NIÊN BIỂU
PHẬT GIÁO VIỆT NAM
Trần Tri
Khách
---o0o---
1.
Năm 2879 BC- 258 BC
niên đại theo truyền thuyết thuộc họ HỒNG BÀNG. Niên đại này gây nhiều bàn
cãi trong giới sử học hiện đại.
Phạm Văn Sơn (VSTT,
tr. 46) cho rằng họ Hồng Bàng bắt đầu vào thế kỷ 9 BC, khi một nhà quý tộc
họ Mị thống nhất một số thị tộc Việt lên làm vua, bắt chước các vua Sở lấy
chữ Hùng làm hiệu. 18 đời Hùng Vương bắt đầu từ Kinh Dương Vương.
Bùi Thiết ( Ðối
Thoại Sử Học, nhà xuất bản Thanh Niên, Hà Nội, 2000) lập luận một đời vua
Hùng khoảng chừng 30 năm nên thời Hùng Vương khoảng chừng 5 thế kỷ là vừa
(!). Nghĩa là trước thế kỷ 6 BC, đất nước ta không có lịch sử !
Cả hai lập luận trên
bị các cuộc khai quật khảo cổ học bác bỏ. Di chỉ Ðồng Vườn ở Yên Mô Ninh
Bình được khai quật vào đầu tháng 8. 2002 tìm được một số đồ gốm thô có
hoa văn, rìu, bàn mài niên đại khoảng 1500 BC. Di chỉ này cùng hai di chỉ
Hang Sáo và Hang Cò ở thị xã Tam Ðiệp (Ninh Bình) thuộc nền văn hóa Ða Bút
có niên đại từ thiên niên kỷ 5 tới thiên niên kỷ 3 BC.
Lê Mạnh Thát (LSPGVN
1) đưa ra giả thuyết mỗi đời vua Hùng thực ra gồm nhiều người nối nhau làm
vua, nên trung bình một đời vua Hùng kéo dài 130 năm là điều có thể chấp
nhận. Giả thuyết này của ông là cách sử gia Tầu áp dụng khi viết cổ sử.
Theo Cổ sử Trung Hoa, đời Thần Nông kéo dài 193 năm không phải chỉ có một
vua Thần Nông mà do 4 vua kế tục nhau: vua Nghi (2889- 2884 BC), vua Lai
(2843- 2794 BC), vua Ly (2795- 2751 BC), vua Du Võng (2752- 2696 BC). Theo
Lê Mạnh Thát, triều đại Hùng Vương kéo dài tới vị vua cuối cùng là Trưng
Vương (39- 43). Ông còn trích dẫn một báo cáo của Lưu An (mất năm 122 BC)
ghi trong Tiền Hán Thư, theo đó từ thời Tam Ðại ( gồm nhà Hạ 2140
BC- 1711 BC, nhà Thương hay nhà AÂn 1711 BC- 1066 BC và nhà Chu 1066 BC-
256 BC) dân Việt đã không chịu dùng lịch pháp Trung Quốc. Ông và Nhất Hạnh
(VNPGSL 1) đều cho rằng vào thời Hùng Vương, tổ tiên ta dùng lịch pháp Ấn
Ðộ (một năm có 4 mùa, 12 tháng, mỗi tháng 30 ngày). Ông cũng giải mã bài
Việt Ca được Lưu Hướng (77 BC- 6 BC) ghi trong Thuyết Uyển và
khẳng định ít nhất từ thế kỷ thứ 4 BC, tiếng Việt đã là một ngôn ngữ có
chữ viết tương đối hoàn chỉnh, tuy có liên hệ với tiếng Trung Quốc.
Dựa trên những công
bố của ngành khảo cổ, Cung Ðình Thanh, Nguyễn Văn Tuấn và Nguyễn Ðức Hiệp
( tài liệu tham khảo 14) cho rằng trước khi tiếp xúc với người Hoa Hán
(Trung Quốc), tổ tiên chúng ta đã có một nền văn minh cao do kết quả của 3
sáng chế quan trọng: trồng lúa nước, kỹ thuật hàng hải và kỹ thuật xây
dựng đô thị. Trình độ đồ đồng của nền văn minh Ðông Sơn tuy xuất hiện muộn
(khoảng 700 BC) nhưng kỹ thuật rất cao vì có pha chì tạo độ bền dai đặêc
biệt mà các di chỉ đồ đồng ở những nơi khác không có. Fritj Capre trong
tác phẩm The Tao of Physics cho rằng nếu giải mã hoàn toàn những hoa văn
trên trống đồng Ðông Sơn, người ta có thể thấy đó là nền văn minh tinh
thần cao nhất, gần với nền văn minh hậu nguyên tử. Khoảng 60 ngàn năm
trước, những di dân đầu tiên tới vùng Ðông Nam Á. Vùng này trải qua những
đợt nước biển lên xuống. Trong khoảng thời gian giữa hai thời kỳ băng hà
(40 ngàn năm – 21 ngàn năm trước) khí hậu phía Bắc ấm, những người hiện
đại mới di chuyển lên Trung Quốc. Khoảng 30 ngàn năm tới 18 ngàn năm
trước, mực nước biển thấp hơn bây giờ tới 130 mét, đồng bằng sông Hồng nối
liền tới đảo Hải Nam. Sau đó nước biển bắt đầu dâng mỗi năm 1 cm. Khoảng 8
ngàn năm trước, trận hồng thủy cuối cùng xảy ra nhận chìm toàn bộ đồng
bằng Bắc Việt dưới nước biển lan tới tận Việt Trì. Tới 5500 năm trước,
nước mới rút, con cháu những người di tản các nơi từ núi non và hải đảo
mới trở về miền đất phì nhiêu xây dựng nước Văn Lang. Câu chuyện Lạc Long
Quân lấy AÂu Cơ đẻ ra trăm trứng, nở ra trăm con rồi chia tay nhau người
lên rừng kẻ xuống biển có lẽ là huyền thoại hóa sự kiện di tản rồi trở về
này của các bộ tộc Bách Việt. Như vậy họ Hồng Bàng có thể còn xuất
hiện sớm hơn niên đại theo truyền thuyết 2879 BC, vì đồng bằng Bắc Bộ đã
được tổ tiên ta tái định cư từ hơn 5 ngàn năm về trước.
Năm 563 BC
dựa vào sử ký nước Tích Lan, niên đại được đa số sử gia Phật giáo chấp
nhận là năm sinh của thái tử Tất Ðạt Ða, người sau này trở thành Phật
Thích Ca. Các niên đại quan trọng khác: năm 536 BC xuất gia tìm chân lý,
năm 528 BC bắt đầu truyền bá giáo pháp tại thành Vương Xá (Ràjagaha) là
kinh đô hùng mạnh nhất Bắc Ấn và thành lập giáo hội, năm 483 BC nhập Niết
Bàn.
Năm 269 - 232 BC
Triều đại vua A DỤC (Asoka Moriya). Năm 253 BC nhà vua bảo trợ Ðại Hội Kết
Tập Kinh Ðiển lần thứ 3 dưới quyền chủ tọa của Trưởng Lão Moggaliputta với
cả ngàn tỳ kheo tham dự. Trong 9 tháng làm việc, Ðại Hội đi tới hai quyết
định quan trọng: 1- công nhận một số kinh điển trước đây đã bị loại bỏ ra
ngoài khối kinh điển nguyên thủy của Thượng Tọa Bộ, 2- Chấp nhận các tác
phẩm có tính lý luận học thuật vào bộ thánh điển, gọi là Luận A-tỳ-đàm hay
Thắng Pháp; Luận Tạng được công nhận là thánh điển Phật giáo kể từ đây,
trở thành Tạng thứ ba trong Tam Tạng Kinh Ðiển Phật Giáo. Theo một vài tài
liệu khác (như Thích Phước Sơn, Lịch Sử Kết Tập Kinh Ðiển), Ðại Hội Kết
Tập Kinh Ðiển lần ba xảy ra vào năm 325 BC, vì được ước tính sau khi Phật
nhập Niết Bàn 218 năm.
Vua A Dục còn cử
nhiều phái đoàn chư tăng đi hoàng pháp ở nước ngoài. phái đoàn đầu tiên do
hoàng tử Mahinda hướng dẫn tới Tích Lan (Sri Lanka). Nhờ đó kinh tạng Pali
được bảo tồn gần như nguyên vẹn tại đây cho tới ngày nay. Một trong những
phái đoàn truyền giáo do vua A Dục cử đi do Sona và Uttara hướng dẫn có
thể đã tới vùng Ðông Nam Á và nước ta. Cho tới những năm từ 380 tới 420,
những người đi lượm củi ở vùng Ðồ Sơn còn thấy chùa và tháp do dân địa
phương dựng tại thành Nê Lê để tưởng nhớ công đức của vua A Dục. Tháp này
tại núi Mẹ (Mẫu Sơn) ở Ðồ Sơn. Sau này, tháp Long Tường do vua Lý Thánh
Tông (1054- 1072) xây trên nền tháp cũ . Theo HT Ðức Nhuận (ÐPVDSV), trong
tám bài thơ xưa Ðồ Sơn Bát Vịnh, hai câu đầu củabài thứ 5: Cổ tháp di
hư loạn thảo đôi, Dục vương khứ hậu ủy yên đồi. (Tháp xưa lau cỏ tốt
bời bời, Vua Dục đi, vua sau cũng đổ luôn).
Các sắc dụ của vua A
Dục khắc trên đá thường phù hợp với ngôn ngữ địa phương để dân nơi đó có
thể hiểu được. Vì vậy, phái đoàn truyền giáo của vua A Dục đến nước ta hẳn
đã được học ngôn ngữ xứ Văn Lang để có thể tiếp xúc với dân địa phương
một cách thuận tiện.
Lúc đó, theo truyền
thuyết, nước ta thuộc đời Hùng Vương thứ 18 (chấm dứt vào năm 257 BC) và
nhà Thục (257 BC- 207 BC). Sử gia Lê Mạnh Thát cho rằng nhà Thục là một
triều đại không có thực, chỉ là một truyền thuyết xuất hiện khoảng năm 400
phỏng theo bản anh hùng ca Mahàbharatà của Ấn Ðộ (LSPGVN 1, tr. 602). Danh
sĩ Nguyễn Văn Siêu cũng đã nêu lên từ giữa thế kỷ 19 và Ngô Tất Tố đặt
thành vấn đề trên báo Tao Ðàn ngày 1 tháng 3.1935 về vấn đề không có nhà
Thục trong sử Việt.
Thế
kỷ 3 – Thế kỷ 2 BC
nhà sư PHẬT QUANG ( còn gọi là sư Bần, gốc Ấn Ðộ) lập bàn thờ Phật tại một
hang núi ở núi Mẹ (Ðồ Sơn), tu và tịch tại đây vào cuối đời Hùng Vương.
Hiện nay, nơi đây có ngôi chùa gọi là chùa Hang. Khi CHỬ ÐỒNG TỬ ghé
thuyền vào núi Quỳnh Viên (núi Mẹ hay Mẫu Sơn, ở Ðồ Sơn) để lấy nước ngọt,
gặp ông, được ông truyền pháp, trao cho gậy và nón. Chử Ðồng Tử nhận lãnh,
về truyền pháp lại cho vợ là công chúa Tiên Dung. Hai người được coi là
Phật tử đầu tiên tại nước ta. Sự tích này đầu tiên được Trần Thế Pháp, một
danh sĩ đời Trần ghi lại trong tác phẩm Lĩnh Nam Trích Quái. Lê Mạnh Thát
(LSPGVN 1) cho rằng núi Quỳnh Viên ở Cửa Sót, Nghệ An, một vùng lúc đó
chưa thuộc nước ta. Theo HT Ðức Nhuận (ÐPVDSV), bảo tháp do dân địa phương
dựng để ghi nhớ công ơn đoàn truyền giáo của vua A Dục và hang núi sư Phật
Quang tu cùng ở tại núi Mẹ (Mẫu Sơn) tại Ðồ Sơn.
Công chúa Tiên Dung
con vua Hùng Vương thứ 18 (theo Lê Mạnh Thát, LSPGVN 1, có thể thuộc đời
vua Hùng Nghị Vương, đời Hùng Vương thứ 17), vì lấy Chử Ðồng Tử một anh
đánh cá nghèo tới mức phải chia chung cái khố với bố, bị vua cha trục xuất
cả hai ra khỏi nước. Hai vợ chồng lập phố xá buôn bán để sanh sống, lênh
đênh ra khắp nước ngoài. Sau này, Chử Ðồng Tử được thờ ở Ðền Trung trong
hệ thống Ðền Hùng ở núi Nghĩa Lĩnh tỉnh Phú Thọ. Tại phủ Khoái Châu tỉnh
Hưng Yên cũng có đền thờ Chử Ðồng Tử.
Các sử sách đời
trước đều nhất quán cho rằng thời Hùng Vương chấm dứt vào khoảng năm 257
BC, sau khi bị Thục Phán đánh bại. Giả thiết như vậy, sự kiện Chử Ðồng Tử
được sư Bần (sư Phật Quang) truyền pháp có thể xảy ra trước thời vua A Dục
ở Ấn Ðộ lên ngôi. Phái đoàn truyền giáo của vua A Dục có mục đích tìm đến
đại chúng để giáo hóa theo Phật pháp, nên không thể chọn một hang núi vắng
vẻ để tu như sư Phật Quang.
Vào thời Hùng Vương,
thành Luy Lâu (nay thuộc Bắc Ninh) là một trung tâm thương mại đón nhận
nhiều thương gia Ấn Ðộ. Các tăng sĩ Ấn Ðộ đi theo các thuyền buôn này đem
sinh hoạt Phật giáo đến nước ta. Chùa Yên Trì (nay thuộc Hà Nội) có lẽ
được xây vào thời kỳ này.
HT Thích Ðức Nhuận
(ÐPVDSV) cho rằng vào thế kỷ 3 BC, có phong trào di dân rộng lớn tại Ấn từ
xứ Kalinga sang phía Ðông và xuống phía Nam, có thể đưa một số tăng sĩ
Phật giáo Ấn tới nước ta. TT Thích Mật Thể (VNPGSL tr. 69) dẫn theo
Sylvain và Pelliot cho rằng Trung Quốc và Ấn Ðộ giao thương với nhau từ
năm 245 BC qua cửa ngõ đất Văn Lang làm trung gian.
Năm 110 BC
năm cuối cùng của nhà Triệu (207- 110 BC), thời tể tướng LỮ GIA nắm quyền.
Trong Thiên Nam Ngữ Lục, thiền sư Chân Nguyên (1646- 1726) đề cập tới chùa
Trúc Viên ở núi Sài Sơn, Sơn Tây đã có từ thời này. Trước đó, từ thời Hồng
Bàng đã có chùa Yên Trì ở Long Biên (Hà Nội), sau này bị hư hại nặng, năm
544 vua Lý Nam Ðế dựng chùa Khai Quốc trên nền chùa này.
Năm 39- 43
triều đại HAI BÀ TRƯNG. Năm 39 Hai Bà khởi nghĩa đánh đuổi Tô Ðịnh, dành
được quyền tự chủ cho Giao Chỉ. Bà HOÀNG THIẾU HOA (3- 40) tu tại chùa
Phúc Khánh (nay là chùa làng Hiền Quan ở tỉnh Phú Thọ) từ năm 16 tuổi,
hưởng ứng lời kêu gọi của Hai Bà Trưng, rời khỏi chùa mộ được 500 nghĩa
binh. Bà trở thành tướng tiên phong của Hai Bà Trưng. Sau khi Trưng Vương
dẹp yên 65 thành, bà Thiều Hoa trở lại chùa tu và một năm sau thì tịch. Bà
đươc xưng tụng là Diệt Bạo Tướng Phật (LSPGVN 2, tr.26). Hành trạng
của bà Thiều Hoa cho thấy lý tưởng Bồ Tát nêu trong Lục Ðộ Tập Kinh “Bồ
tát thấy dân kêu ca, bèn gạt lệ xông vào nơi hà khắc” đã được biết tới
và thực hành từ thời này.
Theo Phạm Văn Sơn
(VSTB), Trưng Vương chỉ đánh dẹp 56 thành, chứ không phải 65 thành như tất
cả các sử gia khác xưa cũng như nay đã ghi. Theo Phạm Cao Dương, trong
cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, nông dân đã đứng lên chống lại bọn quan
lại bóc lột và kiều dân nhà Hán chạy loạn Vương Mãng (9- 24) qua cướp
ruộng đất của họ (Thực Trạng Của Giới Nông Dân VN Dưới Thời Pháp Thuộc,
Sài Gòn, Khai Trí xuất bản 1967)
Theo Hậu Hán Thư (
của Phạm Việp 398- 445): sau khi chuẩn bị từ hơn một năm trước, Mã Viện
huy đọâng hơn 2 ngàn chiến thuyền và 2 vạn quân, tổng tấn công tàn sát
quân của Trưng Vương, chém giết và bắt hơn 5 ngàn người. Vào thời này,
theo Hán Thư Ðịa Lý Chí, nước ta có chừng 92,440 nóc gia. Hai Bà Trưng
trầm mình xuống sông Hát tự vẫn năm 43. Cuộc khởi nghĩa của Trưng Vương
chấm dứt. Một số bộ tướng của Hai Ba sống sót có thể lánh mình nơi cửa
Phật, một người được sử sách ghi lại là BÁT NÀN PHU NHAÂN (nữ tướng Tiên
La, được thờ ở đền làng Tiên La, Thái Bình). Thời Hai Bà Trưng có nhiều nữ
tướng nên Ni giới nước ta có thể coi như đã có mặt từ lúc này. Tại Trung
Quốc mãi tới năm 429, có một phái đoàn mấy chục ni từ nước Tích Lan đến
Kiến Nghiệp (phía Nam Trung Quốc) học chữ Hán để hướng dẫn các nữ tu người
Hán.
Có ít nhất là 64 bộ
tướng của Hai Bà Trưng còn được thờ cho tới ngày nay tại nhiều đền ở miền
Bắc (trong đó tượng Hai Bà Trưng và tượng 12 nữ tướng được thờ chung ở
đình làng Ðồng Nhân, Hà Nội) cho thấy tính cách vĩ đại, oai hùng của cuộc
khởi nghĩa Trưng Vương. Bác sĩ Trần Ðại Sỹ có dịp quan sát thực địa tại 5
tỉnh phía Nam Trung Quốc (Quảng Ðông, Quảng Tây, Vân Nam, Quý Châu và Tứ
Xuyên) cho biết tại đây có hơn 100 đền miếu thờ các tướng lãnh của Hai Bà
Trưng. Theo cuộc nghiên cứu của ông, cuộc khởi nghĩa Trưng Vương có 162
anh hùng phò giúp, trong đó hơn 100 người là nữ ( xem bài tường trình của
ông nơi Thư Viện Việt Nam số 3, trang nhà Internet: www.
thuvienvietnam.com)
Sau khi đại thắng
Trưng Vương, Mã Viện dù đã mệt mỏi sau hai cuộc chinh chiến liên tiếp từ
Bắc tới Nam Trung Quốc, vẫn đi kinh lý khắp cõi Giao Chỉ, tiến hành một
cuộc đồng hóa gắt gao và toàn diện dân Giao Chỉ về pháp luật, văn hóa,
chính trị, kinh tế, xã hội (VSTT, tr. 114- 115). Chắc chắn Phật giáo Việt
Nam cũng chịu một pháp nạn chung với nạn nước trong giai đoạn này khi Mã
Viện muốn xóa bỏ triệt để toàn bộ nền văn hóa nước ta để thay thế bằng văn
hóa nhà Hán Trung Quốc ( chẳng hạn Mã Viện sửa đổi 10 điều luật trong bộ
Việt luật, dùng phép Hán để đổi tục Việt, đày dân Việt vào vùng Giang Hoài
làm cho đất Ðông Việt trở thành trống trơn, vây bắt hàng trăm người lãnh
đạo Việt tộc mà y gọi là “cừ soái”đưa đi đày ở Linh lăng, thu gom
hết trống đồng để đúc ngựa ...).
Vào thời Mã Viện,
Phật giáo chưa truyền vào Trung Quốc. Mãi tới năm 67, Trung Quốc mới biết
đến Phật giáo sau khi Hán Minh Ðế nằm mộng thấy “người vàng”, đã cử
một phái đoàn 18 người qua nước Ðại Nhục Chi ( ở giữaBắc Ấn và Trung Quốc)
rước tượng Phật về thờ và các vị tăng Ma Ðằng Ca Diếp, Trúc Pháp Lan qua
kinh đô Lạc Dương. Học giả Phật học Henri Maspero cho rằng câu chuyện giấc
mộng “người vàng” trên do đời sau bịa ra và Phật giáo xuất hiện tại
trung tâm Lạc Dương muộn màng hơn năm 67.
Năm 189
KHAÂU ÐÀ LA chống gậy vân du đến Giao Chỉ, lúc nước ta bị đô hộ dưới thời
Hán Linh Ðế, Sĩ Nhiếp làm Thái Thú Giao Chỉ. Ðời Hán có 3 trung tâm Phật
giáo là Trung tâm Luy Lâu ở Giao Chỉ, Trung tâm Bành Thành và Trung tâm
Lạc Dương. Trung tâm Luy Lâu được xem là bàn đạp đưa đạo Phật vào đất Hán
vì các tăng sĩ Ấn Ðộ có thể học chữ Hán hay tuyển người thông dịch tại
đây. Trung tâm Bành Thành do các tăng sĩ từ Luy Lâu đến mà thành lập. Sách
Cao Tăng Truyện ghi lại lời sớ của Vương Ðộ đời Tấn: Từ khi Phật giáo
được du nhập, người Hán không được phép xuất gia. Nhà Ngụy (220- 264) theo
pháp chế của nhà Hán cũng chưa cho dân bản xứ xuất gia. (VNPGSL 1, tr.23).Thời
Sĩ Nhiếp, Giao Chỉ là một xứ sở phồn thịnh: một năm lúa trồng hai mùa, 8
lứa kén tằm,
Theo Lĩnh Nam
Trích Quái: Khâu Ðà La là người Nam Ấn, hành pháp tu đứng một chân,
theo lời mời đến ở nhà cư sĩ Tu Ðịnh. Con gái của Tu Ðịnh là Man Nương lúc
đó 12 tuổi theo hầu hạ sư. Một thời gian sau, sư từ giã vào núi tu. Tu
Ðịnh dẫn Man Nương đi theo, tiếp tục đem rau trái cúng dườngsư, có khi sai
Man Nương đi. Tới tuổi cập kê, Man Nương không chồng mà chửa. Thai đến 14
tháng, sinh ra bé gái, Man Nương bồng con đến chỗ sư ở, bảo là con Khâu
Ðà La. Khâu Ðà La nhận con, đặt vào một cây đại thọ mở ra, cây liền khép
lại. Sau này nước lụt ,cây đổ trôi về thành Luy Lâu thì dừng lại. Vì những
thần kỳ xảy ra, Sĩ Nhiếp cho tạc 4 tượng Phật Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi
và Pháp Ðiện từ cây đó, lập 4 chùa Thiền Ðịnh, Thành Ðạo, Phi Tướng vàTrí
Quả để thờ. Man Nương được gọi là Phật Mẫu. Tượng Phật Pháp Vân, Pháp Vũ,
Pháp Lôi, Pháp Ðiện và Man Nương sau này được thờ tại chùa Dâu (chùa Pháp
Vân), làng Khương Tự Bắc Ninh cho tới ngày nay. Các vua đời Hậu Lê (thế kỷ
15) mỗi khi hạn hán, thường cho rước Phật Pháp Vân về kinh đô để cầu mưa,
thường linh ứng. Chùa Pháp Vân cũng là nơi xuất phát dòng thiền Tỳ Ni Ða
Lưu Chi khi ông tới đây truyền pháp và truyền tâm ấn cho Pháp Hiển.
Sự tích Phật Pháp
Vân còn được ghi lại trong tác phẩm Nôm Cổ Châu Pháp Vân Phật Bản Hạnh
Ngữ Lục và Lĩnh Nam Trích Quái.
Chùa Dâu được xây
cất lại vào năm 1161 đời Lý Anh Tông. Năm 1313, vua Trần Anh Tông cho
trùng tu chùa, giao phó Mạc Ðĩnh Chi thực hiện, dựng tháp Hòa Phong cao 9
tầng. Chùa còn được trùng tu vào năm 1675. Năm 1738 đời Lê Ý Tông, thiền
sư Tính Mộ tái thiết lại tháp trên nền đổ nát cũ và tái thiệt chùa.
Năm1793 và 1917 chùa lại được trùng tu. Năm 1946 Việt Minh bắt HT Thích
Ðại Hải, trú trì chùa Pháp Vân, kết tội là đảng viên Quốc Dân Ðảng và đem
xử tử. Lễ hội chùa Dâu có 11 xã trong tổng Khương Tự Bắc Ninh tham dự từ
ngày 8 tới 10 tháng 4 AÂL.
Hiện tượng thờ Phật
Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Ðiện là bản địa hóa Phật giáo,
một khuynh hướng tất nhiên khi đạo Phật ở thời kỳ quyền năng, hội nhập vào
một xã hội đã có một nền văn hóa rõ rệt như nước ta. Cũng là hiện tượng
bản địa hóa Phật Giáo khi vị anh hùng phá tan giặc AÂn vào đời Hùng
Vương thứ 6 trở thành Phù Ðổng Thiên Vương (hay Sóc Thiên Vương vì bay lên
trời ở núi Sóc Sơn,theo truyền thuyết) thay thế Tỳ Sa Môn Thiên Vương là
một trong Tứ Ðại Thiên Vương trấn giữ phía Bắc cõi Diêm Phù Ðề, và Quán
Thế AÂm Bồ Tát trở thành Quan AÂm Nam Hải. Theo Lê Mạnh Thát (LSPGVN 1),
hiện tượng bản địa hóa Phật Giáo xảy ra sau thời Trưng Vương, như
một phản ứng của Phật Giáo VN trước sự đàn áp của Mã Viện.
Năm 198
MAÂU TỬ (160- 230) viết Lý Hoặc Luận. Ðây là sáng tác bằng Hán văn đầu
tiên về Phật giáo, từng là sách gối đầu giường của giới học Phật ở Trung
Quốc và Nhật Bản. Mâu Tử dẫn mẹ qua Giao Chỉ tị nạn vào thời Tam Quốc, lúc
Trung Quốc nhiễu loạn khắp nơi. Ông là người học rộng hiểu nhiều, không
sách gì không đọc, đã từng bỏ ra 3 năm tu luyện phép tiên (tịch cốc trường
sinh bất tử). Giao Châu lúc đó có trung tâm Phật giáo Luy Lâu, với hơn 20
ngôi chùa, độ được hơn 500 tăng, dịch được 15 cuốn kinh. Người dân trồng
hoa Uất Kim Hương để cúng Phật. Nhưng đa số trí thức Trung Quốc tới Luy
Lâu lánh nạn đều học phép tịch cốc để luyện trường sinh bất tử ( Mâu Tử
cho biết có tới mấy ngàn trăm thuật). Mâu Tử làm quen với Phật pháp từ
năm 183 và tiếp thu một cách nghiêm chỉnh tại trung tâm Luy Lâu có lẽ vào
khoảng năm 194 (VNPGSL 1). Sau khi mẹ mất, ông rút lui khỏi chính sự, dốc
chí nghiên cứu đạo Phật. Ông viết Lý Hoặc Luận để trả lời những người chỉ
trích ông phản bội Nho theo Thích (Phật giáo). Sự có mặt của Lý Hoặc Luận
chứng tỏ Phật giáo Giao Chỉ thời đó đã chinh phục không những đại chúng
bình dân mà cả giới trí thức Nho gia nữa, vào thời Nho học bắt đầu suy
yếu.
Lý Hoặc Luận gồm 37
điều: 5 điều đầu giải thích tổng quát về Phật giáo, 23 điều phản bác các
luận cứ của Nho gia về Phật giáo, 9 điều nhận xét về Ðạo gia. Lý Hoặc Luận
khẳng định: Trung Quốc chưa hẳn là trung tâm của trời đất, Ngũ kinh chưa
hẳn là lời của thánh hiền; bản chất đạo Phật là ở nhà có thể đem ra mà thờ
cha mẹ, giúp nước có thể đem mà trị dân, sống một mình có thể đem mà tu
thân. Lý Hoặc Luận được Lê Mạnh Thát dịch và giới thiệu trong Tổng Tập Văn
Học Phật Giáo Việt Nam tập 1 ( Nhà xuất bản TP/HCM năm 2001).
Vào giai đoạn này,
tăng đoàn đã được thành lập tại Giao Chỉ, với các lễ truyền giới có “tam
sư, thất chứng”. Khương Tăng Hội đã được truyền giới xuất gia như vậy.
Tại Trung Quốc, mãi tới năm 250 mới có Ðàm Ma Ca La từ Trung Ấn qua làm lễ
truyền giới xuất gia theo nghi thức “ tam sư thất chứng”. Nghi thức
truyền giới này là quy định trong các đại giới đàn Phật giáo Việt Nam cho
tới ngày nay.
Có thể cũng ở thời
đại này, một sản phẩm nổi tiếng của trung tâm Luy Lâu được thương gia
Trung Quốc và Ấn Ðộ ưa chuộng là giấy, có phẩm chất cao trắng mà không nát
khi bỏ xuống nước. Nghệ nhân Luy Lâu cũng đã khắc in trên mộc bản bằng gỗ
cây Thị.
Năm 247
KHƯƠNG TĂNG HỘI, một nhà sư gốc Ấn Ðộ, qua Trung Quốc hoằng pháp. Ông sinh
ra, lớn lên, xuất gia và tu học tại Giao Châu (năm 203, thái thú Sĩ Nhiếp
trình xin đổi tên Giao Chỉ thành Giao Châu). Ông là nhà sư hoàn toàn được
đảo tạo tại Giao Châu. Ông tới kinh đô Kiến Nghiệp của nhà Ðông Ngô hoằng
pháp, có đem theo một tượng Phật. Ông thông thạo tam tạng Kinh, hiểu thấu
6 kinh nền tảng của Nho giáo lại giỏi khoa ăn nói và nghệ thuật viết lách
nên đã làm hưng thịnh Phật pháp tại đất Ðông Ngô, một vùng trước đây chỉ
có vài nhà sư dịch kinh. Ông tịch vào năm 280, đã dịch nhiều kinh tạng từ
Phạn văn qua chữ Hán, soạn cuốn nghi thức Nê Hoàn Bối âm điệu réo rắt,
trầm buồn và xây dựng nhiều chùa tháp. Trong 14 quyển kinh ông dịch, bản
dịch Lục Ðộ Tập Kinh được coi là đỉnh cao sự nghiệp dịch thuật của ông.
Một số nhà biên khảo Trung Quốc cho rằng bộ kinh tập Lục Ðộ Tâp Kinh do
ông sáng tác. An Thế Cao (người dịch kinh An Ban Thủ Ý ra Hán Văn) tán
dương Khương Tăng Hội là người truyền dạy Kinh Thiền. Các kinh về Thiền
như An Ban Thủ Ý và Ấm Tri Nhập do An Thế Cao dịch được ông diễn giải theo
tinh thần Ðại Thừa. Sư ông Nhất Hạnh suy tôn Khương Tăng Hội là tổ Thiền
Tông Việt Nam. Với tác phẩm Nê Hoàn Bối, ông là một trong những người đầu
tiên đặt nền móng cho lễ nhạc Phật giáo Trung Quốc.
Lục Ðộ Tập Kinh gồm
91 truyện tích, mỗi truyện có những trích dẫn kinh nói về lục độ
ba la mật (bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí
tuệ) xếp thành 8 quyển. Ba quyển đầu nói về bố thí, mỗi quyển sau nói về
một độ còn lại ( VNPGSL 1,tr. 76). Truyện 68 đặc biệt nêu lý tưởng Bồ Tát
dấn thân: Bồ tát thấy dân kêu ca, do vậy gạt lệ, xông mình vào nơi hà
khắc cứu dân khỏi lầm than. Lê Mạnh Thát (LSPGVN 1) cho rằng Khương
Tăng Hội dịch Lục Ðộ Tập Kinh ra Hán văn từ một bản tiếng Việt cổ, không
phải từ nguyên bản tiếng Phạn. Khương Tăng Hội có thể còn chủ động trong
việc phục hồi Phật giáo ở Ðông Ngô sau khi Tôn Lâm (231- 258) ra lệnh phá
chùa, chém sư vào năm 258, vài tháng trước khi y bị Tôn Hưu giết. Vua
Ðường cho họa hình ông và treo tại chùa Từ AÂn, nơi Tam Tạng Pháp Sư Huyền
Tráng dịch kinh, vì công nhận ông là nhà dịch kinh của TRung Quốc.
Cũng năm 258 ở Trung
Quốc, Châu Tử Hàng khai đàn giảng kinh Bát Nhã ở kinh đô Lạc Dương. Việc
giảng kinh cho đại chúng ở Trung Quốc bắt đầu từ đó.
Năm 248
BÀ TRIỆU (TRIỆU TRINH NƯƠNG, Triệu thị Trinh, 225- 248) cùng anh là Triệu
Quốc Ðạt khởi nghĩa chống lại thứ sử Giao Chỉ là Lục Dận, nhà Ðông Ngô.
Cuộc khởi nghĩa tuy chỉ kéo dài 6 tháng nhưng đủ oanh liệt làm khiếp đảm
quân Ðông Ngô. Sau vì thứ sử Lục Dận tìm cách mua chuộc các bộ tộc Giao
Châu nên lực lượng kháng chiến của bà trở thành quân ít thế cô, bà phải
rút lui về đất Thanh Hóa rồi tự sát. Theo Thiên Nam Ngữ Lục của thiền sư
Chân Nguyên, có thể các nhà sư Giao Châu được bà Triệu nhờ qua Ðông Ngô
trong một sứ mạng nào đó. Mộ bà Triệu và đền thờ bà tại núi Sơn Trang,
Thanh Hóa. Dân chúng địa phương tới nay vẫn gọi bà là Vua Bà. Theo
nhà văn Trần Ðại Sỹ, dân 5 tỉnh miền Nam Trung Hoa tiếp giáp nước ta, cũng
tôn vinh Bà Trưng là Vua Bà.
Năm 425
ÐÀM HOẰNG từ miền bắc Trung Hoa tìm tới chùa Tiêu Sơn, Bắc Ninh tu học và
chuyên trì kinh Vô Lượng Thọ và Thập Lục Quán, pháp môn Tịnh Ðộ. Ông tự
thiêu năm 455. Ông giúp cho tín ngưỡng A Di Ðà phát triển mạnh ở nước ta
trở thành phong trào, đến mức có những nhà sư Trung Quốc đã tìm đến Giao
Châu để tu học pháp môn này tại trung tâm Phật giáo Tiêu Sơn.
Vào thời ông, nghệ
thuật chùa Tiên Sơn (ở núi Tiên, cửa Tây thành Long Biên) bắt đầu phát
triển mà nét đaàu7841?c sắc là biểu tượng Phật qua hình ảnh hoa sen nằm
giữa lá Bồ Ðề thay vì hình tượng người.
Trong suốt chiều dài
lịch sử Phật Giáo nước ta, Tịnh Ðộ không đứng biệt lập như ở Trung Quốc
hay Nhật Bản. Vua Lý Thánh Tông (1023- 1072) dù là đệ tử truyền thừa đời
thứ nhất của thiền phái Thảo Ðường, vẫn sai tạc tượng A Di Ðà bằng đá ở
Tiên Du Bắc Ninh rất độc đáo. Trong tác phẩm Khóa Hư Lục, vua Trần Thái
Tông (1225- 1258) viết hẳn một chương Niệm Phật Luận. Thiền sư Chân Nguyên
Tuệ Ðăng (1647- 1726) dù là truyền thừa của cả hai dòng Thiền Lâm Tế lẫn
Trúc Lâm và được xưng tụng là người phục hồi dòng Thiền Trúc Lâm, vẫn viết
3 tác phẩm về Tịnh Ðộ trong số 14 tác phẩm của ông còn được truyền lại tới
nay.
Năm 454- 455
sáu lá thư trao đổi giữa LÝ MIỄU (một sứ quân xưng vương ở Giao Châu) và
hai vị thiền sư ÐẠO CAO và PHÁP MINH (được ông coi là thầy) về vấn đề
nếu Phật đầy quyền năng, tại sao không thấy Phật hiện ra ở đời ?. Vào
thời này ở Trung Quốc, sư Huệ Viễn thuộc phái Tịnh Ðộ ở Lô Sơn xướng lên
thuyết “bất kỉnh vương” (tăng ni không cần làm lễ hay xưng mình là
thần tử trước vua chúa).
Sáu lá thư nói trên
là một khám phá vô cùng quan trọng của Lê Mạnh Thát, được ông dịch ra
tiếng Việt trong LSPGVN tập 2, tr. 417- 431. Sáu lá thư này cung cấp những
nét đậm về:
1-
Về
nghệ thuật
: từ nửa đầu thế kỷ V, nghệ thuật chùa Tiên Sơn đã tượng trưng đức Phật
qua hình ảnh hoa sen nằm giữa lá bồ đề.
2-
Về
âm nhạc:
xác nhận sự hiện diện của “ca tán tụng vịnh”. Trên bệ đá chùa Tiên Sơn có
khắc 10 vị nhạc thần chơi 9 nhạc cụ đàn dây hoặc ống. Trước đó trống đồng
và khánh đá đã xuất hiện.
3-
Về
văn học:
sáu lá thư là những tác phẩm văn học xưa nhất tại nước ta được phát hiện.
Như vậy văn học nước ta phải khởi đầu ít ra là từ thời điểm này, không
phải chỉ từ thế kỷ 10 như quan điểm đại đa số các nhà biên soạn văn học sử
ở cả hai miền Nam Bắc.
4-
Về
lịch sử Phật giáo:
lá thư thứ 4 của Ðạo Cao mô tả Phật tử nước ta hoaàu7841?c ngồi thiền
trong rừng, tu đức cạnh thành thị, cung kính chắp tay hay ca hát ngâm
vịnh. Như vậy tu thiền và tu tịnh, tu phước và tu huệ đã xuất hiện đồng
thời vào giai đoạn này.
5-
Về
lịch sử chính trị:
Lý Miễu (được Ðạo Cao và Pháp Minh gọi là sứ quân) là thái thú Giao Châu
muốn trở thành tự trị. Sự liên hệ giữa ông và hai đại sư Ðạo Cao, Pháp
Minh giới thiệu khả năng vận động chính trị của các nhà sư Giao Châu trong
giai đoạn nước ta bị đô hộ.
6-
Về
lịch sử tư tưởng:
nêu vấn đề đâu là cơ sở cho giá trị lịch sử của những lời khẳng định trong
kinh Phật, đồng thời xác định học thuyết Nho và Mặc đang tranh nhau nổi
lên ở nước ta.
Vào thời này, Luy Lâu là một trung tâm hoằng pháp lớn, góp phần quan trọng
vào việc phục hưng Phật Giáo tại Trung Quốc sau này. Năm 456 sư Huệ Lâm
viết Quân
Thiên Luận
chủ trương xã hội hóa Phật Giáo, dung hòa tư tưởng Phật với Nho, được gọi
là Hắc Y Tể Tướng, bị giới nho sĩ chống đối. Triều đình Trung Quốc trục
xuất ông qua Giao Châu, nơi đây ông sống cho tới cuối đời.
Năm 542- 607 niên đại ÐÀM THIÊN. Ông quê ở Thái Nguyên (Trung Quốc), chuyên nghiên
cứu các kinh Hoa Nghiêm, Duy Ma, Lăng Già. Gặp thời Bắc Chu bên Tầu hủy
diệt chánh pháp, ông tìm đến phương Nam (trung tâm Luy Lâu), học về Duy
Thức, Nhiếp Ðại Thừa Luận và rất tâm đắc về hai bộ luận này. Phương Bắc
dứt pháp nạn, ông trở về quê hương mở trường dạy các bộ luận Nhiếp Ðại
Thừa Luận, Khởi Tín Luận và kinh Lăng Già. Không bao lâu trở thành nổi
tiếng. Ông giúp vua Văn Ðế nhà Tùy(589- 601) chấn hưng Phật Giáo Trung
Quốc, xây chùa dựng tháp khắp nơi. Khi vua Tùy Văn Ðế muốn truyền bá Phật
pháp qua Giao Châu, ông tâu:
Giao Châu có đường
thẳng thông với Thiên Trúc; khi Phật pháp mới tới Giang Ðông chưa đầy đủ
thì ở Luy Lâu đã có 20 ngôi bảo sát (chùa), độ được hơn 500 vị tăng, dịch
được 15 cuốn kinh.
Ông ca ngợi
Pháp Hiền Thượng Sĩ là người trong hàng bồ tát.
Tiểu sử của Ðàm Thiên được ghi
trong Cao Tăng Truyện là một trong nhiều bằng chứng cho thấy ảnh hưởng hỗ
tương trong quan hệ giữa Phật Giáo Việt Nam và Trung Quốc. Phật Giáo Việt
Nam trong truyền thống không phải đơn thuần là bản sao của Phật Giáo Trung
Quốc. Có những giai đoạn Phật Giáo Việt Nam trở thành chỗ dựa cho Phật
Giáo Trung Quốc.
Năm 544:
LÝ BÔN xưng đế, lấy hiệu là Lý Nam Ðế, đặt tên nước là Vạn Xuân. Thuở nhỏ,
mẹ con ông cư ngụ tại chùa Bảo Phúc được sự giúp đỡ của vị sư trụ trì là
Triệu Quang Hành. Nhà sư sai cháu ông là Triệu Quang Phục hầu hạ, giúp đỡ.
Một trong những việc
làm đầu tiên của Lý Nam Ðế sau khi lên ngôi là dựng chùa Khai Quốc trên
nền chùa cũ Yên Trì có từ thời Hồng Bàng, ở Long Biên (Hà Nội). Nhà Tiền
Lý trải qua 3 đời vua. Năm 602 vua Lý Phật Tử chết, con là Sư Lợi nối
ngôi, bị tướng Lưu Phương của nhà Tùy tấn công và bị bắt. Giao Châu lại bị
Trung Quốc đô hộ kể từ đây, từ nhà Tùy (602- 617) tới nhà Ðường (618 -
907). Sách Việt Ðiện U Linh: sau khi vua Lý Nam Ðế chết vì bệnh năm 546,
người trong nước chỗ nào cũng lập đền thờ.
Năm 580:
thiền sư TỲø NI ÐA LƯU CHI đến nước ta thời vua Lý Phật Tử, truyền pháp ở
chùa Pháp Vân ( chùa Dâu ngày nay, ở Bắc Ninh), khai mở dòng thiền Pháp
Vân ( còn gọi là dòng thiền Tỳ Ni Ða Lưu Chi). Ông là người miền bắc Ấn
Ðộ, một vùng tôn sùng Phật giáo Ðại Thừa chuyên về thiền định, đến kinh đô
Trường An, Trung Quốc, năm 574 vào đời vua Tùy Dương Ðế. Ộng được Tăng Xán
(tổ thứ 3 Thiền Tông Trung Hoa) ấn chứng và khuyên nên đi về phương Nam mà
hoằng hóa. Do đó, ông tìm tới nước ta.
Ông dịch hai quyển
kinh quan trọng là Tượng Ðầu Tinh Xá và Ðại Thừa Phương Quảng Tổng Trì.
Như vậy Thiền Việt Nam dù chủ trương không bị ràng buộc vào ngôn ngữ nhưng
ngay từ đầu chưa từng khinh khi văn tự. Thiền Tỳ Ni Ða Lưu Chi chú trọng
nhiều về thực hành, nặng ảnh hưởng Ðại Thừa của Ấn Ðộ, trong đó có tính
thần bí của Mật Tông. Theo Nhất Hạnh (VNPGSL 1), Tỳ Ni Ða Lưu Chi dùng
danh từ “tâm ấn” sớm nhất. Tâm ấn dùng trong kinh Ðại Nhật
(bộ kinh quan trọng nhất của Mật Tông) có nghĩa là tinh yếu mật ý của
kinh này.
Kinh Tượng Ðầu
Tinh Xá dạy 10 phép thiền quán nội ngoại để trừ chấp trước, mang mầu
sắc văn học Bát Nhã, nói về bản chất của giác ngộ qua các vấn đề:
ai tu Bồ Ðề, ai được Bồ Ðề, lấy thân hay lấy tâm mà chứng để được Bồ Ðề,
Bồ Ðề ( sự giác ngộ) là gì? Kinh Tượng Ðầu Tinh Xá thuộc hệ Bát
Nhã, được Tỳ Ni Ða Lưu Chi dùng làm căn bản hành thiền cho dòng thiền Pháp
Vân.
Kinh Ðại Thừa
Phương Quảng Tổng Trì là một kinh về Mật giáo, nêu lên những lời răn
đe các Phật tử ưa chỉ trích lẫn nhau. Lê Mạnh Thát đã dịch hai bản kinh
này ra tiếng Việt (LSPGVN 2, tr. 729- 771). Ảnh hưởng của Mật giáo trong
dòng thiền Pháp Vân trở thành mạnh mẽ hơn vào thời nhà Ðinh và Tiền Lê sau
này.
Tỳ Ni Ða Lưu Chi
truyền tâm ấn cho Pháp Hiển, người trước đó đã học thiền với sư Quán Duyên
trú trì chùa Pháp Vân từ trước khi Tỳ Ni Ða Lưu Chi tới. Khi Tỳ Ni Ða Lưu
Chi tịch, Pháp Hiển tổ chức lễ Trà Tyø (hỏa thiêu), là một phong
tục hoàn toàn xa lạ với dân Trung Quốc thời bấy giờ. Mãi tới năm 676, sư
Vận Kỳ mới trình vua Ðường hai bản kinh Ðại Niết Bản do thầy mình là Hội
Ninh cùng Trí Hiền hợp dịch tại đảo Java (Nam Dương), nói về hỏa táng và
thâu thập xá lợi của Phật.
Pháp Hiển (tịch năm
626) có tới 300 đệ tư.û Pháp sư nổi tiếng Ðàm Thiên (542- 607) của Trung
Quốc tôn Pháp Hiển là một vị bồ tát sống (VNPGSL 1, tr.113). Vua Cao Tổ
nhà Tùy bên Trung Quốc nghe tiếng đạo hạnh của Pháp Hiển, sai sứ đem theo
hộp Xá Lợi và điệp văn sang cúng dường. Sư cho xây tháp Thuận Thành ở chùa
Pháp Vân và các tháp chùa châu Phong, châu Hoan, châu Ái để thờ Xá Lợi.
Theo sách Thiền Uyển Tập Anh, dòng thiền Pháp Vân truyền đến đời thứ 19 là
thiền sư Y Sơn (tịch năm 1213). Thời Hậu Lê, vào thế kỷ 15, các vua nhiều
lần rước tượng Phật chùa Pháp Vân về kinh để cầu mưa.
Thập niên 630
THANH BIỆN ( ? – 686 ): đời thứ 4 dòng thiền Pháp Vân, được thầy là thiền
sư Pháp Ðăng giảng và giao cho việc nghiên cứu kinh Kim Cương làm đối
tượng tu học từ lúc còn nhỏ, trở thành người đầu tiên chuyên trì tụng kinh
Kim Cương, trước ngũ tổ Hoằng Nhẫn (đắc pháp với Ðạo Tín năm 630) và lục
tổ Huệ Năng (biết tới kinh Kim Cương khoảng năm 670, bốn năm trước khi
Hoằng Nhẫn tịch). Lê Mạnh Thát ( LSPGVN 2, tr.112) cho rằng hệ tư tưởng
của dòng thiền Pháp Vân được Thanh Biện làm cho trở thành hoàn chỉnh. Theo
ông, cho tới thập niên 660, Trung Quốc chỉ có hai trung tâm Thiền lớn là
trung tâm Ngưu Ðầu của thiền sư Pháp Dung và trung tâm Huỳnh Mai của ngũ
tổ Hoằng Nhẫn. Tại nước ta, cũng có hai trung tâm Thiền lớn mỗi đợt đào
tạo hàng trăm thiền sư là trung tâm Pháp Vân và Phật Tích.
Vua Trần Thái Tông
ngộ đạo do đọc kinh Kim Cương. Kinh Kim Cương vào thời Hậu Lê, từ sau Lê
Lợi, trở thành đề tài thi bắt buộc trong những cuộc khảo hạch tăng sĩ.
Năm
665
Pháp sư Ðại Thừa Ðăng từ Trường An (kinh đô Trung Quốc) qua Ấn Ðộ cầu
pháp. Tiểu sử của ông được pháp sư Trung Quốc Nghĩa Tịnh ghi lại trong bộ
Ðại Ðường Tây Vức Cầu Pháp Cao Tăng Truyện. Bộ này ghi chép các sự
kiện về hơn 60 vị cao tăng từ các nước phương Ðông qua Ấn Ðộ cầu pháp từ
năm 650 trở đi. Trong số này có 6 cao tăng từ nước ta: Trí Hành, Ðại Thừa
Ðăng, Giải Thoát Thiên, Huệ Diệm, Vận Kỳ và Khuy Xung.
Ðại Thừa
Ðăng, người Ái Châu (Thanh Hóa), theo cha mẹ qua Thái Lan, có lẽ xuất gia
tại đây. Năm 645 qua kinh đô Trường An của Trung Quốc, thọ đại giới với
Tam Tạng Pháp Sư Huyền Tráng (600- 664). Trong số 75 bộ kinh do Huyền
Tráng dịch, ông góp công tới 7 phần tám với tư cách bút thọ. Bút
Thọ là người chép và chỉnh lại những câu văn dịch sao cho vừa tôn trọng
nguyên tác chữ Phạn vừa hợp với văn pháp chữ Hán. Sau khi Huyền Tráng (còn
gọi là Huyền Trang) tịch, ông xin qua Ấn Ðộ cầu pháp. Ông gặp Nghĩa Tịnh
tại Ấn Ðộ năm 671. Ông tịch tại chùa Niết Bàn ở thành Câu Thi Na (Kasia,
Ấn Ðộ).
Trong
khoảng thời gian 663- 667, Giao Châu mất mùa lớn, người vật đều đói khổ.
Nhà sư người nước Khương Tăng Già Bạt Ma được vua Ðường phái qua nước ta
hái thuốc, thấy dân ta đói khổ, cứ lo kiếm thức ăn uống giúp người mà nước
mắt thương xót ứa ra hoài, được gọi là Thường Ðề Bồ Tát ( Bồ Tát Hay Khóc)
Năm
791
PHÙNG HƯNG quê ở Sơn Tây khởi nghĩa chiếm phủ thành chống lại chế độ đô hộ
hà khắc của nhà Ðường. Dân chúng coi như cha mẹ, tôn là Bố Cái Ðại Vương.
Ðược vài tháng, ông bị bệnh mà mất, con ông là Phùng An được tôn lên thay.
Lê Mạnh Thát (LSPGVN 2, tr. 276) cho rằng Phùng Hưng đã phong chức Cung
Phụng cho nhà sư trí thức ÐỊNH KHÔNG (729- 808) và cử qua kinh đô Trường
An giảng đạo cho hoàng đế Trung Quốc Ðức Tông Lý Quát là người hâm mộ đạo
Phật. Cung Phụng là một chức vụ nằm trong bộ tham mưu thân cận nhà vua.
Trong thời gian này, có thể các nhà sư Duy Giám và Nhật Nam cũng được cử
qua Trung Quốc giảng kinh cho vua Ðường nhiều lần. Ba vị sư này đã được
các danh sĩ Trung Quốc thời đó ca ngợi về công phu tu tập và sở học.
Sự kiện các lãnh tụ
dân tộc khởi nghĩa chống lại ách đô hộ của Trung Quốc trong những thế kỷ
đầu như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Bôn, Phùng Hưng dù làm vua không lâu
vẫn được dân chúng sùng bái qua nhiều thế hệ cho tới ngày nay là điểm đặc
sắc của lịch sử VN cần được nghiên cứu nghiêm chỉnh.
Năm
820
Thiền sư VÔ NGÔN THÔNG từ Trung Hoa sang Giao Châu, tới chùa Kiến Sơ lập
phái thiền Vô Ngôn Thông. Chùa Kiến Sơ vào thời này là ngôi chùa mới lập,
do thiền sư trẻ tuổi Cẩm Thành (tịch năm 860) dựng. Theo Lê Mạnh Thát
(LSPGVN 2, tr. 352), có thể thiền sư Cẩm Thành theo học tại đạo tràng lớn
Chúng Thiện do thiền sư Pháp Hiển (truyền thừa đời thứ 1 dòng Tỳ Ni Ða Lưu
Chi) thành lập. Lúc đó nước ta dưới quyền đô hộ của nhà Ðường, một chế độ
được coi là hà khắc nhất trong gần ngàn năm nước ta bị Trung Quốc đô hộ.
Vô Ngôn Thông (tịch
năm 826) tu học với thiền sư Bách Trượng (779- 803, là người soạn bộ quy
chế đầu tiên cho các thiền viện, gọi là Bách Trượng Thanh Quy. Hiện nay,
nhiều chùa và tự viện lớn của VN vẫn áp dụng Bách Trượng Thanh Quy). Ông
ít nói, nhưng thông minh hiểu biết mau nên có danh hiệu Vô Ngôn Thông hay
Thông Thiền sư.
Tông chỉ của phái
thiền Vô Ngôn Thông nhắm vào đốn ngộ, tức Tâm tức Phật, không có đối
tượng của giác ngộ, nhấn mạnh vào tự lực tự tiến, sử dụng “thoại đầu”.
Nhiều thiền sư trong thiền phái Vô Ngôn Thông chuyên trì kinh Viên Giác,
một kinh dạy về phương pháp đốn ngộ. Các kinh Bát Nhã và Pháp Hoa cũng
được các thiền sư phái này sử dụng nhiều.
Thoại đầu là câu nói
hay mẩu đối thoại có tác dụng thúc đẩy hay làm phát khởi sự đạt ngộ. Thiền
sư Quy Sơn (Trung Quốc, 771- 853) đồng thời với Vô Ngôn Thông, là những
người đầu tiên dùng “thoại đầu” để dạy đệ tử. Cả hai đều là đệ tử của
thiền sư Bách Trượng. Gần đây, thiền sư Duy Lực (1922- 1999) là người tiếp
nối dùng phương pháp “thoại đầu” tại hệ thống thiền đường Từ AÂn ở Việt
Nam và California.
Phái thiền Vô Ngôn
Thông truyền tới thiền sư Tiêu Diêu và Nhất Tông quốc sư được 17 đời. Ðệ
tử nổi tiếng của Tiêu Diêu là Tuệ Trung Thượng Sĩ. Ðệ tử nổi tiếng của Tuệ
Trung Thượng Sĩ là Trần Nhân Tông, trở thành sơ tổ dòng thiền Trúc Lâm.
Các đệ tử của phái Vô Ngôn Thông như các thiền sư Giác Hải, Không Lộ và
Nguyện Học chịu ảnh hưởng khá rõ của Mật Giáo.
Năm
860- 873
triều đại vua Ðường Ý Tông, Trung Quốc. Vua sai thái sử Cao Biền làm An
Nam Ðô Hộ, với sứ mạng chính là đi “yểm” 19 chỗ để Giao Châu không thể nào
thoát khỏi kiếp nô lệ. Cao Biền báo cáo hoàn tất công tác 18 chỗ bằng cách
đào bới nhưng không thể nào “yểm” được núi Tản Viên. Ðồng dao VN có những
câu ám chỉ sự kiện này như lẩy bẩy như Cao Biền dậy non hoặc núi
Tản Viên thắt cổ bồng lại có thánh sinh. Cao Biền viết nhiều sách về
địa lý phong thủy còn truyền lại tới ngày nay.
Sự cai trị của nhà
Ðường ở Giao Châu khắc nghiệt hơn bất cứ thời đô hộ nào khác. Nhà Ðường
tìm mọi cách ngăn chận sự phát triển về học thuật và văn hóa của Giao
Châu. Cho nên chỉ có những nhà sư ở nước ta mới có điều kiện thông hiểu
Nho học. Họ do đó sẽ đóng vai trò tham mưu quan trọng cho các chính quyền
nước ta sau khi thu hồi được độc lập vào thế kỷ sau.
Năm
906
nhân nhà Ðường suy yếu, KHÚC THỪA DUï một hào trưởng quê ở Hải Dương nổi
lên, thái thú Tăng Cổn phải bỏ trốn. Nhà Ðường phải phong họ Khúc làm Tiết
Ðộ Sứ . Năm sau, Khúc Thừa Dụ qua đời, con là Khúc Hạo lên thay. Ông sửa
sang lại nền hành chánh khoan dung mà dản dị nên dân chúng ca tụng như “được
sống lại”, cho thấy sự đô hộ của nhà Ðường vô cùng hà khắc. Bên Tầu,
nhà Hậu Lương (907- 951) thay nhà Ðường toan cử quân sang đánh chiếm Giao
Châu mà không dám. Năm 917, Khúc Hạo mất, nhà Lương phong chức Tiết Ðộ Sứ
cho con ông là Khúc Thừa Mỹ. Năm 923, Khúc Thừa Mỹ bị vua Nam Hán là Lưu
Cung bắt, rồi thả ra. Nam Hán đô hộ Giao Châu được 8 năm thì bị tướng của
Khúc Hạo là Dương Diên Nghệ nổi lên đánh đuổi, năm 931 lên làm Tiết Ðộ Sứ.
Năm 937, Dương Diên Nghệ bị một nha tướng là Kiều Công Tiễn cướp quyền.
Con rể của Dương Ðình Nghệ là Ngô Quyền đánh đuổi được Kiều Công Tiễn. Y
chạy sang Tầu cầu cứu nhà Nam Hán. Vua Nam Hán huy động toàn lực dưới
quyền chỉ huy của thái tử Hoằng Tháo tấn công Giao Châu. Ngô Quyền đánh
tan quân Nam Hán trên sông Bạch Ðằng, giết Kiểu Công Tiễn và thái tử Hoằng
Tháo. Năm 939, ông xưng vương, đóng đô ở thành Cổ Loa (Phúc Yên).
Năm
969
vua Ðinh Tiên Hoàng (968- 980) phong cho thiền sư NGÔ CHAÂN LƯU (930-
1011) làm Tăng Thống. Năm 971 vua phong TRƯƠNG MA NI làm Tăng Lục và ban
hiệu KHUÔNG VIỆT Ðại Sư cho Ngô Chân Lưu. Chức Tăng Thống và Tăng Lục ở
nước ta bắt đầu từ đấy. Tăng thống là người thống lãnh sư sãi, đứng đầu
Phật giáo. Như vậy sau khi dẹp xong 12 sứ quân trong vòng 2 năm và thống
nhất đất nước, Ðinh Tiên Hoàng thống nhất Phật giáo Việt Nam, tổ chức
thành giáo hội liên hệ với chính quyền và xã hội. Sau này vào thời Lý có
thêm những chức Tăng Chính, Ðại Hiền Quan (Nguyễn Lang, VNPGSL 1, tr.
212). Theo Nguyễn Lang (VNPGSL 1), Tăng Lục là người phụ trách văn thư
giấy tờ, trông coi tăng sự và ghi chép, làm công việc như sử quan trong
giáo hội.
Ðinh Tiên Hoàng thuở
hàn vi đánh cá, thường ngủ trọ ở chùa Giao Thủy (Hoa Lư).
Tăng Thống Ngô Chân
Lưu thuộc phái Vô Ngôn Thông, sau này khi nhà Tiền Lê thay thế nhà Ðinh
(năm 980), ông càng được vua Lê Ðại Hành (980- 1005) kính trọng. Năm 987
vua sai ông ứng đáp sứ nhà Tống là Lý Giác. Người đi đón Lý Giác là thiền
sư Pháp Thuận. Vua còn sai Khuông Việt Ðại Sư viết khúc nhạc Ngọc Lang Qui
để tiễn phái bộ nhà Tống ra về. Ông cũng được vua Lê Ðại Hành hỏi ý kiến
về nhiều việc triều chính. Lê Mạnh Thát (LSPGVN 2, tr. 444) cho rằng dưới
triều vua Ðinh Tiên Hoàng và Lê Ðại Hành, Ðại Sư Khuông Việt thực sự là
thái sư (tể tướng).
Năm 973
ÐINH LIỄN, tước Nam Việt Vương con của Ðinh Tiên Hoàng, cho dựng 100 tràng
kinh (là trụ đá hình bát giác cao từ 50 tới 80 phân ) khắc kinh Phật
Ðảnh Tôn Thắng Ðà La Ni ở Hoa Lư, kinh đô của nhà Ðinh. Năm 979 ông
lại cho dựng thêm 100 cột kinh nữa, cũng tại Hoa Lư, để cầu giải thoát
cho em là Ðinh Hạng Lang (bị ông giết vào đầu năm vì tội không trung hiếu
với cha và anh), cầu cho cha mình là vua Ðinh Tiên Hoàng được sống lâu và
bản thân mình được lộc vị bền vững. Tháng 10 năm 979 ông và vua Ðinh Tiên
Hoàng bị tên Ðỗ Thích giết. Hoàng hậu Dương Vân Nga mưu cùng một số quan
đưa Lê Hoàn lên làm vua, lập triều đại nhà Tiền Lê. Những cột kinh này
được phát hiện vào đầu năm 1963.
Kinh Phật Ðảnh Tôn
Thắng Ðà La Ni đã được hòa thượng Thích Thiền Tâm dịch ra tiếng Việt trước
năm 1975. Theo Lê Mạnh Thát (LSPGVN 2, tr. 429), bản kinh do Ðinh Liễn sai
khắc trung thực, đầy đủ hơn các bản Hán dịch công bố trong Ðại Chính Tân
Tu Ðại Tạng Kinh. Bản kinh này là một bài chú của Mật Giáo, được trì niệm
trong thiền đường Trung Quốc từ thế kỷ 8. Năm 776, vua Ðường Ðại Tông ra
lệnh toàn bộ tăng ni phải tụng 21 biến bài chú này và phải báo cáo tổng
kết mỗi năm vào ngày 1 tháng giêng.
---o0o---
Mục Lục -
1 - 2
- 3 - 4
---o0o---
Trình
bày : Nhị Tường
Cập
nhật : 01-02-2002