TỔNG TẬP
VĂN
HỌC PHẬT GIÁO VIỆT NAM
Lê Mạnh
Thát
---o0o---
Tập III
=================
25. THIỀN SƯ TỊNH KHÔNG
(1) Phúc Xuyên, Đại việt lịch triều đăng khoa lục 2 có ghi một làng
tên Phúc Xuyên, quê hương của Phan Nhuệ, tiến sĩ khoa 1748, nhưng lại ghi
làng Phúc Xuyên ở hạt Tiên Phong. Song Tiên Phong là tên một huyện ở Sơn
Tây. Điều chắc chắn là nó phải nằm ở phía bắc phủ Thiên Đức, bởi vì trước
khi đến ở tại chùa Khai Quốc phủ Thiên Đức, Tịnh Không đã phải “hành cước
nam phương”. Bây giờ, truyện của Không cũng nói rằng Không “ban đầu xuất
gia ở viện Sùng Phúc châu mình. Nếu viện Sùng Phúc ở đây là chùa Sùng Phúc
dựng tại làng Siêu Loại vào năm 1115, mà Đại Việt sử lược 2 tờ 21a2-3 ghi
lại, thì làng Siêu Loại như vậy thuộc vào Phúc Xuyên. Và Phúc Xuyên tên
một châu đời Lý mà địa phận có thể gồm huyện Siêu Loại, tức huyện Thuận
Thành, tỉnh Hà Bắc ngày nay, với một số huyện khác chưa thể xác định được.
Có lẽ Sùng Phúc nguyên trước là một cái viện nhỏ. Đến năm 1115 nó được
Linh Nhân thái hậu xây dựng lại và đổi thành chùa. Chắc vào năm này Không
đã rời Sùng Phúc để hành cước xuống chùa Khai Quốc ở phía nam, bởi vì ta
biết Không mất vào năm 1170, lúc ông hơn 80 tuổi, mà ông bắt đầu hành cước
lúc ông 30 tuổi.
(2) Thiền sư Giáp Sơn Thiện Hội: “Một hôm Đạo Ngô cầm gậy đến gặp
Sư thượng đường. Tăng hỏi: “Như hà thị pháp thân?”. Sư viết: “Pháp thân vô
tướng”. Viết: “Như hà thị pháp nhãn?”. Sư viết: “Pháp nhãn vô hà”. Sư hựu
viết: “Mục tiền vô pháp, ý tại mục tiền. Bất thị mục tiền pháp, phi nhĩ
mục sở đáo”. Đạo Ngô nãi tiếu. Sư nãi sinh nghi, vấn Ngô: “Hà tiếu?”. Ngô
viết: “Hòa thượng nhất đẳng xuất thế, vị hữu sư, khả vãng Chế trung, Hoa
Đình huyện, tham Thuyền Tử hòa thượng khứ”. Sư viết: “Phỏng đắc hoạch
phủ?”. Đạo Ngô viết: “Bỉ Sư, thượng vô phiến ngõa già đầu, hạ vô trác chùy
chi địa”. Sư toại dịch phục trực nghệ Hoa Đình..... Xem Truyền đăng lục 15
tờ 323c25- 324a7
(3) Giáp Sơn Thiện Hội. Đạo Ngô viết: “Bỉ sư, thượng vô phiến ngõa
già đầu, hạ vô trác chùy chi địa”. Xem Truyền đăng lục 15 tờ 324a1.
(4) Tùng thượng trực chỉ, vi thập ma thuyết? Giáp Sơn Thiện Hội
tăng vấn: “Tùng thượng lập Tổ ý, Giáo ý, hòa thượng thử gian vi thập ma
ngôn vô?” Sư viết: “Tam thiên bất thực phạn, mục tiền vô cơ nhân”. Xem
Truyền đăng lục 15 tờ 324a20- 21.
(5) Nguyên văn:
Trí nhân vô ngộ đạo
Ngộ đạo tức ngu nhân
Thân cước cao ngọa khách,
Hề thức ngụy kiêm chân.
So sánh Giáp Sơn Thiện Hội: Sư nói bài tụng:
Minh minh vô ngộ pháp
Ngộ pháp khước mê nhân
Trường thư lưỡng cước thụy
Vô ngụy diệc vô chân.
(6) Thiền sư Giáp Sơn Thiện Hội: Một tiểu sư hầu hạ lâu năm, sau đó
bỏ đi tham phương nhưng không có chỗ dụng tâm. Tiểu sư nghe đồn mọi người
đang đổ xô về Thiện Hội học thiền, bèn trở về nói với Thiện Hội: “Hòa
thượng có sự kỳ đặc như vậy, sao không sớm nói cho con biết?”. Sư đáp:
“Ông nấu cơm, tôi thổi lửa, ông khất thực, tôi cầm bát, thì chỗ nào là chỗ
cô phụ ông?”. Vị tiểu do đó mà ngộ nhập. Xem Truyền đăng lục 15 tờ
324b2-7.
(7) Giáp Sơn Thiện Hội: “Ngày 7 tháng 11 năm Tân sửu Đường Trung
Hòa thứ nhất (881), Sư mời chủ sự tới nói: “Ta cùng với chúng tăng nói đạo
nhiều năm, ý chỉ sâu sắc của Phật pháp, mỗi một người phải tự biết lấy, ta
nay thân huyễn hết thời tức phải đi. Các ngươi nên khéo giữ gìn, như khi
ta còn sống, chớ có ùa theo người đời mà sinh ra buồn bã. Nói xong, đến
nửa đêm Sư lặng lẽ mất”.
(8) Tức truyện của hòa thượng (mà nguyên văn ở đây viết là hòa cái)
Thiện Hội ở Giáp Sơn, Phong Châu, trong Truyền đăng lục 15 tờ
323c20-324b28 ngày nay. Hội họ Liêu, người Kiến Đình, Quảng Châu, đệ tử
của Đức Thành. Hội sinh năm 805 và mất năm 881, thọ 77 tuổi, Với những dẫn
chứng trên, rõ ràng cơ duyên thoại ngữ, tức những đối thoại giữa hai thầy
trò thiền sư nhằm tạo một cơ duyên cho sự giác ngộ, cho đến câu nói cuối
cùng trước khi mất của Tịnh Không đều phần lớn lấy ra từ truyện của Thiện
Hội.
(9) Liệt tổ yếu ngữ của Huệ Nhật, Thiền uyển tập anh dẫn hai lần,
một ở đây và một ở truyện Nguyện Học. Cứ vào hai dẫn chứng này thì có thể
nói đa số, nếu không tất cả những cơ duyên thoại ngữ của Thiền uyển tập
anh đều lấy ra từ Liệt tổ yếu ngữ. Bởi vì ngay cả trong cả hai trường hợp
dẫn đây, mặc dù cơ duyên thoại ngữ của Tịnh Không cũng như của Nguyện Học
hầu như hoàn toàn đồng nhất với cơ duyên thoại ngữ của Giáp Sơn Thiện Hội
và Huệ Tư trong Truyền đăng lục, tác giả vẫn không thể loại bỏ, với lý do
là: “chúng đã chép đủ trong Liệt tổ yếu ngữ của Huệ Nhật”. Huệ Nhật này là
ai và sống vào khoảng nào, ngày nay ta hiện chưa biết. Về nội dung của
Liệt tổ yếu ngữ, ta đã biết một phần nào.
26. THIỀN SƯ ĐẠI XẢ
(1) Tức Trâu Sơn, Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc Ninh, viết:
”Trâu Sơn, một tên là núi Vũ Ninh ở phía đông huyện lỵ Quế Dương 12 dặm,
hình núi liên tiếp, trên núi có Việt Tỉnh. Tương truyền đời Hùng Vương,
vua nhà Ân đến xâm lăng, đóng quân ở dưới núi, Đổng thần vương đánh phá,
vua Ân chết tại núi đó, thổ nhân lập đền thờ, lâu năm đền bỏ hoang. Đến
đời Tần, Thôi Lượng lại sửa sang miếu thờ. Ân Vương cảm bội, khiến tiên Ma
Cô trao cho Lượng một món thuốc tiên, trị được bệnh ngọc kinh xà lũ. Bên
núi có đền thờ tiên Ma Cô, lại có đền thờ Triệu Vũ Đế và Triệu Việt
Vương”. An nam chí nói: “Núi Vũ Ninh ở tại châu Vũ Ninh, núi có Tỉnh
cương, có rắn đá tên Ngọc kinh tử, có mộ Việt vương”. Sử ngoại ký nói:
“Triệu Đà lấy núi Vũ Ninh để cùng với An Dương Vương giảng hòa, tức là ở
đây”. Núi Vũ Ninh như vậy là núi Trâu ở tại huyện Quế Dương tỉnh Bắc Ninh
hiện nay.
Về chùa Báo Đức, Đại Việt sử lược 2 tờ 11a8 viết: “Năm Long Thụy Thái Bình
thứ 6 (1059) mùa xuân tháng ba, vua đi săn ở sông Nam Bình tại Lạng Châu,
nhân đó đến thăm nhà phò mã Thân Cảnh Nguyên, dựng chùa Sùng Nghiêm Báo
Đức ở châu Vũ Ninh”. Chùa Báo Đức như vậy gọi cho đủ phải là Sùng Nghiêm
Báo Đức và do Lý Thánh Tông dựng vào năm 1059. Hiện không biết có còn vết
tích gì của chùa này tại Trâu Sơn hay không?
(2) Bắc thành địa dư chí lục 1 có chép tên phường Đông Tác giữa
những phố phường của thành phố Hà Nội đầu thời Gia Long. Trong bốn tổng
của huyện Thọ Xương, đây là những tổng Hữu Túc, Hậu Túc, Tiền Nghiêm và Tả
Nghiêm, nó đều ghi là phường Đông Tác. Phường này như vậy có thể là một
đường dài ăn thông qua bốn tổng, hay cũng có thể là nó ở vào nơi bốn tổng
ấy giáp giới nhau. Vì thiếu bản đồ, chúng tôi chưa thể xác định được.
Nhưng cứ Phương đình dư địa chí 2 thì phường Đông Tác ở vào tổng Hữu Túc.
Mấy tổng khác không thấy ghi.
(3) Hoa nghiêm diệu môn Phổ Hiền thần chú, tức Tốc tật mãn Phổ Hiền
hạnh nguyện đà là ni, có lẽ do Bất Không thêm vào trong lời nguyện của Phổ
Hiền trong bản dịch kinh Hoa nghiêm 40 ĐTK 293 tờ 847a2-848b9 của ông và
sau này đã trích thành một bản văn riêng rẽ, mà người ta gọi là Phổ Hiền
bồ tát hạnh nguyện tán ĐTK 297 tờ 880a1-882c17. Nó đọc: “Nẵng ma tát
để rị giả địa vỹ ca nam đát tha nghiệt đa nam. Án a mậu phạ ra vĩ nghì dỉ
sa phạ ha”.
(4) Đại Việt sử lược 3 tờ 11a6-8 viết: “Năm Trinh Phù thứ 10 (1185)
mùa xuân, Kiến Ninh Vương Long Ích đem quân 12 ngàn người hơn, đi đánh Lào
núi ở Linh Sách để trả thù trận La Sách. Quân đến thôn Đỗ Gia, bèn sai
người đi chiêu dụ. Thủ quân Đinh Vũ, quan lang Đinh Sáng v.v... đều hàng.
Long Ích bắt hết...”.
Kiến Ninh Vương như vậy là tước của Lý Long Ích, con của Lý Anh Tông. Về
sự việc đó, Đại Việt sử ký toàn thư B4 tờ 21a8 viết: “Trinh Phù năm thứ 10
mùa thu tháng 7, sai Kiến Khương Vương Long Ích đem quân đi đánh các bọn
mọi Viêm sách, bình định được”. Thế thì Kiến Ninh Vương và Kiến Khương
Vương là một người. Ta không hiểu tại sao Đại Việt sử ký toàn thư lại có
Kiến Khương Vương. Có lẽ bị người đời Lê Trung Hưng cải chữ Ninh thành chữ
Khương để tránh húy của Lê Trang Tông chăng ?.
Đại Việt sử lược 3 tờ 7b2-3 viết: “Năm Chính Long Bảo Ứng thứ 5 (1167) gả
Thiên Cực công chúa cho châu mục Lạng Châu Hoài Trung Hầu”. Đến năm Trị
Bình Long ứng thứ năm (1209) nó lại viết ở tờ 19b4-7: “Vua sai Phạm Du đến
Hồng Lộ huấn luyện quân sĩ, ý muốn đánh người Thuận Lưu. Khi người Hồng Lộ
tới đón đã đúng hẹn, thì Du đang còn cùng Thiên Cực công chúa thông dâm,
không biết hẹn đã quá lúc, bèn cùng với người Hồng Lộ mất nhau”. Du bèn
lên thuyền do đường sông mà đi, tới bến Cổ Châu lên bộ đi tới xã A Cảo ở
Ma Lãng thì bị người Bắc Giang là Nguyễn Nậu và Nguyễn Nãi bắt, đưa tới
vương tử Sám giết”. Không những Phạm Du đã chết trên tay cô công chúa này,
mà một tay kiệt hiệt khác cùng số người khác cũng sắp mất, đây là Tô Trung
Tự. Đại Việt sử lược 3 tờ 22a7-8 viết: “Năm Kiến Gia thứ nhất (1211)
tháng 6 Tô Trung Tự đêm đến nhà ở Gia Lâm cùng Thiên Cực công chúa thông
dâm, bị chồng nàng là Quan nội hầu Vương Thượng giết”. Năm sau, nhà cô ở
Lạng Châu bị nghĩa quân Đinh Cỗi lấy của cải. Đến năm 1214, Lý Huệ Tông
cùng mẹ đến ẩn ở nhà cô. Đấy là những gì ta hiện biết về cô công chúa khá
đào hoa này của triều Lý.
(6) Nguyên văn: Tuyên minh Hổ Nham. Có người dịch là “hang Tuyên
minh hổ”. nhưng Tuyên minh vốn là tên một trại, mà Đại Việt sử ký toàn thư
B4 tờ 2a5 nói tới khi kể ra việc tham dự trận đánh chống nghĩa quân Thân
Lợi của chủ đô trại Tuyên Minh là Trần Thiềm, còn Hổ Nham thì Đại nam nhất
thống chí, tỉnh Sơn Tây, dẫn Thiên hạ quân quốc lợi bệnh, nói: “Năm Minh
Vĩnh lạc thứ 5 (1407) mới đặt phủ Giao Châu thì châu Tuyên Giang lãnh ba
huyện Tây lAn, Đông Lan và Hổ Nham. Năm Vĩnh Lạc thứ 13 (1415) sáp nhập
huyện Hổ Nham vào châu Tuyên Giang”. Vậy Hổ Nham là tên một huyện thời
thuộc Minh, và cứ truyện Đại Xả ở đây thì nó có thể là tên huyện thời Lý,
Trần nữa.
Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn Tây, mục Từ quán, còn chép một ngôi
chùa tên Hổ Nham. Nó viết: “Chùa Hổ Nham ở tại sơn phần xã Vân Nham
huyện Hùng Quan, trên vách đá có đề ba chữ lớn “Hổ Nham cương”, gần phía
đông núi có Mãn, phía tây có sông Lô và ngọn núi Ám chạy bên cạnh, là
thắng cảnh của một phương. Khoảng năm Lê Hồng Đức, thổ dân dựng lầu ở trên
động, mỗi năm ngày mồng năm tháng giêng, sĩ nữ đều hội lại để đi xem chơi.
Khoảng năm Đại Chính đời Nhuận Mạc, trùng tu lại, mới đổi tên là chùa Hổ
Nham, có đủ bia ký”.
Như thế, Hổ Nham không những là tên huyện Hổ Nham và từ đó chắc có làng Hổ
Nham, mà còn có gò Hổ Nham, hay Hổ Nham cương tại phần núi của xã Vân
Nham, huyện Hùng Quan tỉnh Sơn Tây thời Nguyễn, tức phần đất phía nửa đông
bắc tại huyện Đoan Hùng tỉnh Vĩnh Phú hiện nay tại tả ngạn sông Lô và sông
Cháy. Xã Vân Nham hiện ở phía nam chỗ hợp lưu của hai con sông đấy. Dù Đại
nam nhất thống chí có nói cái tên chùa Hổ Nham đến thời Mạc mới có tên, ta
vẫn có thể giả thiết nó rất có thể dựng từ thời Lý và chắc bắt đầu với nhà
sư Đại Xả nói tới ở đây. Một cuộc nghiên cứu hiện địa tương lai sẽ giải
đáp vấn đề đó cho ta.
(7) Đại Việt sử ký toàn thư B4 tờ 14a4 nói: “Đại Định năm thứ 19
(1158) mùa thu tháng 8 Đỗ Anh Vũ chết”. Nếu vậy, làm gì có chuyện “trong
khoảng Thiên Cảm Chí Bảo (1174-1175) Thái úy Đỗ Anh Vũ ra lệnh bắt Đại Xả
vào trong cung cấm và hết lời nghiêm trách” nói tới ở đây. Phải chăng, Đại
Việt sử ký toàn thư chép sai năm mất của Anh Vũ? Đây là một có thể,
cứ vào một số trường hợp sai khác đã xảy ra.
(8) Phép mười hai nhân duyên hay đạo lý 12 nhân duyên là một phạm
trù cơ bản của tư tưởng Phật giáo nhằm giải thích sự sống chết của con
người. Khởi hành từ cái thực tiễn già chết, ta hỏi nguyên nhân tại sao,
thì câu trả lời là vì có sự sinh ra. Hỏi tại sao có sự sinh ra, ta trả lời
vì sự có thai. Hỏi tại sao có thai, ta trả lời vì có sự giao cấu. Hỏi tại
sao có sự giao cấu, ta trả lời vì có sự thương yêu. Hỏi tại sao có yêu
thương, trả lời vì có cảm giác. Hỏi sao lại có cảm giác, ta trả lời vì có
va chạm. Tại sao có va chạm, ta trả lời vì có sáu giác quan. Tại sao có
sáu giác quan, ta trả lời vì có những điều kiện tâm lý và vật lý. Hỏi tại
sao có những điều kiện tâm lý và vật lý, ta trả lời vì có thức. Hỏi tại
sao có thức, ta trả lời vì có hành động liên tục. Hỏi tại sao có hành
động, ta trả lời vì vô minh. Đây là một dây chuyền 12 khâu kết nối với
nhau, mà từ ngữ Phật học Trung Quốc thường gọi là vô minh, hành, thức,
danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử. Sự liên hệ giữa
12 khâu này, từ Phật học Trung Quốc thường diễn tả bằng chữ duyên. Do thế,
khi nói vô minh duyên hành, có nghĩa vô minh làm điều kiện cho hành động
xuất hiện. Hay nói, hành duyên thức,tức cũng nói, hành làm điều kiện cho
thức ra đời... cho đến sự ra đời của lo buồn, khổ não tức bắt nguồn từ sự
sinh ra. Vì có một liên hệ nhân quả liên tục như thế, nghĩa là một
sự liên hệ trong đó nhân trở thành quả và quả trở thành nhân, nên 12 khâu
trên được gọi là 12 nhân duyên.
Kinh sách Phật giáo khẳng định rằng đạo lý 12 nhân duyên vừa mô tả có thể
được khám phá trong những lúc và tại những nơi không có tư tưởng hay kinh
sách Phật giáo. Những người khám phá ra đạo lý đó không dựa hay nhờ Phật
giáo thì Phật giáo gọi họ là những Bích Chi Phật, tức những người giác ngộ
nhờ vào chính mình và chỉ một mình mình mà thôi. Bích Chi Phật là một
phiên âm chữ Phạn Pratyekabuddha, mà từ Phật học Trung Quốc dịch là “Độc
Giác”.
(9) Lương Vũ Đế hay vua Vũ Đế nhà Lương, tên thật là Tiêu Diễn,
người đã lật đổ nhà Tề tại miền nam Trung Quốc và lập nên nhà Lương vào
năm 502. Đến năm 549, Hầu Cảnh khởi nghĩa và bức tử tại Đài thành. Lương
Vũ Đế thường được coi là vị vua sùng thượng Phật giáo nhất trong lịch sử
các vua chúa Trung Quốc. Xem Lương thư 1-2.
(10) Bảo Chí (419?-515), một nhà sư có những hành tung tương tự như của
Đại Xả ở đây, có những liên hệ sấm ngữ với Lương Vũ Đế. Về cuộc đời ông
xem Truyền đăng lục 27 tờ 429c18- 430a23.
(11) Đoạn đối thoại giữa Lý Anh Tông và Đại Xả ở đây hoàn toàn lấy ra từ
truyện của Bảo Chí trong Truyền đăng lục 27 tờ 430a6-11, theo đấy
(Lương Vũ) Đế một hôm hỏi Bảo Chí rằng: “Đệ tử phiền hoặc, lấy gì mà
chữa?” Sư đáp: “Lấy 12. Kẻ hiểu biết cho rằng 12 nhân duyên là thuốc trị
phiền hoặc”. Lại hỏi về ý chỉ của 12. Sư đáp: “Ý chỉ ở tại trong 12 chữ
viết chỉ thì giờ của đồng hồ. Kẻ hiểu biết cho rằng nó được viết vào trong
12 giờ khắc”. Lại hỏi: “Đệ tử lúc nào thì được tĩnh tâm mà tu hành?” Sư
đáp: “An lạc tâm. Kẻ hiểu biết cho rằng tu hành những giới cấm là để làm
dừng nghỉ, nghĩa là đến lúc tới được cho sung sướng rồi thì mới thôi”.
(12) Hình ảnh lấy từ phẩm Quang Minh biến chiếu cao quý đức vương Bồ tát
của kinh Đại bát niết bàn, theo đấy có một ông vua đem bốn con rắn độc
đựng chung vào một cái lồng, bảo người thị thần nuôi dưỡng. Nếu để cho
chúng không vừa lòng thì người đó bị xử tử. Người đó bỏ chạy, vua cho năm
người chiên đà la đuổi bắt lại. Đuổi không kịp, bèn sai một người giả bộ
hiền lành đi dụ dỗ, thì người kia đi đến một làng trống vắng. Vừa tới,
người kia nghe nói đêm đó sẽ có sáu tên cướp đến cướp. Bèn sợ hãi, chạy
đến gặp một con sông cuồn cuộn nước. Bèn quyết ý vượt qua, bấy giờ mới
giải thoát thảnh thơi. Bốn con rắn độc đấy, kinh này nói là dụ cho bốn
nhân tố vật chất tạo nên con người, đấy là đất, nước, gió, lửa. Từ Phật
học Trung Quốc gọi là tứ đại. Xem Đại bát niết bàn kinh 23.
(13) Hình ảnh lấy từ phẩm Sư Tử Hống Bồ tát của kinh Đại bát niết bàn, ở
đấy, sự sinh, già, bệnh, chết của con người được ví với bốn ngọn núi lớn
“từ bốn phương đến muốn hại nhân dân”. Xem Đại bát niết bàn kinh 29.
Ngũ ấm, tức năm nhân tố tâm vật lý tạo nên con người, đấy là vật chất, cảm
giác, tưởng tượng, ý chí, và tri giác hay nhận thức. Từ Phật học Trung
Quốc thường gọi sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
(14) Ngựa đá, trâu đất, Thiền gia thường dùng để chỉ cho công vị của
thiền. Thiền sư Thúy Nham, Công huấn vấn đáp:
“Nê ngưu ẩm tận trừng đàm nguyệt
Thạch mã gia tiền bất chuyển đầu”.
(Trâu
đất uống hết trăng đầm lặng
Ngựa đá roi quất chẳng ngoảnh đầu).
Xem Nhân thiên nhãn mục 3 tờ 316b5-6.
27. THIỀN SƯ TỊNH LỰC
(1) Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc Ninh, mục Sơn Xuyên, trong khi
viết về Trâu Sơn, nói: “Trâu Sơn, một tên là núi Vũ Ninh”, rồi dẫn An nam
chí rằng: “Núi Vũ Ninh ở châu Vũ Ninh, có Tỉnh cương và có Thạch xà gọi là
Ngọc kinh tử, lại có mộ của Việt Vương.
Tỉnh Cương như vậy là một cái gò trên núi Trâu hiện nay. Cái gò này vì có
một cái giếng, nên gọi là gò Giếng hay Tỉnh Cương. Bên cạnh gò có lẽ có
một cái đầm và vì nó ở gần mộ của Việt Vương, nên gọi là Việt Vương trì
hay Vương Trì. Còn Vũ Ninh, cái tên đặt ra từ thời Tôn Ngô, đến thời Lý
vẫn còn dùng để gọi một châu. Đại Việt sử lược 2 tờ 11a8 nói: “Năm Long
Thụy Thái Bình thứ 6 (1059) vua dựng chùa Sùng Nghiêm Báo Đức ở châu Vũ
Ninh”. Đất châu này ngày nay thuộc địa phận hai huyện Quế Dương và Vũ
Giang tỉnh Bắc Ninh.
(2) Theo Khâm định Việt sử thông giám Cương mục tiền biên 3 tờ
15a1-4 thì “Vũ Bình vốn đất huyện Phong Khê, khoảng đầu đời Ngô đặt ra,
gồm có 7 huyện. Đời Tùy bỏ quận, đổi làm huyện Long Bình, đời Đường đổi
làm huyện Vũ Bình, sau đó lại đặt làm Đằng Châu. Đời Đinh và Lê lấy làm
phủ Thái Bình. Đời Trần đổi làm Khoái Lộ. Đời Lê đổi làm hai phủ Tiên Hưng
và KhoÁi Châu, nay là đất tỉnh Hưng Yên vậy”.
Đại nam nhất thống chí tỉnh Hưng Yên, mục phần dã cũng có một ý kiến tương
tợ, đấy là đặt Đằng Châu và KhoÁi Châu làm tên cho quận Vũ Bình đời Lương,
Rồi chú là “chép trong sử Lý Cao Tông”. Đại Việt sử ký toàn thư B4 tờ 25a8
có ghi “Năm Trị Bình Long Ứng thứ 5 (1209) mùa xuân tháng giêng Phạm Bỉnh
Di đem người Đằng Châu và KhoÁi Châu đi đánh Phạm Du”. Nhưng không nói gì
đến chuyện đặt tên Đằng Châu và KhoÁi Châu cho Vũ Bình hết. Mà truyện Tịnh
Lực ở đây xác nhận là cái tên Vũ Bình cho tới thời Lý vẫn đang còn dùng.
Các sử sách Trung Quốc thì Nguyên hòa quận huyện đồ chí 38 tờ 12b4-9 nói
“Huyện Vũ Bình, từ huyện lỵ đến phủ lỵ (Giao Châu) phía tây nam 19 dặm,
vốn là đất thành bọn mọi Phù Nghiêm. Năm Kiến Hoạch thứ 3 (271) đời Quy
Mạng Hầu nhà Ngô đánh tan bọn mọi Phù Nghiêm, đặt quận Vũ Bình, năm Khai
Hoàng thứ 10 (590) bỏ quận, lập huyện Sùng bình thuộc Giao Châu. Năm Vũ
Đức thứ 4 (621) đổi tên là Vũ Bình”. Huyện Vũ Bình như vậy ở vào phía đông
bắc của phủ trị Giao Châu, mà vào thời Lý Cát Phủ viết Nguyên hòa quận
huyện đồ chí, tức những năm 806-820, thì đã ở tại phần đất của thủ đô Hà
Nội ngày nay. Cứ vào mô tả đó thì huyện Vũ Bình có thể ở vào địa phận tỉnh
Hưng Yên lắm.
Thái Bình hoàn vũ ký 170 tờ 8b9-9a3 cũng có những mô tả tương tự. Nó viết:
“Huyện Vũ Bình, nhà Ngô đặt quận Vũ Bình, nhà Tùy đổi thành huyện. Nó vốn
là huyện Phong Khê thời Hán. Khoảng đầu năm Kiến Vũ, người con gái huyện
Mê Linh tên Trưng Trắc làm phản, đánh hãm Giao Chỉ. Mã Viện đem quân tới
đánh, ba năm mới bình. Vũ đế bèn đặt thêm hai huyện Vọng Hải và Phong Khê.
Phong Khê tức huyện này. Đời Tùy gọi nó là Long Bình. Đường Vũ Đức năm thứ
4 (621) đổi nó làm huyện Vũ Bình”. Những mẫu tin của Nhạc Sử ở đây đều
chép lại nguyên văn của phần địa lý về huyện Vũ Bình trong Cựu đường thư
41 tờ 43a8-11, Tân Đường thư 43 thượng tờ 10a1 cũng không một điểm gì mới
lạ.
Chúng tôi nghĩ rằng, cứ vào những tài liệu Trung Quốc vừa dẫn thì huyện Vũ
Bình đời Đường cho đến đời Lý vẫn là một địa phận với những thêm bớt cắt
xén nào đó. Vũ Bình thời nhà Lý rất có thể là tên một quận hay một châu,
và nó nằm tại phần đất tỉnh Hưng Yên ngày nay. Bắc thành địa dư chí lục 3
tờ 18b2 và 19a2 có kê một tổng xã tên Cát Dương thuộc huyện Phù Dung và
một tổng xã tên Cát Lăng thuộc huyện Tiên Lữ, phủ KhoÁi Châu. Cát Lăng quê
hương của Tịnh Lực ở đây có thể gồm địa phận các tổng Cát Dương và Cát
Lăng vừa nói.
(3) Niệm Phật tam muội, Phạn: Buddhànusmrti-samàdhi. Phương pháp
thiền định bằng cách nhớ nghĩ đến Phật. Sự nhớ nghĩ này hoặc bằng một lòng
quán tưởng những nét đẹp của xác thân Phật hay thật tướng của pháp thân
Phật thì gọi là quán tưởng niệm Phật, hoặc bằng một lòng đọc tụng tên Phật
thì gọi là xưng danh niệm Phật. Đây là nhân hành của việc niệm Phật. Đến
khi vào thiền định mà thấy được chính Phật hiện ra trước mắt hay thấy được
pháp thân Phật, thì đấy là kết quả của việc niệm Phật tam muội. Xem Quán
vô lượng thọ kinh ĐTK 365 và Niệm Phật tam muội kinh 7 ĐTK 1996.
(4) Hùng hoàng theo Thần nông bản thảo kinh là một loại đá có thể
làm cho người ta “nhẹ người thần tiên” và chống lại được bệnh do “tà ma
quỉ quái” tạo ra. Ngô Phổ giải thích nó là thứ hùng của các loại đan nên
gọi là hùng hoàng. Xem Thần nông bản thảo kinh 2 tờ 2b1-11 và Bản thảo
cương mục 9 tờ 21b9-28b1.
(5) Thừa Tiên là tự của Lâu Huyền đời Tôn Ngô và của Thái Hựu đời
Bắc Chu. Họ đều là những trung và công thần của hai triều đại ấy. Xem Ngô
chí 20 tờ 2a2-3a1 và Chu thư 27 tờ 2b13-4b6.
(6) Nguyên văn: Vị ngộ hiện long vi Phật tử. Hiện long là một từ lấy
từ quẻ càn của Chu dịch: “Hiện long tại điền, lợi kiến đại nhân”. (Rồng ra
ở ruộng, lợi thấy đại nhân). Khổng tử giải thích: Đức rồng ở chính trung
thì lời nói thường mà tin, việc làm thường mà cẩn thận, tránh điều tà mà
giữ lòng thành, giỏi việc đời mà không khoe khoang, đức hạnh rộng để giáo
hóa. Dịch nói: “Rồng ra ở ruộng, nên thấy đại nhân, đó là đức của vua
vậy”. Xem Chu dịch 1 tờ 2b7-10
(7) Nguyên văn: Hốt tào thử xuất tịch
vô cùng. Chuột trong câu này là chỉ bọn bầy tôi phá hoại quốc dân, một từ
lấy ra ở thiên Chính lý của Thuyết uyển: “Tề Hoàn Công hỏi Quản Trọng:
“Nước có nạn gì?” Quản Trọng đáp: Nạn là nạn chuột xã. Hoàn Công
hỏi: Sao gọi thế? Quản Trọng đáp: Cái xã là do bó cây mà trét đất lên.
Chuột nhân đó đến ở gá vào. Đốt chúng đi thì sợ cháy cây. Tạt chúng đi thì
sợ lở đất. Chúng do đó không thể giết được làvì ngôi xã. Nước cũng có loại
chuột xã, tức là kẻ hầu hạ hai bên vua vậy. Bên trong thì chúng bưng bít
việc thiện ác đối với vua. Bên ngoài thì chúng mua bán quyền hành
đối với dân. Không diệt chúng thì nước loạn, mà giết chúng thì bị vua xét
hỏi. Nên chúng cứ chiếm lấy vua mà sống. Đấy tức là bọn chuột xã của nước
vậy”. Xem Thuyết uyển 7 tờ 11a1-7.
28. THIỀN SƯ TRÍ BẢO
(1) Những tư liệu thời Lý, Trần hiện còn thì hoặc có tên Cát Lợi,
hoặc có tên Lợi hy, chứ chưa thấy tài liệu nào có tên Cát Lợi Hy. Về tên
Cát Lợi, Đại Việt sử lược 3 tờ 24a2, ghi lại việc “năm Kiến Gia thứ 2
(1212) tháng 2 Nguyễn Tự tấn công người Cát Lợi là Ngô Thưởng ở Vũ Cao, bị
tên độc trúng, bèn trở về xóm Tây Dương, tuần hơn lỡ giao cấu với đàn bà,
khí độc phát lại mà chết”. Còn tên Lợi Hy, văn bia của chùa Báo Ân tại xã
Tháp Miếu, huyện Yên Lãng, tỉnh Vĩnh Phú dựng năm Trị Bình Long Ứng thứ 5
(1210) triều Lý Cao Tông thì ghi nó như một tên xã. Về vị trí nó, xem chú
thích (2) truyện Khuông Việt.
(2) Cương mục tiền biên 4 tờ 12a4-6 viết: “Ô Diên là đất Giao Chỉ
xưa, năm Đường Vũ Đức thứ 4 (621) đặt huyện Ô diên cùng với Từ Liêm và Vũ
lập là ba huyện đều thuộc Giao Chỉ. Sử cũ chùa Ô diên là xã Hạ mỗ ở Từ
Liêm. Xã ấy có đền thờ Bát Lang thần, “đó tức là đền thờ Nhã Lang vậy”. Sử
cũ mà Cương mục dẫn ra đây, tức là Đại Việt sử ký toàn thư N4 tờ
20a1. Kiến văn tiểu lục 6 tờ 1b5-7 cũng lập lại những gì Đại Việt sử ký
toàn thư đã nói, như Cương mục đã dẫn. Nó viết: “Xã Hạ Mỗ, sử nói tức là
thành Ô diên, nơi ở của Triệu Việt Vương”. Xã đó có đền thờ của Bát Lang
thần, tức là Lý Nhã Lang, rể của Triệu Việt Vương. Đại nam nhất thống chí,
tỉnh Hà Nội, mục Từ miếu cũng ghi thế. Quê hương của Trí Bảo như vậy phải
là làng Hạ Mỗ, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây ngày nay.
(3) Tô Hiến Thành (?-1179). Cứ Đại Việt sử lược 3 và Đại Việt sử ký
toàn thư B4 thì trong trận đánh chống nghĩa quân Thân Lợi vào năm 1139
(Đại Việt sử ký toàn thư ghi vào năm1141) Tô Hiến Thành mang chức Thái
phó. Đến năm 1159, Đại Việt sử ký toàn thư B4 tờ 14a7 nói: “Vua
phong Hiến Thành làm Thái úy”.
(4) Ý và chữ lấy ra từ câu nhận xét về Vô Nghiệp
của Đạo Nhất. Khi Nhất lần đầu tiên gặp Nghiệp, thấy vóc dáng Nghiệp cao
lớn, tiếng nói như chuông, Nhất bảo: “Chùa Phật vòi vọi, mà trong không có
Phật” (Nguy nguy Phật đường, kỳ trung vô Phật). Xem Truyền đăng lục 8, tờ
257a8-9. Xem thêm chuyện Thân Tán, theo đó Tán, sau khi bỏ thầy mình đến
học với Bách Trượng rồi trở về, thầy Tán hỏi: “Con bỏ chỗ ta đi rồi, giờ
có được sự nghiệp gì không?” Tán đáp: “Không có sự nghiệp gì ráo”, nên bị
thầy sai hầu hạ. Một hôm ông bắt Tán tắm cho ông, Tán vỗ vào lưng ông nói:
“Điện Phật đẹp mà Phật không thiêng”. (Hảo sở Phật điện, nhi Phật bất
thánh). Xem Truyền đăng lục 9 tờ 168a10-14.
(5) Có người hỏi Tôn Triệt: “Tính địa nhiều u tối
làm sao hiểu rõ?” Triệt đáp: “Mây nổi gió cuốn, bầu trời bỗng trong”. Xem
Truyền đăng lục 12 tờ 293a 22-23.
(6) Trường Sinh hỏi Huyền Sa Sư Bị: “Hòa thượng có
thấy rõ ràng chỗ thấy không?” Bị đáp: “Biết nhau khắp thiên hạ”. (Tương
thức mãn thiên hạ). Xem Truyền đăng lục 18 tờ 347a13-14. Xem thêm Viên Ngộ
Phật Quả thiền sư ngữ lục 1tờ 715b24 thiền sư Kế Bằng thượng đường, chập
tay hỏi:
“Biết nhau khắp thiên hạ,
Tri âm được mấy người”
(Tưởng thức mãn thiên hạ
Tri âm năng kỷ nhân)
Xem Truyền đăng lục 2 tờ 476b 20-21.
Câu sau từ Ngũ đăng hội nguyên. Xem thêm câu hỏi trong truyện Diên Chiểu ở
Truyền đăng lục 12 tờ 302a 24-25.
Can mộc phụng Văn hầu
Tri âm hữu kỷ nhân
(7) Ý và chữ của đoạn văn và bài kệ trên đây rút ra từ chương
Ly cấu của phẩm Thập địa trong kinh Hoa nghiêm: “Bồ tát ư tự tư tài,
thường tri chỉ túc, ư tha từ thứ, bất dục xâm tổn. Nhược vật thuộc tha,
khởi tha vật tưởng, chung bất ư thử, nhi sanh đạo tâm. Nãi trí thảo diệp,
bất dự bất thủ, hà huống kỳ dư, tư sinh chi cụ. Tính bất tà dâm. Bồ tát ư
tự thê tri túc, bất cần tha thê. Ư tha thê thiếp tha sở hộ nữ, thân tộc
môi định, cập vi pháp sở hộ, thượng bất sinh ư tham nhiễm chi tâm, hà
huống tùng sự, huống ư phi đạo”. (Bồ Tát đối với của cải mình, biết vừa
đủ, đối với của người, thì thương yêu tha thứ, không muốn lấn hại. Nếu vật
thuộc của người mình dấy lên cái ý tưởng là vật của người thì rốt cuộc
không sinh lòng trộm cắp. Cho đến ngọn cỏ, lá cây, người không cho, mình
không lấy, huống nữa là những vật dùng cho đời sống khác. Bồ tát biết đủ
đối với vợ mình, mà không vợ ngườẵi. Đối với thê thiếp của người, con gái
do người bảo hộ, do thân tộc môi định và do pháp luật bảo hộ, mình còn
không móng lòng tham nhiễm, huống nữa là tùng sự dâm dục, huống nữa là nơi
phi đạo). Xem Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh 35 tờ 185a 25-b2.
29. THIỀN SƯ TRƯỜNG NGUYÊN
(1) Về Bình Lỗ và núi Vệ Linh, xem chú thích (5) truyện Khuông
Việt.
(2) Về Tiên Du, xem chú thích (2) truyện Vô Ngôn Thông.
(3 ) Thiện Hội ở Giáp Sơn, có người hỏi về cảnh Giáp Sơn, đáp:
“Viên bảo tử quy thanh chướng lý
Điểu
hàm hoa lạc bích nham tiền”.
(Vượn
bồng con về trong núi xanh
Chim
ngậm hoa rơi trước hang biếc)
Xem Truyền đăng lục 15 tờ 324b20-21.
(7) Những từ chủ yếu trong 4 câu đều lấy từ chương
56 của Đạo đức kinh: “Tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri, tắc kỳ đoài, bế
kỳ môn, tỏa kỳ nhuệ, giải kỳ phân, hòa kỳ quang, đồng kỳ trần, thị vị
huyền đồng, cố bất khả đắc nhi thân, bất khả đắc nhi sơ, bất khả đắc nhi
lợi, bất khả đắc nhi hại, bất khả đắc nhi quí, bất khả đắc nhi tiện, cố vị
thiên hạ vi”. (Người biết không nói, người nói không biết, ngậm miệng
lưỡi, bịt tai mắt, nhụt bén nhọn, bỏ chia phân, hòa ánh sáng, đồng bụi
bậm, ấy gọi là huyền đồng cho nên không thể được mà thân, không thể được
mà sơ, không thể được mà lợi, không thể được mà hại, không thể được mà
sang, không thể được mà hèn, không nên thành vật quý của thiên hạ). Xem
Đạo đức kinh hạ thiên tờ 12a13-b6.
(5) Những từ chủ yếu trong 6 câu đây lấy ra từ chương 51của Đạo đức
kinh, “Đạo sinh chi, đức súc chi...trưởng chi, dụ chi, đình chi, dưỡng
chi, phú chi..”. (Đạo sinh đó, đức nuôi đó, ..., lớn đó, nắn đó, đúc đó,
dưỡng đó, che đó). Xem Đạo đức kinh hạ thiên tờ 9b6-10a6. Xem thêm Biên
mệnh luận của Lưu Tuấn trong Văn tuyển Lý Thiện chú 54 tờ 7b13- 8a8: “Rằng
sinh hết muôn vật thì gọi là đạo, sinh mà không có chủ thì gọi là tự
nhiên, tự nhiên là vật thấy mình vậy mà không biết tại sao mình vậy... ,
sinh ra, không có lòng nắn đúc, chết đi há có ý giết bỏ..”. (Phù thông
sinh vạn vật, tắc vị chi đạo, sinh nhi vô chủ, vị chi tự nhiên, tự nhiên
giả, vật kiến kỳ nhiên, bất chi kỳ sở dĩ nhiên...., sinh chi, vô đình
độc chi tâm, tử chi, khỉ kiền lưu chi chí)
(6) Gái sắt, người gỗ, thiền gia dùng để mô tả diệu dụng của thiền.
Thiền sư Đồng An Sát, Thập Huyền Đàm:
“Mộc nhân dạ bán xuyên
ngoa khứ
Thạch
nữ thiên minh đái mạo quy”
(Người gỗ nửa đêm xỏ dép đi
Sáng mai gái đá đội nón về)
Xem Truyền đăng lục 29 tờ 455c6-7. Xem thêm Cổ túc thập trí đồng chận vấn
đáp:
“Mộc nhân tuy bất ngữ
Thạch nữ dẫn hồi đầu”
(Người gỗ tuy không nói
Gái đá hết ngoảnh đầu)
Xem Nhân thiên nhãn mục 1 tờ 305c5-6.
30. THIỀN SƯ TỊNH GIỚI
(1) Trong mấy chục ngọn núi của hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh ghi
trong Đại nam nhất thống chí 13-15, tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Nghệ An, không
thấy ghi ngọn núi nào tên Bí Linh cả. Phải chăng nó đã bị đổi tên? Trong
tình trạng hiểu biết và tư liệu hiện tại, chúng tôi chưa thể trả lời được.
(2) Khâm định Việt sử thông giám cương mục chính biên 2 tờ 11a2
nói: “Phủ Trường An, đời Lý là phủ, đời Trần và Lê nhân theo, nay là phủ
Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình vậy”. Phủ Yên Khánh, theo Đại nam nhất thống
chí, tỉnh Ninh Bình, mục phần dã thì đời Nguyễn gồm bốn huyện, đây là Yên
Khánh, Gia Viễn, An Mô và Kim Sơn. Nó như vậy tương đương với phần đất của
những huyện Yên Khánh, Gia khánh, Gia Viên và Yên Mô, tỉnh Ninh Bình hiện
nay. Phủ Trường Yên là do Lý Công Uẩn đổi thành Hoa Lư, kinh đô của nhà
Đinh và Lê, vào năm 1010 mà ra.
(3) Lô Hải đây chắc phải nằm trong địa phận những huyện Hoằng Hóa
và Hậu Lộc tỉnh Thanh Hóa ngày nay, bởi vì, Đại nam nhất thống chí 16,
tỉnh Thanh Hóa, mục Sơn Xuyên, tờ 43a4-6 có kể tên một con sông tên Ngung
Giang. Nó viết: “Ngung Giang ở tại ranh giới của ba huyện Hoằng Hóa, Mỹ
Hóa và Hậu lộc, một tên là Ngung Giang. Nguồn nó bắt từ hai sông Mã và
Lương mà tới, đến cửa An Phái thì phân dòng mà chảy qua những huyện Hoằng
Hóa và Mỹ Hóa, rồi ngoặt qua huyện Hậu Lộc thì có nước Khe Trà,... một tên
Bào Giang chảy vào, rồi đổ vào cửa Ỷ Bích. Cái gọi là sông Nhị, sông Cát,
sông Bút, sông Bích đều là những tên khác của sông này. Sử nhà Lê nói
trong khoảng Thiên Hựu (1557) Mạc Kính Điển đánh bị thua, về giữ sông Bút
Cương, tức nơi đây”.
Ngung Giang ở đây chắc là Ngung Giang của chúng ta, bởi vì cả chữ Ngu lẫn
chữ Ngung đều có âm phù ngu. Âm phù đó cũng đọc ngung, cho nên trị sở của
Quảng Châu thời Hán đúng ra phải đọc Phiên Ngu, nhưng chúng ta cũng thường
đọc là Phiên Ngung. Chúng tôi do đó coi Ngu Giang cũng là Ngung Giang. Vào
thời Lý, việc lấy tên sông mà đặt tên cho một địa phận cũng thường xảy ra,
đặc biệt là tại vùng Thanh Hóa. An nam chí lược 1 tờ 21 nói: “Phủ lộ Thanh
Hóa là quận Cửu Chân đời Tây Hán, Ái Châu đời Tùy Đường. Những thuộc ấp
của nó ngày nay gọi là giang, trường, giáp, xã”.
Về vị trí thực sự của Lô Hải, cũng như của Ngung Giang, chúng tôi nghĩ
rằng nó nằm khoảng vào tổng Lỗ Hương, mà trước năm 1839 thuộc huyện Hoằng
Hóa mà sau đó thì bị cắt làm huyện Mỹ Hóa cùng những tổng khác, rồi đến
năm 1850 lại thuộc huyện Hoằng Hóa. Từ tổng Lỗ Hương đó đi ra phía đông
đến biển và cửa Ỷ bích có thể là địa phận của Lô Hải xưa thời Lý. Nói khác
đi nó bao gồm phần lớn đất do Ngung Giang chảy qua. Ngung Giang ngày nay
là sông Lạch Trường. Cửa Ỷ Bích là cửa Lạch Trường. Nên Lô Hải là Ngung
Giang nằm tại vùng Lạch Trường đó.
Những địa danh như Mão Hương, Ngung Giang và Lô Hải bàn cãi ở đây, chúng
tôi chưa thấy một sách sử nào nói tới. Do thế không cần phải nói là những
bàn cãi trên có tính chất tạm thời và giả thiết.
Cứ An nam chí nguyên 3 tờ 209 thì “Thiền sư Tịnh Giới là vị Sư huyện Đông
Quan, tu hạnh đầu đà, cảm hóa như thần, Giao Châu có hạn, họ Lý sai sứ đi
đón về. Nửa đêm Sư đứng giữa sân đốt hương. Mưa ngọt đổ lớn. Họ Lý khen,
tặng làm thầy Mưa”. Nói là gốc huyện Đông Quan, bởi vì Giới về ở chùa Báo
Thiên, tại Hà Nội, chứ thật sự không phải.
(4) Lãng Sơn đây nghi là Lãng Sơn ở huyện Lập Thạch, tỉnh Sơn Tây
thời Nguyễn tức nay là huyện Lập Thạch tỉnh Vĩnh Phú. Dù chữ Lãng trước
viết với bộ thủy và Lãng sau viết với bộ nguyệt. Thiền uyển tập anh thường
có cái tật thay chữ đồng âm này với một chữ đồng âm khác, mà không sợ đổi
nghĩa, nhất là trong những trường hợp danh từ riêng. Ví dụ ở tờ 4b1 chữ
hoài chứa hết 1 chữ hán của Bách Trượng Hoài Hải thì bị viết thành hoài.
Về Lãng Sơn Kiến văn tiểu lục 6 tờ 6a4-b8 nói: “Núi Lịch ở tại xã An Lịch,
huyện Sơn Dương, bắt từ núi Sư khổng của huyện Đương Đạo chạy xuống đến xã
đây thì giữa đất bằng nổi lên năm sáu ngọn núi đất, rồi rẽ ngang thành một
nhánh chạy xuống huyện. Lập Thạch thành Lãng Sơn. Trên Lãng Sơn - tục gọi
là núi Lạng - cũng có đền thờ vua Thuấn. Trước núi lại nổi lên một ngọn
núi đất hơi thấp. Trên đỉnh nó, như hình cây giao nhau bên trong rộng ước
độ vài sào, có thể trồng loại tiêm nha 100 bông - 1 bông 40 bó, 100 bông
4000 bó - tục truyền đó là chỗ vua Thuấn trồng, nhân đó gọi là núi Bách
Bông”. Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn Tây, mục Sơn xuyên, cũng dẫn đoạn
vừa viết của Kiến văn tiểu lục, khi nói về Lịch sơn.
Lãng Sơn như vậy là chi nhánh của núi Lịch ở tại huyện Lập Thạch. Ngày nay
huyện Lập Thạch tỉnh Vĩnh Phú còn có Lãng Sơn, mà người ta thường gọi là
núi Hạng. Ta hiện chưa biết núi Hạng này còn có một ngôi chùa nào chăng?
Truyện Tịnh Giới ở đây nói khi Giới đã xách gậy đông du, tức từ Thanh Hóa
đi ra miền Bắc, để đến tại Lãng Sơn thì “trải bảy năm tham học, Giới gặp
Bảo Giác chùa Viên Minh”. Thế thì phải chăng Giới đã gặp Bảo Giác tại Lãng
Sơn? Phải chăng chùa Viên Minh ở tại núi đó? Chúng tôi hiện chưa rõ.
(5) Tiểu sử của Viên Thông thuộc đời thứ 18 của phái Pháp Vân nói:
“Cha của Viên Thông là Huệ Dục, làm quan dưới triều Lý Nhân Tông đến chức
tả hữu nhai tăng lục, đạo hiệu là Bảo Giác”. Phải chăng Bảo Giác chùa Viên
Minh nói ở đây là cha của Viên Thông? Thật khó mà trả lời. Viên Thông mất
năm 1151 lúc đã 72 tuổi. Cha của Viên Thông do thế không thể sống quá năm
1151 này, có quá lắm thì sống sau đó khoảng năm hay mười năm là cùng,
nghĩa là tới khoảng năm 1161. Nhưng Bảo Giác chùa Viên Minh ở đây lại mất
vào năm 1173, như vậy khó có thể làm cha Viên Thông.
Thế thì phải chăng Bảo Giác chùa Viên Minh đây là một viết lộn cái
tên của Bảo Giác chùa Bảo Phúc tại Đa Vân thuộc thế hệ thầy của Tịnh Giới?
Đây là một có thể, bởi vì tiểu sử của Bảo Giám nói Giám mất vào năm1173
cùng năm với Bảo Giác chùa Viên Minh, chỉ khác tháng mà thôi. Một bên mất
vào tháng 10, một bên mất vào tháng 5. Nhưng không quan trọng cho lắm, bởi
vì chữ ngũ có thể viết lộn thành chữ thập và ngược lại. Có khác chăng là
khác chùa, một bên chùa Bảo Phúc, một bên chùa Viên Minh, nhưng cũng không
thiết yếu lắm với sự dời đổi thường xuyên của phần lớn những vị
thiền sư.
Dầu sao, cuối tiểu sử của Tịnh Giới ở đây, người viết đã chú thích là
“truyện của Giới đại khái so với Quốc sử và văn bia không giống, nay xin
khảo chính lại”, thì cũng đủ thấy, ngay từ thời Thiền uyển tập anh ra đời,
cuộc đời của Giới cũng đưa ra khá nhiều vấn đề, đến nổi cần phải khảo
chính lại. Vì thế, Tịnh Giới cuối cùng có thể là đệ tử của Bảo Giác, cha
của Viên Thông.
(6) Nguyên văn:
Vạn pháp quy không vô sở y
Quy tịch chơn như mục tiền ky
Đạt ngộ tâm viên vô sở chỉ
Thủy băng tâm nguyệt mẫn tâm nghi
Câu 2 theo luật thơ phải là “Chân như quy tịch mục tiền ky”. Còn chữ
“nghi” trong câu 4 nguyên đọc là nghĩa. Nhưng chữ nghĩa cũng đọc là nghi.
Xem thiên Tứ sử, phần Xuân quan của Chu lễ 19 tờ 6b 12-13 và nghi cũng có
nghĩa là “hướng đến”. Xem Ngoại thích truyện của Tiền hán thư 97 thượng tờ
18b 13-19a1. Nên “mẫn tâm nghi” chúng tôi dịch là “dứt mọi xen”, tức dứt
mọi thú hướng của tâm.
Tư tưởng “vạn pháp qui không” là một tư tưởng lớn và căn bản của những
trường phái Đại thừa Phật giáo. Nhưng chữ không đó có nghĩa gì thì mọi
trường phái giải thích khác nhau. Nó cũng trở thành công án của thiền. Xem
Truyền đăng lục 8 tờ 262c5. Phúc Khê có người hỏi: “Duyên tán qui không,
không qui hà sở?”. Sư đáp: “Ta”. “Mục tiền ky” là cơ duyên trước mắt,
thuật ngữ lấy bài kệ Lăng hành bà gởi Triệu Châu trong Truyền đăng lục 8
tờ 263a 12-13.
Khốc thanh sư dĩ hiểu
Dĩ hiểu phục thùy tri
Đương thì Ma kiệt quốc
Kỷ táng mục tiền ky.
Đương thì ma kiệt quốc
Kỷ tắng mục tiền ky
(7) Về chùa Báo Thiên, xem chú thích (6) truyện Đạo Huệ.
(8) Truyện Nhị Trưng phu nhân trong Việt điện u linh tập tờ 11 có
đoạn nói về chuyện Tịnh Giới cầu mưa này, nhưng lại bảo nó xảy dưới thời
Lý Anh Tông. Truyện đó viết: “Lý Anh Tông, nhân có hạn, sai thiền sư Tịnh
Giới cầu mưa, chốc lát thì được mưa, khí mát thấm người. Vua mừng đến xem,
bỗng thấy buồn ngủ, mộng thấy hai người con gái mặt hoa mày liễu, áo xanh
quần đỏ, mũ đỏ mang đai, cỡi ngựa sắt mà đến gặp. Vua lấy làm lạ hỏi thì
họ đáp: “Thiếp là hai chị em họ Trưng, vâng lệnh Thượng đế đến làm mưa”.
Vua thức dậy, cảm động, sai sửa lại đền miếu, sắm đủ lễ để đến tế, sau rồi
sai nghênh về phía bắc thành trong đại nội, dựng đền Vũ Sư để thờ. Sau
thác mộng cho vua xin lập đền thờ ở xã Cổ Lai, vua nghe theo, sắc phong là
Trinh Linh phu nhân”.
Truyện Tịnh Giới ở đây nói Giới cầu mưa vào Trinh Phù thứ 2 (1177). Nhưng
cả Đại Việt sử lược lẫn Đại Việt sử ký toàn thư không ghi một lần hạn nào
cả cho đến 1188. Năm đấy, Đại Việt sử ký toàn thư B4 tờ 19b9-220a1 nói:
“Thiên Tư Gia Thụ năm thứ 3, mùa hạ tháng 5 hạn, vua thân hành đến chùa
Pháp Vân ở Luy Bà (bà, nghi là viết sai của chữ lâu. LMT chú) cầu mưa,
nhân đó nghênh tượng Phật Pháp Vân về chùa Báo Thiên. Như vậy, phải chăng
chuyện cầu mưa Tịnh Giới thực sự bắt đầu dưới thời Lý Anh Tông? Chúng tôi
nghĩ đây là một có thể, bởi vì cứ Đại Việt sử lược 3 tờ 7b9 thì “năm Chính
Long Bảo Ứng thứ 10 (1172) mùa đông, dựng đền Trinh Linh phu nhân ở ngoài
cầu Tây Dương”. Mà danh hiệu Trinh Linh phu nhân, cứ truyện Nhị Trưng phu
nhân dẫn trên, là do Lý Anh Tông phong. Hơn nữa, vì đền này xây ở “ngoài
cầu Tây Dương”, nó chắc phải xảy ra sau khi việc cầu mưa của Tịnh Giới
thành công khoảng một thời gian vài ba năm, bởi vì đền nguyên nằm trong
Đại nội ở tại đền Vũ Sư. Nói khác đi, phải có hạn trước năm 1172.
Cứ Đại Việt sử lược 3 và Đại Việt sử ký toàn thư B4 thì dười triều Lý Anh
Tông ta có những năm hạn sau đây:
1140 “Từ xuân đến hạ không mưa, vua mới cầu mưa.
1142 “Từ xuân đến hạ hạn, vua thân hành cầu, tháng 6 Đinh Sửu mới mưa.
1146 “Mùa hạ tháng 4 trâu bò bị dịch chết, hạn, cầu thì mưa”.
1150 “Mùa xuân tháng 3 hạn. Mùa thu tháng 7 hạn”.
1148 “Mùa hạ hạn, cầu thì mưa”.
1165 “Mùa hạ tháng 6 đại hạn, dân chúng bị bệnh dịch lớn, trâu, bò chết
phần lớn, giá gạo nhảy vọt”.
Như thế, trong vòng 10 năm đầu hơn của Lý Anh Tông, năm lần hạn đã xảy ra,
khoảng cách cứ hai năm một lần. Và những lần hạn này lại kéo dài thường từ
ba đến sáu tháng. Với những cơn hạn kiểu đó, mới có việc “vua ban chiếu
cho danh tăng khắp trong thiên hạ cầu mưa” như truyện Tịnh Giới đã ghi.
Ngoài ra, Tịnh Giới tham dự việc cầu mưa theo tục truyền, như chính truyện
đã viết, là để hợp thức hóa số thuế của Giới, mà “người chị Giới là Chu
Thị thường năm thay Giới nạp thuế”. Với môt mục đích đấy, Giới tất tìm
cách thực hiện khi có dịp. Do thế, không phải là không có lý, khi nói Tịnh
Giới có cầu mưa dưới thời Lý Anh Tông, như Việt điện u linh tập đã có.
Tuy nhiên, bởi vì Giới xuất gia năm 26 và mất vài ba năm ở chùa làng
mình cùng 7 năm sống ở Lãng Sơn và 6 năm tu hạnh đầu đà ở chùa Quốc Thanh.
Ta có thể chắc chắn là khi hành đạo Giới lúc bấy giờ cũng phải ít nhất
trên 40 tuổi. Mà Giới lại mất năm 1207, nên giả sử Giới có sống trên 90
tuổi đi nữa, thì việc cầu đảo của Giới cùng lắm phải xảy ra bắt đầu từ
những năm 1160 trở đi mà thôi. Nói cách khác, truyện Tịnh Giới ở đây, nói
Giới cầu mưa vào khoảng Trinh Phù không phải là hoàn toàn vô căn cứ.
(9) Đại Việt sử lược 3 tờ 9b9-10 viết: “Năm Trinh Phù thứ 4 (1179)
tháng 5 sửa thêm chùa Chân Giáo, xuống chiếu lấy chùa đó làm nơi hành
hương vào ngày kỵ của Anh Tông”. Việc này, Đại Việt sử ký toàn thư và các
sử khác không ghi.
Về chùa Chân Giáo tại núi Vạn Bảo, Tây hồ chí, phần Tự am tập viết: “Chùa
Chân Giáo xưa tại đỉnh ngọn Phục Tượng của núi Vạn Bảo trong thành Đại La.
Chùa dựng vào mùa thu năm Thuận Thiên thứ 15 (1024) để làm nơi vua ngự xem
tụng kinh. Nay chùa chỉ còn một gian, biển cũ cũng mất, vì vậy ít người
biết gốc tích. Tục chỉ gọi chùa Tượng Sơn. Núi và chùa nay ở tại trại cần
bảo huyện Vĩnh Thuận, phía tây ngoài thành. Lại xét chỗ đất trũng trước
chùa có nước đọng, thời xưa là ao Ngoạn Thiềm, triều Trần bắc cầu Lâm Ba
trên nó, nay di tích không còn”.
Về núi Vạn Bảo, Tây hồ chí, mục Sơn xuyên, viết: “Núi Vạn Bảo gồm 15 ngọn
ở về phía nam của hồ, nay thuộc tổng Vĩnh Thuận nội, các ngọn chia thuộc
16, 17 trại, điếm. Những cung điện, chùa miếu của ba triều Lý, Trần, Lê,
nền cũ phần nhiều còn đó. Có nói rõ trong Thăng Long chí. Ba ngọn Phục
Tượng, Phục Hổ và Thần Bút là chi nhánh núi Vạn Bảo.
(10) Kiến văn tiểu lục 4 tờ 13b6-8 chép:
Thu lai lương khí giáp khâm trung
Bát đẩu tài cao hướng nguyệt ngâm
Kham tiếu thiền gia si độn khách
Vị tương hà ngữ dĩ truyền tâm
Những chữ đậm là đọc khác với bản của Thiền uyển tập anh
(11) Nguyên văn: Thử truyện lược dự Quốc sử cập bi văn bất đồng, kim phục
khảo chính. Quốc sử đây chắc phải là Đại việt Sử ký của Trần Chu Phổ và Lê
Văn Hưu. còn văn bia của Tịnh Giới hiện ta chưa tìm lại được. Vì Quốc sử
là của Phổ và Hưu, cho nên qua những bàn cãi trên, ta thấy những sự việc
ghi trong truyện Tịnh Giới không thấy nói tới trong Đại Việt sử ký toàn
thư. Ngược lại, một trong những việc ấy lại do Đại Việt sử lược, một tác
phẩm sử học đời Trần hiện còn chép.
31. THIỀN SƯ GIÁC HẢI
(1) Đại nam nhất thống chí, tỉnh Ninh Bình, mục Từ miếu, nhân viết
về đền Nguyễn Giác Hải, có nói: “Đền Nguyễn Giác Hải ở tại xã Yên Vệ,
huyện Yên Khánh. Thần họ Nguyễn tên Quốc Y, hiệu Giác Hải người Giao Thủy,
Hải Nam - nay là tỉnh Nam Định - sinh khoảng thời Lý Thái Tông. Nhỏ theo
nghề chèo chài lưới của cha. Sau bà mẹ đem về Yên Vệ, cùng với Nguyễn Minh
Không kết bạn, đi Tây Trúc cầu đạo. Được đạo rồi, bèn trở về Giao Thủy,
trụ trì chùa Nghiêm Quang”.
Nói như thế, phải chăng chùa Diên Phúc là chùa Nghiêm Quang ở đây ? Chắc
chắn là không phải, bởi vì chùa Nghiêm Quang tức chùa Thần Quang hay chùa
Keo ngày nay, và chùa chưa bao giờ có tên Diên Phúc. Chúng tôi chưa có dịp
nghiên cứu hiện địa vùng Giao Thủy, nên chưa thể trả lời dứt khoát chùa
Diên Phúc là chùa nào và nằm tại đâu hiện nay. Kiến văn tiểu tục 4 tờ 2b4
có ghi tên một chùa tên Diên Phúc. Ở thôn Cồ Việt, ở đó có tấm bia do
Nguyễn Công Diệm soạn vào năm 1113. Nhưng Khảo Bắc thành địa dư chí lục,
chúng tôi không thấy thôn Cồ Việt ở đâu cả, nên cũng chưa xác định hẳn vị
trí chùa Diên Phúc được.
(2) Nam ông mộng lục tờ 9 dưới mục “Tăng đạo thần thông” chép y
chuyện này. Kiến văn tiểu lục 4 tờ 13a5-6 chép nguyên lại bài thơ.
(3) A giác nữ đầu bạch: người con gái còn để chỏm mà đầu đã bạc.
thiền sư Đầu Tử Đại Đồng được hỏi: “Hòa thượng sống ở đây có cảnh giới
gì?”. Sư đáp: “A giác nữ bạch đầu ty” (người con gái còn để hai chỏm tóc,
nhưng đầu đã bạc như tơ). Xem Truyền đăng lục 15 tờ 319c13.
(4) Long môn tào điểm ngạch. Tháng 3 cá chép
vượt cửa Rồng để thành rồng, nếu không vượt nổi thì bị chấm trên trán mà
trở về. Linh Thứu Nhàn thiền sư, có hòa thượng Minh Thủy hỏi: “Thế nào là
mau được pháp thân?”
Sư đáp:
“Nhất
thấu Long môn vân ngoại vọng
Mạc
tác Hoàng hà điểm ngạch ngư”
(Một khi đã tới cửa rồng, ngó trời ngoài mây
Thì chớ làm cá sông Hoàng Hà bị chấm trên trán)
Xem Truyền đăng lục 10 tờ 278b18-19.
Long môn là một tên đất tại tỉnh Tứ Xuyên ở Trung Quốc, ở đấy có cái vực
rất to ăn thông với sông Dương Tử. Tương truyền ở đó có cái ao tên Vũ Môn.
Tục truyền hễ đến tháng 7 nước to, cá chép các nơi kéo về đua nhau nhảy
qua cửa đáy. Con nào nhảy qua thì hóa thành rồng. Con nào không thì bị một
chấm trên trán, mà trở về. Ở nước ta, theo Kiến văn tiểu lục 6 tờ 13b4-7
thì Long Môn ở tại đất những động Dĩ lý và Hào trang của Mộc Châu, ở đấy
“có một ngọn núi ở trung lưu sông Đà, đá lớn lộn xộn, mỗi năm đến ngày 8
tháng 4, các bày cá bơi ngược dòng mà lên, nhưng chỉ các chép một hai con
thì có thể được. Giao Châu ký nói: “Có Long môn, nước sâu trăm tầm, cá lớn
lên đó thì hóa thành rồng”.
(5) An nam chí nguyên 3 tờ 211 viết: “Thiền sư Giác Hải là Sư huyện
Giao Thủy, thần thông rộng lớn, biến hóa như thần. Khi sắp thị tịch, có
sao hỏa rơi vào Thái thất. Đến sáng, Sư mất”. Xem thêm Đạo giáo nguyên lưu
quyển thượng tờ 16 b8.
(6) Truyện Dương Không Lộ và Nguyễn Giác Hải trong Lĩnh nam chích
quái truyện tờ 36 chép nguyên truyện Giác Hải ở đây với một vài sai lầm
chính tả và thiếu sót do sao lục, nhưng không quan trọng. Từ Đạo Hạnh đại
thánh sự tích thật lục do “Đạo nhân Quán tam thanh” thêm vào trong Việt
điện u linh tập tờ 48-51 chép chuyện Giác Hải ké với Từ Đạo Hạnh và Minh
Không, song cũng không có gì đặc sắc đáng nói cả. Nó chỉ điển hình cho
tình trạng thất truyền của cuộc đời Giác Hải mà thôi. Cái ghi chú của An
nam chỉ lược 15 tờ 147 về “hai thầy Không Lộ và Giác Hải thường vào Đại
quốc xin đồng về đúc chuông” hai cái để tại chùa núi Phổ Lại, và việc
“Gíác Hải giỏi lặn dưới nước” cũng không thêm gì hơn là giúp ta xác định
niên đại những truyền thuyết thần kỳ về những vị sư này.
32. THIỀN SƯ NGUYỆN HỌC
(1) An nam chí nguyên 3 tờ 210 viết: “Thiền sư Nguyện Học là sư
châu Vũ Ninh. Trong lúc tập thiền định, thân như cây khô, vật và ta đều
quên, cho nên chim bay đến châu, thú rừng lẩn quẩn, nhất loạt như vật nuôi
trong nhà. Tùy Cao Tổ sai sứ xây tháp cúng dường”. Nhưng rõ ràng đấy là
văn cú lấy trong truyện Pháp Hiền. Đạo giáo nguyên lưu quyển thượng tờ
16b1 cũng chép Pháp Hiền như thế. Nhưng trước Pháp Hiền nó ghi lại ở tờ
16a12 những mô tả về Nguyện Học và viết: “Thiền sư Nguyện Học là Sư châu
Vũ Ninh, siêng tu phạm hạnh, mỗi khi vào thiền quán, nhiều ngày mới đứng
dậy, đến chết thì ngồi kiết già mà mất”. Do thế, những gì viết về Nguyện
Học của bản in An nam chí nguyên ngày nay là lấy từ Pháp Hiền, do việc
chép nhảy hàng gây ra, bởi vì cả Học lẫn Hiền đều nói là ỏõsư châu Vũ
Ninh”, nên sau những chữ ấy, đúng ra người viết phải chép tiếp những mô tả
về Học, nhưng đã nhảy hàng và chép thay vào, những mô tả về Pháp Hiền.
(2) Tức làng Chân Hộ huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh ngày nay. Xem
chú thích (2) truyện Đạo Huệ.
(3) Tức làng Phù Cầm, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh ngày nay. Xem
chú thích (2) truyện Minh Trí.
(4) Chùa này ở tại Long Đàm, Phúc Đường, tức khoảng vùng huyện
Thanh Trì, tỉnh Hà Đông ngày nay. Xem chú thích (3) truyện Viên Chiếu.
(5) Tức núi Sóc, huyện Kim Anh, tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay. Xem chú
thích (5) truyện Khuông Việt.
(6) Nguyên văn: Thiên Cảm Chí Bảo bát niên. Nhưng theo Đại Việt sử
lược 3 và Đại Việt sử ký toàn thư B4 thì niên hiệu Thiên Cảm Chí Bảo chỉ
gồm có hai năm, đó là năm 1174 và 1175 thôi. Như thế, chữ bát chắc chắn là
một viết sai của chữ nhị chúng tôi đề nghị sửa và dịch theo cách hiểu
đây.
(7) Ý lấy từ Bài kệ thị chúng của Huệ Tư.
Đạo nguyên bất viễn
Tánh
hải phi diêu
Đản
hướng kỷ cầu
Mạc tùng tha mích
Mích
tức bất đắc
Đắc diệt phi chân.
(Nguồn đạo không ngái
Bể tính chẳng xa
Chỉ nhắm mình tìm
Chớ tìm ở người
Tìm tức không được
Được cũng chẳng chân)
Xem Truyền đăng lục 27 tờ 431b2-4.
(8) Thiền sư Huệ Tư. Kệ viết:
Đốn ngộ tâm nguyên khai bảo tạng
Ẩn hiện linh thông hiện chư tướng
Độc hành độc tọa thường nguy nguy
Bách ức hóa thân vô số lượng
Tung hiệp bức tắc mãn hư không
Khán thời bất kiến vi trần tướng
Khả tiêu vật hề vô tỷ huống
Khấu thể minh châu quang hoảng hoảng
Tầm thường kiến thuyết bất tư nghì
Nhất ngữ tiêu danh ngôn hạ đáng
Xem Truyền đăng lục 27 tờ 431b5-9.
(8) Tức truyện của Huệ Tư trong Truyền đăng
lục 27 tờ 431a14-c8. Tư sinh năm 514 và mất năm 577, thọ 64 tuổi, người Vũ
Tân, họ Lý. Cái mà tác giả Thiền uyển tập anh gọi là “truyện của Học
với truyện Huệ Tư đại khái giống nhau” rõ ràng nằm trong những bài kệ Thị
chúng dẫn trên.
33. THIỀN SƯ QUẢNG NGHIÊM
(1) Xem chú thích (2) truyện Bảo Giám.
(2) Nguyên văn chép Trí Thiền. Nhưng truyện Minh Trí ở trên nói
“tên trước của Trí là Thiền Trí”. Vậy Trí Thiền chắc là một chép lộn của
Thiền Trí hay ngược lại.
(3) Tức Minh Giác thiền sư ngữ lục, 6 quyển, ĐTK 1996 tờ 669-711,
của thiền sư Trùng Hiển (980-1052) núi Tuyết Đậu ở Minh Châu, sau khi mất,
được vua Tống ban hiệu cho là Minh Giác.
(4) Đạo Ngô và Tiệm Nguyên đi điếu tang. Nguyên vỗ quan tài nói:
“Sống ư? Chết ư?”. Ngô nói: “Sống, không nói. Chết không nói”. Nguyên hỏi:
“Vì sao không nói ?”. Nguyên đáp: “Không nói là không nói”. Xem Bích nham
lục 6, tắc 55 tờ 198a.
(5) Nguyên văn: Hư vãng. Trang Tử: “Đức sung phù: Lập bất
giác, tọa bất nghị, hư nhi vãng, thật nhi quy”. Xem Trang Tử 2 tờ 16a3-4.
(6) Kim cang kinh: “Như Lai sở đắc pháp, thử pháp vô thật vô hư”.
Xem Kim cang kinh tờ 750b29.
(7) Đại Châu Huệ Hải hỏi một giảng sư kinh Kim cang: “Kinh đó là ai
nói?” Vị sư lên tiếng đáp: “Hòa thượng nói giỡn sao: Há không biết Phật
nói sao?”. Sư nói: “Nếu bảo Như Lai có chỗ thuyết pháp tức là hủy báng
Phật, người đó không biết nghĩa ta nói..”.
Xem
Truyền đăng lục 6 tờ 247a 2-5.
(8) Kiến Sơ chỉ cho Vô Ngôn Thông, thiền phái của Thông cũng gọi là
phái Kiến Sơ. Âu công chỉ cho Đạo Huệ, Đạo Huệ họ Âu.
(9) Thiền sư Đồng An Sát, Thập huyền đàm:
“Trượng phu tự hữu xung thiên chí
Mạc hướng Như Lai
hành xứ hành”
Xem Truyền đăng lục 29 tờ 455b16-17.
34. THIỀN SƯ THƯỜNG CHIẾU
(1) Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc Ninh, mục Tự quan, nói: “Chùa
Lục Tổ tức là chùa Trường Liêu. Sử ký nói: “Sư Vạn Hạnh trú trì chùa đó,
sau mất, Lý Thái Tổ tự thân đến điếu viếng, dựng đàn siêu độ, cấp dân làm
tự dinh, quanh năm cúng thờ”. Nhưng Lịch triều hiến chương loại chí 3 tờ
2a5-6 viết: “Tiêu Sơn ở xã Tiêu Sơn, huyện Yên Phong, trên có chùa Trường
Liêu, triều Lý dựng theo chỗ tu trì của Tể tướng thiền sư Vạn Hạnh. Lý
Thái Tổ đầu thai ở đó”.
Như vậy, một mặt chùa Trường Liêu ở tại Tiêu Sơn, huyện Yên Phong. Mặt
khác, truyện Thường Chiếu ở đây nói chùa Lục Tổ ở tại làng Dịch Bảng phủ
Thiên Đức, tức làng Đình Bảng, huyện Từ Sơn hiện nay. Do đó, chùa Trường
Liêu dứt khoát không phải là chùa Lục Tổ, bởi vì hai chùa ấy ở tại hai
huyện khác nhau. Chúng tôi không hiểu tại sao Đại nam nhất thống chí đã có
một sự đồng nhất trên. Khâm định Việt sử thông giám cương mục chính biên 2
tờ 7b1-2 ghi: “Chùa Tiêu Sơn là chùa Trường Liêu tại xã Tiêu Sơn, huyện
Yên Phong tỉnh Bắc Ninh”. Cương mục viết như vậy hợp lý hơn. Và chùa Lục
Tổ từ đó phải ở vị trí làng Đình Bảng huyện Từ Sơn, tỉnh Hà Bắc hiện nay.
(2) Làng Phù Ninh đây chắc chắn không phải là thuộc huyện Phù Ninh,
tỉnh Sơn Tây đời Nguyễn, tức Vĩnh Phú ngày nay, bởi vì những truyện La Quý
tờ 48a7 và Thiền Ông tờ 51a8 nói rõ ra là phủ Thiên Đức có làng Phù Ninh
với ngôi chùa Song Lâm nổi tiếng. Đại Việt lịch triều đăng khoa lục 1 và 2
cũng ghi một làng tên Phù Ninh là quê hương hay trú quán của một số tiến
sĩ nước ta dưới thời Lê như Phạm Ngữ khoa năm 1463, Nguyễn Khắc Trung khoa
1523, Lê Diêu khoa 1557, Đào Quốc Hiển khoa 1691 v.v... và nói làng Phù
Ninh ấy thuộc hạt Đông Ngạn. Ngày nay, huyện Từ Sơn tỉnh Hà Bắc đang có
một làng tên Phù Ninh nằm tại phía nam làng Đình Bảng và phia bắc làng Phù
Đổng. Làng Phù Ninh của Thường Chiếu tức làng đó.
(3) Đại Việt sử lược 3 tờ 3b6 nói: “Đại Định năm thứ 4 (1143) dựng
cung Quảng Từ cho thái hậu ở”. Đại Việt sử ký toàn thư B4 tờ 5b3 chép việc
này vào năm Đại định thứ 6 (1145), rồi ghi tiếp ở tờ 6b3 là “năm Đại định
thứ 9 (1148) mùa đông tháng 10 khánh thành cung Quảng Từ”. Đến năm Đại
Định thứ 10 (1149). Đại Việt sử lược 3 tờ 5a2 viết: “Mùa thu tháng 8 vua
đến chơi cung Quảng từ xem đua thuyền”. Việc này Đại Việt sử ký toàn
thư B4 tờ 10a2 chép vào năm Đại định thứ 12 (1151).
Sự so le hai năm về niên đại này, giáo sư Hoàng Xuân Hãn trong Lý Thường
Kiệt tr. 444-445 cho là đến từ việc Đại Việt sử ký toàn thư đã bỏ sót năm
Quý Sửu (1133) không chép, nên đề mục của năm đó trở thành đề mục của năm
sau tức năm Giáp Dần (1134), do thế mà chép việc chậm đi một năm. Còn Đại
Việt sử lược thì lại chép việc sớm hơn một năm, không biết vì lý do gì. Do
một bên chép sớm một năm, một bên chép chậm một năm, nên có sự so le vừa
thấy.
Như vậy đúng ra cung Quảng từ bắt đầu làm năm 1144, khánh thành năm 1147
và Lý Anh Tông đến chơi năm 1150. Việt sử tiêu án tờ 113b2-3 nói việc xây
cung Quảng Từ để cho mẹ của Anh Tông là Lê thái hậu thông dâm với Đỗ Anh
Vũ. Nó viết: “Anh Vũ mặt mày đẹp đẽ, múa giỏi hát hay, triều Thần Tông đem
vào hầu dưới trướng. Lê thái hậu ưa tiếng nói và sắc đẹp của Vũ, muốn tư
thông với Vũ đã lâu. Đến lúc ấy, mới dựng cung Quảng Từ cực kỳ lộng lẫy xa
hoa, ngày đêm cùng với Anh Vũ làm nơi ngủ nghỉ, mà vua không biết”.
Về chức Lịnh đô tào, An nam chí lược 14 tờ 113 có ghi Đô Tào như một chức
quan văn, nhưng không thấy ghi Lịnh đô tào.
(4) Tức Ô Đông mác thủ đô Hà Nội ngày nay. Trong bản điều trần dâng
cho Mạc Mậu Hợp vào ngày 2 tháng 8 năm Quang Hưng thứ 9 (1586) do Lê Quý
Đôn ghi lại trong Đại việt thông sử tờ 113a3, Giáp Trưng đề nghị “Thành
Đại La từ cửa nam Ông Mạc đến Nhật Chiêu, những lũy đất nên đắp cao thêm
và những con hào nên vét sâu thêm”. Cửa nam Ông Mạc hay Ông Mạc nam môn,
ta có thể hiểu là cửa nam ở phường Ông Mạc. Cái tên ở phường Ông Mạc như
vậy còn dùng từ thời Lý cho đến đời Mạc.
(5) Câu nói này là lược dẫn một đoạn trong phẩm Như Lai xuất hiện
của kinh Hoa nghiêm do Thật Xoa Nan Đà dịch Đại phương quảng Phật hoa
nghiêm kinh, Như Lai xuất hiện phẩm 37: “Phật từ bồ tát ma ha tát ưng tri
Như Lai thân nhất mao khổng trung, hữu nhất thiết chúng sanh số đẳng chư
Phật thân, hà dĩ cố? Như Lai thành chánh giác thân, cứu cánh vô sanh diệt
cố. Như nhất mao khổng biến pháp giới, nhất thiết mao khổng, tất diệcnhư
thị. Đương trí vô hữu thiểu xứ hứa, không vô Phật thân, Hà dĩ cố? Như Lai
thành chánh giác, vô xứ bất chí cố. (Tùy kỳ sở năng, tùy kỳ thế lực, ư đạo
tràng bồ đề thọ hạ sư tử tòa thượng, dĩ chủng chủng thân, thành đẳng chánh
giác....Phật tử bồ tát ma ha tát, ưng vân hà tri Như Lai ứng chánh đẳng
giác chuyển pháp luân? Phật Tử Bồ tát ma ha tát, ưng như thị tri Như Lai
dĩ tâm tự tại lực, vô khỉ vô chuyển, nhi chuyển pháp luân. Tri nhất thiết
pháp, hằng vô khỉ cố, dĩ tam chủng chuyển, đoạn sở ưng đoạn , nhi chuyển
pháp luân. Tri nhất thiết pháp, ly biên kiên cố, ly dục tế phi tế, nhi
chuyển pháp luân. Nhập nhất thiết pháp, hư không tế cố, vô hữu ngôn
thuyết, nhi chuyển pháp luân. Tri nhất thiết pháp, bất khả thuyết cố, cứu
cánh tịch diệt, nhi chuyển pháp luân. Tri nhất thiết pháp, niết bàn tính
cố, nhất thiết văn tự, nhất thiết ngôn ngữ, nhi chuyển pháp luân. Như Lai
âm thanh, vô xứ bất chí cố, tri thanh như hưởng, nhi chuyển pháp luân..”..
Xem Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh 52 tờ 275b17-276a6.
Chúng tôi đã dựa vào xuất xứ này sửa sai một số văn cú của câu nói để dịch
cho đúng đắn và dễ hiểu hơn. Chẳng hạn câu: “Đương tri vô hữu thiểu hứa
xứ, không vô Phật thân” của kinh Hoa nghiêm , cả hai bản in đời Lê và
Nguyễn của Thiền uyển tập anh đều viết: “Đương tri vô hữu thiểu hứa tâm,
không vô Phật thân”. Chữ tâm của câu sau đương nhiên là một chép sai
của chữ xứ câu trước, nhất là khi chữ xứ viết tắt thì tự dạng của nó rất
gần với chữ tâm. Chúng tôi do thế đề nghị sửa chữ tâm thành chữ xứ.
(6) Câu này cũng là lược dẫn một đoạn khác của phẩm Như Lai xuất
hiện trong kinh Hoa nghiêm. Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh, Như Lai
xuất hiện phẩm 37: “Phật tử, Như Lai thành Chánh giác thời, ư kỳ nhân
trung, phổ kiến nhất thiết chúng sanh nhập niết bàn, giai đồng nhất tánh,
sở vị vô tánh. Vô hà đẳng tánh?. Sở vị vô tướng tánh, vô tận tánh, vô sanh
tánh, vô diệt tánh, vô ngã tánh, vô phi ngã tánh, vô chúng sanh tánh, vô
phi chúng sanh tánh, vô bồ đề tánh, vô pháp giới tánh, vô hư không tánh,
diệc phục vô hữu thành chánh giác tánh. (Tri nhất thiết pháp, giai vô tánh
cố, đắc nhất thiết trí, đại bi, tương tục cứu độ chúng sanh... Xem Đại
phương quảng Phật hoa nghiêm kinh 52 tờ 275a19-26.
(7) Nam tông tự pháp đồ, Thiền uyển tập anh dẫn nó hai lần,
một ở cuối bản tiểu sử của Ma Ha và gọi bằng tên tắt Nam tông đồ, và một ở
cuối bản tiểu sử của Định Huệ. Nghệ văn chí trong Đại Việt thông sử của Lê
Quý Đôn ghi nó là do Thường Chiếu soạn. Văn tịch chí trong Lịch triều hiến
chương loại chí của Phan Huy Chú chỉ ghi Nam tông pháp đồ 1 quyển nhưng
lại thêm một chi tiết khá lôi cuốn là nó có bài tựa của Trạng nguyên Lương
Thế Vinh. Vinh đậu trạng nguyên năm 1463. Vậy cuốn Nam tông tự pháp đồ do
Vinh đề tựa chắc chắn là bản in do Vinh hay người thời Vinh đứng in. Thế
thì, phải chăng nó đã lưu hành cho tới thời Phan Huy Chú? Cứ vào một câu
viết của Thiền uyển tập anh ở bản tiểu sử của Thần Nghi, theo đó “Chiếu...
đem Chiếu đối bản của Thông Biện ra và ghi lại những điều về tông phái, để
làm đồ biểu phân tông tự pháp” (Chiếu ... toại trừu xuất Thông Biện
Đối chiếu bản cập ký kỳ tông phái điều, vi phân tôn, tự pháp đồ
---), thì nội dung của Nam tông tự tháp đồ, mặc dầu văn bản nó ngày nay
hiện vẫn thất lạc, có thể nó gồm hai phần. Phần thứ nhất là ghi những điều
cần biết về các tông phái thiền tại Việt Nam như nguyên lai, thế thứ
truyền thừa, và rất có thể niên đại cùng một số những chi tiết khác, cần
thiết cho việc thiết lập những đồ biểu về các tông phái đó. Còn phần sau
là gồm những đồ biểu. Về số tông phái, Thường Chiếu đã đi theo Thông Biện
và chỉ thừa nhận có phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi và phái Vô Ngôn Thông, còn phái
của Nguyễn Đại Điên cũng như của Nguyễn Bát Nhã cùng những chi phái khác,
mà Thông Biện nói là “chia chẽ ra bao la không thể kể xiết”, thì chắc chắn
đã không được nói tới, như câu hỏi của Thần Nghi với Thường Chiếu đã xác
nhận. Và cũng cứ vào câu trên thì cũng rõ ràng là, Nam tông tự pháp đồ
không phải đồng nhất hay hoàn toàn mô phỏng theo Chiếu đối lục.
Ngoài ra, cũng cần thêm là, cả Văn nghệ chí của Lê Quý Đôn lẫn Kinh tịch
chí của Phan Huy Chú đều liệt kê một tác phẩm khác nữa của Thường Chiếu
nhan đề Thích đạo khoa giáo 1 quyển, mà Thiền uyển tập anh không biết tới.
Phải chăng, Thích đạo khoa giáo vẫn còn lưu hành vào thời Lê Quý Đôn hay
Phan Huy Chú? Và đây chắc hẳn là một cuốn sách dạy học trò đi thi về những
khoa Phật giáo tổ chức dưới triều Lý và Trần.
35. CƯ SĨ THÔNG SƯ
(1) Tức cư sĩ Thông Thiền trong truyện của Tức Lự. Gọi Thông Sư có
lẽ để tỏ lòng tôn kính với Thiền. Và Thông Thiền đây chắc không phải là
Ngô Thông Thiền môn đồ của Viên Học, bởi vì không những Thông Thiền đây họ
Đặng, và Thông Thiền kia họ Ngô, mà còn vì Đặng Thông Thiền chết năm1228,
trong khi Ngô Thông Thiền thì đã lớn khôn để đưa đám thầy mình vào năm
1136. Ngô Thông Thiền do thế khó mà sống được tới năm 1228.
(2) Cái tên An La được Thiền uyển tập anh kể ra hai lần, một ở đây, và
một ở tờ 72a4 nói rằng: “Thiền sư Phạm Âm làng Thanh Oai, An La”. Đại Việt
sử ký toàn thư B4 tờ 25a1-2 nói: “Năm Trị Bình Long Ứng thứ 3 (1207) mùa
đông tháng 10 mọi núi Tản Viên, châu Quốc Oai đi ăn trộm, cướp bóc làng
Thanh Oai, chúng quá mạnh, không thể chế ngự được”. Làng Thanh Oai này,
Đại nam nhất thống chí, tỉnh Hà Nội, mục Kiến trí diên cách nói: “Nó xưa
là đất Đỗ Động, cái tên Thanh Oai mới thấy ở thời Lý - Năm Trị Bình Long
Ứng thứ 3 (1207) của Cao Tông gọi làng Thanh Oai, sau đổi làm huyện. Đời
thuộc Minh đem gồm vào châu Oai Man thuộc phủ Giao Châu. Lê Quang Thuận
cải thuộc thống hạt phủ Ứng Hòa. Sau đổi chữ Thanh bộ thủy làm chữ Thanh
không bộ thủy. Triều ta nhân theo”. Huyện Thanh Oai đời Nguyễn, tức huyện
Thanh Oai tỉnh Hà Đông bây giờ như vậy là xuất phát từ làng Thanh Oai đời
Lý. Mà làng Thanh Oai đời Lý, cứ dẫn chứng trên, lại thuộc An La. An la
đây do đó có thể là tên một châu hay một quận thời Lý. Địa phận nó chắc
chắn gồm phần lớn đất đai huyện Thanh Oai ngày nay, hay hơn nữa. Từ xác
định ấy, Ốc hương của Thông Thiền chắc chắn phải nằm trong vùng đất Thanh
Oai đây hay cùng lắm thì lan ra một vài xã của những huyện kế cận. Chúng
tôi coi lại bảng liệt kê những tổng xã thôn trại của phủ Ứng Hòa trong Bắc
thành địa dư chí lục, nhưng không tìm thấy một tên đất nào có thể giúp
đoán định vị trí thật sự của Ốc Hương cả. Một cuộc nghiên cứu hiện địa nay
mai sẽ giúp giải quyết vấn đề vừa nêu.
(3) Thỉnh ích, theo Phần Dương “thì thiền tông có cả thảy 18 lối
hỏi, mà Phần dương thập bát vấn kê ra như sau: Thỉnh ích, trình giải, sát
biện, đầu cơ, thiên tị, tâm hành, thám bạt, bất hội, kinh đảm, trí, cố,
tá, thật, giả, thẩm, trưng, minh và mặc. Trong số này trừ lối cuối cùng
tức lối hỏi bằng im lặng, mà Dương cho là “khó xác định vì phải biết ý
người đến hỏi”, những lối còn lại thì tùy theo cơ hội, và Dương cho một số
thí dụ về những lối hỏi này. Xem Nhân thiên nhãn mục 2 tờ 307c3-308a25.
(4) Huyền Tráng (604-664), một dịch giả nổi tiếng của Phật giáo
Trung Quốc, và người đã có công thiết lập trường phái Duy thức của Trung
Quốc với người học trò của mình là Khuy Cơ. Về cuộc đời, Xem Đại từ ân tự
tam tạng pháp sư truyện, 10 quyển, ĐTK 2053, về câu nói dẫn ở đây, chúng
tôi hiện chưa tìm thấy xuất xứ của nó, nhưng về nội dung thì đương nhiên
là nằm trong quỹ đạo của tư tưởng Duy thức của Huyền Tráng.
(5) Hoàng triều đây chỉ triều Trần, bởi Thiền uyển tập anh viết
dưới thời ấy.
36. THIỀN SƯ THẦN NGHI
(1) Tức làng Thời Trung huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông ngày nay. Về
bàn cãi, xem chú thích (3) truyện Ngộ Ấn.
(2) Đại Việt sử lược 3 hai lần nhắc đến địa doanh Ngoại Trại.
Một ở tờ 29b7 nói: “Năm Kiến Gia thứ 6 (1216) tháng năm Mậu Thìn (nguyên
bản viết ngọ) vua đi chơi Ngoại Trại”. Một ở tờ 32b3-4 viết: “Năm Kiến Gia
thứ 14 (1224) mùa đông tháng 12, núi Phật Tích ở Ngoại Trại nứt dài 30
trượng”.
Về việc đầu, ta biết Lý Huệ Tông theo Đại Việt sử lược đã cho thị triều ở
Thảo Điện vào tháng giêng. Tháng ba, sai người đi bắt bộn cướp ở xóm Cơ
Xá, bị Đỗ Ất chống lại. Tháng năm, bị Đỗ Nhuế tấn công. Ngày Mậu Thìn
tháng đó, Lý Huệ Tông mới đi Ngoại Trại, “nhân đó sai người đi xin quân ở
Tự Khánh để đánh Nhuế”. Hôm sau tức ngày Kỷ Tỵ, đày Nhuế làm khoa giáp.
Sáu ngày sau tức ngày Giáp Tuất (nguyên bản viết Thìn, nhưng nghi sai) Huệ
Tông cùng vợ đi về Thuận Lưu (Nam Định). Mà Thảo Điện của huyện Tôn Nguyên
là ở tại xóm Chi Tác của cầu Tây Dương. Như vậy cứ hành trình vừa kể của
Huệ Tông, Ngoại Trại chắc phải là một tên đất tại vùng Sơn Tây.
Kết luận này càng tỏ ra đúng đắn, khi ta bàn đến sự việc thứ hai, đây là
chuyện núi Phật Tích ở Ngoại Trại nứt. Núi Phật Tích này đương nhiên không
phải là núi Lạn Kha ở xã Phật Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Nó phải
là núi Phật Tích mà An nam chí lược 1 tờ 22 nói: “Vì trên đá có dấu chân,
nên có tên đó”. Và núi đó theo Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn Tây, mục
Sơn xuyên, không gì hơn là Sài Sơn hay núi Thầy, hiện ở hai xã Thụy Khê và
Thiên Phúc, huyện Quốc Oai tỉnh Hà Tây ngày nay. Đất Ngoại Trại của Thần
Nghi như vậy phải rơi vào vùng huyện Quốc Oai này, nếu không phải là giới
hạn vào hai xã Thụy Khê và Thiên Phúc, nơi đấy hiện đang có núi Phật Tích.
Đại Việt sử ký toàn thư B10 tờ 22a3 cũng kê Ngoại Trại như một trận địa
giao tranh giữa quân ta và bọn xâm lược Minh vào hôm 6-11-1426, và nó chắc
nằm sát Cổ Sở, tức làng Yên Sở, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Đông ngày nay. Có
người không hiểu Ngoại Trại ở đây của Đại Việt sử ký toàn thư là một địa
danh, bèn dịch thành “doanh trại ngoại vi”.
(3) Bồ Đề Đạt Mạ chết chôn trên núi Hùng Nhĩ, tháp được dựng tại
chùa Định Lâm. Xem Truyền đăng lục 3.
(4) Nhà Bắc Ngụy, Hiếu Trang đế, năm Vĩnh An thứ 3 (530), Tống Vân
đi sứ Tây Vức, gặp Đạt Mạ tại Thông Lĩnh. Trang Đế nghe sự lạ bèn quật mồ,
chỉ thấy còn lưu lại một chiếc dép. Do đó có thiền thoại “chích lý tây
quy”. Xem Truyền đăng lục 3 tờ 220a-b
(5) Tục ngữ thường được dùng trong thiền:
nhất khuyển phê hư hoặc cũng nói là nhất nhân tác hư vạn nhân truyền thật.
Xem truyện Diên Chiểu trong Truyền đăng lục 13 tờ 303a28-29, truyện Chân
Giác 18 tờ82 352b2 và truyện Thủ Trừng quyển 20 tờ 368a21-23. Nguyên xuất
xứ nó là trong thiên Hiền nạn của Tiềm phu luận: “Nhất khuyến phệ
hình, bách khuyến phệ thanh..”. Xem Tiềm phu luận 1 tờ 23a5.
(6) Về Chiếu đối bản, xem chú thích (3) truyện Biện Tài.
(7) Nguyễn Đại Điên (?-1110) chắc chắn là sư Đại Điên đánh chết cha
của Đạo Hạnh, để rồi bị Hạnh đánh chết, lại trong truyện Đạo Hạnh. Xem chú
thích (8) truyện Đạo Hạnh.
Còn Nguyễn Bát Nhã tức thiền sư Bát Nhã chùa Từ Quang Phúc Thánh ở làng
Dịch Vương, Trương Canh, tức huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây ngày nay. Sư là
đệ tử của Thảo Đường. Xem Thiền uyển tập anh tờ 71 b6.
(8) Nguyên văn: Sư dĩ chiếu sở thọ đồ bản. Hai chữ đồ bản trong đó,
chúng tôi hiểu là Nam tông tự pháp đồ và Chiếu đối bản.
(9) Tức huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang ngày nay. Đại nam nhất thống
chí, tỉnh Bắc Ninh, mục Phần dã, viết: “Huyện Lục Ngạn, đời Trần về trước
gọi là Na Ngạn. Thuở đầu, thời thuộc Minh chia làm hai huyện Na Ngạn và
Lục Ngạn (đúng ra là Lục Na), sau gồm vào Lục Ngạn. Triều ta nhân theo”.
Về Ấn Không, nay ta không biết một tí gì hết ngoài những điều đã ghi ở
đây.
37. THIỀN SƯ TỨC LỰ
(1) Tức khoảng địa phận quanh làng Phù Cầm huyện Từ Sơn tỉnh Hà Bắc hiện
nay. Về bàn cãi xem chú thích (3) truyện Định Hương.
(2) Mãi quỷ, một tên khác của chim đỗ quyên hay chim cuốc.
(3) Tội ngũ nghịch tức năm tội trọng, đấy là giết cha, giết mẹ,
giết A la hán, gây đổ máu nơi thân Phật, phá hoại sự hòa hợp của chúng
tăng.
Tội thất già tức bảy trọng tội không cho phép của một người được thọ giới
Bồ tát, đấy là: “Gây đổ máu nơi thân Phật, giết cha, giết mẹ, giết hòa
thượng, giết A xà lê, phá Yết ma chuyển pháp luân, giết thánh nhân”. Xem
Phạm võng kinh quyển hạ tờ 1008.
(4) Phi nhân: tức loài quỉ thần thông không phải là loài người.
---o0o---
[Mục Lục tập 3]
[Xem phần tiếp theo]
---o0o---
[ Tập I ] [
Tập II ] [ Tập III ]
---o0o---
| Thư Mục
Tác Giả |
---o0o---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật : 01-01-2003