TỔNG TẬP
VĂN
HỌC PHẬT GIÁO VIỆT NAM
Lê Mạnh
Thát
---o0o---
Tập I
=================
Chương
II
QUYỂN
BỐN
GIỮ GIỚI
VƯỢT BỜ
Giữ giới
vượt bờ là thế nào? Cuồng ngu, hung ngược, thích giết sinh mạng, tham ăn
trộm cướp, dâm dục nhơ bẩn, nói hai lưỡi nói dữ, nói dối, nói thêu dệt,
lòng giận ghét ngu si, hủy hoại cha mẹ, giết bậc Thánh hiền, báng Phật,
quấy rối người hiền, lấy vật ở đền miếu, ôm lòng hung nghịch, hủy báng ba
ngôi báu... Rất ác như thế, thà bị mổ xẻ, băm vằm phơi ngoài chợ, rốt cuộc
không bao giờ làm. Chỉ tin tam bảo, bốn ân cứu khắp.
27
Xưa Bồ
tát là một cư sĩ thanh tín. Vua nước vị ấy ở cai trị đúng đắn, khuyên dắt
quan dân, khiến biết ba ngôi báu. Ai giữ giới ăn chay thì được tha thuế,
miễn dịch. Dân chúng lớn bé thấy vua chuộng hiền, phần nhiều giả hiền lành
mà làm việc tà vạy. Vua đem giới Phật để xem tiết tháo của dân. Có người
tốt mà lòng xấu, trái với sự giáo hóa trong sạch của Phật. Vua vờ ra lệnh:
"Ai dám theo đạo Phật thì bị tội đến bỏ thây ngoài chợ. Bọn giả làm lành,
không ai là không bỏ điều chân chính, mặc tình theo thói tà vốn có.
Có vị Bồ
tát tuổi già, giữ sự sáng suốt chân chính rộng lớn, nghe lệnh kinh hãi
nói: "Bỏ chân theo quấy mà được làm đế vương, sống bằng đất trời, giàu
sang không gì hơn, sáu điều vui sướng mặc lòng, ta trọn chẳng làm. Tuy
sống một bữa ăn mà thấy sự giáo hóa chí chơn của tam bảo, thì ta vui vẻ
theo. Còn ôm nhớ vạn ức sách vở ghi chép thế tục, thân ở cung trời, tuổi
thọ tột trời mà mờ mịt đối với ba ngôi báu, không nghe kinh Phật thì ta
chẳng mong ước. Vâng lời Phật dạy mà có bị họa giết chóc, ta vẫn cam tâm.
Kinh dạy: "Chúng sinh lao mình vào ba đường, được làm người là khó, ở Kinh
đô là khó, sáu căn đầy đủ là khó, sinh nước có đạo là khó thân cận với Bồ
tát là khó, gặp kinh mà tin là khó, thấu hiểu việc sâu xa vi tế là khó gặp
sa môn hạnh cao lòng thanh tịnh, cúng dường là khó, gặp Phật và được thọ
ký là khó. Ta kiếp trước công đức rõ ràng, nay gặp kinh Phật, được thờ tam
bảo, dẫu gặp kẻ vô đạo tàn khốc, muối thịt ngâm thân với nghiêm hình nước
sôi lửa bỏng, rốt cuộc cũng không bỏ điều ngay mà theo lũ yêu trùng kia".
Vua ra
lệnh cho quan hữu ty đi tra xét, ai trái lệnh thì giết, đem bêu ngoài chợ.
Người tra xét thấy Bồ tát ý chí kiên quyết không thể lay chuyển, phụng thờ
tam bảo lòng thành không thiếu, liền bắt đem tâu vua. Vua nói: "Giết bêu
ngoài chợ. Rồi lén sai người rình xem người ấy thế nào".
Khi đi
chịu chết, Bồ tát dặn con: "Từ lúc mới dựng trời đất, có người đến nay,
chúng sinh ở đời bị sáu tình quấy rối quá hơn điên say, ít thấy ba ngôi
báu, theo sự giáo hóa sáng suốt trong sạch. Con may mắn biết giáo pháp,
hãy cẩn thận đừng buông bỏ. Hễ ai bỏ hạnh Phật, Pháp, làm điều quấy dối
của quỉ yêu thì nhất định mất nước thôi. Ta thà bỏ thân này, chứ không bỏ
chân lý. Vua nay sai lầm, con chớ nghe theo".
Quan tra
xét đem lời ấy tâu lên. Vua biết Bồ tát làm hạnh chân chính, vui mừng mời
đến, nắm tay dắt lên điện. Vua nói: "Khanh thật có thể nói là đệ tử Phật.
Rồi phong làm tướng quốc, giao việc trị nước. Còn bọn buông bỏ sự giáo hóa
trong sạch của Phật thì bứt trả thuế đi quân dịch. Từ đó, cả nước không ai
là không chuộng làm lành".
Phật bảo
các sa môn: "Quốc vương bấy giờ là Di Lặc, còn cư sĩ thanh tín là thân
ta".
Hạnh giữ
chí vô bờ của Bồ tát trì giới như vậy.
28
Xưa có
Bồ tát thân làm voi chúa, lòng nó rộng xa, rõ biết có Phật, có Pháp, có Tỳ
kheo tăng, thường giữ ba quy y, mới đem lòng từ rộng lớn cứu vớt chúng
sinh, thề nguyện thành Phật, sẽ độ hết cả.
Đi theo
có năm trăm voi. Bấy giờ có hai cô vợ, voi chúa dầm mình trong nước, được
một hoa sen, màu sắc rất đẹp, đem cho vợ cả. Vợ cả được hoa mừng rỡ nói:
"Băng lạnh ghê gớm sao có hoa này?" Vợ bé ham ghen, giận thề: "Mong thuốc
độc mạnh giết quách mày đi". Rồi uất khí mà chết. Hồn linh hóa làm con gái
của trưởng giả, nhan sắc tuyệt thế, trí ý thông minh, hiểu rộng xưa nay,
ngửa trông thiên văn biết thời thịnh suy. Vua nghe như vậy, cưới về làm
vợ. Vừa về, đã trình bày chính sách trị nước, ý hợp tôi trung. Vua thấy
đẹp lòng nên càng yêu kính, mỗi lời nói ra vua đều nghe theo.
Phu nhân
nói: "Thiếp mơ thấy voi sáu ngà, lòng muốn lấy ngà để làm đai ghế, nếu vua
không cho, chắc thiếp chết mất". Vua nói: "Đừng nói gàn dở, người nghe sẽ
cười". Phu nhân nói rồi liền sinh ưu uất. Vua mời bốn người bề tôi đến
bàn, tự nói chính mình nằm mộng, hỏi: "Xưa nay có voi như vậy sao?". Một
bề tôi đáp: "Không có như thế!" Một ông nói: "Vua không nằm mộng như vậy".
Một ông nói: "Từng nghe có nó nhưng ở xa lắm. Một ông nói: "Nếu có thể đến
được là Đế Thích nay đang bay ở đấy". Bốn bề tôi liền mời thợ săn bốn
phương tới hỏi. Thợ săn phương Nam nói: "Cha tôi thường nói có voi ấy
nhưng ở xa khó tới". Bề tôi tâu lên: "Người này biết nó". Vua bảo đến gặp.
Phu nhân nói: "Ngươi đi thẳng hướng nam ba ngàn dặm, gặp một ngọn núi, vào
núi đi hai ngày thì đến chỗ voi ấy, đào một cái hầm bên đường, cạo bỏ râu
tóc, mặc áo sa môn, ngồi trong hầm bắn nó, cắt lấy ngà nó rồi đem hai cái
về đây". Thợ săn vâng lệnh đi đến chỗ voi dạo. Trước khi bắn voi, thợ săn
mặc pháp phục, cầm bình bát lui tới trong hầm. Voi chúa thấy Sa môn, liền
cúi đầu nói: "Kính chào Đạo sĩ! Ngài vì việc gì mà muốn hại mạng tôi?" Thợ
săn đáp: "Muốn được cặp ngà của ngươi". Voi chúa nói: "Tôi đau đớn khó
chịu nổi! Hãy mau lấy ngà đi đi, đừng khuấy lòng ta khiến sinh niệm ác. Ai
lòng nghĩ ác, chết đọa vào đường núi Thái, ngạ quỷ, súc sanh. Còn ai giữ
nhẫn nhục, hành từ bi, ác đến lành đi là hạnh cao của Bồ tát, dẫu đến bằm
xương phanh thịt rốt cuộc không trái hạnh ấy, đi tu hạnh ấy, chết sinh lên
trời mau được diệt độ".
Thợ săn
cắt ngà. Voi nói: "Đạo sĩ nên mau đi đi, đừng để đàn voi tìm được dấu
chân". Voi đợi thợ săn đi xa, đau chịu không nổi, vật mình xuống đất, rống
lớn, một chốc thì chết, liền sanh lên trời.
Đàn voi
bốn phía đi tới liền nói: "Người nào giết vua ta vậy?" Chúng đi tìm không
được, trở lại ôm thây voi chúa gào khóc. Thợ săn đem ngà trở về. Vua thấy
ngà voi, lòng liền xót xa. Phu nhân lấy ngà cầm trong tay, vừa muốn nhìn
xem, thì có tiếng sét nổ vang đánh phu nhân hộc máu chết, đọa vào địa
ngục.
Phật bảo
các sa môn: "Voi chúa bấy giờ là thân ta, vợ cả là Cừu Di, thợ săn là Điều
Đạt, vợ bé là Hảo Thủ".
Hạnh giữ
chí vô bờ của Bồ tát, giữ giới như vậy.
29
Số 118
Bổn sanh Vattaka (Jat. 432) t 349
Xưa có
Bồ tát làm vua oanh vũ, thường vâng lời Phật, quy y tam bảo, đến lúc phải
chết, quyết không phạm mười điều dữ, có lòng từ dạy dỗ, lấy sáu độ làm
đầu.
Quốc
vương bấy giờ thích ăn thịt oanh vũ, thợ săn đua nhau đi tìm, thấy bầy
oanh vũ, giăng lưới bắt lấy trọn được cả bầy đem cống thái quan. Người
giết thịt nhận lấy, chọn con béo tốt, đem giết làm chả. Vua oanh vũ nghĩ
sâu: "Chúng sinh bồn chồn, vào ngục chết thân, luân hồi ba cõi, cũng đều
do ăn". Bèn bảo cả đàn: "Bỏ tham, nhịn ăn, mình gầy, khổ một chút mà có
thể hy vọng sống. Ai ngu ăn nhiều, lòng không lo xa, như kẻ bủn xỉn, tham
chút mật ở lưỡi dao, mà không biết cái họa đứt lưỡi. Ta nay nhịn ăn, các
ngươi hãy làm theo". Vua oanh vũ ngày một gầy, từ mắt cáo lồng, nhẩy được
ra khỏi. Đứng trên lồng nói: "Phàm tội lớn của tham ác là không muốn cảnh
lành". Lại nói: "Chư Phật coi tham là ngục, là lưới, là thuốc độc, là dao
gươm. Các ngươi nhịn ăn thì có thể như ta".
Từ đấy
Bồ tát, nếu là người phàm thì ăn sơ nuôi mạng, mặc xấu che thân, lấy tham
răn lòng, không ngày nào là không giữ, may làm đế vương, bèn dùng trí Phật
xem trị việc nước, phúc cao rộng lớn không thể tính kể. Vô thường chẳng
chắc, chỉ khổ không vui, vừa có liền mất, thân là giả huyễn, khó giữ như
trứng, khó nuôi như sói, người có mắt thấy không ai là không run sợ. Bồ
tát đời đời lấy giới làm hạnh, bèn thành Như Lai Vô Sở Trước Chính Chân
Đạo Tối Chính Giác, làm Thầy trời người.
Phật bảo
các tỳ kheo: "Vua oanh vũ bấy giờ là thân ta, quốc vương là Điều Đạt".
Hạnh giữ
chí vượt bờ của Bồ tát, trì giới như vậy.
30
Xưa có
Bồ tát làm thái tử con vua tên là Pháp Thí. Trong ngoài thanh tịnh, thường
lấy cái họa theo tà tự răn lòng mình, tôn trọng bậc thánh, hiếu dưỡng cha
mẹ, thương cứu chúng sinh.
Thái tử
vào chầu, thường đợi tướng quốc, tới lui đúng lễ, chưa từng thất nghi. Vua
có thiếp yêu, lòng giữ dâm tà ra ôm thái tử. Thái tử cự mạnh nên mới được
thoát, rồi gõ đầu tướng quốc nói: "Đi đi!" Mũ rơi xuống đất, đầu tướng
quốc không tóc, người ái thiếp cười. Tướng quốc xấu hổ, lòng giận. Người
thiếp đến vua khóc kể: "Thiếp tuy hèn mọn cũng là vợ Vua, thái tử chẳng
trọng, ý lại muốn thiếp". Vua nói: "Thái tử giữ tiết, chẳng phải chí Phật
không nghĩ, chẳng phải lời Phật không nói, chẳng phải đạo Phật không làm,
tám phương ngợi đức, các nước không ai được vậy thì há làm điều quấy sao?"
Lời sàm
nhiều lần tỉ tê mê hoặc lòng vua. Vua nói: "Cốt nhục tương tàn, đó gọi
giặc loạn, ta không thể làm. Bèn phong thái tử làm vua biên giới, cách
kinh độ tám ngàn dặm và dặn: "Con trấn nhậm cõi ngoài theo trời làm điều
nhân, đừng giết mạng dân, đừng tham bậy, làm khổ lê thứ, tôn trọng người
già như cha mẹ, yêu dân như yêu con, cẩn thận giữ giới Phật, giữ đạo dẫu
có chết, đời có nhiều kẻ gian ngụy, khi nào có ấn răng dạy con mới tin
theo.
Thái tử
cúi đầu khóc lóc nói: "Con chẳng dám bỏ lời cao quí. Bèn đến chỗ đất
phong, đem năm giới, mười lành, thương dạy quốc dân". Ở ngôi một năm, dân
xa mến mộ ơn nhuần, theo về như mây cuốn, thêm hơn vạn hộ. Thái tử làm
trạng tâu lên, ca ngợi đức nhuần của vua chiếu xa khiến được như thế. Vua
cùng hoàng hậu cung phi vui vẻ khen thái tử. Người thiếp đặc biệt ôm lòng
oán hận, cùng quốc tướng làm điều gian, mưu trừ thái tử, rình vua đi ngủ,
lấy sáp ong làm ấn, dối viết bức thư nói: "Ngươi có tội mạn thượng, không
nỡ giết ngay, vậy khi thư đến, mau móc con ngươi đưa cho sứ giả đem về
kinh đô".
Khi sứ
giả đến, quần thần đều nói: "Đây là sứ giả của kẻ yêu loạn, chẳng phải từ
đại vương". Thái tử nói: "Có dấu ấn răng cửa của đại vương, nay ta phải
tin. Yêu mình mà trái ý mẹ cha, đó gọi là đại nghịch". Liền cùng quần
thần, vui chơi ba ngày, dạo khắp trong nước, cứu nghèo giúp thiếu, đem
khuôn phép Phật dùng lòng từ dạy dân, rồi tìm người có thể móc mắt mình.
Thái tử mua được đứa cắt cỏ, nó liền móc mắt, lấy trao sứ giả. Sứ giả đựng
hộp, chạy về chỗ cũ. Tướng quốc đem trao người thiếp ác nghiệt. Người
thiếp treo trước giường mắng: "Không theo ý ta thì khoét mắt, vậy có thích
không?" Vua mơ thấy ong sắt chích mắt thái tử, tỉnh dậy nghẹn ngào nói:
"Con ta chắc có chuyện lạ". Người ái thiếp nói: "Vua nhớ đến thế, nên có
mộng ấy, chắc không có gì lạ đâu".
Thái tử
nhờ đàn hát kiếm ăn nuôi thân, lần lượt qua các nước. Đến nước vua cha của
hoàng phi. Thái tử có cây đàn kỳ diệu, hễ gọi liền vâng, tiếng nó trước
khen ngợi đức độ của vua, sau là tiếng buồn của cô nhi không cha mẹ. Hoàng
phi hiểu được tiếng đàn, nghẹn ngào nói: "Chồng ta khốn rồi". Vua hỏi:
"Sao vậy?" Hoàng phi nói rõ mọi việc, rồi giã từ cha mẹ nói: "Việc này do
lịnh của nghiệt thiếp. Đàn bà hai chồng chẳng phải trinh trắng, con xin
được đi theo người chồng chí hiếu". Cha mẹ đều buồn, hoàng phi đem thái tử
về nước cũ. Vua nghe nói có cây đàn kỳ diệu, gọi vào bảo gảy, thấy hình
dung tiều tụy, chỉ nhận ra tiếng nói. Vua hỏi: "Ngươi có phải là Pháp Thí
con ta không?" Thái tử cúi đầu sát đất nghẹn ngào. Vua và Hoàng hậu, cung
nhân cả nước lớn nhỏ không ai là không buồn thương. Hoàng phi đầu đuôi
thuật rõ. Vua nói: "Than ôi! Người nữ bất nhân, như men độc của lúa canh.
Phật dạy phải xa là chẳng đúng sao?". Liền bắt tướng quốc và nghiệt thiếp,
lấy roi gai đánh, nấu nhựa cây nhỏ vào vết thương, hơ lửa cho nứt ra, rồi
đào hầm chôn sống.
Phật bảo
các tỳ kheo: "Thái tử kiếp trước thường bán bạch châu. Người thiếp bấy giờ
là con gái nhà giàu, đi xe trên đường, quan tướng quốc thuở ấy là người
đánh xe, gọi bé bán châu: "Đem châu ngươi lại coi". Rồi cầm châu, nhưng
không mua, lại nhìn dâm đãng buông lời lẳng lơ. Bé cả giận nói: "Không trả
châu cho ta, lại nhìn dâm đãng, ta móc mắt ngươi". Cô gái và người đánh xe
đều nói: "Ta lấy roi gai đánh, rót nhựa nóng vào cho nứt thịt ra, rồi đem
chôn sống ngươi được không?". Hễ lành dữ vừa làm, thì họa phúc liền theo,
như bóng theo hình, ác chín tội thành, như vang đáp tiếng. Làm ác mà muốn
không họa, như gieo giống mà không muốn nó mọc. Bồ tát giữ giới thanh tịnh
của Phật, thà bị móc mắt mà chết chứ không phạm dâm mà sống.
Hạnh giữ
chí vượt bờ của Bồ tát, giữ giới như vậy.
31
Số 193
Bổn sanh Cullapaduma (Jat. 2. 115) t 177
Xưa có
Bồ tát, anh em ba người gặp đời hạn hán, dân chúng ăn thịt lẫn nhau. Họ đi
tìm ăn, để cứu mạng hèn. Trải qua núi non hiểm trở, thiếu ăn mấy ngày, hai
anh đều nói: "Đem vợ cứu mạng có được không?" Người anh cả giết vợ mình
trước, chia làm năm phần, người em út thương xót, buồn mà không ăn. Người
anh giữa lại giết vợ. Người em út càng nghẹn ngào. Khi hai anh muốn giết
vợ người em, người em nói: "Giết người để bảo toàn mạng mình, đó chẳng
phải là đạo nhân của Phật, tôi không thể làm". Bèn đem vợ vào núi hái quả
nuôi thân.
Ở núi
nhiều năm, trong núi có một người què, người vợ cùng nó tư thông, mưu định
giết chồng, giả bộ nói: "Đáng lẽ thiếp làm nuôi chàng mà chàng lại làm một
mình. Ngài mai xin cho thiếp theo, nguyện cùng chàng chịu khổ". Chồng đáp:
"Núi rất hiểm trở, em không đi được". Ba lần từ chối không được, bèn cùng
nhau ra đi.
Vợ thấy
núi cao, hang thẳm, bèn xô chồng rớt xuống. Bờ sông có thần, thần đỡ nên
được yên. Vợ hí hửng đắc ý, về sống chung với người què. Người chồng lần
theo giòng sông, gặp người lái buôn, bèn nói đầu đuôi, lái buôn thương
tình, chở đến nước giàu. Vua nước ấy băng hà, lại không có thái tử, quần
thần nhường nhau nên không có người nối ngôi. Bèn sai phạm chí xem người
đi đường ai có tướng tốt thì lập làm vua. Phạm chí vừa thấy Bồ tát liền
nói: "Lành thay! Đây là vị vua có đạo, có thể che chở muôn dân như trời
nhân từ". Quần thần dân chúng lau nước mắt khen hay, không ai là không đến
chúc thọ, vâng rước vào cung, trao cho đế vị.
Bồ tát
dùng lòng tứ đẳng nuôi dân, phương thuật lũ tà đều bỏ, trao cho năm giới,
ban bố mười lành, cả nước giữ giới. Do vậy. Thiên đế giúp hộ nước ấy, yêu
quỷ chạy trốn, khí độc tiêu trừ, thóc quả được mùa, lân quốc theo chính,
thù địch lại thân, bồng bế nhau đến như mây nhóm.
Vợ dắt
chồng què vào nước xin ăn, kể xưa đem chồng tỵ nạn, nay đến nương nhờ
người nhân. Quốc nhân lớn bé không ai là không khen lạ, đều nói: "Vợ hiền
như vậy, có thể viết thành sách". Phu nhân vua nói: "Hãy trọng thưởng cho
người ấy". Vua liền gặp người vợ kia hỏi: "Có biết Thiên tử không?" Người
vợ sợ hãi cúi đầu. Vua bèn kể cho mọi người trong cung rõ ngọn ngành. Quan
chấp chính nói: "Người này đáng giết!" Vua nói: Chư Phật lấy lòng nhân làm
của báu nhất trong ba cõi, ta thà bỏ thân chứ không bỏ đạo nhân". Phu nhân
sai người đuổi ra khỏi nước, quét sạch vết chân.
Phật bảo
Thu Lộ Tử: “Ông vua là thân ta, người què chân là Điều Đạt, người vợ là
Hảo Thủ”.
Hạnh giữ
chí vượt bờ của Bồ tát, giữ giới như vậy.
32
Xưa có
Bồ tát làm người phàm phu, học rộng kinh Phật, biển sâu tội phúc, các môn
y thuật, tiếng kêu cầm thú không gì là không thông. Thấy đời loạn dơ, nên
ở ẩn không làm quan, chuộng quý giới Phật, chỉ theo điều chính.
Cảnh nhà
cùng khốn đi gánh thuê cho lái buôn. Qua đến bờ sông ăn cơm, bầy quạ kêu
lên, lái buôn lòng sợ, tự nhiên dựng tóc, Bồ tát cười. Ăn xong họ đi. Khi
về nước mình, lái buôn nhìn người gánh thuê hỏi ngay: "Quạ kêu anh cười,
chắc có ý gì?" Bồ tát đáp: "Quạ nói: kia có bạch châu, giá nó rất đắt,
ngươi giết lấy châu, ta muốn ăn thịt, cho nên tôi cười". Lái buôn hỏi:
"Anh không giết ta vì sao vậy?" Đáp: "Kẻ không thấy kinh Phật, thì làm ác
đầy trời, cho là không có tai họa, đó là dối mình. Ta thấy sách Vô Thượng
Chính Chân, thấy sự nhân từ trong sạch của Bồ tát, các loài bò bay máy cựa
uốn trườn, đều thương không giết, dẫu hạt cải, lá cỏ, không phải của mình
thì không lấy. Phàm kẻ hiếu sát là bất nhân, kẻ thích lấy là không trong
sạch. Ta kiếp trước vì ưa lấy của, nay chịu tai ương, bị nghèo khốn hèn,
làm thuê cho ông, nếu nay phạm nữa, gieo tội vô lượng, chẳng phải đệ tử
Phật. Ta thà giữ đạo, nghèo hèn mà chết, chứ không vô đạo, giàu sang mà
sống". Người chủ buôn nói: “Lành thay! Chỉ có lời Phật là chân lý”.
Hạnh giữ
chí vượt bờ của Bồ tát, giữ giới như vậy.
33
Xưa có
Bồ tát, ở đời nghèo khốn, làm thuê cho lái buôn, đi biển kiếm lời, thuyền
ngừng không chạy. Lái buôn lớn bé không ai là không sợ hãi, xin cầu các
thần trên dưới cứu vớt. Người nghèo chỉ nhớ tam qui, giữ giới không phạm,
hối lỗi tự trách, đêm ngày ba lần, đem lòng từ thệ nguyện: "Chúng sinh
mười phương không có sợ hãi như ta ngày nay, là sau thành Phật, sẽ độ
những người này". Mãi đến bảy ngày, thuyền vẫn không chạy. Thần biển bịa
cho chủ hàng nằm mộng nói: "Ngươi bỏ người nghèo, ta cho ngươi đi". Chủ
hàng nằm mộng, rầu rĩ thương xót riêng lén bàn nhau. Người nghèo xét kỹ,
biết rõ lý do, nói: "Đừng vì thân ta một người mà giết mạng mọi người".
Chủ hàng
làm bè, cấp cho lương khô, bỏ người lên bè, rồi đẩy ra xa. Cá lớn lật
thuyền nuốt hết lái buôn. Người nghèo theo gió tấp bờ, trở về nước mình,
bà con xúm mừng. Người nghèo nhờ tam qui, năm giới, mười thiện, ăn chay
sám hối thương đến chúng sinh, nên được phúc ấy.
Người
nghèo ấy là thân ta.
Hạnh giữ
chí vượt bờ của Bồ tát, giữ giới như vậy.
34
Xưa có
Bồ tát giữ giới ở ẩn, không ham đời sang, nương náu nhà giàu, làm người
giữ mộ. Nếu có chôn cất, bèn hết sức giúp. Tang chủ cảm động, đem của báu
cho. Có được nhiều ít, bèn đưa nhà giàu. Nhà giàu nói: "Ngươi đem sức làm,
mới có báu này, sao đưa cho ta?" Đạo sĩ nói: "Tôi giữ đất, ông kia chôn
đất, ông lấy đại nghĩa mà bàn thì của báu là của ông". Người nhà giàu
khen: "Lành thay! Người hiền thuở trước há có thể hơn ông sao?" Bèn chọn
trong đám con gái, người nết hiền mặt đẹp, cấp cho làm vợ, chia gia tài
cho, để làm nhà cửa. Đạo sĩ nói: "Hạnh ấy càng tiến, đức ấy càng cao".
Đạo sĩ
nghèo bấy giờ là thân ta, còn vợ là Cừu Di.
Hạnh giữ
chí vượt bờ của Bồ tát, giữ giới như vậy.
35
Bổn sanh
Serivànyà (Jat 110) t. 17
Xưa Bồ
tát thân là người phàm, quy y Tam Bảo, giữ giới không sai, với cậu cùng
đi, buôn bán kiếm sống.
Đi đến
nước kia, cậu qua sông trước, nghĩ nhà mẹ góa. Nhà có gái nhỏ, cô thưa với
mẹ: "Sau nhà có cái chậu rửa, có thể đem đổi bạch châu cho người lái
buôn". Người mẹ thuận theo ý con, đem cho lái buôn xem. Lái buôn lấy dao
nạo xem, biết là báu thật, vờ ném xuống đất nói: "Làm bẩn tay ta", liền ra
lên đường. Mẹ con xấu hổ.
Anh học
trò đến sau, cô gái lại xin đem đổi lấy châu. Người mẹ nói: "Chuyện xấu hổ
trước có thể là lời răn cho hôm nay". Cô gái nói: "Con xem anh học trò này
có tướng thương người, chẳng tham tàn như người hôm trước đâu. Lại lấy
chậu cho coi. Cậu học trò nói: "Đây là vàng ròng đó, đem hết hàng tôi đổi
có được không?" Người mẹ nói: "Được". Cậu bé nói lại: "Cho tôi xin hai
đồng tiền vàng để qua đò nhé". Người cậu bỗng về nói: "Nay tôi lấy ít châu
cho bà, bà đem cái chậu ra đây". Bà mẹ nói: "Vừa có cậu học trò tốt, đem
hết châu quí, đổi lấy chậu vàng của tôi rồi, còn cám ơn về việc đổi rẻ nữa
và bảo: Bà đừng vội đi đâu, ta sẽ trả thêm cho bà".
Người
cậu đi đến bờ sông, dậm chân xuống đất kêu: "Hãy trả báu lại cho ta". Do
tính nóng nảy đấm ngực thổ huyết mà chết. Người cháu khi đem vàng trả thêm
thì thấy cậu đã chết, nghẹn ngào nói: "Tham đến độ mất thân sao?". Bồ tát
giữ tín mà được báu, Điều Đạt tham dối mà táng mạng.
Người
học trò ấy là thân ta, còn người cậu là Điều Đạt.
Hạnh giữ
chí vượt bờ của Bồ tát, giữ giới như vậy.
36
Số 208
Bổn sanh Sumsumdra (Jat. 2.158) t. 213
Xưa có
Bồ tát, thuở vô số kiếp, anh em buôn bán kiếm lời nuôi cha mẹ. Đi đến nước
khác, người anh bảo em lấy châu dâng vua nước ấy. Vua thấy người em mặt
mày đẹp đẽ, bèn vui vẻ nhận châu, đem công chúa hứa hôn. Kiếm được châu
nghìn vạn, người em trở về báo anh. Người anh tìm đến chỗ vua. Vua thấy
người anh dung mạo đường hoàng, nói năng hợp sách thánh, tướng mạo tao nhã
khó ai sánh bằng. Vua lại khen ngợi, đem công chúa hứa gả. Công chúa lòng
ngập niềm vui. Người anh lòng nghĩ: "Anh chồng như cha, em dâu như con. Ta
với người này, có mối thân tình như cha con, há có cái chuyện lấy nhau
sao? Ông vua này ở ngôi cao nhân quân mà làm hạnh cầm thú", liền dẫn em
về. Công chúa lên lầu nhìn theo nói: "Ta sẽ làm trùng quỉ, ăn gan người
anh mới được".
Lần lượt
sống chết, người anh làm vượn, công chúa và người em đều làm ba ba. Vợ ba
ba có bệnh, thèm ăn gan vượn. Con đực đi tìm, thấy vượn xuống uống, ba ba
nói: "Anh từng nghe thấy nhạc chưa?" Vượn đáp: "Chưa". Ba ba nói: "Nhà tôi
có nhạc hay lắm, anh muốn xem không?"
Vượn
đáp: "Vâng!" Ba ba nói: "Anh lên lưng tôi, tôi đem anh về xem".
Lên
lưng, theo đi được nửa con suối, ba ba nói: "Vợ tôi thèm ăn gan anh, chứ
trong suối làm gì có nhạc". Lòng vượn khó chịu, nghĩ: "Phàm giới là đạo
thường để giữ điều lành, quyền biến là việc lớn để cứu nạn". Bèn nói: "Sao
anh không nói sớm, tôi đã lấy gan treo trên cây kia kìa". Ba ba tin lời,
quay trở lại. Vượn lên bờ nói: "Đồ thứ ba ba chết tiệt! Làm gì có chuyện
gan trong bụng mà lại treo trên cây kia sao?"
Phật bảo
các tỳ kheo: "Người anh là thân ta, thường giữ lòng trinh sạch, rốt cuộc
không phạm dâm loạn, nhưng vì tai ương kiếp trước nên đọa trong loài vượn,
người em và công chúa đều phải làm thân ba ba. Con đực là Điều Đạt, con
cái là vợ Điều Đạt".
Hạnh giữ
chí vượt bờ của Bồ tát, giữ giới như vậy.
37
Số 146
Bổn Sanh Valahassa (Jat. 2.127) t. 186
Xưa có
Bồ tát, cỡi thuyền vượt biển, tìm báu cứu nghèo. Bờ biển có thành, vườn
cây đủ thứ. Gái đẹp ra bãi đón bọn người kia nói: "Nước này giàu có, châu
báu mặc sức mà lấy, có thể chịu khó vào thành xem dân có không".
Lái buôn
tin theo, yêu quỉ mê hoặc, ở lại chung sống, kể đã năm năm, Bồ tát nghĩ
nhớ cha mẹ quê nhà, ra thành lên núi, xa trông bốn bể, thấy một thành sắt,
trong có người đàn ông, đầu đội mũ trời, nghiễm nhiên mà ngồi. Vị ấy gọi
Bồ Tát nói: "Các ông điên sao, lại lấy yêu quỉ làm vợ? Bỏ hết tình sâu cha
mẹ họ hàng, lại bị quỉ nuốt, há chẳng điên sao? Các ông không thức, xem nó
thật giả. Nay có ngựa thần, bay lại cứu cả bọn, có thể đưa về chỗ cũ an
toàn tính mạng. Nếu còn quyến luyến vợ yêu thì chết vào thành này, bị
những món độc thêm nhiều, hối cũng không thể cứu".
Bồ tát
vâng lệnh, giả ngủ để xem, thấy đúng như lời, trong lòng sợ hãi. Sáng ngày
lén bàn với nhau. Cả bọn đều rình, thấy vợ biến thành thân chồn, tranh
nhau ăn người, không ai là không tái mặt nói: "Chúng ta chắc chết". Rồi
cùng sợ hãi, chuẩn bị, nếu lười thì mất mạng. Ngựa chúa đến nói: "Ai muốn
rời chỗ nầy, lòng nhớ cha mẹ, hãy mau đến đây, tôi sẽ cứu cho". Lái buôn
cả mừng nói: "Đây chắc là trời", họ chạy lại gửi thân. Vợ bèn ẳm con, theo
dấu khóc than, nói: "Oan hỡi là trời, làm vợ nhiều năm, nay cho là quỉ".
Tiếng than thương tình, lời đến cung vua, cũng nói như trên: "Thiếp nay
bàng hoàng, không biết nương đâu, xin Đại vương thương xót tình cảnh
thiếp". Vua gọi Bồ tát hỏi nguyên do. Bồ tát bèn đem chỗ thấy đầu đuôi
thuật rõ. Vua thấy sắc đẹp, mau bảo chồng đi, rồi nạp hậu cung, làm việc
dâm loạn. Quốc chính rối loạn, quỉ hóa ra chồn, ngày đi ăn người, làm hại
rất nhiều. Vua vẫn không biết.
Sau mỗi
chết đi, luân hồi sống chết. Bồ tát chứa đức, bèn được làm Phật. Hồn linh
quỉ cáo hóa sinh vào nhà phạm chí, sắc đẹp tuyệt vời. Bấy giờ đức Phật
khất thực, giáo hóa ở huyện. Ăn xong, ra thành, ngồi dưới gốc cây. Phạm
chí thấy Phật tướng tốt, sắc mặt vàng tía, đầu có hào quang, như trăng
giữa các vì sao. Thấy Phật như vậy, mừng rỡ vô cùng, về nói với vợ: "Con
ta lấy chồng tốt là người hùng ở đời. Liền mau lấy áo quần tốt đủ món đẹp
nhất đời, cả nhà phạm chí dẫn con đến dâng, đường thấy dấu chân, vợ nói:
"Đây là của đấng thánh hùng vô dục, há đem dâm tà làm rối trí sao?" Chồng
nói: "Con gái ta đẹp nhất nước, cao đức sao không ngoảnh nhìn? Vợ đọc bài
tụng ý rằng:
Người
dâm kéo chân đi
Sân
nhiều bấm ngón bước
Kẻ ngu
chân đắp đất
Trời
người trọng dấu này
Không
biết nhục, người cha còn nói: "Bà sao trí kém, gắng mà làm đi", bèn đem
con gái đến dâng.
Đức Thế
Tôn nói: "Trời ma thứ sáu, dâng ta ba cô, biến thành quỉ rồi, người này
túi phân, ngươi đem đến làm gì?" Phạm chí xấu hổ, vợ còn thẹn hơn. Bấy giờ
có vị tỳ kheo, bước lên cúi đầu nói: "Xin đem cho con" Đức Thế Tôn dạy:
"Ngươi xưa làm vua, con gái bấy giờ là quỉ, dùng sắc dối ngươi, nuốt hết
dân ngươi mà ngươi không chán à?" Vị tỳ kheo thẹn thùng, trở về tu thiền,
được định, chứng quả Dự lưu.
Phật bảo
Xá Lợi Phất: "Bồ tát từ khi nghe người trong thành dạy, về nhà quy y tam
bảo, tự thề rằng: “Dẫu đến chết cũng không phạm giới trọng thanh tịnh của
Như Lai Ứng Nghi Chính Chân Giác, giữ giới rộng nhiều, bèn thành Phật
đạo”.
Trưởng
giả bấy giờ là thân ta, vua nay là tỳ kheo, con quỉ là con gái của phạm
chí, người trong thành là Thu Lộ Tử.
Hạnh giữ
giới vượt bờ của Bồ tát, giữ giới như vậy.
38
KINH
THÁI TỬ MỘ PHÁCH
Nghe như
vầy, một thời Phật ở tại nước Văn Vật, vườn ông Cấp Cô Độc, cây của thái
tử Kỳ Đà. Bấy giờ đức Phật bảo các sa môn: "Xưa có nước Ba La Nại, vua có
thái tử tên là Mộ Phách, sinh ra đã thông minh vô cùng, các việc quá khứ,
hiện tại, vị lai, trí không nghi ngại. Người sáng láng đoan chính như
trăng giữa các vì sao.
Vua chỉ
có một người con, cả nước không ai là không yêu mến, mà tuổi đã mười ba,
vẫn ngậm miệng không nói, giống như người câm. Hoàng hậu lo lắng, gọi các
phạm chí đến hỏi nguyên do.
Họ đáp:
"Đây là điềm bất tường, đoan chính mà không nói thì có ích gì cho đại
vương đâu. Hậu cung không con nối ngôi, há chẳng phải tại thái tử hại sao?
Đúng phép thì nên đem chôn sống, ắt có con quí nối dõi". Vua bèn xấu hổ,
vào bàn với hoàng hậu. Hoàng hậu và các cung nhân không ai không thương
xót, than: “Thái tử vì sao lộc mỏng sinh mắc họa ấy”. Người thương chật
đường như có đại tang. Hoàng hậu mặc cho đủ áo quần quí, giao cho táng
phu. Táng phu đoạt lấy áo tốt, rồi cùng xây mộ. Mộ Phách nghĩ: Vua và
người trong nước tin ta câm thật, bèn lặng lẽ lấy quần áo, vào sông tắm
sạch, lấy dầu thơm xoa người, mặc đủ áo quần quí giá đi đến huyệt kêu:
"Các ngươi làm gì đó? Họ đáp: "Thái tử câm điếc, làm nước không kẻ nối
dõi, vua sai chôn sống, mong sinh con hiền nối ngôi". Thái tử đáp: "Ta là
Mộ Phách đây". Táng phu thấy xe bỗng chốc trống trơn, xem kỹ hình dung,
ánh sáng rực rỡ cả đồng cỏ xa gần, như ánh sáng mặt trời, thế lớn thánh
linh, chấn Động thần thánh. Táng phu lớn bé không ai là không run sợ, bốn
mắt nhìn nhau, mặt mày xanh mét, lời thành văn chương, không ai là không
sợ hãi. Họ ngửa mặt lên trời than: "Linh đức Thái tử đến như thế sao?" Bèn
cúi đầu thưa: "Xin mau bảo vua, khiến dân không than". Thái tử nói: "Các
ngươi mau tâu vua rằng ta có thể nói được". Người ta chạy về tâu vua. Vua
cùng hoàng hậu và muôn dân rất quái lạ về việc ấy, lòng mừng rỡ khen ngợi,
không ai là không mừng vui. Xe chạy, người đi đầy đường nghẹt lối. Mộ
Phách nói: "Tôi muốn làm sa môn học hạnh thanh tịnh không phải là tốt
sao?" Ý vừa nghĩ thế, Đế Thích liền hóa ra vườn ao cây cối, đời chưa từng
thấy, liền cởi áo báu hóa làm ca sa.
Vua đến
nơi, thái tử năm vóc gieo xuống đất cúi lạy đúng lễ. Vua liền đến ngồi,
nghe tiếng con nói, dung mạo uy nghi, động cả đất trời. Vua vui mừng dụ:
"Ta có con đến nay, cả nước kính yêu, sẽ nối ngôi trời, làm cha mẹ dân".
Mộ Phách đáp: "Nguyện xin Đại vương thương nhận lời hèn: "Con xưa từng làm
vua nước này tên là Tu Niệm, ở ngôi trị dân hai mươi lăm năm, thêm giữ
mười lành, lấy lòng từ nuôi dân, các lính roi gậy đều bỏ không dùng, ngục
không nhốt tù, đường không tiếng oán, bố thí cùng khắp, không đâu không
thấm. Nhưng khi xuất du, người theo rất đông, quan dẫn dẹp đường làm dân
sợ hãi, chết vào núi Thái, bị thiêu nấu cắt xẻ, đến sáu vạn năm, muốn chết
không được, kêu ca không ai cứu, như cha bây giờ, trong có bà con, ngoài
có thần dân, của cải vô số, thú vui vô bờ, có biết con đọa địa ngục núi
Thái chịu khổ thiêu đốt đau đớn khôn xiết không? Cuộc sống giàu sang, vợ
con, thần dân, ai có thể chia bớt nỗi khổ ấy đâu, chỉ các món độc kia là
vô lượng, mỗi lần nhớ đến, lòng đau xương nhức, mình toát mồ hôi lông tóc
lạnh đứng, lời ra, họa tới, oan đuổi, bóng theo, tuy muốn ra lời, sợ lại
mắc tội. Nỗi khổ núi Thái khôn thể chịu lại. Do thế rụt lưỡi, không muốn
nói nữa. Mới mười ba năm mà đạo sư yêu quái đã xui phụ vương chôn sống
con. Sợ Đại vương mắc tội núi Thái, thế lại phải nói một lời. Nay con muốn
làm sa môn, giữ hạnh vô dục, thấy cửa các họa, không còn muốn làm vua nữa,
xin cha đừng lấy làm lạ. Vua nói: "Con làm vua mà đức trọng hạnh cao, đem
đạo dạy dân, lỗi như tơ tóc, không người nào nhớ, vậy mà mắc tội khốc liệt
đến như thế ư? Còn ta nay làm vua người, muốn gì được nấy, chẳng tuân
chính pháp, chết sẽ ra sao?" Liền cho con học đạo.
Vua lại
trị nước, lấy chính bỏ tà, bèn được giàu vui. Mộ Phách tự mình luyện tâm
tuyệt dục, lập chí tiến lên đạo chân, đến lúc thành Phật, rộng giảng giáo
pháp, cứu vớt chúng sinh đến được diệt độ.
Phật bảo
các tỳ kheo: "Mộ Phách bấy giờ là thân ta, phụ vương nay là vua Bạch Tịnh,
mẹ lúc ấy nay là Xá Diệu mẹ ta.
Hễ sắc
tốt dục tà là lò thiêu thân, còn thanh tịnh đạm bạc là nhà không hoạn nạn.
Nếu người muốn thoát nạn khỏi tội thì đừng quên lời Phật dạy, làm đạo tuy
khổ, còn hơn ở ba đường, làm người liền xa nghèo khổ, không ở trong tám
nạn, chí học đạo phải như hạnh của đức Phật người muốn đạt được quả vị
Duyên giác, Bồ tát, Phật thì phải theo hạnh đó mới có thể được.
Phật
giảng kinh xong, các sa môn không ai là không vui vẻ cúi đầu làm lễ.
39
KINH DI
LAN
Nghe như
vầy, một thời đức Phậtở nước Xá Vệ, vườn Cấp Cô Độc, cây của thái tử Kỳ
Đà. Bấy giờ các sa môn rảnh rỗi, sâu nghĩ người đời, theo tà ưa dục, từ
đầu tới cuối, không chán năm dục? Sao gọi là năm dục? Là mắt thấy sắc, tai
ưa tiếng, mũi ngửi hương, miệng nếm vị, thân ưa chạm những thứ mềm dịu.
Phàm năm dục này cho đến lúc chết, há có người chán ư?
Sau giờ
bữa trưa, họ đến chỗ Phật, cúi lạy chân Phật, lùi đứng thưa rằng: "Bạch
đức Thế Tôn, chúng con nghĩ người ngu ở đời, mê đắm ngũ dục, dẫn đến lúc
chết, há có người chán sao?" Đức Phật bảo: "Cả đời không đủ đối với ngũ
dục kia".
Xưa có
năm trăm lái buôn, vào biển kiếm lời. Trong đó có người trí tên là Di Lan
làm thuyền trưởng, biển có cá thần, tên là Ma Kiệt, lật úp chiếc thuyền,
cả bọn đều chết. Di Lan cởi ván, mà được thoát chết, gió giạt vào bờ, đất
tên Tỳ Ma.
Lên bờ
đi khắp để tự nuôi sống, gặp một đường mòn, theo đó mà đi, xa thấy thành
bạc, cây cối xanh tốt. Hỏi có hồ tắm, chung quanh bốn mặt nước ngọt bao
quanh, có bốn người đẹp, sắc như tiên nữ, rước mời nói rằng: "Trải vượt
biển lớn, chắc là mệt lắm, xin mừng đến được bình an. Nay thành bạc này,
trong đó có các báu, vàng ròng bạc trắng, thủy tinh, lưu ly, san hô hổ
phách, xa cừ làm đền, chúng thiếp bốn người, xin dâng bậc nhân sai khiến
tối nghỉ, sáng dậy y lệnh thi hành, xin đừng đi nơi khác nữa". Di Lan vào
thành, lên điện bảy báu, vui say theo ý, muốn gì có nấy.
Ở thành
ấy hơn nghìn năm, Di Lan nghĩ: "Các người đẹp này không muốn ta đi, ắt có
cớ gì?" Bèn rình lúc bốn cô ngủ say, lén nhanh đi mất. Xa thấy thành vàng,
có tám người đẹp, đón rước và nói như trước, người đẹp mặt mày lại hơn bốn
cô trước, điện báu trong thành tên là Tiết Mạt, các báu chơn châu minh
nguyệt vượt hơn thành trước. Sống vài nghìn vạn năm, lại nghi tám cô không
muốn ta đi là có nguyên do. Bèn rình họ nằm ngủ, lén nhanh đi mất. Lại
thấy thành thủy tinh, có mười sáu người đẹp đi ra đón rước, lời nói như
trên, đón mời vào thành, lên điện bảy báu. Điện, thành, các báu và người
đẹp còn rực rỡ hơn thành trước. Ở thành vài thiên vạn năm, lòng vẫn không
chán đủ. Lại rình các người đẹp ngủ, rồi ra đi mất. Lại thấy thành báu lưu
ly, ánh sáng rực rỡ, có ba mươi hai người đẹp ra quì lạy đón rước, nói lời
như trên, đón mời vào thành lên điện bảy báu, điện tên Uất Đan. Trong đó,
các báu, kỹ nhạc, món ngon gái đẹp đều hơn trước. Ở đó lâu năm, số tuổi
như trên, lại đợi những người đẹp ngủ rồi lén đi mất. Xa thấy thành sắt,
không có ai đón. Di Lan nghĩ: "Thành bạc bốn cô, thành vàng tám cô, thành
thủy tinh mười sáu cô, thành lưu ly ba mươi hai cô. Các cô sắc đẹp rực
đời, thành kính đón rước, nay không ai đón, chắc có nguyên cớ gì đây. Bèn
đi quanh một vòng, có quỉ mở cửa. Di Lan vào thành, thấy con quỉ kia, quỉ
tên Câu Dẫn, vòng sắt cháy phừng, xoay ở trên đầu. Quỉ giữ tội nhân, lấy
vòng trên đầu mình gắn lên đầu Di Lan, óc chảy thân phồng. Di Lan rơi lệ
nói: "Từ bốn đến tám, từ tám đến mười sáu, từ mười sáu đến ba mươi hai,
sống sang ở điện Tiết Mạt, điện Uất Đan. Ta vì hạnh không biết đủ nên chịu
như vậy, làm sao xa được nạn này?" Quỉ giữ tội nhân đáp: "Số năm mang vòng
lâu bằng số năm ông đến các thành, thì ông sẽ thoát nạn này". Vòng lửa ở
trên đầu Di Lan sáu ức năm mới giải thoát.
Phật bảo
các sa môn: "Di Lan đó nay là ta. Sở dĩ như thế, vì lúc chưa thờ tam bảo,
ngu mê tin tà, mẹ tắm mặc áo mới nằm ngủ, ta đạp lên đầu mẹ, nên núi Thái
lấy vòng lửa bịt lên đầu. Lại thường giữ bát quan trai vào ngày tám tháng
tư, trong lòng vui vẻ, nên được thành báu, thọ mạng vạn ức, mọi việc đều
như ý, không có gì cầu mà không được. Thấy đời không biết đủ, chỉ đắc đạo
mới thôi".
Phật bảo
các sa môn: "Di Lan khỏi ngục núi Thái, ngăn lòng ba ác, dứt miệng bốn
dao, xét thân ba lỗi hiếu thuận cha mẹ, thờ phụng ba ngôi báu, đội giới
làm mũ, mặc giới làm áo, giữ giới làm lương, nếm giới làm món ăn. Ăn, thở,
ngồi, đi không quên giới Phật, trong nửa bước chân, nhờ giới đức mà thành
cho đến khi thành Phật. Hạnh người phàm phu bất hiếu cha mẹ, không tôn
phụng thầy, ta thấy người ấy, sau tự mắc tội nặng, Di Lan là loại đó ư?"
Phàm làm
ác thì họa theo, như bóng theo hình, còn dứt tà theo chơn, các họa tự
diệt.
Đức Phật
nói xong, các Sa môn vui vẻ làm lễ Phật.
40
KINH ĐẢN
SANH THÁNH VƯƠNG
Nghe như
vầy,
Một thời
đức Phật ở tại nước Xá Vệ, vườn Cấp Cô Độc, cây của Kỳ Đà. Bấy giờ A Nan
rảnh rỗi, nghĩ sâu: "Chúng sinh từ đầu đến cuối, người chán ghét năm dục
thì ít". Sau giờ bữa trưa, đi đến chỗ Phật, cúi đầu lạy xong, lui ra bạch
Phật rằng: "Bạch Thế Tôn, chúng con ngồi rỗi nghĩ sâu: Chúng sinh biết đủ
rất ít, còn không chán năm dục thì đông". Đức Thế Tôn khen: "Lành thay!
Lành thay! Như lời con nói. Sở dĩ như thế là vì thuở xưa có vua tên gọi
Đảnh Sanh, đông tây nam bắc không ai là không thần thuộc. Vua có bảy báu,
dao bánh xe vàng bảy báu, voi trắng, ngựa màu biếc, châu minh nguyệt, vợ
đẹp, quan thánh phụ, quan điển binh. Bảy báu vua này đời ít thấy có. Vua
lại có một ngàn người con, đoan chính xinh đẹp, thông minh trí rộng thiên
hạ khen thánh, có sức mạnh điều phục mọi người giống như sư tử. Vua đã
thánh lại nhân, khắp trời vui theo, tuổi thọ cả ức.
Lòng vua
thường nghĩ: "Ta có Cù da ni là đất đứng đầu thiên hạ, ngang rộng ba mươi
hai vạn dặm, dân chúng đông đúc, ngũ cốc đầy đủ, nhà cửa giàu lớn. Những
gì đời hiếm, nước ta có đủ. Tuy thế, vẫn xin hoàng thiên, mưa tiền vàng
bạc bảy ngày bảy đêm, cho ta như vậy, há không tốt sao?". Trời làm theo
nguyện, mưa hai thứ tiền quí đầy khắp cả nước, ánh sáng báu trời rực rỡ cả
nước. Vua vui vô cùng, thiên hạ vái chúc. Ngày cùng quần thần vui vẻ sung
sướng. Dân đều khen hay, được sướng vô bờ. Mấy nghìn vạn năm, vua lại
nghĩ: "Ta có đất phía tây ba mươi hai vạn dặm giàu sang bảy báu, có nghìn
con, sáng cả nước, trời mưa tiền báu, đời chưa từng có. Tuy được như vậy,
ta nghe phương Nam có Diêm phù đề, đất dài rộng hai mươi tám vạn dặm, dân
chúng đông đúc, không gì cầu mà không được. Nếu ta được đất ấy, cũng không
thích sao?" Ý vua vừa nghĩ, bánh xe vàng quay về hướng nam, bảy báu, bốn
binh nhẹ nhàng bay đi, đều đến nước ấy. Vua quan dân chúng không ai là
không vui theo. Vua dân nước kia, cả ngày hớn hở. Vua dừng giáo hóa số năm
như trước. Vua lại nghĩ: "Ta đã có đất phía tây, nay lại được đất phía
nam, các báu trời người, muốn gì mà chẳng có. Nay nghe phương Đông có nước
Phất Vu, đất đến ba mươi sáu vạn dặm. Vua dân đất ấy, lúa quí trân báu,
không có gì muốn mà không có. nếu ta được đất ấy, chẳng phải thích sao?"
Miệng vừa nói thế, bánh xe vàng quay về hướng Đông, bảy báu bốn binh bay
đi đều đến. Vua quan dân chúng, không ai là không vui theo. Vua lại dùng
chính pháp giáo hóa dân, số năm như trước, mọi nhà nhớ đức. Vua lại nghĩ:
"Ta đã có đất phương Tây, đất phương Nam, đất phương Đông, các báu trời
người, không báu gì là không có. Nay nghe phương Bắc có đất Uất Đan Việt.
Nếu ta được làm vua ở đó, chẳng là hay lắm sao?" Miệng vừa thốt lời
nguyện, xe vàng quay về hướng Bắc, bảy báu bốn binh đều bay như trước. Mới
vào đất ấy, xa thấy đất xanh như màu lông chim thúy. Vua hỏi: "Các ngươi
thấy đất màu xanh không?" Đáp: "Thấy". Lại thấy đất màu trắng. Vua nói:
"Có thấy đất màu trắng không?" Đáp: "Thấy. Vua núi: "Đất Uất Đan đây, gạo
đã giã thành rồi, các ngươi ăn đi". Lại thấy các báu, áo quần mềm đẹp,
xuyến tay nhẫn đeo, anh lạc món lạ đều treo trên cây. Vua hỏi: "Các ngươi
thấy không?" Họ đáp: "Thấy". Vua lại nói: "Các ngươi mặc vào đi". Vua lấy
nhân từ trị nước, dung thứ dạy dân. Ở đó rất lâu, số năm như trước. Vua
lại sinh ra ý nghĩ: "Ta có ba thiên hạ, nay được phương Bắc bốn mươi vạn
dặm, ý muốn lên trời Đao lợi chỗ của Đế Thích", ý vua mới nghĩ, xe vàng
quay lên, bảy báu bốn binh, bay đi lên trời, vào cung Đế Thích. Đế Thích
thấy vua đến vui mừng đón rước nói: "Rất mến tiếng tăm, từ lâu muốn gặp,
nay đến chơi đây chẳng là khoái sao?" Liền nắm tay cùng ngồi, lấy nửa ghế
mời ngồi. Vua nhìn hai bên trái phải, thấy cung điện trời làm bằng vàng
ròng, bạc trắng, thủy tinh, lưu ly, hổ phách, san hô, xa cừ, chân châu,
thấy vậy lòng vui thích, lại nghĩ: "Ta có bốn nước báu, tiền vô số, sang
này khôn tả, mong Đế Thích chết ta ở ngôi ấy, thế không là thượng nguyện
sao?" Niệm dữ vừa khởi, thần túc liền tiêu, Đế Thích đưa về cung cũ, vua
mắc bệnh nặng, quan phụ chính tâu: "Đức vua bệnh nặng, nếu xảy ra chuyện
chẳng lành, chắc có di mạng". Vua đáp: "Như có người hỏi: "Vì sao vua
chết, hãy đáp như chỗ ngươi thấy. Vì tham mắc bệnh cho đến mất thân. Phàm
tham là dao giết mạng, đó là nền tảng mất nước, bỏ ba ngôi báu mà ở ba
đường, không gì là không do đấy. Răn người kế vị sau này, xem lửa tham si
là gốc đốt thân. Vậy cẩn thận chớ tham. Hễ sang nhiều thì họa cao, của
nhiều thì oán lắm".
Vua
chết, người nối ngôi đọc lời răn tham ấy, truyền đời làm báu. Dân bốn
thiên hạ quí sự dạy bảo nhân từ, vâng thờ ba ngôi báu, làm mười lành, lấy
đó làm phép trị nước, đến được hạnh phúc mãi mãi.
Đức Thế
Tôn nói: "Ta thấy ở đời ít người có thể bỏ vinh quí, vứt năm dục. Chỉ ai
đạt được Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm, A la hán, Duyên giác, bậc Vô
Thượng Chính Chân, Đạo Tối Chính Giác, Đạo Pháp Ngự Thiên Nhân Sư, là có
thể dứt tuyệt được. Phi hành hoàng đế sở dĩ sống được như nguyện không
trái ý là do kiếp trước có bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền
định, trí tuệ mà ra, chứ không phải khi không mà đạt được".
Vua Đảnh
Sanh là thân ta.
Đức Phật
nói kinh xong, A Nan hoan hỉ làm lễ Phật.
41
KINH VUA
PHỔ MINH
Nghe như
vầy,
Một thời
Phật ở vườn ông Cấp Cô Độc, cây của thái tử Kỳ Đà, Phật bảo các tỳ kheo:
Xưa có
Bồ tát làm đại quốc vương, tên là Phổ Minh, thương cho khắp nơi mười
phương đều ca ngợi, dân đến nhờ ơn như con hiền về thăm cha mẹ.
Nước
láng giềng có vua lấy điều ngay làm phép trị nước, sức mạnh như sư tử,
chạy bắt được chim bay.
Người
bếp mất thịt, sáng ra chợ tìm, đi đường thấy thây mới chết, lấy về làm
bữa, vị ngon hơn thịt súc vật. Hôm sau làm cơm, không ngon như trước, vua
trách thái quan. Người bếp thật thà cúi đầu thú tội. Lòng vua bẽn lẽn nói:
"Thịt người ngon vậy ư?" Bèn lặng lẽ sai đầu bếp cứ thế làm thường.
Đức Thế
Tôn nói: "Hễ người thích mùi, vị thì đạo nhân mỏng, đạo nhân mỏng thì lòng
lang sói mạnh. Làm lang sói thì tham mùi thịt, giết mạng sống loài vật,
nên thiên hạ căm thù". Đầu bếp vâng mệnh, lén đi giết người để cung phụng
theo ý muốn của vua. Thần dân nhao nhao, dâng biểu tìm giặc. Vua nói:
"Phải vậy", rồi lén bảo đầu bếp: "Hãy cẩn thận". Khi quan hữu ti bắt được,
giặc nói: "Đó là lệnh vua". Quân thần khuyên can: "Thần nghe bậc vương giả
làm đức theo nhân, vua anh minh thì trời trăng đều sáng, đất đá nhuần khắp
đất trời ôm ấp chúng sinh giống như hư không. Như vậy mới có thể làm vua
thiên hạ, nếu trái nhân nghĩa theo bạo tàn thì là loài sài lang, bỏ sáng
tìm tối là bọn đui mù, bỏ cứu vớt tự chìm đắm là lũ phá thuyền, bỏ ướt
chuộng khô là giết mình trong hạn lửa, bỏ trống mà hướng nghẹt là tim của
người đá. Hễ có nết sài lang tham tàn, đui tối, phá chìm, lửa đốt, người
đá thì không đáng làm kẻ coi đầu bếp, há có thể làm vua thiên hạ sao? Nếu
chuộng đức thì thịnh, mà ưa tàn hại thì vong. Hai nghĩa phải trái, vua
thấy thế nào?' Vua hỏi: "Trẻ con dứt sữa, thế có được không? Đáp: "Không
được". Vua nói: "Ta cũng như thế. Quần thần đều nói: "Sài lang không thể
nuôi, vô đạo không thể làm vua". Thần dân đồng thanh một lòng trục xuất.
Vua chạy vào núi, thấy thần cây, bèn cúi đầu nói: "Nếu làm cho ta được về
nước, ta sẽ dâng Thần một trăm vua", thề rồi liền đi. Rình các vua ra, đột
kích bắt lấy, như diều cắt bắt én sẻ. Đã bắt chín mươi chín vua, thần cây
hiện ra người mặt đẹp khác đời, gọi A Quần nói: "Vì ngươi vô đạo nên đánh
mất ngôi sang làm vua, nay lại làm điều hết sức tàn khốc, định mong việc
gì?" A Quần chạy đến trước mặt, bỗng nhiên không thấy. Bấy giờ vua Phổ
Minh đi xem dân vui hay khổ, trên đường gặp phạm chí. Phạm chí nói: "Vua
hãy về cung, tôi muốn thưa việc". Vua nói: "Hôm qua ta ra lệnh nên phải
đi, chữ tín khó trái, Đạo sĩ lên ngồi, ta về ngay giờ". Bèn ra đi, thì bị
A Quần bắt được, quăng dưới gốc cây. Vua nói: "Ta không sợ mất thân, chỉ
hận bỏ chữ tín của ta thôi". A Quần hỏi: "Sao lại thế?" Vua kể rõ lời thề
với đạo sĩ lúc gặp mình, và xin gặp đạo sĩ một lần để nhận trọng giới cùng
chút báu dâng lên, dẫu chết cũng không hận. A Quần thả ra, về gặp đạo sĩ,
vua tự thân trải toà cao, đạo sĩ lên tòa, liền nói bài kệ:
1.
Kiếp số hết rồi
Đất trời
rực lửa
Tu Di
biển cả
Đều cháy
ra tro
Trời
rồng hết phúc
Chết
trong rã rời
Đất trời
còn mất
Nước có
thường sao?
*
2.
Sinh già bệnh chết
Luân
chuyển không bờ
Việc
cùng nguyện trái
Hại ấy
buồn lo
Dục sâu
họa cả
Ung độc
thoát sao
Ba cõi
đều khổ
Nước dựa
vào đâu
*
3.
Vốn tự không gốc
Nhân
duyên tác thành
Thịnh
tất có suy
Thật tất
có dối
Chúng
sinh ngu si
Duyên
huyễn sống nhờ
Tiếng
vang đều không
Đất nước
cũng vậy
*
4.
Thần thức vô hình
Cỡi xe
bốn rắn
Vô minh
quí nuôi
Cho là
xe sướng
Thân
không thường chủ
Hồn
không thường nhà
Ba cõi
đều huyễn
Há có
nước sao?
Nhận bài
kệ xong, bèn dâng tiền vàng một vạn hai nghìn. Phạm chí lại dạy: "Ngươi
nhớ bốn vô thường thì tai họa ắt diệt". Vua nói: "Xin vâng, không dám bỏ
lời dạy sáng". Rồi đến chỗ cây, vừa đi vừa mỉm cười. A Quần nói: "Mạng
nguy bây giờ, sao vui mà cười?" Vua đáp: "Lời đức Thế Tôn, ba cõi ít nghe,
nay ta nghe nhớ, mạng nước đáng tiếc gì?". A Quần vòi vĩnh: "Xin nghe lời
quí". Vua đem bốn kệ dạy cho. A Quần vừa mừng vừa sợ, khen: "Thế Tôn vòi
vọi, nói bốn vô thường, hễ không nghe thấy, ấy gọi trái cuồng".
Liền thả
trăm vua, mỗi khiến về nước, A Quần hối lỗi, làm mới nương cây mà ở, ngày
nhớ bốn kệ. Khi chết, hồn đi, làm Vương thái tử, lấy vợ không có con trai.
Vua lại buồn lo, nhân tìm con gái trong nước, bắt làm con trai. Sau bèn
dâm đãng, không theo đạo chân, vua giận xé xác, treo ngã tư đường, ra lệnh
người đi đường: "Lấy ngón tay xỉ vào đầu làm nhục". Vừa đúng chín mươi
chín người, thái tử mới chết, linh hồn biến hóa luân chuyển không dừng,
gặp Phật tại thế, sinh nước Xá Vệ, đã sớm mất cha, cùng mẹ sống cô đơn,
thờ đạo phạm chí, tính siêng lời tin, sức dũng địch voi, thầy thương bạn
kính, xa gần khen hiền.
Thầy mỗi
đi xa, giao nhà cho ở, vợ thầy lòng mê, nắm tay nói lời dâm, dụ dỗ. A Quần
từ chối: "Phàm bạn già ở đời, đàn ông là cha ta, đàn bà làm mẹ ta, huống
chi thầy là chỗ ta kính trọng, đốt thân có thể làm theo, chứ loạn luân ta
không dám thuận. Vợ thầy xấu hổ, lui vào nghĩ kế, chồng về vợ nói: "Chàng
khen nó hiền, đủ rõ chàng chưa," rồi nói đủ chuyện lỗi. Nữ yêu (nói) như
thật, phạm chí tin theo. Thầy bảo A Quần: "Ngươi muốn làm tiên không?"
Đáp: "Dạ muốn". Thầy nói: "Ngươi hãy giết 100 người, chặt lấy ngón tay họ
thì được thần tiên ngay". A Quần vâng lệnh cầm dao, gặp người là giết,
được chín mươi chín ngón, dân chạy trốn vang cả nước. Thấy mẹ, nó mừng rỡ
nghĩ: "Mẹ đến là đủ số, ta làm tiên ngay".
Đức Phật
suy nghĩ: "Đạo tà mê người, khắp trời là bọn này", bèn hóa làm sa môn đến
trước mặt nó. Nó nghĩ: "Người này đủ số" rồi đuổi theo mà không kịp, nó
nói: "Sa môn! Hãy dừng lại đi". Đáp: "Ta dừng đã lâu, chỉ ngươi chưa
dừng". Nó hỏi: "Dừng nghĩa là gì?" Đáp: "Ác ta đều dừng, ác ngươi còn
mạnh". A Quần lòng mở, bỗng như mây tan, năm vóc gieo đất, cúi đầu hối
lỗi, chắp tay đi theo về tịnh xá, làm sa môn. Đức Phật vì nó giảng hạnh
kiếp trước, thấy bốn vô thường, đắc quả Dự lưu lui về dưới cây, nhắm mắt
chắp tay, luyện bỏ các nhơ, tiến lấy Vô trước.
Vua vời
quân sư, mấy vạn chiến sĩ, tìm bắt yêu tặc, chưa biết đi đâu, đường qua
chỗ Phật. Phật hỏi: "Vua từ đâu đến, thân lấm bụi bặm?" Vua đáp" Nước có
yêu tặc, giết dân vô số, nay tìm bắt nó". Đức Thế Tôn hỏi: "Hễ dân trước
tu đức mà sau lại chuộng tà thì chính sách trị nước, phép nó thế nào?" Vua
đáp: "Trước quí sau hèn, lấy chính mà trị". Hỏi: "Nếu trước mang lòng súc
vật mà sau lại giữ đức thánh thì chính pháp thế nào?" Vua đáp: "Trước hèn
sau quí, theo chính pháp thì thưởng nó". Đức Phật nói: "Giặc bỏ tà chuộng
chân, nay làm sa môn rồi". Vua khen: "Lành thay Như Lai Vô Sở Trước Chính
Chân Đạo Tối Chính Giác Pháp Ngự Nhân Thiên, giáo hoá cao thượng thần diệu
đến như thế ư? Trước là sài lang, nay là thiên nhân".
Bèn cúi
đầu dưới chân Phật lại khen: "Việc giáo hóa này thật kỳ diệu, xin cho con
thấy một lần". Đức Thế Tôn nói: "Được". Vua cùng các quan đến nói: "Hiền
giả đức cao, có thể một lần mở mắt để cùng thấy nhau không?" Nói vậy ba
lần. A Quần đáp: "Con ngươi mắt ta, sáng chiếu khôn đương". Vua cúi đầu
nói: "Ngài mai thiết tiệc mọn, xin đoái đến một lần". A Quần đáp: "Nhà xí
ta đến, cung điện thì không". Vua nói: "Thưa vâng".
Bèn về
phá nhà xí, đào đất lên, làm cho mới, lấy gỗ chương, gỗ tử, gỗ chiên đàn,
làm rường cột, đem nước thơm rải đầy đất, dùng các hương thơm như chiên
đàn, tô hợp, uất kim, hóa thành bùn, đem nỉ thêu các chỉ, trải chỗ ngồi và
giường nằm chạm trổ điêu khắc, đem các báu vật làm đẹp, sáng trưng rực rỡ,
có phần hơn cả cung điện. Hôm sau, Vua tự mình bưng lò hương đi rước. A
Quần lên tòa. Vua vén áo đi bằng đầu gối. Cúng dường xong, liền giảng
kinh: "Nhà xí hôm qua dơ bẩn, há có thể ở đó ăn cơm? Vua đáp: "Không thể".
Hỏi: "Ngày nay có thể không". Đáp: "Có thể". A Quần nói: "Ta khi chưa gặp
Phật còn thờ yêu quỉ, lòng nghĩ, miệng nói, thân làm việc tà, đạo tà làm
dơ, nên chúng hôi hám quá hơn nhà xí kia. Phân hôi có thể rửa, còn nhuốm
dơ khó trừ, nhưng nhờ phúc trước sinh gặp thời Phật, được tắm gội bằng
giáo hóa trong sạch, bỏ hôi xức thơm, trong ngoài trong sạch như chơn châu
cõi trời. Hễ người không gặp Phật, không nghĩ bốn vô thường, xem chí thú
họ như kẻ điên uống rượu say, không gần người hiền, lại nương mười ác, kẻ
ấy cùng sài lang một cũi. Vua nói: "Lành thay! Lạ thay sự giáo hoá của đức
Phật, mới khiến mùi hôi nhà xí, thành hương thơm chiên đàn. Giảng kinh
xong, đi ngang qua chợ, nghe có người đàn bà sinh ngược, mạng chỉ trong
hơi thở, liền về thưa với Phật mọi việc. Phật dạy: "Ngươi đến sinh cho
người ấy", A Quần thẹn thùng. Đức Thế Tôn nói: "Ngươi nhìn người đẻ nói:
"Ta từ sinh ra đến nay thương mến chúng sinh, thấm khắp đất trời, mẹ con
người đều an toàn". Nhận lời dạy rồi ra đi, đến nói ơn Phật, mẹ con đều
sống. Trên đường trở về, ngỡ mình khốc ngược giết người mà nói thương
khắp. Bèn cúi đầu hỏi. Đức Phật bảo A Quần: "Ngày lòng phàm ngươi mở nhận
đạo, có thể gọi là người mới sinh, không gặp ba ngôi báu, chưa thọ giới
trọng, như trẻ thơ còn trong thai, tuy có mắt nào có thấy gì, có tai nào
có nghe gì nên nói chưa sinh". A Quần lòng mở, liền đắc quả A la hán.
Đức Phật
bảo các tỳ kheo: "Phổ Minh xưa ấy là thân ta, đời trước ta dạy vị ấy bốn
câu kệ. Một lần cứu sống trăm vua, khiến nay đắc đạo, không chịu tội nặng.
A Quần kiếp trước từng làm tỳ kheo, vác một hộc gạo đem để trong chùa,
trên dó làm một con dao, vui vẻ ca ngợi đức Thế Tôn, cúi đầu lạy mà đi.
Vác gạo nên được nhiều sức, trên làm con dao nên nay được nhiều báu, vui
vẻ nên được đoan chính, ca ngợi đức Thế Tôn nên được làm vua, làm lễ Phật
nên được người trong nước lạy, 99 người xỉ vào đầu cho đến chết, là trả
oán trước chặt ngón tay họ. Người sau muốn xỉ nữa, nhưng thấy đã chết, vì
thấy sa môn, liền có tâm lành. Người sau ấy là mẹ, ban đầu có ý ác, nên
ban đầu A Quần cũng có ý ác, vừa thấy sa môn liền có lòng từ, nên vừa gặp
Phật liền có hiếu. Gieo giống rặt thì được rặt, gieo giống lộn thì được
lộn, lành ác đã làm, họa phúc liền theo, như bóng đuổi hình, như vang đáp
tiếng, đều có nguyên do, chứ không phải là tự nhiên. Các tỳ kheo nguyện
rằng: "Khiến người gặp Phật, đắc đạo được như sở nguyện, cúng dường ba
ngôi báu, dẫu của như tơ tóc. Sa môn đem lòng từ chú nguyện cho người cúng
dường, nói như lời người ấy nói, được cả vạn không sót người nào.
Hạnh giữ
chí vô bờ của Bồ tát, giữ giới như vậy.
---o0o---
[Mục Lục tập 1]
[Xem phần tiếp theo]
---o0o---
[ Tập I ] [
Tập II ] [ Tập III ]
---o0o---
| Thư Mục
Tác Giả |
---o0o---
Trình bày: Nhị Tường
Cập
nhật : 01-01-2003