng vừa đọc, ta cũng thấy Việt sử tiêu án đã không quên bước
chân theo Đại Việt sử ký toàn thư và Đại Việt sử lược để ghi lại những
việc làm có vẻ quái đản của Đạo Hạnh. Chỉ Khâm định Việt sử thông giám
cương mục chính biên là đã làm theo lời giáo huấn của Ngô Thời Sĩ, và từ
đó đã tự làm giảm giá trị của chính mình thôi.
52.
THIỀN SƯ TRÌ BÁT
(1)
Việt sử tiêu án 1 tờ 101b2 nói Từ Đạo Hạnh là “nhà Sư núi Thạch Thất”.
Nhưng cứ truyện Đạo Hạnh tờ 53b2 ở trên thì Hạnh sống ở Phật Tích đời Lý
phải chăng là núi Thạch Thất đời Ngô Thời Sĩ, tác giả Việt sử tiêu án. Đây
là một có thể vì dù Đại nam nhất thống chí, mục Sơn xuyên có bản núi Phật
Tích ở huyện Yên Sơn chăng nữa thì ở mục Kiến trí diên cách, nó lại dẫn
Đại thanh nhất thống chí nói rằng núi Câu lậu ở huyện Thạch Thất , núi
Phật Tích cũng ở huyện Thạch Thất. Rồi nó bình luận: nay núi Phật Tích ở
huyện Yên Sơn là một huyện đời nào mới phân ra chưa rõ. Như thế ta có
chứng cứ mà nghĩ rằng núi Phật Tích và núi Thạch Thất một.
Tuy
nhiên, theo Đại Việt sử lược 3 tờ 31 b4 thì núi Phật Tích ở Ngoại Trại,
trong khi cứ truyện Trì Bát đây thì núi Thạch Thất lại ở Tân Trại. Tân
Trại đương nhiên không phải là Ngoại Trại được. Từ đó núi Thạch Thất không
thể là núi Phật Tích, Vấn đề này Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn Tây, mục
Sơn xuyên, đã cung cấp sẵn một giải đáp. Nó dẫn Lê chí đời Minh nói rằng:
“Núi Phật Tích là một danh sơn trong 21 núi ở An Nam, năm Hồng Vũ thứ 3
(1371) sai sứ sang tế, lại vẽ hình nó đem về. Phía đông bắc núi độ một dặm
có sông Hát chạy vòng quanh. Phía tây nam độ hai dặm có một khe nhỏ chảy
khuất khúc hơn 10 dặm đổ vào sông Tích. Núi chuyển hướng đông thuộc thôn
Thiên Phúc làm núi Long Đẩu, thuộc xã Sài khê thì làm núi Hoa Phát, làm
núi Lộc, làm núi Long, đến xã Khánh Tân thì làm núi Hương, núi Mộng, núi
Phụng Hoàng và thôn Ô Cách, xã Cù Sơn thì làm núi Lân, núi Tượng, lại
chuyển hướng nam làm núi Ma Yên, thuộc thôn Trung, xã Cù Sơn làm núi
Dương. Xã Quảng Động có núi Âm. Hai núi ấy đối ngọn nhau. Núi Dương không
có cỏ cây. Núi Âm có cây rất tốt, nên có tên đó”.
Cứ vào
những mẩu tin vừa dẫn của Lê chí thì núi Phật Tích “chuyển hướng đông đến
thôn Ô Cách, xã Cù Sơn thì làm núi Lân, núi Tượng, lại chuyển nam thuộc
thôn Trung, xã Cù Sơn là núi Dương”. Xã Cù Sơn nói đây chúng tôi nghĩ rằng
nó là phần đất làng Đại Cù, mà truyện Trì Bát nói tới. Từ đó, núi Thạch
Thất nơi có ngôi chùa Tổ Phong của Trì Bát phải là núi Lân, núi Tượng ở
thôn Ô Cách, xã Cù Sơn. Chúng tôi không kể đến ngọn Dương Sơn của xã này,
bởi vì nó là một ngọn núi: “không cây cỏ” thì khó lòng là nơi làm cảnh
dựng chùa được. Về núi Lân và núi Tượng Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn
Tây, mục Sơn xuyên, có nói về núi Phục Tượng như sau: “Núi Phục Tượng tại
huyện Yên Sơn, nó từ Sài Sơn mà đến, một chi phía nách trái có núi Phụng
Hoàng và núi Quy Tích”. Nó không nói gì đến núi Lân hết, thế cũng có nghĩa
núi Lân chắc không có gì đặc sắc cho lắm. Núi Tượng như vậy cũng là núi
Phục Tượng. Và giống Phục Tượng là đến từ Sài Sơn, thì núi Thạch Thất, tức
núi Phục Tượng, cùng là núi Phật Tích, hay đúng hơn từ Phật Tích “mà tới”.
Đất Tân
Trại do đó phần lớn gồm trong huyện Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây ngày nay. Điều
này ta ngày nay không có gì phải nghi ngờ, bởi vì một bệ đá thờ Phật Di Đà
tìm thấy tại chùa Hoàng Kim của xã Hoàng Ngô tỉnh Quốc Oai đã có ghi tên
Trì Bát, ghi nhận Trì Bát đã dựng tượng đức A Di Đà đó vào năm 1099.
(2)
Tức phần đất làng Khương Tự và Đại Tự huyện Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc ngày
nay. Đại Việt sử ký toàn thư B4 tờ 19b1-20a1 viết: “Năm Thiên Tư Gia Thụy
thứ 3 (1188) mùa hạ tháng 5 hạn. Vua thân hành đến chùa Pháp Vân của Luy
Lâu (nguyên văn có Luy Bà, nhưng Bà chắc chắn là một viết sai của Lâu) cầu
mưa, nhân đó rước tượng Phật Pháp Vân về chùa Báo Thiên”. Khâm định Việt
sử thông giám cương mục chính biên 5 tờ 23b3 cũng ghi việc đấy, nhưng
không ghi tên đất nơi có chùa Pháp Vân. Mà chùa Pháp Vân, ta đã biết là ở
hai xã Khương Tự và Đại Tự ngày nay. Thì Luy Lâu tất cũng phải vậy.
(3)
Tức Lý Thường Kiệt (1019-1105). Kiệt được phong chức Thái úy năm 1075.
(4)
Thiền sư Viên Quang, có người hỏi: “Nếu không dính dáng đến chuyện đàn
tràng nữa thì Sư có tiếp chăng?”. Sư trả lời: “Tô rô tô rô”. Tô rô tô rô
hay nói cho đủ, án tô rô tô rô tất rị là một phiên câu chữ Phạn: Om
surà-suràsrì nghĩa là: Om loài người trời và loài chẳng phải trời quang
vinh.
53.
THIỀN SƯ THUẦN CHÂN
(1)
Tây Kết là một địa danh lịch sử nổi tiếng. Bọn xâm lược Tống thời Lê Hoàn
đã đến đóng quân ở đó. Bọn xâm lược Nguyên Mông dưới quyền chỉ huy của tên
tướng khét tiếng tàn ác Ô Mã Nhi cũng đến đóng quân ở đó. Tuy thế, Khâm
định Việt sử thông giám cương mục chính biên 1 tờ 18a1 đã phải chú là “Tây
Kết thất tường”. Dẫu vậy, bây giờ cứ vào mô tả của Đại Việt sử ký toàn thư
5 tờ 48a2-49b8 về những chiến thắng Hàm Tử, Chương Dương và Tây Kết, ta
thấy đầu tháng 3 năm 1285 Toa Đô đem 50 vạn quân đến đóng ở Tây Kết. Tháng
4 “vua sai Chiêu Thành Vương, Hoài văn hầu Quốc Toản và tướng quân Nguyễn
Khoái đem tiệp binh đón đánh giặc ở đầu bến Tây Kết. Quan quân cùng với
người Nguyên đánh nhau ở cửa Hàm Tử, các quân đều ở đó. Chỉ quân của Chiêu
Văn Vương Nhật Duật là có người Tống mặc áo người Tống cầm cung nỏ chiến
đấu... Người Nguyên thấy vậy, đều thất kinh nói: “Có người Tống đến giúp”,
nhân đó thua chạy về Bắc. Ngày 10 có tiệp báo. Thượng tướng Quang Khải,
Hoài văn hầu Quốc Toản và Trần Thông, Nguyễn Khả Lạp cùng em Nguyễn Phó
đem dân binh các lộ đánh bại giặc ở các nơi Kinh thành và Chương Dương.
Ngày 17 Toa Đô cùng với Ô Mã Nhi từ biển mơi vào đến đánh sông Thiên Mạc.
Ngày 22 vua tiến lên đóng ở bến Đại Mang, Tổng quản Trương Hiển của quân
Nguyên đến hàng. Ngày đó, đánh bại giặc ở Tây Kết, giết chết và làm bị
thương rất nhiều, chém đầu tên Nguyên soái Toa Đô. Nửa đêm Ô Mã Nhi trốn
qua cửa sông Thanh Hóa. Hai vua đuổi theo không kịp, bắt dư đảng của y hơn
5 vạn mà trở về”.
Cứ vào
những diễn tiến của chiến dịch Tây Kết đây và cứ vào những chú thích của
Khâm định Việt sử thông giám cương mục chính biên 7 tờ 39b6 và 41b4 và vị
trí của cửa Hàm Tử và Bến Chương Dương cùng việc thoát thân của Ô Mã Nhi,
thì Tây Kết phải là một tên làng nằm trên bờ sông Hồng tại huyện Đông
Anh, tỉnh Hưng Yên, tức huyện Khoái Châu, tỉnh Hải Hưng ngày nay. Bắc
thành địa dư chí lục 3 có ghi một tổng và xã tên Đông Kết thuộc huyện Đông
Yên của trấn Sơn Nam hạ. Tây Kết chắc nằm phía tây của tổng xã đó, nhưng
nó không ghi một tổng xã nào tên Tây Kết hết.
Chúng
tôi nghi Tây Kết có thể nằm về hữu ngạn sông Hồng trên địa phận của huyện
Thượng Phúc, tỉnh Hà Đông trước đây, bởi vì cứ truyện Thuần Chân ở đây thì
làng Tây Kết thuộc về Thượng Nghi. Thượng Nghi này, chúng tôi nghi là tên
thời Lý của châu Thượng Phúc thời Trần, tức huyện Thượng Phúc đời Lê cho
tới ngày nay. Huyện này ở đúng về tây huyện Đông Yên. Mà huyện Đông Yên,
theo Đại nam nhất thống chí, tỉnh Hưng Yên, mục Kiến trí diên cách, là
huyện Đông Kết đời trần và thuộc Minh. Đến đời Lê Quang Thuận mới đổi ra
Đông Yên. Khảo những tên tổng xã của huyện Thượng Phúc trong Bắc thành địa
dư chí lục 3 không thấy có một tên nào có thể điểm chỉ cho biết có một
làng tên Tây Kết ở huyện đó. Vấn đề này cần được nghiên cứu thêm, đặc biệt
bằng nghiên cứu hiện địa.
(2)
Tức huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên ngày nay. Huyện Văn Giang thời Nguyễn
là thuộc tỉnh Bắc Ninh. Viết về lai lịch nó, Đại nam nhất thống chí, tỉnh
Bắc Ninh, mục Kiến trí diên cách nói: “Huyện Văn Giang đời Trần về trước
gọi là Tế Giang. Sử ký chép Lữ Đường chiếm cứ Tế Giang, tức huyện đây đời
thuộc Minh do châu Gia Lâm thống lĩnh thuộc phủ Bắc Giang. Đời Lê Quang
Thuận đổi thuộc phủ Thuận An. Sau đổi tên Văn Giang. Năm Minh Mạng 13
(1832) triều ta đặt riêng phân phủ kiêm lý huyện”.
Đại Việt
sử lược 3 tờ 29a1 nói: “Tự Khánh dẫn quân đồn Cứu Liên, chia tướng sĩ đồn
Cửu Cao và Cứu Ông để ngăn Nộn”. Cứu Ông ở đây tức Cửu Ông, quê của Thuần
Chân.
(3)
Pháp Bảo chùa Tịnh Quang này có thể là Pháp Bảo chùa Phúc Diên Tư Thánh có
hiệu là Hải Chiếu đại sư, tác giả bài bia chùa Linh Xứng viết năm 1126 nổi
tiếng hiện đã phát hiện được, và cũng là tác giả một bài bia khác cho chùa
Sùng Nghiêm Diên Thánh viết năm 1118, mà Lê Quý Đôn đã phát hiện và ghi
lại trong Kiến văn tiểu lục 4 tờ 2a8, nhưng đã không chép lại toàn văn bản
bia.
(4)
Nguyên văn: Long Phù nguyên niên Ất Dậu. Nhưng cứ Đại Việt sử lược 2 tờ
19b1 và 20a5 và Đại Việt sử ký toàn thư B3tờ 13b6-14b5 thì không có năm
nào Long Phù nguyên niên mà lại Ất Dậu hết. Long Phù nguyên niên thì phải
là Tân Tỵ, còn Ất Dậu thì phải là Long Phù nguyên niên. Chúng tôi nghĩ,
chữ Nguyên trong Long Phù nguyên niên ở đây là một chép sai của chữ ngũ,
bởi chữ ngũ và chữ nguyên dễ viết lộn nhau lắm, và bởi Long Phù ngũ niên
thì quả đúng năm Ất Dậu. Như vậy, năm mất của Thuần Chân chính là năm Long
Phù thứ năm Ất Dậu.
54. TĂNG
THỐNG HUỆ SINH
(1)
Bắc thành địa dư chí lục 3 có ghi một xã của tổng Nam Phù Liệt, huyện
Thanh Trì, trấn Sơn Nam thượng tên Đông Phù Liệt. Làng Đông Phù Liệt như
vậy ở vào huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông ngày nay.
(2) Vũ
An là tên một châu huyện thời Đường. Tân đường thư 43 thượng tờ 11a11 nói
châu Vũ An có hai huyện là Vũ An và Lâm Giang. Đến thời Ngô Quyền, tên ấy
vẫn dùng, bởi vì truyện của Phạm Cự Lượng trong Việt điện u linh tập tờ 20
nói ông nội của Lượng là Phạm Chiêm từng giữ chức Châu mục châu Vũ An. Đến
thời Lý, tên Vũ An đang lưu hành. Nhưng Vũ An nằm ở địa phận nào thì đấy
là cả một vấn đề. Cứ truyện Huệ Sinh đây thì tại Vũ An có Trà Sơn. Trà Sơn
nay chắc chắn là tên làng, chứ không phải là tên ngọn núi, như sẽ thấy
dưới chú thích (4) sau đây. Khảo Bắc thành địa dư chí lục 2 có ghi một xã
thuộc tổng Dưỡng Chân, huyện Thủy Đường, trấn Hải Dương tên Trà Sơn. Chúng
tôi nghi Trà Sơn quê của Huệ Sinh tức làng Trà Sơn này. Nếu vậy, đất châu
Vũ An đời Lý tất phải bao gồm đất huyện Thủy Đường đời Nguyễn, tức huyện
Thủy Nguyên, tỉnh Kiến An ngày nay.
(3)
Chùa Hạc Lâm này nghi là đền Hạc Lâm truyện Vạn Hạnh tờ 53a7 nói tới
trong bài thơ ghi giới hạn ngôi mộ của Hiển Khánh đại vương:
Đông hữu Vũ long hạng
Nam hữu Vũ long pha
Tây hữu Hạc Lâm quán
Bắc hữu Trấn hải trì
Nếu vậy,
chùa này ở phía tây ngôi mộ tại làng Đình Bảng ?
(4)
Tức núi Nguyệt thường hay núi Bạch Sắc ở huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh. Đại
nam nhất thống chí, tỉnh Bắc Ninh, mục Sơn xuyên nói: “Núi Nguyệt thường,
tại Phía tây nam huyện Tiên Du ba dặm, một tên là núi Bạch Sắc, cũng gọi
là núi Trà. Tương truyền Lý Thánh Tông đến chơi núi đó và cho tên Nguyệt
Thường. Núi hơi cao, đá đất lẫn lộn. Trên núi có liễu, dưới núi có đền Cao
sơn. Năm Tự Đức thứ 3 (1850) triều ta liệt vào hạng danh sơn, chép vào
sách cúng”.
Núi này
hiện có đỉnh Bồ Đề Không, chưa thể biết được.
(5)
Đại sĩ là một tên gọi khác các vị Bồ tát. Xem Đại trí độ luận. Nó đôi khi
cũng để gọi Phật, như trong Kim quang minh kinh tứ nghi tập giải quyển
thượng nói: “Đại sĩ, đại là không phải nhỏ, sĩ là việc, vì vận dụng được
lòng rộng lớn làm nên việc Phật nên gọi đại sĩ, cũng gọi thượng sĩ”. Du
già sư địa luận xác định rõ hơn nội dung của từ thượng sĩ thế này: “Người
làm không lợi mình mà lợi người, ấy là hạ sĩ, làm lợi mình không lợi
người, gọi là trung sĩ, làm cả lợi mình lẫn lợi người, gọi là thượng sĩ”.
Nội dung của từ tại sĩ cũng thế.
Đại sĩ
nhục thân như vậy, có nghĩa vị Bồ tát hay Phật bằng xương thịt.
(6)
Trang Tử, “Liệt ngự khấu”: Hoặc sinh ư Trang Tử. Trang Tử ứng kỳ sử viết:
“Tử kiến phù hy ngưu hồ? Y dĩ văn tú, thực dĩ sồ thúc, cập kỳ khiên nhi
nhập thái miếu, tuy dục vi cô độc, kỳ khả đắc hồ”. Xem Trang tử 10 tờ
12a12b1.
(7)
Đại tống tăng sử lược quyển hạ tờ 250a4-10: “Nội cung phụng là chức quan
trao cho thầy tu. Từ khi Đường Túc Tôn nhóm binh ở Linh Vũ vào năm Chí Đức
thứ nhất (756), rồi trở về Phú Phong, sư Nguyên Hạo nhận được khấu sắc,
đặt đạo tràng Dược Sư, vua sai những người đi theo xa giá đến để cầu công
nghiệm. Tới chùa Khai Nguyên, phủ Phụng Dương, đạo tràng Dược Sư có ba
nhóm, mỗi nhóm bảy người, sáu thời hành đạo Bấy giờ trong đạo tràng bỗng
mọc lên một cây mận. Sư phụng mệnh kiểm xem hư thực thời cây mận có 49
cành. Nguyên Hạo dâng biểu mừng. Vua phê đáp: “Cây mận lành sum xuê, đó là
điềm nước thịnh, mà nó lại mọc trong già lam thì biết mặt trời Phật pháp
đang nổi lên trở lại. Cảm được cái điềm lành đặc biệt này, trẫm xin vui
với Sư. Lý Nhượng Quốc lại đọc sắc nói: “Sắc sư Nguyên Hạo làm Nội cung
phụng”. Đặt ra chức Nội cung phụng đây, như vậy là bắt đầu với Nguyên Hạo.
Sau Hạo có Tử Lân là người Tuyền châu kế tiếp. Đến thời Hiến Tông thì Đoan
Phổ, Hạo Nguyên và Hoàn Bạch nối nhau giữ chức. Qua tới thời Chu, Lương,
Hậu Đường, Tấn, Hán, Chu và Đại Tống ta thì chức đấy không còn nghe tới
nữa”.
Đấy là
lai lịch chức Nội cung phụng tăng ở Trung Quốc. Ở nước ta, chức này được
phong cho một Pháp sư tên Định sống vào những năm 800, mà Dương Cự Nguyên
đã làm bài thơ tặng nhan đề “Cung phụng Định pháp sư quy An Nam”. Xem Toàn
đường thi 333 tờ 3722. Đến đời Lê Đại Hành có Nguyễn Kha làm Nội cung
phụng đô úy như Thiền uyển tập anh đã có.
(8)
Tức Phụng Càn Vương, tước do Lý Thái Tông phong cho con mình là Lý Nhật
Trưng vào năm 1035. Xem Đại Việt sử lược 2 tờ 6a8 và Đại Việt sử ký toàn
thư B2 tờ 23a5.
(9) Có
lẽ là Vũ Uy. Năm 1009, khi mới lên ngôi, Lý Công Uẩn phong cho anh mình là
Vũ Uy Vương. Xem Đại Việt sử lược 2 tờ 2b3 và Đại Việt sử ký toàn thư B1
tờ 34b5. Nhưng Vũ Uy đây không phải là Vũ Uy Vương, mà là Vũ Uy Hầu, con
của Lý Thái Tông và em của Phụng Càn Vương. Đại Việt sử lược 2 tờ 8a4 có
ghi một Vũ Uy Hầu đã cùng với Quách Thịnh Dật đi đánh Nùng Trí Cao vào năm
1048, mà những sử khác không ghi. Vũ Uy Hầu này là Vũ Uy của chúng ta ở
đây.
Về tước
Thái tử, thì các sử ta đều nói trừ con trưởng ra, các con khác của các vua
đời Lý đều phong Hầu. Nhưng cứ Lĩnh ngoại đại đáp, thì các con vua đời Lý
đều được phong Thái tử hết. Những Thái tử Vũ Uy, Hỷ Từ. v.v...chắc đều là
con của Lý Thái Tông.
(10) Có
lẽ là Vương Hành, người giữ chức hữu thanh đạo do Lý Thánh Tông phong lúc
mới lên ngôi vào năm 1054, mà Đại Việt sử lược 2 tờ 10a5 nói tới, còn các
sử khác không thấy có. Chữ Hành rất dễ viết lên thành chữ Cường.
(11)
Lúc mới lên ngôi vào năm 1028, Lý Thái Tông “lấy Lương Nhiệm Văn làm Thái
sư (...) Đào Xử Trung làm Thái bảo....Kiều Bỗng làm Hữu tham tri chính sự.
Xem Đại Việt sử lược 2 tờ 5a3-5 và Đại Việt sử ký toàn thư B2 tờ 16a7-9.
(12) Về
sự liên hệ giữa Huệ Sinh và Lý Thánh Tông, Báo cực truyện do Việt điện u
linh tập tờ 30-31 dẫn lại trong truyện Ứng thiện hóa dục nguyên trung hậu
thổ địa kỳ nguyên quân có viết rằng:
“Xưa Lý
Thánh Tông nam chinh Chiêm Thành, đến cửa Hoàn bỗng bị gió lớn mưa to,
sóng nước cuộn lên, thuyền vua tròng trành muốn lật, nguy cấp xảy ra không
thể lường được. Vua rất lo sợ. Trong lúc bàng hoàng, vua bỗng thấy một
người con gái, tuổi ước trên dưới hai mươi, mặt tựa hoa đào, mày đượm
dương liễu, mắt sáng như sao, cười như hoa nở, mình mặc áo trắng quần lục,
nai nịt gọn gàng, đi thẳng đến trước Vua, nói rằng: “Thiếp là tinh của đại
địa Nam quốc, sống nhờ ở làng Thủy Vân đã lâu, xem thời mà ra, may gặp dịp
tốt, hân hạnh thấy được long nhan, thì sở nguyện bình sinh của thiếp thật
đã thỏa. Chỉ mong bệ hạ chuyến đi này thông suốt, hoàn toàn thu hoạch
thắng lợi. Thiếp tuy bồ liễu mong manh, cũng xin đem sức mọn, lặng lẽ phò
tá. Đến ngày khải hoàn, thiếp xin đợi ở đấy để bái yết”. Nói xong thì
không thấy nữa.
Vua tỉnh
dậy kinh hãi nhưng vui, cho mời tả hữu, kể hết những gì đã thấy trong
mộng. Tăng thống Lâm Huệ Sinh nói: “Thần nói thác sinh vào một cây ở tại
làng Thủy Vân. Nay nên tìm thần ở cây đó, có thể có linh nghiệm”. Vua đồng
ý, sai tùy tùng đi tìm ở bãi và bờ sông thì được một cây gỗ, đầu rất giống
hình người qua dạng người đã thấy trong mộng. Vua bèn đặt hiệu là Hậu Thổ
phu nhân. Sai đặt hương án ở trong ngự thuyền. Giây lát, sóng gió lặng im,
cây cối hết động. Tới khi qua đến Chiêm Thành xáp trận thì giống như có
sức thần giúp. Trận đó quả đại thắng.
Đến ngày
khải hoàn, thuyền vua đến đậu lại chỗ cũ, ra lệnh xây miếu, thì mưa gió
lại nổi lên lại như xưa. Lâm Huệ (Sinh) tâu rằng: “Để xin một keo có phải
muốn về kinh sư chăng”. Thì quả được. Mưa gió lại im lặng. Đến khi tới
kinh sư, vua chọn đất dựng miếu tại làng Yên Lãng, rất nổi tiếng linh dị.
Có kẻ bài báng chú trở thì liền bị tai họa ...
Đấy là
chuyện Lâm Huệ sinh tùng chinh Chiêm Thành với Lý Thánh Tông nguyên bản
chép tay viết Huệ Lâm Sinh hay Huệ Lâm, nhưng đó rõ rằng là chép ngược và
thiếu cái tên của Huệ Sinh họ Lâm. Suốt đời mình Lý Thánh Tông chỉ đi đánh
Chiêm Thành có một lần, ấy là vào năm 1069. Nhưng như sẽ thấy, Huệ Sinh
theo Thiền uyển tập anh thì mất vào năm 1063 hay1064. Vậy làm sao lại có
thể tùng chinh? Xem chú thích tiếp theo .
(13)
Nguyên văn: Gia Khánh ngũ niên Giáp Thìn. Nhưng cứ Đại Việt sử lược 2 và
Đại Việt sử ký toàn thư B3 thì Chương Thánh Gia Khánh ngũ niên phải là Quý
Mão, chứ không phải Giáp Thìn. Nếu Giáp thìn thì phải là Chương Thánh Gia
Khánh lục niên (1064). Chữ ngũ và chữ lục cũng rất dễ lẫn. Vậy Huệ Sinh
mất năm 1064? Nhưng như thế làm sao Huệ Sinh có thể tùng chinh Chiêm Thành
với Lý Thánh Tông, khi cuộc chinh phạt xảy ra vào năm 1069. Phải chăng Huệ
Sinh đã tùng chinh với Lý Thái Tông trong cuộc chinh phạt năm 1044, mà
Việt điện u linh tập viết lộn thành Lý Thánh Tông? Chúng tôi nghĩ đấy là
một có thể, nhất là khi vấn đề truyền bản của Việt điện u linh tập đưa
nhiều điểm khá nghi ngờ, mà những cái tên Huệ Lâm Sinh và Huệ Lâm là những
thí dụ. Tuy nhiên không nhất thiết loại bỏ những sai lầm niên đại có thể
do sự truyền bản của Thuyền uyển tập anh tạo ra, mà trường hợp Khánh Hỷ và
Pháp Dung là những thí dụ.
(14)
Công án thiền. Thiền sư Vô Trước nói chuyện với Văn Thù trên Ngũ Đài Sơn.
Vô Trước hỏi về sinh hoạt của các nhà sư ở đấy và con số của nó. Văn Thù
trả lời: “Trước ba ba, sau ba ba” (Tiền tam tam, hậu tam tam). Xem Bích
nham lục 4 tờ 173b29-174a7.
(15)
Điển Thiện Tài đi học đạo, được Văn Thù chỉ đi hướng nam tham học với 53
vị thiện tri thức, mà từ Phật học Trung Quốc thường gọi “Thiện Tài đồng tử
ngũ thập tam tham”, trong kinh Hoa nghiêm. Xem Đại phương quảng phật hoa
nghiêm kinh 62-48.
(16)
Đại Việt sử lược 2 tờ 11a1 và Đại Việt sử ký toàn thư B3 tờ 2a3-4 nói:
“Năm Long Thụy Thái Bình thứ tư (1057) mùa đông tháng 12 dựng chùa Thiên
Phúc và chùa Thiên Thọ, dùng vàng ròng đúc tượng Phạm Vương, Đế Thích hai
pho để thờ”. Đại Việt sử ký toàn thư còn chua thêm: “Đó là nói đời Trần
làm lễ yết chùa”.
(17)
Đại Việt sử lược 2 tờ 11a8 nói: “Năm Long Thụy Thái Bình thứ sáu (1059)
dựng chùa Sùng Nghiêm Báo Đức ở châu Vũ Ninh”. Vậy thì, chùa Diệu nghiêm
Báo Đức ở truyện Huệ Sinh đây tức chùa Sùng Nghiêm Báo Đức. Chữ Diệu có
thể là viết sai của chữ Sùng, hay ngược lại. Chúng ta ngày nay chưa có
nghiên cứu hiện địa để xác định đâu là đúng. Chùa Sùng Nghiêm Báo Đức này
cũng gọi tắt là chùa Báo Đức và là nơi tu hành của Đại Xả. Xem truyện Đại
Xả ở trước.
(18)
Nghệ văn chí và Văn tịch chí đều ghi: “Pháp sự trai nghi một quyển, Sư Huệ
Sinh soạn, người Đông phù liệt, huyện Thanh Trì”. Còn Chư đạo tràng khánh
tán văn không thấy sách nào ghi tới cả. Ta không hiểu Lê Quý Đôn đã dựa
vào tiêu chuẩn gì để ghi hay không ghi một cuốn sách.
55.
THIỀN SƯ THIỀN NHAM
(1)
Chùa Trí Quả hiện nay ở làng Phương Quan trên hữu ngạn sông Dâu đối diện
với làng Văn Quan. Chùa đấy là nơi thờ Pháp Điện, một trong Tứ pháp. Nếu
cứ vào địa điểm làng này, thì vị trí làng Cổ Châu thời Lý không phải chỉ
gồm có làng Khương Tự và Đại Tự mà thôi. Trái lại, nó phải bao gồm phần
lớn những làng xung quanh hai làng đấy, mà chính yếu là những làng Lũng
Khê, Thanh Tương, Văn Quan, Phương Quan và Công Hà.
Vì chùa
Trí Quả là chùa làng mình, nên Thiền Nham đúng ra là người Phương Quan,
tức người làng Dàn ngày nay. Ta không biết làng này hiện còn ai họ Khương
không?
(2)
Phạn bối, tức một loại lễ nhạc dùng một số nốt giới hạn nào đó của âm nhạc
Ấn Độ, sau này trở thành lễ nhạc của Phật giáo tại các xứ phương Đông. Về
ý nghĩa và nguồn gốc chữ bối, xem chú thích (2) truyện Ma Ha.
(3)
Trong khoảng Hội Phong (1092-1099) không thấy sử ghi một cuộc điện thí
nào. Nhưng truyện Viên Thông tờ 68b9-10 ghi một cuộc thi Tam giáo xảy ra
vào năm Hội Phong thứ 6 (1097), mà Viên Thông đỗ hạng đầu. Như thế, Thiền
Nham và Viên Thông rất có thể là hai người đồng khoa.
(4)
Chùa Thành Đạo nghi là chùa Thành Đạo hiện ở tại làng Đông Cốc, huyện
Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh ngày nay, nơi có thờ Pháp Vũ, một trong Tứ
pháp, bởi vì chùa Trí Quả, nơi trú trì của Thiền Nham là nơi thờ Pháp
Điện, thì tất Nham phải có một liên hệ nào đó với các chùa có thờ Tứ Pháp
khác. Tuy nhiên, tại làng Văn Giáp, huyện Thượng Phúc, tỉnh Hà Đông cũng
có chùa Thành Đạo và chùa đấy cũng thờ Pháp Vũ. Dẫu thế, chúng tôi vẫn
nghĩ, chùa Thành Đạo của Pháp Y tức chùa Thành Đạo tại làng Đông Cốc.
(5)
Trong khoảng Đại Thuận, Đại Việt sử lược 3 tờ1b7-8 chỉ viết: “Đại Thuận
năm thứ 3 (1130) tháng 6 hạn, cầu thì mưa”. Nhưng theo Đại Việt sử ký toàn
thư B3 thì trong khoảng Thiên Thuận từ năm 1128 đến 1132 không năm nào là
không có hạn nên Việt sử tiêu án 1 tờ 110a6, khi nhận xét về biện pháp
chống hạn của triều Lý Thần Tông, đã phải nói: “Xét trong khoảng 10 năm
(trị vì của Thần Tông) thì không năm nào là không có hạn”.
(6) An
nam chí nguyên 3 tờ 210 viết: “Thiền sư Thiền Nham là vị sư huyện Siêu
Loại, giới hạnh tinh nghiêm, ăn lá cây, uống nước suối, xác chết rồi vẫn
tươi như khi sống. Người bấy giờ gọi là Phật sống”.
56. QUỐC
SƯ MINH KHÔNG
(1)
Tức đất huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình ngày nay. Xem chú thích (2) truyện
Tịnh Giới. Chùa Quốc Thanh hiện chưa truy cứu được.
(2)
Tức xã Đàm Xá, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình ngày nay. Đại nam nhất thống
chí, tỉnh Ninh Bình, mục Từ miếu, viết: “Đền Nguyễn Minh Không ở tại huyện
Gia Viễn, xưa hai xã Đàm Xá và Điềm Giang cùng thờ. Thần người Điềm Xá, họ
Nguyễn, tự Chí Thành. Xét Sử ngoại truyện thì thầy đi du học và được tâm
ấn từ Đạo Hạnh, hiệu là thiền sư Minh Không, ở chùa Quốc Thanh. Trong
khoảng Hội Tường Đại Khánh đời Lý Nhân Tông, Đạo Hạnh khi sắp tạ thế, dặn
Minh Không rằng: “Ta sẽ ở ngôi nhân chủ, mắc bệnh khó tránh, ông nên cứu
ta”. Sau Thần Tông bị bịnh hóa thành hình cọp. Trẻ nít ca nói: “Muốn chữa
Lý cửu trùng, phải tìm Nguyễn Minh Không”. Mời đến, Không nói tiền duyên
cho vua nghe. Vua giác ngộ. Minh Không nấu dầu một trăm cân, lấy tay khuấy
rửa cho vua. Bệnh lành, phong làm Quốc sư, cho thuế vài trăm hộ. Đến năm
Đại Định thứ 2 (1141) đời Anh Tông, Sư mất, thọ 76 tuổi. Người trong ấp
lập đền thờ. Trước đền có một cây đèn đá cao độ một thước, tương truyền là
đèn tụng kinh của Sư. Đền nổi tiếng là linh ứng. Nay các chùa ở Giao Thủy
và Phổ Lại đều đắp tượng Sư mà thờ”.
(3)
Những tình tiết diễn tiến cho tới lúc này, nghi là một phụ hội, bởi vì năm
năm trước khi Minh Không đến chữa bệnh cho Thần Tông, tức năm Đại Thuận
thứ 4 (1131), Đại Việt sử ký toàn thư 3 tờ 36a9 đã ghi việc vua “dựng nhà
cho đại sư Minh Không”. Như vậy, chắc chắn không có chuyện Minh Không “về
quê cày cấy 20 năm hay chuyện trẻ nít phải hát và phải sai sứ đi khắp dân
gian mới gặp Sư”.
(4)
Đại Việt sử ký toàn thư B3 tờ 39b7-9: “(Thiên Chương Bảo Tự) năm thứ 4
(1136) vua bệnh nặng, thuốc men không bớt, thầy Minh Không chữa lành,
phong làm Quốc sư, cho thuế hộ vài trăm”. Rồi chua tiếp: “Đời truyền rằng
thầy Từ Đạo Hạnh khi sắp thi giải, trong lúc bị bệnh, đem thuốc và chú
giao cho đệ tử Nguyễn Chí Thành tức Minh Không, nói rằng: “Hai mươi năm
sau thấy Quốc vương gặp bệnh là thì đến chữa”. Bởi nó bắt nguồn từ việc
này vậy”.
(5)
Nguyên văn có Đại Định nhị niên Tân Sửu. Nhưng cứ Đại Việt sử ký toàn thư
4 tờ 1b8 và 2b8-9 thì Đại Định nhị niên phải là năm Tân Dậu, và tháng 8
mùa thu năm đấy Minh Không mất.
(6)
Lĩnh nam chích quái tờ 31-33 chép một tiểu sử của Minh Không hoàn toàn
đồng nhất với bản đây. Nhưng sau đó, nó lại ghi thêm một tiểu sử hoàn toàn
khác và nói là lấy từ Minh Không biệt truyện. Truyện như sau:
“Làng
Giao Thủy có chùa Không Lộ, xưa có nhà sư tên .... trong khoảng Trị Bình
(1064-1067) xuất gia trụ trì chùa đó, nổi tiếng là đức hạnh. Một hôm, Minh
Không từ ngoài đi vào, nhà sư cùng phòng, tức Đạo Hạnh, núp trong cửa nhảy
ra, giả tiếng cọp để nhát Minh Không. Minh Không cười nói: “Người tu hành
mà muốn làm cọp sao? Ta sẽ cứu ngươi”.
Sau
nhiều năm, nhà Sư ấy bỗng chốc chết, hóa làm quốc vương, chẳng bao lâu
bỗng hóa ra mọc lông, vùng vẫy gào thét, mặt giống như cọp, khắp tìm thầy
thuốc, thầy bói, nhà sư, đạo sĩ, nhưng đều bó tay. Nghe Minh Không có phép
thuật, sai người chèo thuyền đến mời. Minh Không lấy một chiếc om nhỏ nấu
cơm để cho thủy thủ ăn. Vị sứ giả cười nói: “Sợ khó đủ hết”. Minh Không
trả lời: “Không phải, để cho họ ăn mỗi người một ít, xem chút hậu tình của
ta”. Rồi thủy thủ bốn năm chục người, ăn mãi mà không hết. Mọi người đều
làm lạ. Đến chiều, họ sắp ra thuyền thì Sư lại bảo thủy thủ hãy ngủ ngon
một đêm, đợi sáng mai rạng đông, bần tăng gọi dậy thì mới có thể bắt đầu
ra thuyền. Nếu không thì ta sẽ không đi. Sứ giả nài nỉ không được, bèn nằm
yên giả ngủ, thì chỉ nghe dưới thuyền tiếng gió thổi veo veo. Lúc lâu mặt
trời mọc, Sư gọi dậy thì thuyền đã cập bến ở kinh đô.
Minh
Không bay lên trời mà vào cung, đun nước tắm cho vua, lập tức lông rụng,
thân thể bình phục. Vua hỏi lý do. Sư đáp: “Người tu hành, nếu một niệm mê
thì sám hối là xong, không khó khăn gì hết”. Lại hỏi: “Sư làm sao có thần
thông mà làm được như vậy?”. Minh Không trả lời: “Đấy chẳng phải phép
thuật gì hết. Thần xưa có bệnh phong, phát ra thì không thấy, nên nhiều ít
không biết thì cái gì cũng trống, mình cứ tin mà bước đi, chẳng phải thần
thông gì thảy”. Bèn lại đi bằng đường không mà trở về, cho thưởng gì cũng
không nhận, vua bèn ban hiệu là Thần tăng để ngợi khen”.
Tiểu
truyện này của Minh Không, tuy Lĩnh nam chích quái bảo là rút từ Minh
Không biệt truyện, nhưng chắc chắn là xuất phát từ truyện Minh Không thần
dị trong Nam ông mộng lục tờ 20b10-21b9, vì văn cú nó hoàn toàn giống với
truyện kể trong đó.
Việt sử
tiêu án 1 tờ 108b7-109b9 cũng chép lại gần giống truyện trên và bảo là từ
Ngoại truyện. Nó viết: “Thế truyền Đạo Hạnh khi sắp thi giải, đem thuốc có
làm phù chú, giao cho đệ tử Nguyễn Chí Thành, tức Minh Không nói rằng:
‘Sau 20 năm quốc vương có bệnh thì đem mà trị’. Thuyết này xuất phát từ
Lĩnh nam chích quái. Lại xét Ngoại truyện thì cha Đạo Hạnh là Từ Vinh dùng
pháp thuật nên bị sư Thái Điên giết. Đạo Hạnh nghĩ cách báo thù cha, đến
tu đạo tại tịnh xá Hương Tích. Trên đường gặp Khổng Minh Không, bèn kết
làm bạn cùng đi đến chùa Vân Mộng. Vị thầy dạy cho thần thông quyết. Sau 3
năm, hai người giã từ trở về. Đạo Hạnh muốn thử thuật mình chơi, nấp vào
một nơi hiểm, giả làm con cọp để dọa Minh Không. Minh Không biết, trách
Hạnh dùng tà hạnh lại gồm có chú ngữ. Đạo Hạnh hổ thẹn và hối hận, đến tạ
lỗi, vừa nói: ‘Nghiệp đời sau chưa trừ hết, xin phiền giải thoát cho’. Đạo
Hạnh về am, Minh Không về Giao Thủy. Sau đó nghe Đạo Hạnh thi giải, Minh
Không cười, nói rằng: ‘Ông hòa thượng ấy còn mê phú quý trần gian sao?’.
Đến lúc ấy, Thần Tông bị bệnh kêu gầm, muốn biến thành cọp. Thuốc chữa
không chịu. Trẻ con hát rằng: ‘Muốn chữa Lý cửu trùng, phải được Khổng
Minh Không’. Thái hậu nghe được cho mời đến. Khi đã đến, bèn giảng chuyện
nhân quả đời trước cho vua. Vua giác ngộ. Bệnh liền bớt, Minh Không có nói
kệ:
Kỳ lân đồ hậu mạc
Nguyệt vọng đáo trung thiên
Người
bấy giờ không hiểu. Sau vua ở ngôi và tuổi thọ, quả hiệp với lời kệ. Minh
Không người Đàm Xá, huyện Gia Viễn. Nay chùa Phổ Lại và Giao Thủy có đắp
tượng thờ. Năm Đại Định thứ 2 (1141) Sư mất, thọ 76 tuổi”.
Rồi Ngô
Thời Sĩ đưa ra lời bình luận sau: “Triều Lý tôn sùng đạo Phật, từ khi Vạn
Hạnh nổi tiếng, người ta mộ theo và bắt chước. Tiếp đó có Dương Không Lộ,
Nguyễn Giác Hải đều là người Hải Thanh, thờ Sa môn Hà Trạch làm thầy. Lại
có Thông Huyền chân nhân cũng có đạo pháp cao tương tự, nên Nhân Tông có
câu: “Giác Hải tâm như hải, Thông Huyền đạo hựu huyền”. Nhưng gọi rồng
xuống, làm hổ phục không phải là tài bình loạn cứu nguy. Đi chỗ trống, bay
lên không, không phải là sách lược trị dân giữ nước. Chỉ cũng là loại La
Thập, Đồ Trừng đó thôi, có giúp gì cho thế đạo ư ? Thế mà các triều đại đã
thần dị hóa giáo lý nó, để đến nỗi có việc tha thuế hộ để làm tự đinh, sự
mê hoặc thật đã quá lắm”.
Từ Đạo
Hạnh đại thánh sự tích thật lục trong Việt điện u linh tập tờ 51 và Đại
nam nhất thống chí tỉnh Sơn Tây, mục Sơn xuyên, cũng có chép chuyện Minh
Không chữa bệnh cho Từ Đạo Hạnh, nhưng không có chi tiết gì đặc sắc cho
lắm trừ sự cộng tác với Giác Hải trong việc chữa bệnh đấy.
Về nơi
Minh Không thường sinh sống, Bắc thành địa dư chí lục 4, nhân viết về các
đền thiêng của trấn Sơn Nam hạ, có ghi đền của thiền sư Đạo Pháp Minh
Không nói: “Đền ở xã Cổ Đam huyện Ý Yên. Thế truyền Ngài bình sinh thường
ở xã đó. Sau khi mất người trong thôn lập đền thờ”. Còn về nơi mất của
Không, Đại nam nhất thống chí, tỉnh Hải Dương, mục Từ miếu nói: “Đền thiền
sư Minh Không ở xã Hán Lý huyện Vĩnh Lại. Sư họ Nguyễn, tự Chí Thành,
người xã Đàm Xá, huyện Gia Viễn, nhỏ kết bạn với Từ Đạo Hạnh đến chùa Vân
Mộng thọ giới, sau làm cao tăng đời Lý. Vua Thần Tông mắc bệnh, Sư chữa
liền lành, phong làm Quốc sư. Thế truyền Sư mất ở núi Tam Viên, xã Hán Lý,
di tích nay còn”. Xã Hán Lý này theo nó cũng là quê mẹ Minh Không, nên có
dựng chùa Hưng Long ở đó. Xem mục Tự quan.
Cuối cùng, cũng cần nhắc lại là, bản in đời Nguyễn không có bản tiểu sử
của Minh Không, ở đây không liệt Minh Không vào dòng thiền Pháp Vân. Đương
nhiên, truyện của Không đã bị bản in đời ấy góp vào trong truyện của Không
Lộ. Xem chú thích (6) truyện Không Lộ. Nhưng có thể tờ có truyện Minh
Không đã bị mất trong “Cựu bản Tiêu Sơn tự”. Xem thêm phần nghiên cứu.
57. THIỀN SƯ BẢN TỊCH
(1)
Tức phần đất thuộc hụyện Văn Giang và Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên ngày nay, bởi
vì hai huyện đấy hiện đang có con kinh mang tên Nghĩa Trụ chảy qua. Tên
Bình Lạc xuất hiện từ năm 621, khi Lý Uyên đặt ra Long châu gồm ba huyện
Long Biên, Vũ Ninh và Bình Lạc. Xem Tân đường thư 43 thượng tờ 9b13. Đến
thời Lý, nó là tên một đạo, như Đại Việt sử lược 3 tờ 25b7-8 ghi lại.
Làng
Nghĩa Trú, chúng tôi cho là làng Nghĩa Trang, tổng Sài Trang, huyện Đường
Hào, trấn Hải Dương của Bắc thành địa dư chí lục 2, tức huyện Mỹ Hào, tỉnh
Hưng Yên ngày nay. Những tài liệu Lý, Trần đều có nói ngôi làng này. Đại
Việt sử lược 3 tờ 29a4 gọi nó là một cái ấp, viết: “Năm Kiến Gia thứ 5
(1215) người Nghĩa Trú là Chu Đình đem ấp mình phụ theo Nguyễn Nộn”. Tam
tổ thực tục tờ 26a4 nói Nghĩa Trú còn có một ngôi chùa tên Phổ Quang.
(2)
Hữu vô và đốn tiệm là những phạm trù lớn của tư tưởng Phật giáo Trung Quốc
cũng như Viễn Đông. Hữu vô hay có không, nguyên là cặp phạm trù lớn của
học thuyết Lão Trang, đấy là thuyết “Hữu vô tương sinh”. Xem Đạo đức kinh
tờ 1-2a: “Vô danh thiên địa chi thỉ, hữu danh vạn vật chi mẫu... Cố hữu vô
tương sinh, nan dị tương thành, trường đoản tương giảo, cao hạ tương
khuynh..”. Cặp phạm trù hữu vô đó, tới khi Phật giáo truyền nhập Trung
Quốc, lại trở thành một trong những cặp phạm trù lớn của tư tưởng Phật
giáo, bởi vì, như Đạo An (312-385) đã viết: “Người xứ đây (tức Trung Quốc)
giáo thuyết Lão Trang đang thịnh hành... nên nhân theo phong trào mà phát
triển”.
Còn đốn
tiệm, hay mau chậm, là một cặp phạm trù lớn khác do kinh Lăng già giới
thiệu vào Trung Quốc vào thế kỷ thứ V, liên quan đến vấn đề người tu đạo
có thể tức khắc giác ngộ sự thực toàn diện toàn phần hay chầm chậm giác
ngộ từng bước từng phần.
Xem Phật
thuyết nhập lăng già kinh tờ 596a23-29. Sự phân biệt đó sau này trở thành
tiêu chuẩn duy nhất để phân biệt để xác định thế giá của hai trường phái
thiền lớn của Trung Quốc sau Hoằng Nhẫn. Đó là trường phái thiền của Huệ
Năng, thường gọi là Nam đốn, và trường phái thiền của Thần Tú, thường gọi
là Bắc tiệm.
(3)
Theo Đại Việt sử lược 3 tờ 3a2 mới có năm Kỷ Mùi Thiệu Minh thứ 3. Theo
Đại Việt sử ký toàn thư B4 tờ 1a7 thì năm Kỷ Mùi nhằm năm Thiệu Minh thứ
2. Khâm định Việt sử thông giám cương mục chính biên 4 tờ 34b4 cũng chép
như Đại Việt sử ký toàn thư.
58. TĂNG
THỐNG KHÁNH HỶ
(1)
Tức làng Từ Liêm, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Đông ngày nay. Xem chú thích (2)
truyện Vân Phong.
(2)
Đại Châu Huệ Hải: “Sư vân: Đạt tức biến cảnh thị, bất ngộ vĩnh quai sơ”.
Xem Truyền đăng lục 6 tờ 247a24.
(3)
Phù Dung Linh Huấn: “Sư viết: Như hà bảo nhiệm. Tôn viết: nhất ế tại nhãn,
không hoa loạn trụy”. Xem Truyền đăng lục 10 tờ 280c26.
(4)
Bàng Uẩn hỏi Mã Tổ Đạo Nhất: “Nước không có gân cốt mà có thể thắng thuyền
muôn hộc, lẽ ấy thế nào?”. Đạo Nhất đáp: Trong đó không có nước cũng không
có thuyền thì gân cốt là cái gì?”.
Xem
Truyền đăng lục 6 tờ 246a26-28.
(5)
Bài kệ của thiền sư Cảnh Sầm:
Bách
trượng can đầu bất động nhân
Tuy nhiên đắc nhập vị vi chân
Bách trượng can đầu tu tiến bộ
Thập phương thế giới hiện toàn thân
(Trăm trượng đầu sào kẻ đứng im
Dẫu cho vào được chửa là chân
Trăm trượng đầu sào thêm bước nữa
Mười phương thế giới hiện toàn thân)
Xem
Truyền đăng lục 10 tờ 274b 6-8
(6)
Duy Ma Cật sở thuyết kinh quyển trung tờ 546b 25-c18: “Nhược Bồ tát trú
thị giải thoát giả, dĩ Tu Di chi cao quảng, nạp giới tử trung, vô sở tăng
giảm... Hựu thập phương quốc độ sở hữu nhật nguyệt tinh tú, ư nhất mao
khổng phổ sử hiện chi”. Xem Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh 80 tờ
440c21-22: “Nhất mao khổng, tất hữu tam thiên đại thiên thế giới”.
(7)
Thứ sử Giang Châu Lý Bột hỏi Qui Tôn: “Trong kinh, nếu nói núi Tu Di chứa
hột cải thì Bột tôi không nghi, nhưng hạt cải chứa núi Tu Di, phải chăng
là nói bậy?” Tôn đáp: “Người ta đồn Sứ quân đọc sách vạn quyển, chuyện đó
có không ?”. Bột nói: “Phải”. Tôn hỏi: “Sờ từ đầu đến chân, ông chỉ lớn
bằng cây dừa, thì sách vạn quyển treo đâu cho hết?”. Bột chỉ gật đầu mà
thôi. Ngày khác, Bột hỏi: “Đại tạng kinh dạy rõ được việc gì?” Tôn đưa nắm
tay lên cho Bột coi, rồi hỏi: “Hiểu không?”. Bột nói: “Không hiểu”. Tôn
bảo: “Cái đấm to rứa, mà đầu nắm tay cũng không biết?”. Bột thưa: “Xin
thầy chỉ bày”. Tôn nói: “Gặp người tức giữa đường trao cho. Không gặp thì
thế đế bố khắp”. Xem Truyền đăng lục 7 tờ 256b 9-18.
(8)
Hoàng Xuân Hãn, Lý Thường Kiệt (Viện Đại học Vạn Hạnh, Sài gòn, 1966, tr.
474) viết: “Thiền uyển tập anh chép rằng: ‘Khánh Hỷ mất ngày 27 tháng
giêng năm Đại Định thứ ba, Nhâm Tuất 1142, thọ 76 tuổi’. Theo đó mà tính,
thì ông sinh năm 1067 và ông có 10 tuổi, lúc Đạo Dung tới Thăng Long. Làm
sao ông làm thầy Đạo Dung được? Sách Đại Việt sử ký toàn thư có chép lại
vào năm 1135, việc Hầu Khánh Hỷ mất. Chắc rằng nguyên là chữ Tăng mà Đại
Việt sử ký toàn thư chép lầm ra chữ Hầu. Người chú thích sách Thiền uyển
tập anh, in đời Vĩnh Thịnh, cũng nói rằng: Theo Sử ký thì Tăng Khánh Hỷ
mất năm 1135. Nếu theo thoại sau thì lúc bấy giờ Khánh Hỷ cũng chỉ mới 17
tuổi mà thôi. Tôi nghĩ rằng Thiền uyển tập anh chép lầm năm mất và tuổi
thọ. Có lẽ thọ 96 tuổi, vì chữ cửu và chữ thất rất dễ lẫn. Với chữ cửu thì
lúc Sư Đạo Dung ra học với Khánh Hỷ, vị này đã 37 tuổi. Như thế mới hợp
lý”.
Thật ra
Đại Việt sử ký toàn thư không chép việc Hầu Khánh Hỷ, mà là Hầu Khánh
Thiện mất vào năm 1135.
(8)
Nghệ văn chí của Lê Quý Đôn và Văn tịch chí của Phan Huy Chú đều ghi: “Ngộ
đạo thi tập, một quyển, thầy Khánh Hỷ soạn, người Cổ Giao, Long Biên”.
59.
THIỀN SƯ GIỚI KHÔNG
(1) Cứ
An nam chí nguyên 3 tờ 210 thì “Thiền sư Giới Không là vị sư huyện Gia Lâm
tu hạnh đầu đà, có thể sai khiến quỷ thần theo lệnh, thú dữ đến chầu. Sau
ngồi thẳng mà mất”.
Đại nam
nhất thống chí, tỉnh Bắc Ninh, mục Tăng thích dẫn lại đoạn trích vừa dịch
của An nam chí nguyên và sửa lại một đôi chữ thành “Giới Không người huyện
Gia Lâm, chân tu đắc đạo, sau ông ngồi ngay thẳng mà tịch”. Nhưng truyện
Giới Không ở đây nói Không “người quận Mãn Đẩu”. Mãn Đẩu chưa bao giờ là
tên của quận hay huyện Gia Lâm cả. Chúng tôi nghĩ, có lẽ Giới Không được
mời về ở chùa Gia Lâm vào khoảng những năm 1128-1132, nên Đại nam nhất
thống chí đã ghi lầm là người Gia Lâm. Thế thì, quận Mãn Đẩu ở đâu?
Các sách
sử khác không thấy có quyển nào nói tới một quận tên Mãn Đẩu cả. Về làng
Tháp Bát thuộc quận này, chúng tôi cũng chưa gặp ở một nơi nào khác. Dẫu
vậy, Kiến văn tiểu lục 6 tờ 14b 4-6 có viết: “Các núi của Tuyên Quang và
Hưng Hóa, nơi nơi đều có cây mạn để, lá nó như của cây cổ độ tục gọi đát
cây to tới hai hay ba thước, rất độc. Cây và lá nó trôi vào sông khe thì
cá chạch đều chết”. Chúng tôi nghi, quận Mãn Đẩu là nơi có cây mạn để đấy.
Mãn Đẩu chắc là một ghi âm khác mạn để, hay ngược lại, như Cứu Lan của Đại
Việt sử lược đã biến thành Cứu Liên của Đại Việt sử ký toàn thư và Thiền
uyển tập anh. Xem chú thích (1) truyện Mãn Giác. Nếu vậy, quận Mãn Đẩu nằm
tại tỉnh Tuyên Quang ngày nay giữa hai lưu vực sông Chảy và sông Lô.
Xác định
quê hương của Giới Không như thế, ta sẽ hiểu tại sao Không đã từng tu hành
tại núi Lịch và có môn nhân là Châu mục Phong Châu là Lê Kiếm. Kiến văn
tiểu lục 4 tờ 3a3 có ghi một bài bia có Hàn lâm quyền học sĩ Đỗ Nguyên
Chương viết năm Long Khánh thứ 5 (1377) cho chùa Phúc Minh ở làng Mạn Để.
Làng Mạn Để này chắc là quận Mãn Đẩu còn sót lại.
(2)
Núi Chân Ma hiện không thấy các sách sử khác ghi. Nhưng cứ Kiến văn tiểu
lục 6 tờ 6a3 có ghi một ngọn núi tên Đán Ma thuộc sơn hệ Tam Đảo. Chúng
tôi nghi Chân Ma đó là Đán Ma, bởi vì từ Đán Ma đến Lịch Sơn không xa lắm.
Lịch Sơn là núi sau này Giới Không dựng am tu.
(3)
Kiến văn tiểu lục 6 tờ 6a4-b1 nói: “Núi Lịch tại xã Yên Lịch, huyện Sơn
Dương, khởi từ núi Sư Khổng, huyện Đương Đạo mà xuống đến xã đó thì đất
bằng bỗng nổi lên núi đất năm sáu ngọn, rẽ ngang phân một chi xuống lập
thành Lãng Sơn, chi xuống huyện Tam Dương thành núi Hoàng Chỉ. Trong đó
núi Lịch cao nhất. Trên đỉnh có đất bằng như điện đài năm sáu chỗ, có động
vua Thuấn rất thiêng. Hoa quả trên núi người ta có thể hái mà ăn, nhưng
không được mang về. Nếu có ai mang về, họ liền lạc đường, không thể ra
được nữa. Bên trên vua Thuấn có đền vua Nghiêu, đều phải cúng chay. Ở đấy
xưa có tự điền, để cung cấp cho người giữ đền. Xã Yên Lịch ở dưới núi lại
có miếu vua Thuấn..”. Xem thêm Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn Tây, mục
Sơn xuyên.
(4)
Hang Thánh Chúa này là hang núi Kính Chúa tại làng Kính Chúa huyện Giáp
Sơn, tỉnh Hải Dương thời Nguyễn, tức hang núi Thạch Môn, làng Dương Nham,
huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương ngày nay, ở đấy có hang và hang núi hiện
vẫn còn là hang Kính Chủ. Bởi vì truyện đây nói Giới Không đi đến Nam
Sách, mới vào ở hang Thánh Chúa. Và Nam Sách là tên một lộ đời Trần. An
nam chí lược 1 tờ 19 ghi là lộ Nam Sách giang. Đại nam nhất thống chí,
tỉnh Hải Dương, mục Kiến trí diên cách nói: “Năm Lê Quang Thuận thứ 7
(1466) đặt Nam Sách thừa tuyên. Năm thứ 10 (1469) định bản đồ thiên hạ,
gọi đó là Hải Dương thừa tuyên gồm bốn phủ, tức Thượng Hồng, Hạ Hồng, Nam
Sách và Kinh Môn, lĩnh 18 huyện..”. Và Nam Sách thừa tuyên hay lộ Nam Sách
giang theo Dư địa chí đã nổi tiếng với núi Kính Chủ, nơi sản xuất đá hoa.
Viết về
núi này Bắc thành địa dư chí lục 2 viết: “Núi Kính Chủ tại xã Kính Chủ,
huyện Giáp Sơn, một tên là núi Thắng Hóa Nham, cao 160 trượng, hang dài 60
trượng, rộng 20 trượng. Lại có chùa ở núi Lương Nham Tử, hướng nam, không
biết dựng từ đời nào. Vua Trần Nhân Tông đánh giặc Nguyên có đóng quân
trên núi đó... Hang bên phải dài 40 thước, rộng 50 thước thờ thiền sư Minh
Không. Hang bên trái dài 7 thước, rộng 20 thước thờ Lý Thần Tông. Thổ
nhân tương truyền xưa có một người đánh cá bên sông Kính Chủ thấy một
tượng gỗ mắc vào lưới mình, vứt ra mà tượng không ra, bèn khấn rằng nếu
tượng có linh, xin giúp cho tôi nhiều cá thì tôi sẽ thờ làm thần. Từ đó
người ấy đánh được rất nhiều cá được lời, bèn rước tượng lên bờ. Người
trong thôn đến xem thì thấy nó nói: “Ta là Lý Thần Tông, nhân đi chơi mà
đến đây. Nhân thế, họ lập miếu ở động núi để thờ. Họ lấy tháng giêng và
tháng 10 làm tháng kỵ”.
Sự tích
vừa dẫn, dù đầy tính chất hoang đường quái đản, giải thích cho ta không ít
tại sao ngọn núi Kính Chủ hay Thánh Chúa đã có tên như vậy. Thêm và đó,
Đại Việt sử ký toàn thư B7 tờ 18b3 ghi: “Năm Thiệu Phong 15 (1355) mùa
xuân tháng hai núi ở Trà Hương băng”. Khâm định Việt sử thông giám cương
mục chính biên tờ 10a5-7 cũng ghi việc đó, nhưng sửa lại là núi Kính Chủ,
rồi chua như: Kính Chủ là Thánh Chúa ở tại xã Kính Chủ, huyện Giáp Sơn,
tỉnh Hải Dương.
(5)
Niên hiệu Đại Thuận, chỉ Đại Việt sử lược ghi lại, còn Đại Việt sử ký toàn
thư và tất cả các sử khác của ta gọi là Thiên Thuận, là của Lý Thần Tông
kéo dài từ năm 1128-1132. Như vậy, tất không thể nào có chuyện “năm Đại
Thuận thứ 8” được. Chúng tôi nghi năm Đại Thuận “thứ 8” chắc là một viết
sai của năm Đại Thuận thứ hai hoặc thứ ba. Nhưng trong khoảng Đại Thuận,
cả Đại Việt sử lược lẫn Đại Việt sử ký toàn thư không ghi một nạn dịch lớn
nào xảy ra cả, nên không thể quyết đoán được. Do thế, chúng tôi vẫn để
nguyên như nguyên văn đã có. Có thể năm Đại Thuận thứ 8 là một chép lộn
của năm Đại Định thứ 8, nhưng trong khoảng Đại Định, các sử vẫn không thấy
ghi một nạn dịch nào lớn cả.
(6)
Tức cháu nội của châu mục Phong Châu Lê Thuận Tông và công chúa Kim Thành
và là anh của thiền sư Trí Nhàn ở dưới đây. Cứ truyện Trí Nhàn, thì Kiếm
giữ chức Châu mục của Phong Châu, chứ không phải một nơi nào khác.
---o0o---
[Mục Lục tập 3]
[Xem phần tiếp theo]
---o0o---
[ Tập I ] [
Tập II ] [ Tập III ]
---o0o---
| Thư Mục
Tác Giả |
---o0o---
Trình bày: Nhị Tường
Cập
nhật : 01-01-2003